1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Siêu radar hiện đại của Nga nhìn thấy tất cả

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi badinh, 14/01/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Quay lại chủ đề radar đi nào các bác ơi.
  2. a2p2t

    a2p2t Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/05/2006
    Bài viết:
    925
    Đã được thích:
    2
    Thế thì bác không biết rồi!
    Năm ngoái, tôi xem ở nuocnga.net, dịch từ trang của Nga. Họ làm cuộc điều tra xem người Nga quý ai, ghét ai, thì thứ tự bạn thù như sau:
    Bạn:
    1. Belarus
    2. Đức
    Thù địch:
    1. Mỹ
    2. Trung Quốc
    Khi nào tìm lại link tôi sẽ post lên đây...
    Còn nói rằng Đức là đồng minh số 1 của Mỹ thì bác nên xem lại.
    Người Nhật có lẽ ghét người Mỹ nhất đấy bác ạ, họ không bao giờ quên 2 quả bom nguyên tử đâu... Câu "Đánh bại người dễ nhưng khuất phục người khó lắm" phải giành cho trường hợp này.
    Được a2p2t sửa chữa / chuyển vào 23:14 ngày 19/01/2007
  3. Po210

    Po210 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    45
    Tôi đã cảm thấy mùi thuốc súng của trận đánh "Huyphuc và đồng đội" với "Tập đoàn tia cực tím". Các bác nếu "chiến tranh" thì lập topic riêng nhé. Bác Trần có phải là "Chị Việt" ko vậy (2 trong 1?)
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    http://www9.ttvnol.com/forum/quansu/878933/trang-3.ttvn
    Ở đây, mỗ đã nõi chuyện một chút về F-12. Máy bay đến nay vẫn được coi là nhanh nhất và cao nhất thế giới. Nhưng nó chưa bao giờ hoàn thành nhiệm vụ, tức là chưa bao giờ đủ sức để trở thành máy bay chiến đấu trên không. Chương trình thất bại đã để lại hậu quả nặng nề. Đâuì những năm 1970, sau khi F-12 đã xếp xó, người Mỹ không còn mẫu máy bay chiến đấu trên không nào dáng kể. Mất 10 năm, đến sau 1975, người Mỹ đã copy chiếc siểu xe tăng bay MiG-25 của Mikoyan, thu nỏ lại chút và Mỹ hoá, trở thành máy bay chiến đấu trên không chủ lực, niềm tự hào mới của không lực Huê Kỳ. Thế là, trong suốt 30 năm cuối thế kỷ 20, cả Nga và Mỹ đều sử dụng những hậu duệ của YE-155, Mikoyan làm máy bay chiến đấu trên không chủ lực. Lúc đó Nga với Mỹ mà đánh nhau thì trên trời toàn máy bay Mikoyan. Hay nói cách khác, lúc đấy người Mỹ đã mất vai trò số 1 trong không chiến, kẻ đánh mất ngôi vị này là chiếc F-12 siêu đắt nhưng không bao giờ thành công.
    Tại sao F-12 vĩnh viến nằm lại thời kỳ thai nghén và MiG-25 lại trở thành mẫu mực của máy bay không chiến ????
    http://www9.ttvnol.com/forum/quansu/878933/trang-3.ttvn
    Mỗ đã phân tích một chút. MiG-25 là máy bay mang trong mình dầy đặc công nghệ và kỹ thuật mới. Các hợp kim, vật liệu mới thì nói dài dòng. Ở đây, chỉ riêng đề cập đến vấn đề khí động và hàng không. MiG-25 là máy bay chiến đấu đầu tiên trên thế giới mang máy tính trung tâm số. Tức là cần lái chỉ là joy stick của máy tính. Nhờ đó, nó sử dụng bào khí trước điều khiển được (chuyển từ lái đuôi sang lái đầu là một quá trình dài). Dòng khí cũng được điều áp hoàn toàn máy nính, với các cửa hút xả điều khiển được. Máy bay cũng hoàn toàn từ bỏ kết cấu cánh tam giác vốn trọng tải nhẹ, không bay chậm được, chuyển sang cánh tứ giác xuôi sau, kết cấu hiện đại ngày nay.
