1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SHADOW FLIGHTS - Cuộc đối đầu giữa các phi công trinh sát và Vòm Sắt Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi anheoinwater, 23/09/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Anonymous_boy

    Anonymous_boy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2006
    Bài viết:
    548
    Đã được thích:
    1
    trang trước có đoạn nói về camera trên máy bay trinh sát. em vẫn hoài nghi cái khả năng của nó: nhận dạng đc 1 quả bóng golf từ độ cao 50.000ft (tức là cao hơn cả độ cao hành trình của máy bay dân dụng)
  2. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208

    Không có gì ngạc nhiên đâu bác. Thời đó là vậy, thời nay camera trên vệ tinh bay cao đến vài trăm km vẫn thấy tốt qủa Golf.[:D]
  3. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Với sự bổ sung thành viên qua lại cho nhau, Cơ quan Hệ thống Tình báo Project Three đã có sự gắn kết lịch sử. Ngày 2 tháng 8 năm 1954, Donovan đã gặp L. Eugene Root tại Lockheed. Ở đó lần đầu tiên ông nhận biết được khả năng cạnh tranh cao của trinh sát hàng không. Sau đó Kelly Johnson mô tả cho Donovan về bản thiết kế chiếc CL-282 của mình. Donovan, một người đam mê dù lượn suốt đời, nhận ra rằng bản thiết kế đó là chính xác nhữngông đang cần. Donovan trở lại bờ biển phía Đông vào ngày 08 tháng 8 và yêu cầu Baker tổ chức một cuộc họp của Cơ quan Hệ thống Tình báo để thảo luận về chiếc CL-282. Baker và các thành viên khác đồng ý, họ dự trù smất khoảng gần hai tháng nữa mới có thể tổ chức cuộc họp.

    Lý do cho sự chậm trễ này là Land Baker đã tới Washington vào giữa tháng tám để sắp xếp các buổi thuyết trình thông tin tình báo cho các thành viên TCP. Trong thời gian ở Washington, Strong cho Land xem một bản vẽ chiếc CL-282 và than thở với ông rằng nó đã bị từ chối bởi Không quân. Mặc dù Land đã nghe qua báo cáo ngắn gọn của Donovan về ý tưởng của Lockheed trong cuộc họp của Cơ quan Hệ thống Tình báo ngày 24, 25 nhưng ông cũng chẳng nhớ gì về nó. Bây giờ, khi trực tiếp nhìn thấy bản vẽ, Land lập tức trở thành một ủng hộ viên cho chiếc máy bay. Ông gọi điện thoại cho Baker và nói: "Jim, tôi nghĩ rằng tôi đang chiếc máy bay mà ông đang tìm kiếm đây." Một vài ngày sau đó, Land trưng bản vẽ CL-282 cho Bakercác thành viên khác thuộc Project Three xem. Baker cũng đã nghe Donovan đề cập đến chiếc máy bay, nhưng giống như Land, ông chưa nhìn thấy bản vẽ hoặc nghe được bất kỳ chi tiết cụ thể nào. Bây giờ, Baker lập tức bắt đầu thiết kế một camera cùng hệ thống ống kính có thể đặt vừa khít trong giới hạn chật hẹp của thân máy bay XF-104 cải tiến.

    Vào cuối tháng Tám, Land gặp Bissell để thảo luận về chiếc CL-282. Bissell sau này nhớ lại ông chẳng biết Land muốn sử dụng chiếc máy bay vào việc gì, thậm chí cũng chẳng nhớ lý do Land gọi cho ông hẹn hò làm việc gì. Mặc dù vậy, khi bước vào cuộc thảo luận, Bissell lập tức bị thu hút quan tâm đặc biệt. Và vào đầu tháng Chín, ông yêu cầu một sĩ quan không quân trẻ tuổi thuộc Bộ tham mưu của ông thảo một báo cáo tổng quát về trinh sát hàng không. Ngày 24 tháng 9, Bissell chuyển tiếp bản báo cáo này đến Phó giám đốc Tình báo Trung ương (DDCI) Trung tướng Charles Pearre Cabell. Trong những gì được ghi lên bìa hồ sơ của Bissell gửi đi có cái tên CL-282.

