1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SHADOW FLIGHTS - Cuộc đối đầu giữa các phi công trinh sát và Vòm Sắt Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi anheoinwater, 23/09/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208

    Ông thầy bồ dạy thế là đúng rồi. Dạy khác đi, đại loại như tớ giải thích, thì ông ấy bị kiểm điểm hay cho nghỉ hưu sớm mất.:)):)):))
  2. maison2510

    maison2510 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2009
    Bài viết:
    1.030
    Đã được thích:
    727
    K hẳn, vì ông í là "chiên za" phê phán luật Việt ở khoa e học. Ông í nói mấy bộ Luật VN hiện h chỉ đáng vứt vào sọt rác. Bọn e khi đi thi mà trích dẫn điều luật vào là chết ngay :-<
    Nhưng phải nói thật sự ông í có tài. SV vừa sợ ông chửi vừa thích nghe ông giảng bài ^^
  3. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Tớ biết mà, mấy ông thầy hay chừi là bất mãn, mấy ông đó không có ... tài lắm đâu [r2)] Tin tớ đi
  4. maison2510

    maison2510 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2009
    Bài viết:
    1.030
    Đã được thích:
    727
    Hj, e chỉ thấy nhà ông ta rất giàu và vị trí của ông ta cũng khá quan trọng ở trường em thôi bác ạ. Còn ông í có tài thật hay không thì phải nghe ông í giảng mới hiểu được. Cũng không phải vô cớ mà sv tuy rất sợ nhưng lại rất thích nghe ông í giảng bài...
    p/s : hơi lan man trong topic của bác Heo, mong bác thông cảm nha [r2)][r2)][r2)]
  5. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Các đơn vị đặc biệt bay xâm nhập của Phi đội Trinh sát Chiến thuật 15 đã bị giải tán vào cuối năm 1955 hoặc đầu năm 1956. Tại thời điểm này, Không quân của những người Trung hoa Dân quốc (Đài Loan) đã tiếp nhận trách nhiệm chính hoạt động bay xâm nhập vào Trung Quốc đại lục, cho những nỗ lực thực hiện của họ vẫn cần sự hợp tác với Không quân Mỹ. Những phi vụ của người Trung hoa Dân quốc được tiến hành trên những chiếc RT-33, RF-84, RF-86, và sau này là RB-57. Bởi vì chúng được lái bởi phi công Trung Hoa Dân Quốc, vấn đề sinh mạng phi công Mỹ không còn phát sinh nữa. Ngoài việc giám sát phòng ngừa một cuộc xâm lược, các phi vụ này còn nhằm theo dõi sự phát triển và triển khai các vũ khí tiên tiến trên đại lục.
    Vào lúc các hoạt động này đang diễn ra ở vùng Viễn Đông, các phi vụ xâm nhập tầm ngắn bí mật tương tự cũng được thực hiện ở Đông Âu. Chiếc máy bay được sử dụng cho các phi vụ này trong khoảng giữa thập niên 1950 là chiếc RF-100A Slick Chick. Năm 1954, sáu chiếc F-100A mới toanh đã được kéo riêng ra khỏi dây chuyền lắp ráp, người ta gỡ sạch súng ống và đạn dược của chúng, rồi thay thế bằng năm camera. Đó là hai camera K-38 ống kính 36-inch lắp riêng rẽ theo chiều thẳng đứng, hai camera K-17 gắn hướng ra trước và một camera K-17C cũng gắn theo chiều đứng, hai loại sau đều cùng cỡ ống kính 6-inch. Đó là một thiết kế chặt chẽ hiệu quả. Hai camera K-38 gắn theo chiều ngang đặt trong khoang chứa súng, chúng quan sát mặt đất qua những tấm gương. Để đáp ứng tất cả các camera, phần thân dưới máy bay phải nới phồng ra. Trong chuyến bay thử nghiệm vào giữa năm 1954, các camera có thể phát hiện một quả banh chơi golf ở Los Angeles từ cao độ 53.000 feet.