    Trơng khi MiG-25 là chiếc đầu tiên, đưa máy bay chiến đấu vào thời kỳ máy tính, lái điện tử thì F-22 là kết cấu máy bay cổ lỗ cùng lớp MiG-21. Nó chỉ đạt được những điểm trội về độ cao và tốc độ bởi vàng đắp quanh thân, hoá cả vào nhiên liệu (nói vàng cho dễ hình dung, chứ cân nặng bình quân máy bay này đắt gáp nhiều lần vàng)
  5. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Bác, em thì em đồng ý là Mỹ số 1 rồi, nhưng mà bắn ICBM trong boost phase thì em ngờ quá. Nghĩa là ABM bắn sau mà đến trước, tốc độ thế nào thì bác tính giúp em cái: pha đầu tiên của ICBM là boost, phóng theo chiều gần thẳng đứng hoặc thẳng đứng để thoát khỏi tầng đối lưu càng nhanh càng tốt. Tầng đối lưu dày vài chục km. Vậy là khi ICBM bay thẳng đứng được vài chục km, bắt đầu vào mid-course thì ABM làm được chừng này việc: Phát hiện từ xa bằng vệ tinh - quyết định đánh chặn - ABM kịp phóng lên vượt lên bình lưu, bay vài ngàn (thậm chí cả chục ngàn km) đến để đánh đúng cái đầu đạn cần đánh.
    Cái thứ 2 là radar nào của Mỹ ở vùng cách xa hàng ngàn km dẫn được ABM vào vùng cách ICBM mấy chục km để đầu dò hồng ngoại bắt đầu làm việc nhỉ???
  6. AndrewTran

    AndrewTran Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2006
    Bài viết:
    3.135
    Đã được thích:
    80
    Vào thời điểm MiG-25 mới ra đời nó đúng là một sự chấn động lớn . Vì nó mà Mỹ bỏ rơi chương trình F-111 đầy nhược điểm kỹ thuật và phát triển F-14 cũng như F-15 . Không có gì để nghi ngờ khả năng cơ khí và thiết kế Airframe của người Nga . Nhưng bảo Mig_25 bắt đầu kỹ nguyên lái Điện Tử là sai . Nga bắt đầu kỹ thuật Fly-by-wire mới đây thôi .
    Được AndrewTran sửa chữa / chuyển vào 11:06 ngày 23/01/2007
  7. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Hôm qua đang gõ thì trục trặc, mãi hôm nay mới tiếp tục được.
    Chúng ta đang nói về radar. Trên kia, HP đã nói một chút về chương trình F-12. Thật ra khjông lạc đề. F-12 có một đặc điểm cơ bản, đó là máy bay làm bằng những vật liệu hết sức đắt đỏ, khó gia công và vận hành cũng rất đắt. Như chuyến bay đã mô tả, mỗi lần đổi hướng nó lại giảm tốc và độ cao để tiếp dầu. Dầu cũng như các chi phí vận hành máy bay đều rất đắt. Ví dụ nhỏ, mỗi lần cất cánh người ta nướng máy bay lên 200 độ C, để toàn bộ máy bay dãn ra gần giống nhiệt độ khi đang bay.
    Máy bay đạt những ưu thế về tốc độ và độ cao bằng giá thành cực cao. Nhưng mặt bằng công nghệ nhìn chung lại thấp, đó là chiếc cùng lớp MiG-21. Đó là nguyên nhân máy bay này thất bại, không bao giờ trở thành máy bay chiến đấu trên không. Phần lớn các mẫu thử trở thành phòng thí nghiệm bay. Một số chiếc đóng mới cải tiến và đóng hoán cải với tên SR-71 được dùng trong trinh sát, được coi là thành công. Tuy nhiên, các máy bay này chưa đủ sức bay sâu nội địa Liên Xô, mặc dù được đầu tư rất lớn. Nỗ lực cuối cùng là M-12 thất bại. (Gọi là M-12 vì đây là máy bay mẹ M=mother, nó cõng trên lưng tên lửa trinh sát D-21, D là con gái=daughter. Tên lửa này về hàng không rất giống mẹ, về động cơ cũng giống mẹ nhưng bỏ chế độ bay trong tốc độ thấp bằng turbine). Sau nỗ lực này, vĩnh viến SR-71 Blackbird không thể trinh sát Liên Xô.