    Cùng ngày, Donovan đứng ra báo cáo về chiếc CL-282 trước Cơ quan Hệ thống Tình báo. LandStrong không thể tham dự. Các thành viên nghe báo cáo ban đầu cảm thấy khó chịu khi biết rằng Không quân đã khởi sự một cuộc thi thiết kế máy bay trinh sát mới mà không nói cho họ biết, nhưng sau đó họ nhanh chóng chia sẻ sự nhiệt tình ủng hộ của Donovan dành cho CL-282. Nó có đủ ba đặc điểm cần thiết để có thể đạt độ cao 70.000 feet. Đó là một động cơ duy nhất, nhẹ nhàng và độ tin cậy cao. Đó là đôi cánh kiểu dù lượn để có thể tận dụng tối đa sức đẩy khá thấp của một động cơ phản lực vốn đã duy nhất lại còn phải hoạt động ở độ cao lớn. Đó là yếu tố tải thấp, một lần nữa nhằm mục đích cho máy bay nhẹ nhàng hơn. Donovan lập luận rằng đó là một máy bay chuyên ngành không cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn chi tiết kỹ thuật quân sự, bởi vì nó sẽ bay thật cao, trên tầm với của máy bay tiêm kích Liên Xô.
  4. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Khi Baker trình bày với các thành viên khác của Project Three về báo cáo của Donovan, họ càng quan tâm hơn về CL-282.TCP chính thức bắt đầu làm việc từ 13 tháng 9, họ trải qua hai mươi tuần với các buổi thuyết trìnhgặp gỡ với mọi thành phần của quân đội cùng giới tình báo Mỹ. Land nhớ lại các thành viên của Project Three là những người khổ sở nhiều nhất vì khả năng thấp kém của tình báo Mỹ lúc đó. Ông kể lại: "Chúng tôi đi tham vấn một số tướng lĩnh, đô đốc phụ trách tình báo và cảm thấy cực kỳ lo lắng. Chúng tôi ở đó,chỉ là năm hay sáu người trẻ tuổi thay phiên nhau đặt câu hỏi, nhưng những sĩ quan cấp bậc rất cao ấy lại không thể trả lời được." Lo lắng của họ không chỉ giới hạn trong giới tình báo quân sự, Land nhớ lại rằng các thành viên cũng chẳng có được ấn tượng gì hơn với CIA.Trong tình hình như vậy, chiếc CL-282 mặc nhiên trở thành một phương tiện hấp dẫn để thu thập thông tin tình báo.

    Trong suốt tháng chín và tháng mười năm 1954, các thành viên Project Three đã tổ chức nhiều cuộc họp để thảo luận về mọi khía cạnh của chiếc CL-282. Đến cuối tháng mười, họ đã xử lý rốt ráo tất cả các vấn đề nổi bật, ngoại trừ một câu hỏi: Ai sẽ đảm nhiệm việc thực hiện các chuyến bay xâm nhập? Land cảm thấy một cách sâu sắc rằng đó không phải là việc dành cho Không quân. Ông tin rằng các phi vụ xâm nhập quân sự bằng máy bay vũ trang, chẳng hạn như các phi vụ B-47 trước đó, có thể kích động một cuộc chiến tranh. Vì vậy, Land đề nghị các phi vụ nên được thực hiện bằng một chiếc máy bay dân sự không sơn dấu hiệu. Cơ quan tốt nhất để quản lý và thực hiện các hoạt động này, theo quan điểm của Land, Cơ quan Tình báo Trung ương , là CIA.

    Vào cuối tháng mười, các thành viên Project Three đã gặp gỡ với Allen W. Dulles thuộc DCI để thảo luận về CL-282. Dulles khá miễn cưỡng khi chấp nhận đảm trách việc thực hiện các phi vụ. Ông không muốn tham gia vào những gì mà ông cho rằng là một dự án quân sự, thậm chí dự án đó đã bị từ chối bởi Không quân. Dulles đã từng ủng hộ các phi vụ bay xâm nhập hồi trước của Không quân, bao gồm cả đề xuất nhiệm vụ Kapustin Yar hồi 1954. Nhưng ông ta không thấy vai trò nào cho CIA trong việc này. Land nhớ lại ông đã có ấn tượng trong cuộc họp Dulles cảm thấy việc này không công bằng.