Đối với các nhiệm vụ ở Đông Âu, RF-100A được điều khiển bởi Nhóm hỗ trợ 7499, một đơn vị đặc biệt chuyên hoạt động với những loại RB-50G và RB-57A cho việc SIGINT biên giới và chụp không ảnh. Một phi vụ RF-100A thông thường cất cánh từ căn cứ không quân Hahn hoặc các căn cứ khác ở Tây Đức. Chiếc máy bay sau đó sẽ lên cao đến độ cao tiêu chuẩn rồi bật afterburner (đốt phụ) cho đến khi nó đạt được tốc độ siêu âm. Lúc đó, phi công bắt đầu một đường bay thẳng băng với tốc độ siêu âm vượt qua biên giới rồi bật camera. Chiếc RF-100A phải bay theo một đường thẳng để giữ tốc độ siêu âm, bởi vì bất kỳ sự thay đổi hướng nào cũng đồng nghĩa với việc mất tốc độ. Tại một điểm định trước, phi công sẽ bắt đầu leo lên cao hơn nữa rồi mới đảo ngược hướng bay, sau đó bổ nhào để lấy lại tốc độ. Vào lúc phi công bắt đầu đường bay trở về thì chiếc RF-100A đã một lần nữa đạt được tốc độ siêu âm. Cứ thế mà làm một đường thẳng băng trở lại biên giới.Đường bay như trên trông giống như hình móng ngựa hoặc hình cái lỗ khóa, do đó các phi công đã gọi các phi vụ đó là “Nhiệm vụ lỗ khóa”.Có một vài lần, các phi công báo cáo đám MiG đã cất cánh khẩn cấp đuổi theo sau họ, nhưng chúng không bao giờ theo kịp được. Súng phòng không cũng bắn vào mấy chiếc RF-100A, nhưng kíp pháo thủ của chúng không đủ giỏi để đánh máy bay di chuyển nhanh và cao. Loại RF-100 được sử dụng chủ yếu để xâm nhập Đông Âu, nhưng cũng có một hoặc nhiều phi vụ của chúng được thực hiện ở Nhật Bản và Đài Loan vào khoảng năm 1956. Sau đó, vào đầu năm 1959, bốn RF-100A được cung cấp cho Không quân Trung Hoa Dân quốc, nhưng họ thấy chiếc máy bay này không phù hợp với điều kiện ở đây và họ không bao giờ sử dụng nó cho việc xâm nhập đại lục.Hướng về những vùng đất chưa biết đến.Những thành công của các phi vụ ban đầu vào Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc là rất lớn và được phân tích mổ xẻ kỹ lưỡng. Chúng là những bước đầu tiên trong việc biến ý tưởng của Đại tá Richard Leghorn về vai trò của trinh sát trong Chiến tranh Lạnh, đưa nó trở thành hiện thực.Những phi vụ B-47B đầu tiên đã chứng minh người Liên Xô không tập trung máy bay ném bom Tu-4 ở Siberia, và các phi vụ xâm nhập liên tục vào bờ biển Trung Quốc đã làm giảm bớt lo ngại về một cuộc xâm lược hướng về Đài Loan.Tuy nhiên, vào mùa hè năm 1955, những hoạt động này đã không còn đủ để đáp ứng nhu cầu tình hình. Sức mạnh quân sự của Liên Xô được nhắm chừng là đã phát triển đáng kể trong hai năm kể từ cái chết của Stalin, nhưng không rõ ràng là nó phát triển được bao nhiêu? Hoa Kỳ không có dữ liệu tình báo rõ ràng và đáng tin cậy về kích thước và khả năng của lực lượng quân sự Xô viết. Hậu quả là các ước lượng tình báo chẳng hơn được bao nhiêu so với việc ngồi một chỗ mà phỏng đoán. Việc hổng chân như vậy gây nên nhiều nỗi lo lắng. Thời điểm đã đến để quan điểm của Leghorn về sự cần thiết một loại trinh sát mới trở thành hiện thực. Để thực hiện, công việc đòi hỏi phải thiết kế một chiếc máy bay lạ thường nhất trong thập niên 1950. Leghorn sẽ tham gia tích cực vào việc này.

