1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SHADOW FLIGHTS - Cuộc đối đầu giữa các phi công trinh sát và Vòm Sắt Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi anheoinwater, 23/09/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. convitbuoc

    convitbuoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2008
    Bài viết:
    1.153
    Đã được thích:
    914
    Sao không thấy bác anheoinwater post tiếp nhỉ. Kiểu này sốt ruột quá.
  2. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Nhưng lại có một ứng cử viên thứ tư khác, cho dù ứng viên này không được yêu cầu tham gia. Vào mùa thu năm 1953, John H. "Jack" Carter, một trợ lý giám đốc của Lockheed Aircraft xuất hiện tại Lầu Năm Góc. Trong chuyến thăm, ông đến gặp Eugene P. Kiefer, một người bạn và đồng nghiệp cũ ở Văn phòng Kế hoạch Phát triển thuộc không quân. Kiefer cho Carter biết về chương trình phát triển loại máy bay trinh sát mới và nói rằng ông nghĩ không quân đã mắc sai lầm khi cố gắng nghiên cứu một chiếc máy bay trinh sát thích hợp cho cả hai phương diện chiến lược và chiến thuật.
    <font 0[/IMG]Khi Carter trở lại California, ngay lập tức ông đi gặp phó chủ tịch hãng Lockheed là Eugene L. Root, người từng là cố vấn dân sự cao cấp tại Văn phòng Kế hoạch Phát triển, để gợi ý Lockheed nên tham gia thiết kế. Trái với suy nghĩ thông thường của ba ứng viên kia, Carter đề nghị chiếc máy bay "phải được tăng tốc nghiên cứu phát triển hơn hẳn mức bình thường", và nó sẽ "đòi hỏi nỗ lực rất lớn cùng các thủ tục đặc biệt, cũng như triết lý thiết kế không cần theo những chuẩn mực cũ". Điều này bao gồm bỏ luôn cả bộ phận càng cất hạ cánh, bất chấp các tiêu chuẩn thiết kế chi tiết kỹ thuật quân sự, và xây dựng máy bay với một giới hạn tải trọng thấp. Chiếc máy bay phải được thiết kế để bay ở độ cao 70.000 feet. Carter tin rằng: "Nếu chiếc máy bay thử nghiệm có khả năng bay thực tế cực cao ở tốc độ khoảng Mach 0,8, nó sẽ có khả năng tránh được hầu như tất cả các hệ thống phòng thủ của Nga cho đến tận năm 1960."

    Lockheed có một nhà thiết kế máy bay cực kỳ sáng tạo, đủ để biến những ý tưởng của Carter vào thực tế, ông ta là Clarence L. "Kelly" Johnson. Năm 1943, ông này đã hứa với Không quân của Lục quân rằng ông sẽ thiết kế, xây dựng, và cung cấp nguyên mẫu máy bay chiến đấu phản lực XP-80 chỉ trong 180 ngày. Để thực hiện điều này, Johnson thành lập một cơ sở thiết kế chuyên ngành gọi là Skunk Works. Sau Thế chiến II, Skunk Works đã thành công với chiếc máy bay huấn luyện T-33, với tiêm kích đánh chặn F-94, và với XF-104 là nguyên mẫu thử nghiệm của F-104, máy bay chiến đấu đầu tiên có tốc độ Mach 2 được sản xuất. Họ cũng có nhiều thất bại, chẳng hạn như XF-90, một chiếc máy bay chiến đấu quá nặng nề, thiếu sức mạnh.

    Những kinh nghiệm này, cả tốt và xấu, đã giúp hoàn thiện những ý tưởng của Johnson cho quá trình thiết kế máy bay thử nghiệm. Ông biết chính xác những gì cần thiết cho loại máy bay do thám mới, được chỉ định tên gọi là CL-282. Johnson đã lấy thân của chiếc máy bay XF-104 và gắn cho nó đôi cánh có aspect-ratio cao*. Để giảm trọng lượng, khung vỏ (airframe) của chiếc máy bay này chỉ thiết kế để chịu được 2,5 g’s so với tiêu chuẩn thiết kế quân sự thường là 5,33 g’s**. Chiếc máy bay được trang bị động cơ J-73. Cũng như đôi cánh giống như tàu lượn của CL-282, nhiều tính năng thiết kế của nó là chuyển thể từ công nghệ tàu lượn. Thay vì dùng một xà dọc đi qua thân máy bay thì đôi cánh đã được bắt vít thẳng vào thân, giống như trong một tàu lượn. Tiếp tục để giảm trọng lượng, người ta cho CL-282 cất cánh trên một giá đỡ có bánh xe (wheeled dolly), hạ cánh trên hai ván trượt và và phần bụng được gia cố. Giảm trọng lượng hơn nữa, người ta làm buồng lái không có điều áp, nên các phi công sẽ phải mặc áo bay điều áp. Chiếc máy bay có thể mang 600 pound thiết bị camera với độ cao tối đa hơn 70.000 feet, và nó có một tầm xa 2.000 dặm.