    Trong lúc Dulles của DCI còn miễn cưỡng thì Không quân lại còn có các cam kết với chiếc X-16 và chẳng muốn làm với CL-282. Trước sự thích thú của mọi người đối với chiếc CL-282, WADC lo lắng và gửi thông báo đến Trung tướng Donald L. Putt, Phó tổng tham mưu bộ phận phát triển Không quân, để phản đối việc phát triển chiếc CL-282. WADC lập luận rằng chiếc X-16 được thiết kế tốt hơn bởi vì nó có hai động cơ, bánh đáp, có buồng lái điều áp và giáp bảo vệ. Họ cũng cảnh báo rằng chiếc CL-282 sử dụng động cơ phản lực J-57 nên sẽ rất thiếu thốn và không thể sản xuất kịp động cơ cho Không quân. Vì loại động cơ J-57 này vốn đang được sử dụng trên nhiều loại máy bay: B-52, F-100, F-101 và F-102. Donovan hóng được tin phản đối của WADC nên vào ngày 19 tháng 10 năm 1954 ông đi gặp Tướng Putt để vân động sự ủng hộ của ông ta cho CL-282.

    Điều này dẫn đến một cuộc họp nữa vào ngày 18 tháng 11 với mười lăm nhà khoa học từ TCP để thảo luận về những bản thiết kế máy bay trinh sát. Ngoài ra, tham dự cuộc họp còn có Thiếu tá Seaberg. Ông này sau đó nhớ lại rằng không ai trong số các nhà khoa học tham dự tự giới thiệu về mình, nhưng từ câu hỏi của họ ông có thể biết rằng họ là các chuyên gia về động cơ, khí động học và quang học. Seaberg trình bày phân tích của ông về bốn bản thiết kế đang cạnh tranh nhau. Ông cho rằng những thiết kế của Lockheed, Bell, và Fairchild là đạt. Còn chiếc Martin RB-57D, một phiên bản cải tiến của một loại máy bay có sẵn, thì quá thiếu phù hợp. Ông cũng nêu quan điểm của ông là động cơ phản lực J-73 không đủ sức mạnh cho các chuyến bay độ cao siêu lớn. Seaberg cũng đã tính toán những gì CL-282 có thể làm với chỉ một động cơ J-57. Dữ liệu của ông chỉ ra rằng CL-282 mang tính cạnh tranh hơn so với hai loại máy bay của Fairchild và Bell.

    Bất chấp sự phản đối của WADC và những nghi ngờ của Dulles bên DCI, TCP đã báo cáo lên Tổng thống. Land đã đi trên đầu của CIA và Không quân. Tầm quan trọng của sự ủng hộ từ TCP cho CL-282 cũng vượt xa không còn giới hạn ở loại máy bay sẽ được sản xuất. Vì những ý tưởng của Leghorn đã được xác nhận bởi một hội đồng các nhà khoa học tư vấn cho tổng thống. Hội đồng này đã kết luận rằng trinh sát trước D-day là vô cùng cần thiết cho sự an toàn của Hoa Kỳ trước một cuộc tấn công bất ngờ.
  5. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-ascii-theme-font:minor-latin; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-theme-font:minor-fareast; mso-hansi-font-family:Calibri; mso-hansi-theme-font:minor-latin; mso-bidi-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-theme-font:minor-bidi;} Tổng thống Eisenhower chuẩn thuận.

    Bản báo cáo cuối cùng của TCP sẽ được quyết định vào tháng 2 năm 1955, Land và các thành viên Project Three bắt đầu vận động để đạt được sự ủng hộ của Eisenhower. Trong nửa đầu của tháng 11 năm 1954, Land và Killian gặp gỡ với Eisenhower để thảo luận về CL-282. Killian sau đó nhớ lại: "Sau khi nghe đề nghị của chúng tôi và đặt ra nhiều câu hỏi khó, Eisenhower đã đồng ý phát triển hệ thống (CL-282), nhưng ông quy định rằng việc này phải được xử lý một cách đặc biệt, không theo quy tắc thông thường, chủ yếu là để nó không bị mắc kẹt trong thói quan liêu của Bộ Quốc phòng hoặc gặp rắc rối bởi sự kình địch giữa các cơ quan, văn phòng ".