    Kỳ sau: Phần 3: Sự ra đời của U-2.

    To Maison:

    Cám ơn bồ đã đóng góp. Việc dịch dọt thì tớ vừa dựa vào nghĩa từ vừa phải dựa vào văn cảnh. Có những lúc đành phải dùng những từ nguyên gốc cho dù chúng khó nghe rồi phải có chú thích thêm như từ police-state ở trên.

    Cũng có những lúc phải dịch thoáng cho dễ hiểu. Vd:
    “The United States had no hard, reliable intelligence data on the size and capabilities of Soviet military forces. As a result, intelligence estimates were little better than guesswork. In such a vacuum, fears grew.”

    Tớ phải dịch thoáng ra là:
    Hoa Kỳ không có dữ liệu tình báo rõ ràng và đáng tin cậy về kích thước và khả năng của lực lượng quân sự Xô viết. Hậu quả là các ước lượng tình báo chẳng hơn được bao nhiêu so với việc ngồi một chỗ mà phỏng đoán. Việc hổng chân như vậy gây nên nhiều nỗi lo lắng.

    Còn nữa, có nhiều từ rất dễ hiểu trong tiếng Anh nhưng dịch ra tiếng Việt thì lại khó khăn, như: Afterburner, stall, Mach buffet…

    Nên có gì sai mong anh em cứ góp ý, cám ơn rất nhiều.

    Một toán F-100A. Loại này cũng đã tham chiến ở Vietnam.
    [​IMG]

    Và phiên bản RF-100A, phần thân dưới mũi bị chỉnh sửa hoàn toàn để nhồi nhét đám camera.
    [​IMG]
  6. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Phần 3: Sự ra đời của U-2.
    Không có ai làm việc mà biết được mình đang làm ra cái gì.Không có ai biết cái nơi mà nó được thiết kế chế tạo, nơi mà những chuyến bay thử nghiệm được thực hiện, nơi để huấn luyệnnhân sự. Không có ai biết ai sẽ bay với nó. Và không có ai biết bất cứ điều gì. –Richard M Bissell, Jr.Sau sự can thiệp của Trung Quốc vào chiến tranh Triều Tiên, một số các sĩ quan dự bị được gọi lại để thi hành nhiệm vụ, trong đó có Đại tá Richard S. Leghorn. Vào tháng Tư năm 1951, ông được điều đến Căn cứ không quân Wright-Patterson với trọng trách làm người đứng đầu Chi nhánh hệ thống trinh sát thuộc Trung tâm Phát triển Hàng không Wright (WADC). Cấp trên của Leghorn là Đại tá Bernard A. Schriever, trợ lý của Bộ phận Kế hoạch Phát triển Không quân. Đại tá Schriever là một sĩ quan luôn sẵn sàng hỗ trợ những ý tưởng mà các đồng nghiệp của ông cho là không thể chấp nhậnđược. Leghorn bây giờ đã có cơ hội để biến những ý tưởng của mình về “Trinh sát trước D-day” thành hiện thực.


    Bản nghiên cứu Beacon Hill

    Không quân vào thời điểm này cũng tìm kiếm sự tư vấn từ các kỹ sư và các nhà khoa học về những vấn đề quốc phòng. Vào tháng Bảy năm 1951, Không quân đàm phán một hợp đồng với MIT để thành lập Dự án Lincoln (sau này gọi là Phòng thí nghiệm Lincoln) để thực hiện các nghiên cứu về lĩnh vực phòng không. Theo yêu cầu của Đại tá Schriever, dự án nghiên cứu đầu tiên của Lincoln là đánh giá lại nhu cầu phát triển dài hạn của Không quân trong lĩnh vực tình báo và do thám. Nghiên cứu này được gọi là Beacon Hill và thu hút các thành viên từ các trường đại học New England và các công ty công nghiệp.