    Chú thích thêm: (để chú thích thì tớ diễn nôm thôi nhe các bồ tèo, đi sâu rắc rối lại dễ bị bắt bẻ)[:D]

    * Aspect-ratio: Trong khí động học, aspect ratio là tỷ lệ chiều dài so với chiều rộng của đôi cánh. Tỷ lệ này cao thì máy bay bay cao hơn nhưng tốc độ chậm hơn và khả năng cơ động kém hơn.


    ** G’s: Chỉ số để tính khả năng chịu đựng lực G. Lực G là áp lực lên khung vỏ (airframe) máy bay khi nó bổ nhào hoặc rơi tự do.
  3. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Sorry bác và các bồ tèo khác. Con tank trong game WOT của mình nó bé quá nên bị bắt nạt hoài, phải dành thời gian bế bồng nó.[:D]

    Dịch đoạn trên mới bổ ngửa ra là phần thân (fuselage) của U-2 là lấy từ nguyên mẫu F-104 Starfighter. Vậy mà trước giờ mình không nhận ra. Có lẽ do bọn U-2 làm thân phình ra và kéo dài thêm một chút để chứa thêm nhiên liệu nên hơi khác.

    Lockheed U-2:
    [​IMG]

    Và Lockheed F-104:
    [​IMG]
  4. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Johnson trình thiết kế CL-282 vào đầu tháng ba năm 1954 lên Chuẩn Tướng Schriever, sếp đương nhiệm của Văn phòng Kế hoạch & Phát triển. Schriever tỏ ra hài lòng với những thiết kế trên, nó đáp ứng tất cả các yêu cầu cho mục đích kế hoạch trinh sát và tình báo của Leghorn. Schriever yêu cầu Johnson hoàn tất một đề xuất hoàn chỉnh hơn. Điều này có nghĩa là Johnson sẽ thực hiện một bản mô tả chi tiết đầy đủ về CL-282, cùng với một kế hoạch xây dựng và bảo trì ba mươi máy bay tất cả.

    Schriever đưa Johnson đến Washington DC vào đầu tháng tư năm 1954, nơi đó Johnson làm một buổi thuyết trình về CL-282 trước một hội đồng thẩm định gồm toàn các quan chức cấp cao của Lầu Năm Góc, trong đó có Trung tướng Donald L. Putt, Phó tham mưu trưởng phát triển, và Trevor N. Gardner, trợ lý đặc biệt về nghiên cứu và phát triển cho bộ trưởng không quân. Mặc dù Gardner thích chiếc máy bay, hội đồng thẩm định có vẻ miễn cưỡng về ý tưởng này. Tướng Schriever quyết định qua mặt ARDC, cơ quan trước đó đã từ chối đề nghị ban đầu của Leghorn về chiếc Canberra, bằng cách đưa thẳng lên Tướng Thomas D. White phó tham mưu trưởng lực lượng không quân. Tướng White chấp thuận cho sản xuất CL-282 với số lượng hạn chế, miễn là Tướng LeMay đồng ý. Việc phải cần sự chấp thuận của LeMay là do SAC sẽ là đơn vị sử dụng chiếc máy bay mới này.

    Tướng Schriever được khuyến khích bởi sự hỗ trợ của White, và buổi thuyết trình về CL-282 đã được chuẩn bị cho LeMay. Trong đó nhấn mạnh phẩm chất kỹ thuật đặc biệt của CL-282 là để nhằm vào trinh sát tiền xung đột, và ngụ ý rằng đó là một máy bay chuyên ngành nên cần được điều hành bởi một đơn vị đặc biệt. Nhưng các thuyết trình viên không biết là trước đó, trong tháng 6 năm 1953, Bộ tham mưu Không quân đã đề xuất với SAC nên thiết lập một đơn vị tương tự như vậy để bay xâm nhập trực tiếp vào Liên Xô, nhưng Tướng LeMay đã từ chối. LeMay chỉ nhìn vấn đề trinh sát theo quan điểm truyền thống. Với ông ta, trinh sát chỉ để xây dựng danh sách mục tiêu cần tấn công và đánh giá thiệt hại của mục tiêu sau khi tấn công. Ông cũng có cái nhìn hẹp hòi đối với các đơn vị đặc biệt không có chức năng chiến đấu trực tiếp, cho rằng họ gây tổn hại đến tinh thần của các đơn vị chính quy của SAC.