    Đồng thời, Land và các thành viên khác của TCP cũng cố gắng thuyết phục Dulles của DCI rằng CIA nên đứng ra phụ trách các chuyến bay xâm nhập. Ngày 5 tháng 11, Land đã viết một báo cáo gửi Dulles nêu rõ những lý do mà Nhóm nghiên cứu cho ra kết luận này. Lá thư viết: "Tôi không chắc chắn rằng chúng tôi đã cho ngài thấy thật rõ ràng chưa trong việc chúng tôi cảm thấy có nhiều lý do tại sao hoạt động này là thích hợp cho CIA, dĩ nhiên là với sự hỗ trợ từ không quân. Chúng tôi đã nói với ngài rằng những hoạt động và kỹ thuật kiểu này rất phù hợp với phong cách hiện đại của CIA .... Rất mạnh mẽ, chúng tôi cảm thấy rằng ngài luôn phải khẳng định quyền ưu tiên của các ngài đi tiên phong trong khoa học kỹ thuật cho việc thu thập thông tin tình báo, và lựa chọn đối tác hỗ trợ như thế (Không quân) là cần thiết. Cơ hội để trinh sát hàng không vào lúc này dường như là thời điểm rất tốt để khởi sự. "

    Báo cáo của Land còn bao gồm một bản tóm tắt dự án đã được thiết kế. Nó sẽ được điều hành bởi CIA với sự hỗ trợ của Không quân, trong vòng hai mươi tháng sau khi phê duyệt thì CIA sẽ được hưởng thành quả là các thông tin tình báo đầu tiên. Chi phí được ước tính là 22 triệu USD, trong đó bao gồm phát triển, thử nghiệm và chế tạo sáu chiếc CL-282 đầu tiên, huấn luyện, thực hành hoạt động cho lực lượng đặc nhiệm, và hỗ trợ hậu cần ban đầu. Bản tóm tắt nhấn mạnh rằng thời gian rất hạn chế, vì trong vòng một vài năm nữa Liên Xô sẽ phát triển khả năng đánh chặn máy bay. Như vậy, "hành động rất nhanh chóng" là cần thiết.

    Nhiều bản ghi nhớ được lập ra nhằm giải quyết các mối lo ngại của Dulles về việc CIA phải liên quan đến các chuyến bay xâm nhập. Land ghi nhận trong một bản ghi nhớ: "Hiện tại có vẻ như rất nguy hiểm một khi để cho bàn tay của giới quân sự trực tiếp nhúng vào việc bay xâm nhập rộng rãi... Chúng tôi khuyên rằng CIA, với tư cách là một tổ chức dân sự, thực hiện một chương trình bí mật cho các chuyến bay được lựa chọn kỹ càng". Land cũng nhấn mạnh sự vượt trội của chiếc CL-282 khi so sánh với kiểu điệp viên truyền thống mà Dulles thích hơn: "Không có khuyến nghị hoặc chương trình nào mà chúng ta thấy được trong các kế hoạch tình báo lại có thể nhanh chóng mang lại rất nhiều thông tin quan trọng với nguy cơ và chi phí rất ít như thế. Chúng tôi tin rằng những chiếc máy bay này có thể bay đến nơi chúng ta cần một cách hiệu quả và an toàn, và không có loại nguồn tin tình báo kiểu truyền thống vốn rời rạc và gián tiếp nào có thể tương đương được với những thông tin tích cực như thế này. "
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Edwin H. Land, người thường được biết đến nhiều hơn với tư cách là một nhà triệu phú, cựu sáng lập công ty Polaroid, người phát minh ra máy chụp ảnh lấy liền đầu tiên của hế giới.

    [​IMG]
  6. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-ascii-theme-font:minor-latin; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-theme-font:minor-fareast; mso-hansi-font-family:Calibri; mso-hansi-theme-font:minor-latin; mso-bidi-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-theme-font:minor-bidi;} Ngày 23 tháng 11, Ủy ban Tư vấn tình báo, trong đó bao gồm cả các giám đốc tình báo Không quân, Lục quân, Hải quân, Ủy ban Năng lượng nguyên tử (AEC), Bộ Ngoại giao, Tham mưu trưởng liên quân và một trợ lý Giám đốc FBI, phê duyệt yêu cầu của Dulles bên DCI để thực hiện dự án CL-282. Ngày hôm sau, Dulles đã ký một biên bản ghi nhớ 3 trang đề nghị Eisenhower phê duyệt.