    X-band trong radar cũng vậy. Trên kia các bác nói đó là đột phá kỹ thuật radar, đột phá kỹ thuật trong radar tầm xa.
    X-band định nghĩa phương tây là sóng điện từ có bước song từ 7 đến 12,5 GHz. (Tiêu chuẩn NATO, châu Âu và Mỹ hơi khác nhau về các band. Còn người Nga trong nội bộ thường dùng các cụm từ "bước sóng cm", "bước sóng m"... để chỉ các dải tần). 7 đến 12,5 GHz tương đương bước sóng 2,4 đến 4,4 cm. Đây là bước sóng đầu tiên được sử dụng trong radar. Từ khi radar xuất hiện đến giờ, nó được sử dụng để theo dõi mục tiêu. Band sóng này có các đặc điểm ưu thế chính: cường độ phát tia mạnh, định hướng chính xác, thu được nhiều thông tin qua hiệu ứng doppler xung. (hiệm ứng doppler là hiệu ứng thay đổi khoảng các cách xung phản xạ khi gặp mục tiêu chuyển động. Hiệu ứng doppler xung là đo khoảng cách xung, còn dopplẻ tần là đo thay đổi tần số sóng mang). Nhược điểm của band sóng này là nhậy cảm, bị hấp thụ và nhiễu rất mạnh. Vì vậy, các đài radar tầm xa dùng band này không thể theo dõi mục tiêu gần mặt đất. Cũng vì nó nhậy cảm với môi trường nên người ta sử dụng band sóng này rất nhiều trong các hệ thống theo dõi thời tiết. Nó có thể thu được tín hiệu phản hồi mạnh từ một dòng không khí trên cao, qua doppler thu được có thể biết tốc độ của dòng khí đó. Người Mỹ thiết kế công nghệ tàng hình của họ cũng dựa vào đặc tính dễ bị hấp thụ của sóng này.
    Trước đây, radar theo dõi (bám sát) là một cái chảo, hướng thẳng vào mục tiêu. Đôi khi, cái chảo này lắc lư xung quanh mục tiêu để nhận ra hướng chính xác nhất. Một cải tiến của cái chảo hay được dùng trong radar không chiến của máy bay là nhiều chảo song song. Người ta dùng chảo để đo chính xác hướng, phá ra các xung và đo khoảng cách các xung phản hồi để đo xa và phân tích doppler. Như vậy, X-band được sử dụng để bám sát đối phương do ưu thế phản xạ chính xác từ chảo nhỏ, do đó định hướng tốt.
    Tiến bộ hơn một bước, người ta sử dụng kỹ thuật mảng pha. Sử dụng chênh lệch thời gian nhận được tín hiệu từ các đầu thu đển xác định hướng đến của tín hiệu phản hồi. Sau này xuất hiện một ký thuật khác để sử dụng độ lệch này. Ở mảng pha, độ lệch thời gian nhận được tín hiệu phản hồi xuất hiện khi tổng hợp dòng điện từ các đầu thu, tạo ra hiệu ứng giao thoa. Đến đây, bắt đầu định hướng không dựa trên phản xạ, mà dựa trên lệch pha. Kiểu này đã không cần lắc chảo, nhưng vẫn chưa sử dụng bước sóng dài hơn và theo dõi nhiều mục tiêu, chống phá rối.
    Đến đây, xuất hiện hai hướng phát triển. Người Mỹ số hoá tín hiệu tập trung, ngay trên máy tính trung tâm (máy tính radar của họ có nhiều phần, trong đó có phần xử lý tín hiệu tương tự, gọi là máy tính tín hiệu). Bước phát triển mới đây nhất, từ 2001 được quyết định trang bị cho các hệ thống radar đối kháng cả mát bay và phòng không. Gọi là kỹ thuật "phần tử tích cực". Nôm na, kỹ thuật mảng pha không những dùng để thu mà còn dùng để phát. Người ta tạo chênh lệch pha giao động trên các phần tử phát thay cho động tác hướng chảo. Nhờ đổi hướng điện tử nên ưu thế trong tạo chùm nhanh.