    Do đó, buổi thuyết trình về CL-282 cho Tướng LeMay được thực hiện trong cuối tháng tư hoặc đầu tháng 5 năm 1954 đã kết thúc trong thất bại. Sự nhấn mạnh vào trinh sát tiền xung đột và tính chất độc đáo của chiếc máy bay đã làm LeMay nghi ngờ đây là âm mưu của Bộ tham mưu Không quân. Nếu ông chấp nhận CL-282, ông sẽ bị mắc kẹt với cùng một loại "đơn vị bay prima donna"*, cái loại mà ông đã bác bỏ gần một năm trước đây. LeMay nhanh chóng thể hiện sự tức giận của mình một cách rõ ràng. Một trong những người chứng kiến sau này cho biết: "Buổi thuyết trình vừa bắt đầu chẳng bao lâu, LeMay đã giật điếu xì gà ra khỏi miệng của mình và ngắt lời thuyết trình viên: "Đây là một đống phân. Tôi có thể làm tất cả những việc đó với những chiếc B-36 của tôi.." Ông ta đứng dậy và xông ra khỏi phòng, nói rằng buổi thuyết trình là một sự lãng phí thời gian của ông ta.


    Chú thích:

    * Prima Doma: tiếng Ý, nghĩa là cô đào chính của một đoàn hát Opera. Cô đào này thường đóng vai chính trong tuồng hát và thường là giọng Soprano.

    Đôi khi, phía sau hậu trường, những cô "đào chính" này thường khó tính, và đòi hỏi nhiều từ bạn hát trong đoàn như nhạc sĩ, người lo y trang, phông màn, người dàn dựng và những người khác trong đoàn hát. Nhưng không ai dám phàn nàn vì những cô đào chính này hát hay và ăn khách. Từ những vụ này mà từ "prima donna" được dùng phổ thông khắp nơi để chỉ những ai khó tính, hay đòi hỏi, tự thổi phồng về họ, về tài năng và sự quan trọng của họ.

    Ngày nay, từ prima donna không chỉ được dùng trong lãnh vực opera mà khắp nơi để chỉ những người có tài nhưng khó tính, vô kỉ luật, tự cao tự đại, nóng tính..vv.., khó làm việc theo lời chỉ dẫn hay trong một tập thể, và mặt dù khó khăn như vậy nhưng tập thể vẫn cần tới những người này vì không có họ thì không xong việc.
  5. bloodheartvn

    bloodheartvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2005
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    85
    Bác Heo chuyển thể sách thành ebook để đọc trên di đọng đc không? Cảm ơn bác đã chia sẻ.
  6. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Một phê phán ôn hòa hơn về chiếc CL-282 là của Thiếu tá Seaberg, người đã nhận được lời đề nghị vào ngày 18 tháng năm 1954. Seaberg không thích chuyện Johnson sử dụng động cơ General Electric J-73, một loại động cơ chưa được chứng minh hiệu quả. Ông này tỏ ý thích động cơ Pratt & Whitney J-57 hơn, loại này đã được lên kế hoạch trang bị cho một số mẫu máy bay của Martin, Fairchild, và Bell. Trong khi đó thân máy bay XF-104 hiện tại lại quá nhỏ để có thể trang bị với J-57. Hơn nữa, Seaberg cũng hoài nghi về việc bỏ đi bộ phận càng xe cất hạ cánh. Ông cũng không tin tưởng một chiếc máy bay một động cơ, cho rằng cấu hình hai động cơ là đáng tin cậy hơn. Vào thời gian này, chiếc Martin RB-57D đã được chọn là máy bay tạm thời, và thiết kế X-16 của Bell thì được chọn là dự án dài hạn. Hợp đồng 28 chiếc X-16 đã được ký kết vào tháng Chín năm 1954. Cả hai chiếc máy bay này đều to lớn và đạt chuẩn thông thường với hai động cơ và bộ phận hạ cánh đầy đủ, chúng cũng được thiết kế theo đúng quy định chi tiết về kỹ thuật quân sự.
    Ngày 07 tháng sáu năm 1954, Johnson nhận được thư của Thiếu Tướng Floyd B. Wood, trợ lý Chánh văn phòng phát triển của ARDC, ông ta chính thức từ chối bản đề nghị cho CL-282. Các lý do đưa ra là thiết kế quá khác thường,chỉ sử dụng một động cơ duy nhất, và không quân đã ký cam kết với chương trình RB-57D. Nhưng Johnson và các kỹ sư khác của Skunk Works vẫn tiếp tục hoàn thiện thiết kế chiếc CL-282, họ vẫn còn nhận được sự ủng hộ cho chiếc máy bay từ Tướng Schriever và các quan chức dân sự cấp cao của Lầu Năm Góc. Thời điểm của CL-282 sẽ sớm lọt vào tay mà thôi. Nhóm Hệ thốngTình báo và CL-282 Mặc dù Dự án nghiên cứu Beacon Hill đã xây dựng nên các khuyến nghị về chính sách tương lai cho lực lượng trinh sát không quân, phải đến tháng 7 năm 1953, Không quân mới thành lập một ủy ban cố vấn tiếp theo để xác định cách thực hiện những khuyến nghị này. Nhóm mớinày được gọi là “Nhóm Hệ thống Tình báo”, chủ tịch là Tiến sĩ James G. Baker, người đã tham gia Dự án nghiên cứu ban đầu Beacon Hill. Nhiều người khác trong nhóm cũng đã từng tham gia Beacon Hill: Đó là Edwin H. Land nhà sáng lập của Tổng công ty Polaroid, Carl FP Overhage một nhà vật lý tại Kodak, Allen F. Donovan của Phòng thí nghiệm hàng không Cornell, và Stewart E. Miller của Phòng thí nghiệm Bell Telephone. Theo yêu cầu của Không quân, hai đại diện từ CIA là Edward L. Allen và Philip G. Strong cũng tham gia.Nhóm Hệ thốngTình báo tổ chức cuộc họp đầu tiên vào ngày 03 tháng 8-1953 tại Đại học Boston. Strong nói với họ rằng những thông tin tình báo tốt nhất về bên trong lãnh thổ Liên Xô mà CIA có những hình ảnh GX từ mãi hồi Thế chiến II. Kết quả là, Nhóm sẽ phải tìm cách để cung cấp hình ảnh trinh sát cho toàn bộ lãnh thổ rộng lớn của Liên Xô. Thế là các thành viên trong nhóm lần lượt báo cáo về nhiều hệ thống khác nhau, như bóng bay trinh sát, cải tiến máy bay hiện có,cải tiến cả máy bay còn trên kế hoạch sản xuất như RB-47, RB-52 và RB-58. Còn có những ý tưởng kỳ lạ hơn như đề xuất phiên bản do thám cho tên lửa Snark và Navaho. Với một đống ý kiến này, Nhóm phải trì hoãn công việc cả chín tháng.

    Trong thời gian gián đoạn này, chiếc Lockheed CL-282 đã được Kelly Johnson đề xuất, và những người ủng hộ nó bắt đầu tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài trong lực lượng Không quân. Ngày 12 tháng năm 1954, sáu ngày trước khi WADC bắt đầu đánh giá về CL-282, Trevor Gardner cùng trợ lý đặc biệt của ông ta là Frederick Ayer Jr, và Garrison Norton là một cố vấn của Tham mưu trưởng Không quân Harold E. Talbott đã họp với Strong để giải thích những lợi thế của CL-282 so với các đề xuất khác. Đó là một độ cao tối đa lớn hơn, một diện tích phản xạ radar (RCS) thấp hơn có thể làm cho radar của Liên Xô không thể phát hiện chiếc máy bay. Strong đã rất ấn tượng với chiếc máy bay và hứa sẽ thảo luận với trợ lý đặc biệt của CIA mới được thuê để lập kế hoạch và phối hợp, ông này là Richard M. Bissell, Jr
  7. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Bissell gia nhập CIA vào tháng Giêng năm 1954 và nhanh chóng tham gia sâu sắc vào việc lập kế hoạch lật đổ Tổng thống Jacobo Arbenz của Guatemala, người bị các quan chức Washington nghi ngờ là cộng sản. Vào giữa tháng Năm, Strong tiếp cận Bissell với đề nghị CL-282. Bissell cho rằng ý tưởng này thật xuất sắc, ông khuyên Strong nên tìm thêm tư vấn từ một số nhà khoa học.
    <font class=[/IMG]Cùng thời điểm đó, cuộc họp thứ hai của Nhóm Hệ thống Tình báo được tổ chức vào ngày 24 và 25 tại Đại học Boston và Tổng công ty Polaroid. Trong cuộc họp, Donovan đã có một đánh giá phiên bản cải tiến của chiếc Martin B-57. Mặc dù Donovan không có bản vẽ chi tiết thiết kế kỹ thuật chính xác, ông ta vẫn có thể ước tính những gì có thể thực hiện được khi kéo dài cánh và làm nhẹ khung vỏ chiếc máy bay B-57. Ông kết luận rằng chiếc máy bay đó không thể đáp ứng yêu cầu đưa ra trong Báo cáo Beacon Hill. Ông giải thích cho các thành viên khác trong nhóm là không có chiếc máy bay hai động cơ nào đáp ứng đầy đủ thông số kỹ thuật quân sự mà có thể bay trên 65.000 feet. Trong khi đó, nếu máy bay không thể đạt độ cao trên 70.000 feet, nó sẽ không an toàn trước hệ thống đánh chặn của Liên Xô.