    Chiều ngày 24 tháng 11, một cuộc họp đã được tổ chức tại Nhà Trắng để thảo luận về dự án. Có mặt Dulles của DCI, Cabell của DDCI, Ngoại trưởng John Foster Dulles (anh trai của Dulles), Bộ trưởng Quốc phòng Charles E. Wilson, Tham mưu Không quân Talbott, và Tướng Putt. Tổng thống Eisenhower đã phê chuẩn đề nghị của họ chế tạo ba mươi máy bay CL-282 với chi phí khoảng 35 triệu đô la. Nhưng Dulles giãy nãy rằng CIA không thể tài trợ toàn bộ dự án mà không thu hút sự chú ý từ bên ngoài nhìn vào. Cả nhóm nhất trí rằng Không quân sẽ phải gánh vác một phần quan trọng về mặt tài chính. Eisenhower cũng tham vấn Ngoại trưởng Foster Dulles về các rắc rối ngoại giao có thể xảy ra từ các phi vụ xâm nhập. John Foster Dulles cho rằng những khó khăn có thể phát sinh, nhưng "chúng ta có thể sống chung với lũ". Tổng thống Eisenhower kết thúc buổi thảo luận bằng lời tuyên bố: “Chúng ta đã bước đi về phía trước với việc chế tạo thiết bị, nhưng trước khi bắt đầu hành động bay do thám thì phải có một buổi đánh giá cuối cùng nữa.”

    Xây dựng Aquatone.

    Ngày 26 tháng 11, năm 1954, một ngày sau Lễ Tạ Ơn, Dulles của DCI nói với Bissell rằng ông ta đang trực tiếp chỉ đạo chương trình bay xâm nhập. Mặc dù Bissell đã biết chi tiết tổng quát về chiếc CL-282 trong mấy tháng qua, bây giờ ông ta mới biết được kế hoạch cụ thể về một dự án mang tên mã là Dự án Aquatone. Ngày 02 Tháng 12, Dulles nói với Bissell rằng ông vừa tham dự một cuộc họp tại Lầu Năm Góc ngày hôm trước để thảo luận về cách tổ chức điều hành. Nhưng ông ta xì ra rất ít thông tin. Khi Bissell hỏi Dulles cơ quan nào sẽ điều hành dự án thì Dulles bảo vẫn chưa có gì được quyết định rõ ràng. Bissell tiếp tục hỏi ai sẽ trả tiền cho dự án? Dulles nhấm nhẳng: "Việc đó thậm chí không được đề cập, ông cứ tự tìm cho ra lẽ."

    Đại diện của CIA tại cuộc họp ngày 3 tháng 12 là Bissell và HerBert I. Miller, người sau đó nhanh chóng trở thành quan chức điều hành cho Dự án Aquatone. Về phía Không quân là Gardner, Tướng Putt và một số quan chức cấp cao khác. Phần lớn cuộc thảo luận tập trung vào vấn đề làm thế nào để chuyển các động cơ J-57 sang cho Aquatone sử dụng. Họ đồng ý rằng một hợp đồng mua động cơ riêng biệt có thể gây nguy hiểm an ninh cho dự án. Các quan chức Không quân hứa sẽ chuyển giao một số động cơ để tránh rủi ro này. Sau đó, như Bissell sau này nhớ lại: "Vấn đề xấu xí nhất là tiền bạc đã được đưa ra." Bissell hỏi ai sẽ trả tiền cho việc chế tạo khung vỏ (airframe) CL-282. Bissel kể: "Tôi nhìn xuống bên phải phòng họp và mọi người đều nhìn theo hướng của tôi ... và tất cả mọi người ở bên trái cũng đang nhìn theo hướng của tôi." Điều đó rõ ràng là họ dự kiến ​​CIA sẽ tài trợ một phần của dự án. Bissell giải thích rằng DCI có quyền truy cập vào Quỹ Dự trữ Dự phòng. Quỹ này sẽ chi trả cho DCI trong trường hợp được sự chấp thuận của Chủ tịch và Giám đốc ngân sách.