    Người Nga sử dụng các đầu phân tích tín hiệu ngay trên antena, tín hiệu được số hoá tốt hơn nhờ thời gian thực. (có thể hiểu thời gian thực nôm na thế này, hệ thống máy tính chúng ta đang dùng có thể xử lý 1000 lệnh một giây, nhưng bằng 1000 kênh, mỗi kênh chạy 1 lệnh 1 giây, nên mỗi lệnh vẫn chạy hết 1 giây. Còn máy tính thời gian thực đảm bảo mỗi chuỗi chương trình chạy trong thời gian ngắn thật sự). Nhờ phát triển hướng này, những kỹ thuật sử lỹ trong thơùi gian cực ngắn rất ưu thế. Nhờ đó, họ rất phát triển nhận dạng mẫu tín hiệu. Đến đây, ký thuật xác định lệch pha bằng giao thoa nhường chỗ cho nhận dạng-xác định độ lệch thời gian đến. Mở ra việc theo dõi nhiều mục tiêu, định hướng chính xác không cần lắc chảo và bước sóng ngắn. Do phép dẫn bắn bằng bước sóng met.
    Kỹ thuật mới đang nói trên dựa hoàn toàn vào nhận dạng mẫu thời gian cực ngắn, nhờ đó, khác với mảng pha, người ta không dùng giao thoa bằng so sánh mẫu mà nhận dạng mẫu trước rồi mới so sánh thời gian đến của mẫu. Điều đó đã tạo ưu thế vượt trội của hệ thống đối không danh tiếng. Chỉ cần lấy một ví dụ nhỏ, radar sử dụng hệ thống lấy mẫu thời gian thực có thể sử dụng kỹ thuật thụ động. Sec và Ucraina một số lần đã gây những vụ cãi cọ lộn xộn với Mỹ vì định bán cái này. Hệ thống của Sec bao gồm một số đài được định vị và đồng bộ thời gian chính xác bằng hệ thống định vị toàn cầu. Nhờ lấy mẫu, các đài gửi cho nhau thông tin về thời gian đến của các sóng điện từ phát ra bởi mục tiêu. Qua chênh lệch thời gian đến định vị được vị trí và tốc độ của mục tiêu, radar hoàn toàn vô hình. Kỹ thuật này người Mỹ vẫn đang dậm chân ở gia đoạn thí nghiệm, thỉnh thoảng họ lại tuyên bố giật gân siêu radar mới sắp thành công. Có thể nói, kỹ thuật nhận dạng này là kỹ thuật tiên tiến nhất, đưa đến cách mạng trong radar, dựa vào nền tảng công nghệ bán dẫn phát triển nhảy vọt và không giống câc hệ thống máy tính. (Ưu thế của hệ thống không dựa vào máy tính trung tâm lớn, mà là những máy tính nhỏ nhưng cực nhanh trên các đầu thu).
    Tuy nhiên, các hệ thống đó của Sec và Ucraina chỉ là những "mảnh vụn" rơi rụng ra từ radar đối không Nga.
    Băng sóng Very High Frequency VHF, 30-300MHz, người Nga hay gọi là băng sóng cỡ mét trước đây đã được sử dụng nhiều trong radar cảnh giới. Nó ít nhậy cảm, lượn được theo chiều cong quả đất nên tín hiệu từ mục tiêu, đặc biệt từ mục tiêu bay thấp rất rõ. Kỹ thuật tàng hình cũng không còn tác dụng với sóng này, vì cần mang một cái vỏ máy bay dầy nhiều dm. Nhược điểm của band sóng này là cần antẻna lớn mới thu phát được tín hiệu khoẻ. Với antena nhỏ, ngoài việc tín hiệu yếu, nó gây nhược điểm cơ bản là khả năng định hướng bằng kỹ thuật phản xạ chảo rất kém. Do đó, trước đây không thể dùng để dẫn bắn.