    Donovan cũng nói với các thành viên trong nhóm rằng có một chiếc máy bay đang được thiết kế: CL-282. Donovan còn liên hệ đến những gì Strong trước đó đã nói với ông về những nỗ lực của Lockheed. Các thành viên khác trong nhóm rất quan tâm đến điều này và chủ tịch của nhóm là Baker yêu cầu Donovan đi qua Lockheed để đánh giá bản thiết kế, đồng thời vẫn tiếp tục đi thu thập những ý tưởng về máy bay trinh sát tầm cao từ các công ty khác.

    Nguy cơ một cuộc tấn công bất ngờ.

    Trong suốt những năm 1950, mối đe dọa một cuộc tấn công bất ngờ từ Liên Xô treo lơ lửng trên xã hội Mỹ như một bóng ma vô hình. Ngày nay, rất khó để đánh giá chính xác sự sợ hãi kiểu Trân Châu Cảng này, nhưng vào thời điểm đó, nó là một thực tế trong cuộc sống hàng ngày. Các đoạn phim "Duck and cover" (cúi thấp đầu xuống và tìm chỗ ẩn nấp), hướng dẫn những gì phải làm khi bị tấn công hạt nhân, được đưa vào chương trình giảng dạy tiểu học. Trong nhiều thị trấn, những tiếng còi hụ báo động không kích đã vang rền vào giữa trưa để diễn tập. Trong bầu không khí sợ hãi đó, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một cuộc thăm dò trong mùa hè năm 1955 cho thấy hơn một nửa số người Mỹ nghĩ rằng họ nhiều khả năng sẽ chết trong một cuộc tấn công từ Liên Xô hơn là từ tuổi già.

    Sự lo âu y như vậy cũng hiện diện ở các vị cố vấn chính phủ và các quan chức tình báo. Năm 1952 và 1953, Tổng công ty RAND thực hiện một loạt các nghiên cứu về những nguy cơ. Chúng đánh giá khả năng tổn thương của Hoa Kỳ và lực lượng quân sự của họ khi bị tấn công đột ngột như vậy. Trong một nghiên cứu năm 1953, giữa các kịch bản được nghiên cứu, có một kịch bản hình dung một cuộc tấn công bởi năm mươi chiếc Tu-4 bay ở cao độ thấp, mỗi chiếc mang một quả bom A có sức công phá từ bốn mươi đến một trăm kiloton. Các nhân viên RAND kết luận rằng một cuộc tấn công kiểu này, hoàn toàn nằm trong trong khả năng của Không quân Liên Xô lúc ấy, có thể dẫn đến sự hủy diệt của hai phần ba hoặc nhiều hơn cho lực lượng máy bay ném bom SAC khi chúng còn nằm trên mặt đất.