    Khi Bissell quay về chỗ, ông nói với Dulles rằng nên sử dụng quỹ dự phòng để trả tiền cho khung vỏ máy bay và các camera. Dulles yêu cầu Bissell chuẩn bị một bản ghi nhớ để gửi cho Tổng thống Eisenhower chung với bản Dự án Aquatone. Sau đó, Eisenhower đã phê chuẩn việc sử dụng quỹ vào giữa tháng 12 năm 1954. Ban đầu, các thành viên dự án bao gồm người của Miller và các nhân viên của Văn phòng trợ lý đặc biệt thuộc DCI đưa sang cho Bissell. Khi khối lượng công việc hành chính lớn, một nhân viên tài chính và nhân viên giám định hợp đồng được bổ sung. Vào tháng 5 năm 1955, một nhân viên hành chính là James A. Cunningham Jr, vốn là một cựu phi công Thủy quân lục chiến, cũng được tham gia.
  7. hstung

    hstung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/04/2004
    Bài viết:
    1.553
    Đã được thích:
    2.956
    Với tiến độ thế này có lẽ khi nào WoWP ra bản CB thì mới xong topic bác heo nhỉ :D
  8. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Đại tá Osmond J. "Ozzie" Ritlandcái tên của nhân viên phụ trách liên lạc giữa Không quân và các thành viên dự án trong tháng 12 năm 1954. Đại tá Ritland gia nhập Không quân vào năm 1932, ông phục vụ Không quân trong vai trò một phi công chiến đấu, rồi sau đó ông bay cho Army Air Mail. Năm 1935, ông rời khỏi quân đội trở thành một phi công dân sự bay cho United Airlines. Ông trở lại Không quân của lục quân (Army Air Force- AAF) trong năm 1939 và được phân công làm phi công thử nghiệm. Ông ta đã thực hiện các chuyến bay thử nghiệm kỹ thuật hiệu suất cho hầu như tất cả các loại máy bay chiến đấu, máy bay ném bom và máy bay vận tải AAF. Sau chiến tranh, ông tiếp tục làm công việc phát triển các loại máy bay và hệ thống mới. Trong tháng 2 năm 1950, ông được thăng cấp lên làm chỉ huy của Đơn vị Thử nghiệm 4925 (hạt nhân) tại Căn cứ Nevada, chịu trách nhiệm thả bom thật để thử nghiệm hạt nhân trong khí quyển.Khi Kelly Johnson được thông báo về việc sự phê duyệt của tổng thống, ông bắt đầu xây dựng nhóm làm việc để thực hiện Aquatone. Nhóm bao gồm 25 kỹ sư và nhân viên sản xuất. Nhu cầu của dự án buộc Johnson phải kéo nhân viên từ các nhà máy chính của Lockheed về, và nhóm nhanh chóng tăng lên con số 81 người. Trong số những người được triệu tập là Ben R. Rich, một kỹ sư chuyên thiết kế đầu vào của động cơ. Ông này nghe tin đồn rằng Johnson đang chế tạo một máy bay ném bom nguyên tử hoặc một máy bay chiến đấu dùng động cơ tên lửa, nên rất ngạc nhiên khi được trao cho bản vẽ của một chiếc máy bay trông như cái dù lượn.

    Khoảng hơn một tuần sau khi được bật đèn xanh, Johnson đã hoàn tất các chi tiết cho dự án Aquatone. Thiết kế được phát triển từ nguyên mẫu CL-282 ban đầu với nhiều thay đổi không giới hạn để thay thế động cơ J-73 bằng động cơ J-57. Sự khác biệt rõ ràng nhất là vị trí đuôi sau hình chữ T của CL-282, vốn thừa kế từ mẫu XF-104, đã được hạ xuống gắn dưới thấp gần thân máy bay. Sải cánh cũng được tăng lên 70-80 feet. Cả buồng lái được điều áp, bởi vì bắt phi công bay nhiệm vụ suốt mười giờ trong một bộ quần áo điều áp là không thực tế. Bộ ski trượt dưới bụng của CL-282 ban đầu cũng không thực tế và được thay thế bằng bộ phận hạ cánh dùng bánh xe, bao gồm một càng bánh chính ở thânmột bánh xe nhỏ ở đuôi. Hai cánh được đỡ bởi hai càng bánh xe nhỏ gọi là pogo, hai càng pogo này sẽ tách khỏi máy bay sau khi cất cánh. Khi hạ cánh, máy bay sẽ cân bằng trên các bánh xe ở giữa thân của nó cho đến khi chạy chậm lại, sau đó lật nghiêng sang một bên và tì vào một bên cánh. Để tránh thiệt hại, các tấm ski được gắn thêm vào mỗi đầu chót cánh. Kết quả là vẫn nhẹ hơn nhiều so với bộ phận hạ cánh thông thường mà vẫn có thể đỡ được toàn bộ trọng lượng của máy bay.