    Nhưng khi kỹ thuật "số hoá trên đầu thu đồng bộ thời gian thực" phát triển, người ta lại dùng được band sóng này định hướng chính xác. Do đó, các máy bay chiến đấu trên không Nga mang antena đường kính nhỏ hơn bước sóng vẫn sử dụng bước sóng met. Đặc điểm này thể hiện cực rõ tính cách mạng kỹ thuật. Để phát được chùm định hướng từ antena nhỏ, kỹ thuật tạo dao động lệch pha trên các phần tử đầu phát cũng giống như "phần tử tích cực".
    Có nhiều đặc tính radar khác nhau rõ ràng giữa phương Đông và Tây.
    Ví dụ, một kỹ thuật phổ biến trong hệ thống đối không Nga từ xưa là đổi tần. Ngày còn đánh B-52, nhà ta cũng nhiều lần đổi tần, nhưng lúc đó đổi tần là một nước cờ dài hàng tháng trời, với việc thiết kế, thử nghiệm, lắp đặt các khối lớn trên đài, giữ bí mật bất ngờ sao cho khi xuất hiện địch lại mất thời gian mới sửa được máy. Nhưng ngày nay, kỹ thuật đổi tần, dùng nhiều đầu thu phát đã phát triển, chương trình máy tính chỉ cần mất vài phần ngàn giây đã xong. Đổi tần ngẫu nhiên là đổi tần không theo chu kỳ nào, làm các hệ thống chống radar của dối phương vô dụng.
    Kỹ thuật nữa xuất hiện sau hơn là dùng nhiều bước sóng trên nhiều band tần khác nhau và dùng nhiều đầu thu phát. Điều đó coi như lắp nhiều radar, nhiều loại radar trên một đài., tăng vọt khối lượng thông tin đem về được. Điều này đối với phương Tây hết sức khó khăn vì một khối lượng lớn thông tin chưa sơ chế gọn gàng đổ về máy tính xử lý tín hiệu, thứ máy tính phát triển như tốc độ phát triển của động cơ diesel chứ không theo quy luật moore (Moore''''s Law).
    Để phục vụ ký thuật "số hoá trên đầu thu", mạch phát phát ra các xung dễ nhận dạng. Đây là chùm các xung có tần số sóng mang và khoảng cáh xung mang theo đặc trưng của xung phát, nhờ đó các đầu thu riêng lẻ (đã có đặc điểm nhận dạng chùm xung) dễ dàng nhanh chóng nhận ra chùm phản hồi từ một mục tiêu trong hàng loạt chùm phản hổi từ tất cả mọi thứ sóng gặp. Người ta thay đổi format chùm này liên tục, chống các các phương tiện đối kháng điện tử của địch. Kỹ thuật này dựa trên nền tảng cơ bản là sử dụng nhiều tần số và sử lý thời gian thực trong thời gian cực ngắn. Thông tin đem về rất hữu hiệu, ví dụ, nếu một mục tiêu phản hồi tốt sóng dm, m nhưng yếu cm thì nó có tính tàng hình, càng chênh theo hướng đó càng tàng hình. Ngược lại, nếu cm tốt thì đó có thể là một đầu đạn đại bác, dựa trên doppler tần bước sóng dm hay doppler xung cm có thể nhận ra tốc độ quay và tốc độ chuyển động của đạn đó, qua đó nhận ra loại súng và vị trí đặt súng. Để so sánh, trong trường hợp này radar phần tử tích cực của F-22 chỉ có thể sử dụng doppler xung bước sóng cm.
    Khác biệt nhiều tần đó thể hiện ở một đặc điểm rất rõ, trước đây, các radar không chiến phương Tây thường dùng tấm lọc tần đặt trước antena. Tấm này là các thanh kim loại đặt theo trật tự và khoảng cách nhất định, chỉ cho một tần số duy nhất đi qua (HP đã nói đến trong trang 3, hấp thụ). Còn máy bay Nga không thể như thế được, vì họ nhiều tần số. (tuy nhiên, các bà nạ dòng lắm mồm vì thế ngoạc ra chế radar không chiến Nga rất ồn !!!). Máy phát hiện bị lock (bị radar dẫn bắn địch "chiếu tướng") của phương Tây theo cơ chế này, họ nhận ra chùm xung đơn tần và máy này dễ dàng bị điên khi gặp kỹ thuật đổi tần và xung, nó sẽ nhận ra đó là nhiễu tự nhiên hoặc hàng trăm địch đang ngắm bắn .