    Nghiên cứu của RAND cũng nêu lên sự cần thiết nhiều thông tin tình báo hơn để cảnh báo sớm một cuộc tấn công. Một đoạn lưu ý: "Muốn giảm đáng kể tổn thất, nhất thiết phải có khả năng tiên tiến hơn trong việc theo dõi hoạt động của đối phương. Nếu chúng ta cung cấp được khả năng này, chúng ta có thể có được sự cảnh báo chính xác không mơ hồ (nhấn mạnh trong bản gốc), nhưng từ những dữ liệu hạn chế RAND có được hiện nay, khả năng như vậy dường như là nhỏ”. Nghiên cứu cũng cảnh báo: "Các trường hợp như trận Trân Châu Cảng và sự khởi đầu của chiến tranh Triều Tiên cho thấy rằng sự nắm bắt đơn thuần các chỉ số hoạt động của đối phương không chắc chắc đảm bảo được chúng có đủ khả năng cảnh báo cho quốc gia."

    CIA cũng có một ước tính khá khắc nghiệt về khả năng cung cấp cảnh báo trước cho một cuộc tấn công từ Liên Xô vào Hoa Kỳ. Đến cuối mùa hè năm 1954, CIA cho biết họ không chắc chắn có thể cung cấp cảnh báo một ý định tấn công từ Liên Xô hoặc có thể nắm được cuộc tấn công đó sẽ diễn vào thời gian cụ thể nào, “ngoại trừ trong trường hợp chúng tôi thâm nhập vào được bộ máy chỉ huy cấp cao của Liên Xô (mà việc này có vẻ như không thể có trong thời điểm hiện tại), hoặc trong trường hợp được bổ sung phương tiện tình báo đặc biệt mang tính đột phá”. Việc tốt nhất mà tình báo Mỹ có thể làm là thông báo Liên Xô đã chuẩn bị đầy đủ để tấn công vào một ngày nhất định, nhưng họ không thể cho biết liệu đó là một cuộc tấn công thực sự đã được lên kế hoạch hay những chuyển động đó chỉ nhằm phô trương sức mạnh? Thậm chí hay đó chỉ đơn giản là đối phương đang chuẩn bị chống lại một cuộc tấn công từ phía Mỹ.

    CIA cho rằng nếu Liên Xô chuẩn bị một cuộc tấn công tổng lực bằng không quân vào Hoa Kỳ, liên quan đến 850 máy bay ném bom Tu-4, thì họ có thể phát hiện 15-30 ngày trước khi cuộc tấn công diễn ra. Tuy nhiên, với một cuộc tấn công hạn chế thực hiện bởi khoảng 50 đến 100 chiếc Tu-4 thì khả năng cảnh báo trước của họ xuống đến mức tối thiểu. Trong trường hợp này, dấu hiệu đầu tiên cho một cuộc tấn công đang được tiến hành có thể chỉ được phát hiện trên radar, khi máy bay ném bom đang bay đến, giống như trường hợp Trân Châu Cảng.
    <!--?xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com
  8. hstung

    hstung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/04/2004
    Bài viết:
    1.553
    Đã được thích:
    2.956
    Đã hết topic chưa bác ơi?
  9. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Đây là tình huống Tổng thống Dwight D. Eisenhower phải đối mặt trong mười tám tháng đầu tiên nắm quyền của ông. Ông ta là một trong số những người đàn ông thông minh nhất trước giờ từng nắm giữ chức vụ tổng thống Mỹ. cựu tư lệnh tối cao quân đồng minh ở châu Âu trong Thế chiến II, Eisenhower đã quen thuộc với tất cả các khía cạnh của tình báo: Gián điệp con người, do thám trên không SIGINT, cũng như những hạn chế của chúng.Ông hiểu rằng ngay cả với các thông tin tình báo tốt nhất thì ảnh chụp sẽ luôn luôn không bao giờ thừabất ngờ luôn luôn có thể xuất hiện.Trong vai trò tổng thống, Eisenhower hiểu rằng chiến tranh lạnh sẽ là một cuộc đấu tranh kéo dài, và Hoa Kỳ sẽ phải tổ chức các nỗ lực của mình lại nhằm để đáp ứng lâu dài.Trong vai trò một nhà tài chính bảo thủ, Eisenhower tin rằng chi tiêu quân sự quá mức sẽ gây thiệt hại kinh tế và kết cấu xã hội của chính nước Mỹ. Hoa Kỳ không thể vừa là một nền dân chủ vừa là một trại lính.