    Johnson hứa rằng chiếc máy bay nguyên mẫu sẽ sẵn sàng cho chuyến bay thử nghiệm đầu tiên vào ngày 2 tháng 8 năm 1955, bốn máy bay hoàn chỉnh sẽ sẵn sàng vào ngày 01 Tháng 12 1955. Để đáp ứng lịch trình này, nhóm nghiên cứu nhỏ ở Skunk Works ngay lập tức bắt đầu làm việc 45 giờ một tuần. Ngay sau đó, một buổi làm việc tám giờ đã được thêm vào ngày thứ Bảy. Thỉnh thoảng, các kỹ phải làm tăng ca để công việc trong xưởng lúc nào cũng luôn luôn tiếp tục. Ban đầu họ phân chia và làm việc ban ngày, sau đó tăng ca từ chiều đến nửa đêm, và cuối cùng là tăng ca cho đến sáng trong vòng ba tuần. Điều kiện làm việc của họ còn thua các "khu ổ chuột" . Tòa nhà 82, ngôi nhà của Skunk Works, là một hangar dùng để sản xuất máy bay ném bom từ thời thế chiến cũ kỹ, các kỹ sư bị nhồi nhét vào hai tầng nghẹt cứng các văn phòng. Họ không bao giờ được ăn mặc phù hợp với công việc, phải cư xử như sinh viên đại học. Một ví dụ là những cái tên n.gụy trang của họ. Do điều kiện an ninh cực cao của dự án, mỗi kỹ sư phải sử dụng một tên n.gụy trang nếu anh ta phải liên hệ với người bên ngoài trong khi làm việc trên dự án. Các kỹ sư thường đem tính hài hước của họ vào chuyện này, Ben Rich đã chọn tên Ben Dover (như trong "bend over") giống một ngôi sao âm nhạc Anh.
  9. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Kelly Johnson giám sát mọi khía cạnh của dự án Aquatone. Mỗi lĩnh vựctừ một đến bốn kỹ sư làm việc. Như nhóm sản xuất cánh máy bay có bốn thành viên, mặc dù không phải lúc nào cũng đông đủ mà thường chỉ có mặt một hay vài người khi cần thiết. Một trong các nhóm William "Bill" Bissell (không liên quan đến Richard Bissell mà các kỹ sư chỉ biết đến qua cái tên Mr. B), bắt đầu công việc bằng cách vẽ các gờ lắp ráp ban đầu, sau đó tiến triển đến khung cánh, kế tiếp là các cấu trúc phía sau giữa các khung sau và cánh tà, cánh liệng. Mỗi nhóm có trách nhiệm chung hoàn toàn trong lĩnh vực của họ, không ai được đổ lỗi cho ai. Nếu vấn đề được phát hiện thì nó phải được xử lý trong vài tiếng đồng hồ chứ không phải vài ngày hoặc vài tuần. Do tốc độ của lịch trình và tính không chắc chắn của các chuyến bay độ cao lớn, phần lớn các dữ liệu thiết kế chỉ là ước tính, và công việc phải bắt đầu từ đó.

    Aquatone được xây dựng với các nguyên lý cơ bản sau: Nó sẽ chỉ được sử dụng vào một loại nhiệm vụ duy nhất; chỉ có một số lượng nhỏ máy bay được chế tạo; máy bay và thiết bị sẽ được bảo trì đặc biệt; tuổi thọ của cả hệ thống ngắn ngủi; các chuyến bay sẽ thực hiện thường xuyên; cuối cùng là sự thoải mái thuận tiện cho phi công chỉ là thứ yếu. Các hệ thống phụ trợ thì khá đơn giản trong khihệ thống điều khiển bay cũng chẳng có gì đặc biệt. Các phi công phải sử dụng kỹ năng riêng của mình và cả sức mạnh để điều khiển chiếc máy bay. Hệ thống camera lại càng đơn giản vì chỉ có nút bật và tắt. Bởi vì máy bay sẽ chỉ được cất cánh mỗi khi thời tiết trong sáng rõ ràng nên tất cả thiết bị hoa tiêu chỉ bao gồm: một kính lục phân cải tiến, một la bàn dẫn đường, và… kỹ năng của người phi công. Chỉ có một số lượng nhỏ phi công được lựa chọn cẩn thận để lái loại máy bay này, và cũng chỉ có một con số khá giới hạn các chuyên gia cũng được lựa chọn kỹ để phục vụ các phi vụ đó. Những điều trên hoàn toàn khác hẳn với các tiêu chuẩn do Không quân quy định.