    Tuy nhiên, đến phần tử tích cực của F-22, lưới lọc tần này bỏ đi (làm các nạ dòng lắm mồn hết sức ngạc nhiên, chẳng lẽ không phải là tiến bộ, mà lui bộ). Trước đây HP cho rằng, F-22 cũng sử dụng kỹ thuật nhiều tần sô. Nhưng sau này mới biết không. Radar này vẫn dùng bước sóng 3 cm truyền thống. Tuy nhiên, thay về dùng một dải tần rất hẹp, lọc rất kỹ, nó lại cố ý dàn dả tần ra sung quanh. Điều này dùng để chống các máy nhận ra "chiếu tướng" của phương Tây. Vậy là, kỹ thuật "số hoá trên các đầu thu đồng bộ thời gian thực" vẫn là một nền tảng kỹ thuật then chốt mà F-22 chưa có. Nên máy bay này chưa thể dùng nhiều tần, chưa thể dùng bước sóng dm và tất nhiên càng không thể dùng m.
    Người Nga lại ngược lại. Vốn hay xấu hổ, nên sau khi nghe các nạ dòng chê họ không có lưới lọc tần, họ liền nghĩ cách chế thứ đó. Tuy nhiên, radar họ biết lọc làm sao khi dùng rất nhiều tần số, nhiều đầu thu phát và cần đảm bảo thời gian truyền sóng không hề bị vẹo. Thế là ngược nhau, Mỹ bỏ lưới đi, Nga tìm cách chế lưới. Thông tin gần đây co thấy người Nga đã thử nghiệm mũ chụp radar bằng vật liệu bán dẫn, có thể điều khiển tính dẫn điện của các phần tử ở mũ chụp này, qua đó lọc tần theo yêu cầu và đổi hướng chùm nhanh. Tiến bộ mặt này đến nay vẫn được giữ tuyệt mật nhưng xem chừng đã bắt đầu được sản xuất, vì xuất hiện các đầu antena mảng pha có vẻ ứng dụng nó.
    Tóm lại, kỹ thuật sử dụng các đầu thu phát đồng bộ thời gian thực và ký thuật số hoá trên đầu thu sử dụng những tiến bộ mới nhất của bán dẫn. Nó tạo ra một cuộc cách mạng mới trong radar. Nó có thể cho ra nhứng radar không phát sóng, hoàn toàn tàng hình. Nó cũng đem lại khối lượng thông tin rất lớn và cho phép bước sóng met và deximet trở nên chính xác như cm. Điều này cho phép định vị chính xác các mục tiêu tàng hình (theo dói, dẫn bắn). Còn phát hiện các máy bay tàng hình kiểu F-117 và B-2 thì.... kệ để lúc nào các máy bay này tham chiến.
    Việc phóng to đài X band cũng như F-12: sử dụng núi vàng đổ vào một kỹ thuật cũ. Dù có đổ vàng thế nào thì X band cũng không thể lượn theo độ cong quả đất để phát hiện tên lửa ở xa. Nó chỉ có thể chống lại các tên lửa khi chúng đã chia ra nhiều đầu đạn, khi mà rất khó bắn trúng được. Chỉ cần một cơn mưa hay vỏ hấp thụ dầy vài mm là hệ thống này mù.