    <font 0[/IMG]Để tránh những cạm bẫy, Eisenhower muốn giới hạn quy mô lực lượng quân sự Mỹ dựa trên cơ sở đáp ứng các mối đe dọa thực sự của Liên Xô chứ không dựa trên những giả định hay khả năng. Tuy nhiên, để làm được điều đó thì phải có được thông tin tình báo vững chắc trên tất cả các khía cạnh những hoạt động của Liên Xô. vậy, Eisenhower nhanh chóng bày tỏ sự bất mãn của mình với những ước tính, thông tin tình báo kém cỏi mà ông nhận được sau khi trở thành tổng thống vào tháng Giêng năm 1953.
    Một ví dụ cho những bản báo cáo tình báo tồi tệ: Trong một bản ước tính do CIA ban hành ngày 03 Tháng Tám năm 1953 liên quan đến chương trình vũ khí nhiệt hạch của Liên Xô có ghi: "Những hoạt động nghiên cứu có thể có liên quan đã được ghi nhận, nhưng không có bằng chứng về hoạt động phát triển trong thời điểm hiện tại. Không có bằng chứng trực tiếp để tạo cơ sở cho ước tính về sự dẫn đầu nước Mỹ có thể có trong lĩnh vực vũ khí nhiệt hạch.Tuy nhiên, có một khả năng Liên Xô đang ngày càng tăng về số lượng sản xuất vật liệu nhiệt hạch, và do đó họ có thể nâng cao hơn mức nghiên cứu và phát triển, và thậm chí có thể bước sang cả lĩnh vực thử nghiệm vào giữa năm 1954, có thể sẽ không an toàn để giả định rằng Liên Xô sẽ vẫn chưa có vũ khí nhiệt hạch vào giữa năm 1955. "

    Đúng chín ngày sau, Liên Xô đã cho nổ quả bom Joe-4, quả bom H thử nghiệm đầu tiên của họ. Công suất của nó là 400 kiloton. Họ đã thực hiện điều này chỉ chín tháng sau cuộc thử nghiệm bom H toàn diện đầu tiên của Mỹ khi Mỹ bắn Mike ngày 01 tháng 11 năm 1952. Mặc dù bom H của Liên Xô sản xuấtcông suất thấp hơn nhiều so với quả bom của Mỹ, nó lại nhỏ gọn hơn và là một vũ khí thực tế hơn so với Mike.

    Cũng có thông tin tình báo cho rằng lực lượng không quân tầm xa của Liên Xô đang bắt đầu một đợt nâng cấp.Đến năm 1953, máy bay phản lực B-47 đang phục vụ trong Không quân Mỹ. Và chiếc lớn hơn, bay xa hơn là B-52 đã bắt đầu bay thử nghiệm. Còn Liên Xô vẫn còn dựa trên chiếc máy bay tầm ngắn, động cơ cánh quạt Tu-4 để làm máy bay ném bom chiến lược cho họ. Vào giữa năm 1953, một người quan sát dưới mặt đất gần một căn cứ thử nghiệm của Liên Xô đã nhìn được thoáng qua một phần của một chiếc máy bay mới to lớn, cánh đuôi chéo lại. Theo lời người trình báo, loại máy bay mới xuất hiện lớn hơn so với B-47 và được đánh giá máy bay phản lực ném bom hạng nặng.

    Một năm sau, vào mùa xuân năm 1954, chiếc máy bay đã được trông thấy trong chuyến bay đầu tiên của nó. Đó là nguyên mẫu Mya-4 (tên mã NATO Bison), một loại máy bay ném bom lớn, bốn động cơ phản lực với cánh xuôi. Ước tính ban đầu của CIA là Mya-4 có khả năng bay từ bán đảo Chukotski và tấn công các mục tiêu trong một vòng cung từ Los Angeles, Denver đến Minneapolis với tải trọng bom mang theo là 10.000 pound, sau đó lại bay trở về lãnh thổ của Liên Xô mà không cần tiếp nhiên liệu dọc đường. Với nhiệm vụ một chiều (một đi không quay về), Mya-4 được ước tính có khả năng bao trùm cả nước Mỹ.

    Eisenhower đã quyết định rằng tình hình này không thể chấp nhận được. Những hành động kế tiếp của ông sẽ làm cho các ý tưởng của Leghorn trở thành thực tếlàm thay đổi mãi mãi bản chất của quan hệ tình báo trong và ngoài nước.

    Chú thích thêm: Chiếc M-4 Bison của Liên Xô.