    Triết lý trọng tâm của máy bay là phải cực kỳ nhẹ nhàng, mỗi pound trọng lượng giảm được có nghĩa là bước thêm được một bước lên cao. Johnson nói huỵch tẹt ra rằng ông ta sẵn sàng bán cả bà ngoại của mình để có được một chiếc máy bay nhẹ hơn. Kết quả là các tính năng của chiếc máy bay trông giống như một chiếc tàu lượn hơn là một máy bay chiến đấu phản lực quy ước. Đôi cánh của nó được bắt bù lon (bu lông theo tiếng Bắc) như tàu lượn. Cái đuôi cũng được ráp vào thân với ba bù lon nhỏ. Vỏ của chiếc máy bay là nhôm siêu mỏng chỉ đáp ứng vừa khít yêu cầu chịu lực. Để giảm thêm trọng lượng, Johnson và các kỹ sư của SkunkWork đã buộc phải đưa ra các giải pháp quái dị. Dưới độ cao khoảng 35.000 feet, máy bay sẽ phải chịu những luồng gió hỗn loạn có thể xé tan cấu trúc mỏng manh của nó. Nhưng thay vì tăng cường cấu trúc, Johnson phát minh ra một hệ thống tương tự như loại được sử dụng trên tàu lượn gọi là "Kiểm soát gió giật." Cánh sau và đuôi được đặt vào vị trí sao cho khi bay thì chiếc máy bay sẽ ngóc mũi hơi cao lên, điều này giúp giảm được áp lực của những cơn gió giật.

    Kết quả là chiếc máy bay đã được thiết kế để chỉ vửa đủ sức mạnh chịu lực. Nó có tất cả mọi thứ nó cần để chở một camera lên độ cao hơn 70.000 feet, không có bất cứ thứ mà nó không thật sự cần. Chiếc máy bay là một sự kết hợp giữa kiểu dáng mỏng đẹp và sự thuần chức năng nhất. Mặc dù tên mã CIA đặt cho dự án là Aquatone, các kỹ sư của Skunk Works vẫn đặt tên riêng của họ cho chiếc máy bay. Họ gọi nó là Thiên thần.

    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------


    Bổ sung hình ảnh:


    Để giảm trọng lượng tối đa, U-2 có cách giải quyết kỳ quặc nhất thế giới, nó áp dụng cách hạ cánh chỉ có thể thấy ở những chiếc máy bay... bị hỏng bánh đáp.[:D]

    Hai càng bánh xe nhỏ nhỏ đỡ hai bên cánh gọi là pogo. Sau khi cất cánh, hai pogo này sẽ tự tách ra khỏi máy bay và rơi xuống đất.

    [​IMG]

    Nên khi hạ cánh thì chỉ còn bánh đáp đỡ phần bụng.

    [​IMG]

    Khi máy bay tiếp đất, chạy chậm dần thì sẽ mất thăng bằng vì đôi cánh dài quá khổ (để có độ cao lớn), nó sẽ ngả về 1 bên, 1 cánh trượt dài trên mặt đường băng nên máy bay xoay vòng lại.

    [​IMG]

    MK, mấy cái giải pháp này đúng là chỉ có bọn cao bồi mới nghĩ ra.[:D]
  10. cafe37

    cafe37 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/11/2008
    Bài viết:
    4.783
    Đã được thích:
    6
    Uả.U2 vẫn cất, hạ cánh được ở tàu sân bay hả bác? Như thế thì rắc rối quá vì để có cái khung khỏe dùng cho cất - hạ cánh ở TSB thì nó đã nặng rồi :(

Chia sẻ trang này