    Khi dự án nghiên cứu bắt đầu vào tháng Bảy năm 1951, Leghorn soạn một báo cáo dài năm trang có tiêu đề "Bình luận về Hệ thống trinh sát liên lục địa, 1952-1960." Trong đó có viết: "Các phân tích gần đây đã cho thấy phải xác định những tiêu chí rõ rệt cho hệ thống trinh sát. Hiện tại các tiêu chí đang chia thành hai nhóm: “Trinh sát trước D-day” “Trinh sát sau D-day”. Một chiến dịch ngắn cường độ cao như dự tính của SAC đòi hỏi việc thu thập thông tin lập kế hoạch càng nhiều càng tốt trước khi D-day diễn ra. Đồng thời với việc phát triển, nâng cấp các cơ sở, vũ khí khí tài của SAC, đồng thời với việc sản xuất và nâng cấp vũ khí nguyên tử, sự cần thiết về tình báo do thám “trước D-day” cũng trở nên cực kỳ quan trọng.”

    "Máy bay cho trinh sát trước D-day” phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
    1. Tối thiểu hóa khả năng bị phát hiện.
    2. Tối thiểu hóa khả năng bị nghênh cản.
    3. Một máy bay không người lái là sự lựa chọn tốt nhất.
    4. Cấu hình, thiết bị cho chiếc máy bay đó phải nằm trong kế hoạch ngụy trang, để có thể bảo đó là máy bay nghiên cứu khoa học hay máy bay dự báo thời tiết nếu cần.”

    Trong tháng một và tháng hai năm 1952, các thành viên của nhóm nghiên cứu Beacon Hill đã dành mỗi ngày cuối tuần để tham dự các buổi thuyết trình về hai dự án: Một chiếc máy bay độ cao lớn một khí cầu trinh sát. Một trong những ý tưởng khác thường nhất mà các thành viên nhắm đến là một khí cầu vô hình. Thiết bị khổng lồ này có hình thù gần như phẳng được phủ một lớp sơn màu xanh không phản xạ ánh sáng. Nhiệm vụ của nó bay dọc theo biên giới của Liên Xô ở độ cao 90.000 feet với tốc độ rất thấp, mang theo một camera khổng lồ để chụp ảnh các khu vực cần thiết. Khi Bản báo cáo Beacon Hill được ban hành vào ngày 15 tháng 6 năm 1952, nó mô tả các phương pháp căn bản để cải thiện khả năng tình báo nhắm vào Liên Xô, chẳng hạn như chụp ảnh, kiểm soát sóng vô tuyến, giám sát radar, hồng ngoại thụ động, và giám sát vi sóng.

    Một trong những
    kết luận quan trọng nhất của bản báo cáo viết: "Chúng ta đã đạt đến một giai đoạn lịch sử ,trong đó toàn bộ kiến thức thời bình của chúng ta về khả năng, hoạt động và bố trí của một quốc gia thù địch tiềm năng gần như bằng với số thông tin chúng ta được thông qua do thám trên không. Để tránh rắc rối chính trị, trinh sát trên không phải được tiến hành bởi các phương tiện bay trong vùng trời thân thiện, hoặc (nếu thời điểm đó cho phép) từ phương tiện bay có khả năng hoạt động trong không phận của Liên Xô, nó phải có khả năng giảm đáng kể việc bị phát hiện hoặc ngăn chặn."
  7. BALOO2000

    BALOO2000 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    491
    Đã được thích:
    0
    ------------

    Cám ơn Heo vì những bài dịch rất hay.

    Truyện tranh Buck Danny đến nay gồm 52 tập.