    Được thiết kế nhằm mục đích tấn công hạt nhân, chiếc M-4 copy nhiều chi tiết từ B-47 của Mỹ. Nhưng chỉ có 98 chiếc M-4 được sản xuất, trong đó nhiều chiếc được biến cải sang làm máy bay tuần tiễu mặt biển, máy bay tiếp dầu và cả máy bay chở hàng. M-4 thất bại không chỉ vì người Nga thiếu kinh nghiệm và công nghệ trong lĩnh vực máy bay ném bom hạng nặng mà còn do họ không chú trọng lĩnh vực này. Họ tập trung nguồn lực vào việc phát triển tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, bởi vũ khí này tỏ ra hiệu quả nhiều hơn cho việc sử dụng vụ khí hạt nhân nhằm vào Mỹ.

    [​IMG]

    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    Còn khoảng... hơn 100 trang!:-O
  10. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Nhóm nghiên cứu năng lực công nghệ

    Ngày 27 tháng 3 1954, Eisenhower tham dự một phiên họp của Văn phòng Tư vấn Khoa học thuộc Ủy ban Quốc phòng tổ chức, ở đó ông đã nói với họ về chiếc Mya-4 và mô tả các mối đe dọa Hoa Kỳ phải đối mặt nếu được sử dụng trong một cuộc tấn công bất ngờ. Mya-4 có tốc độ, tầm xa và độ cao tốt hơn hơn so với Tu-4 và có thể được trang bị bom H. Ngược lại, mạng lưới radar của Mỹ và lực lượng đánh chặn vẫn không đủ chống lại các mối đe dọa, thậm chí là không đủ để ngăn chặn loại Tu-4, và SAC cũng chưa được chuẩn bị để có thể tránh khỏi một cuộc tấn công bất ngờ. Eisenhower thách thức các nhà khoa học trong ủy ban vấn cho ông về bất kỳ công nghệ mới nào có thể cải thiện khả năng tấn công và phòng thủ của Mỹ, cũng như có thể tăng hiệu quả cho các phương pháp thu thập tình báo. James R. Killian, Jr, Chủ tịch MIT, đã đề nghị thành lập một nhóm để nghiên cứu thực hiện.<font color=[/IMG]Ngày 26 tháng 7, Eisenhower chấp thuận cho Killian tuyển dụng và lãnh đạo một nhóm.Thành viên của nhóm sẽ có quyền truy cập vào tất cả các thông tin bí mật của quốc gia cho đến mức gần như cao nhất .Nhóm này ban đầu được gọi là Nhóm nghiên cứu tấn công bất ngờ, nhưng sau đó được điều chỉnh cho trung tính hơn,Nhóm nghiên cứu năng lực công nghệ, hoặc TCP.

    Theo sự tổ chức của Killian, TCP có tổng cộng 41 nhà khoa học, kỹ sư và các chuyên gia thông tin liên lạc quân sự. Họ được chia thành ba đơn vị: Project One, Two và Three. Đơn vị Project One nghiên cứu vấn đề phòng thủ lục địa, Project Two nghiên cứu sức mạnh tấn công, và Project Three nghiên cứu năng lực tình báo. Theo chủ đề của Project Three, Killian tuyển mộ các thành viên thuộc Cơ quan Hệ thốngTình báo của Không quân để về làm việc cho nhóm. Khi Killian đưa ra đề nghị với Edwin Land, muốn Land về đứng đầu Project Three, lời đề nghị đã bắt ông ta phải đưa ra quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của mình. Ông đã 45 tuổi, một nhà triệu phú bởi phát minh máy ảnh chụp lấy ngay của mình. Ông vừa nghỉ việc Polaroid, đang sống ở Hollywood cung cấp tư vấn kỹ thuật Alfred Hitch**** trên phim 3D. Sau khi suy nghĩ cặn kẽ, Land rời khỏi Hollywood, quay trở lại với Polaroid và nhận lời bổ nhiệm.

    Thái độ của Land đối với sự đổi mới trước tệ quan liêu cũng tương tự như Kelly Johnson. Land rất ưa thích hình thức "nhóm taxi", một nhóm làm việc đủ nhỏ đến nỗi có thể ngồi chung trong một xe taxi. Project Three là nhỏ nhất trong ba nhóm Project, họ chỉ có sáu thành viên. Làm việc trong nhóm của Land bao gồm: Baker từ Cơ quan Hệ thống Tình báo; Edward M. Purcell từ Đại học Harvard, người từng tham gia nghiên cứu Beacon Hill; Joseph W. Kennedy, một nhà hóa học tại Đại học Washington; John W. Tukey, nhà toán học tại Đại học Princeton và Phòng thí nghiệm Bell Telephone, cuối cùng là Allen Latham, Jr, một kỹ sư của Ardiur D. Litde, Inc.

Chia sẻ trang này