    51 tập đầu (bản tiếng Pháp) có thể download ở đây : http://www.megaupload.com/?d=T8U5TNO7
    Tập 52 "Porté disparu" : http://www.fileserve.com/file/Bd8V34E

    Link cho 50 tập đầu :
    http://rapidshare.com/files/137754339/BKDY.part01.rar
    http://rapidshare.com/files/137757439/BKDY.part02.rar
    http://rapidshare.com/files/137760612/BKDY.part03.rar
    http://rapidshare.com/files/137763817/BKDY.part04.rar
    http://rapidshare.com/files/137767209/BKDY.part05.rar
    http://rapidshare.com/files/137770746/BKDY.part06.rar
    http://rapidshare.com/files/137773986/BKDY.part07.rar
    http://rapidshare.com/files/137777266/BKDY.part08.rar
    http://rapidshare.com/files/137780514/BKDY.part09.rar
    http://rapidshare.com/files/137782397/BKDY.part10.rar

    Mot de passe : massilia56


    Hors série :
    http://www.fileserve.com/file/kPJjKhk
  8. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Cám ơn bác Baloo, mình đã tải về và dịch được 2 tập đầu rồi.

    Nhưng lười photoshop quá, truyện tranh mà.

    Để nhờ anh em nào giỏi photoshop làm dùm. Tay Exocet ừ ừ chẳng biết có làm ko?

    Truyện Buck Danny mấy tập đầu dở dở, về sau hay hơn, tay nghề hoàn thiện dần mà.
  9. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Tìm kiếm một máy bay trinh sát cao cấp.

    Trong mùa hè năm 1951, Leghorn làm việc dựa trên một yêu cầu về một máy bay chuyên dùng cho trinh sát, nó rất cần thiết để thực hiện cho việc phát triển lý thuyết của ông. Leghorn nhận ra rằng cách nhanh nhất để sản xuất ra những thứ như máy bay là sửa đổi một thiết kế đã có sẵn. Chiếc máy bay phản lực bay cao nhất vào thời điểm đó là chiếc Canberra, loại này đã được công ty Glenn L. Martin cải tiến và đưa vào sử dụng trong Không quân với cái tên B-57. Theo sự nài nỉ của Leghorn, các đại diện của Công ty English Electric, công ty đã sản xuất ra Canberra, đã được mời đến WADC. Cùng với Leghorn, họ thiết kế một phiên bản để bay xâm nhập trong thời bình. Chiếc máy bay mới sẽ có đôi cánh dài giúp bay cao hơn, một động cơ mới Avon 109, chỉ chở theo một phi công duy nhất, và một cấu trúc nhẹ hơn so với một máy bay quân sự tiêu chuẩn. Kết quả là chiếc Canberra mới có thể đạt đến độ cao 63.000 feet khi vừa bắt đầu một phi vụ, rồi nó có thể tăng lên đến 67.000 feet khi nhiên liệu đã vơi đi nhiều, như vậy nó ở trên tầm với của máy bay chiến đấu MiG-17của Liên Xô. Nó có thể vươn tới 85 phần trăm các mục tiêu cần trinh sát ở Liên Xô và Trung Quốc.Tuy nhiên, chiếc máy bay đã không đáp ứng các tiêu chuẩn thiết kế của Bộ chỉ huy Nghiên cứu và Phát triển Hàng không (ARDC). Trưởng bộ phận trinh sát của ARDC, Trung tá Joseph J. Pellegrini, không nhìn thấy sự hữu dụng ở chiếc máy bay trinh sát chuyên dụng của Leghorn, ông ra lệnh phải sửa đổi để có thể đáp ứng tiêu chuẩn thiết kế chi tiết kỹ thuật quân sự cho máy bay chiến đấu. Khung máy bay được gia cố lên, cùng với các thiết bị quân sự khác được gắn vào, thế là chiếc máy bay bị sụt giảm nghiêm trọng độ cao tối đa của nó. Thất vọng bởi những thay đổi đang được thực hiện trên bản thiết kế máy bay của mình, Leghorn chuyển sang làm một công việc ở Lầu Năm Góc vào đầu năm 1952. Ở đó, ônglà cấp phó cho Đại tá Schriever và làm việc trực tiếp với ông ta.Công việc mới của Leghorn là chịu trách nhiệm lập kế hoạch các hoạt động trinh sát của Không quân trong thập kỷ tới. Trong ngắn hạn, khí cầu trinh sát sẽ đảm trách việc do thám trên diện rộng vào khối Xô Viết, tìm kiếm mục tiêu mới. Đối với trinh sát khu vực gần, một máy bay có trọng lượng nhẹ, độ cao lớn, thiết kế đặc biệt sẽ được sử dụng. Nó sẽ được thiết kế gần giống như chiếc Canberra đã bị bác bỏ bởi ARDC, thật đặc biệt để thi hành các phi vụ bí mật ở độ cao 70.000 feet. Khi công tác này hoàn thành, Leghorn được giải thoát khỏi các nhiệm vụ hành động vào cuối tháng Giêng năm 1953, và ông trở về Eastman Kodak. Ở đó, ông lên kế hoạch cho các sự kiện tiếp theo.

    Đồng suy nghĩ với đề nghị của Leghorn về chiếc Canberra, Thiếu tá John Seaberg tại WADC cũng mong muốn một chiếc máy bay trinh sát tiên tiến. Thiếu tá Seaberg cũng giống Đại tá Leghorn, ông ta cũng là một sĩ quan dự bị được triệu hồi để thi hành nghĩa vụ. Seaberg đã từng làm việc với chức danh kỹ sư hàng không tại Công ty Chance Vought. Ông ta bị thuyết phục, giống như Leghorn, rằng công nghệ hiện tại đủ khả năng để làm ra một chiếc máy bay có thể bay ở độ cao 70.000 feet. Trong tháng ba năm 1953, Seaberg ban hành một yêu cầu đề xuất cho một loại máy bay trinh sát có bán kính hoạt động 1.500 dặm và có khả năng thực hiện " nhiệm vụ trinh sát trước và sau một cuộc tấn công,vào giữa ban ngày là lúc có tầm nhìn tốt." Chiếc máy bay bay ở độ cao 70.000 feet trở lên, trọng tải mang theo là từ 100 đến 700 pound các thiết bị trinh sát, và được lái bởi một phi công duy nhất.

    Trung tâm Phát triển Hàng không Wright quyết định tìm kiếm câu trả lời chỉ từ các công ty sản xuất máy bay nhỏ vì tin tưởng rằng họ sẽ có sự quan tâm nhiều hơn cho dự án. Vào tháng Bảy năm 1953, Bell Aircraft Corporation, Fairchild Engine and Airplane Company và Martin Aircraft Company nhận được hợp đồng nghiên cứu. Thiết kế của Bell là một máy bay lớn hai động cơ, của Fairchild là một máy bay một động cơ với cửa hút khí nằm trên buồng lái. Còn thiết kế của Martin là phiên bản cánh nới dài của chiếc B-57 đã được phê duyệt bởi ARDC. Do sự tập trung vào việc đáp ứng các tiêu chuẩn quân sự và hậu quả của việc gia cố cấu trúc cùng các thiết bị nặng nề, độ cao tối đa chiếc máy bay của Martin bị giảm xuống khoảng 64.000 feet, còn thấp hơn so với khái niệm ban đầu của Leghorn.
  10. hstung

    hstung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/04/2004
    Bài viết:
    1.553
    Đã được thích:
    2.956
    Em vote cho bác nhưng không được. Bác tranh thủ dịch rồi post cho em và mọi người đọc với nhé. Chúc bác dịch hay, bắn tăng tốt :P

Chia sẻ trang này