    Hệ thống bắn laser thì đang được chứng minh là hài hước như tầu thiết giáp của thế chiến. Không ai cho địch bay sang tận ta để bắn các tên lửa đang rời bệ phóng. Hệ thống đánh chặn chính xác MMD thì hiện nay vẫn ở bước thử nghiệm: một hệ thống khổng lồ triển khai trên 1/4 địa cầu chỉ thử nghiệm bắn chặn một quả tên lửa của ta phóng đi mà phát trúng phát trượt. Còn các vùng "nhạy cảm" như Nhật và Israel, dễ ăn chưởng tên lửa tầm ngắn lạc hậu rẻ tiền thì PAC-3 và những hệ thống phòng không tương tự vẫn là chủ lực. Đây chỉ là những hệ thống đánh máy bay thông thường. (Tuy nhiên, loại tên lửa cổ lỗ của Iraq vẫn vượt qua PAC như trong truyện chưởng).
    Hiện nay, Nga và Mỹ vẫn dựa vào hệ thống phòng thủ sử dụng đầu đạn hạt nhân cỡ nhỏ làm chủ lực để chống nhau.Tà tất nhiên, nếu các tên lửa hành trình tàng hình nhân 6 lần tầm bắn tối đa để đến được các đài có trang bị VHF này thì, chúng chưa bao giờ có thể tàng hình trước VHF.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:24 ngày 23/01/2007
  8. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Bác Tuất nói đúng về bản chất radar của 2 phía. Bên Nga các kỹ thuật xử lý đơn kênh, tín hiệu sau xử lý mới dồn về trung tâm. Thời xưa, họ đã có các kỹ thuật tích tụ sóng về (dùng các ống sóng có trễ để tích tụ nhiều xung phản xạ thành 1 xung ra).
    Bận quá, té nước theo bác sau vậy
  9. hairyscary

    hairyscary Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/10/2003
    Bài viết:
    1.354
    Đã được thích:
    1
    ABL chứ không phải ABM. Lờ... có một chữ L đằng sau.
    Ku Dog vẫn thế, nhỉ Dog nhỉ.
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Bác AndrewTran. Khoảng năm 1992 hay 1994 gì đó HP không nhớ nữa, trước đây trên forrum đã dẫn chứng. Một phi công Nga lái chiếc SU còn một bom 500kg, hỏng máy tính trung tâm mà vễn giữ được máy bay đã được phong Anh Hùng, cho thấy vai trò của lái điện tử lúc đó. SU-27 có cánh bò sát đất tiếp cận, khi đó phi công nhường hoàn toàn lái cho máy tính.
    Cần phân biệt hai kiểu lái điện tử.
    Một là truyền động điện. Cúng là lái bằng dây điện nhưng các cánh lái lặp lại nguyên bản vị trí của cần lái. Kiểu lái này phi công vẫn phải tính toán ổn định máy bay.
    Hai là lái bằng máy tính hàng không. Ở đây, cần lái chỉ là joy stick của máy tính, qua đó máy tính nhận ra yêu cầu của phi công, rồi tính toán và điều khiển các cánh lái. Kiểu lái này nhường hoàn toàn việc ổn định cho máy tính.
    Người phương Tây không phân biệt rõ hai kiểu lái này, đều gọi là "Fly-by-wire". Tuy nhiên, rõ ràng hai kiểu lái đó hoàn toàn khác nhau.
    "Fly-by-wire"=FBW được người Đức áp dụng từ trong thế chiến, ban đầu dùng trên các bom lượn "củ cải", tên lửa hành trình chống tầu biển đầu tiên của thế giới. Trong khi hoàn thiện tên lửa, người Đức lúc đó cũng đã gặp vấn đề ổn định tự động và định vị. Trong hệ thống phòng không SAM họ chế tạo cuối chiến tranh, thực sự là một thiết bị bay lái máy tính. Lúc đó, họ sử dụng "máy tính dòng", con quay hồi chuyển và cần lái "joy stick" kết hợp điều khiển.
    Người phương Tây thường cho rằng, chiếc CF-5 của Canada chế tạo cuối thập niên 1950 là chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới lái điện tử. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng lúc đó vẫn là máy tính dòng rất yếu và hay hỏng hóc. CF-5 được chế tạo như máy bay chiến đấu trên không tầm xa, nó sử dụng kết cấu cánh tam giác không đuôi ngang. Kết cấu này tuy tiết kiệm nhiên liệu, tầm bay xa nhưng rất khó ổn định, do đó xuất hiện yêu cầu lái điện tử bằng máy tính. Người Nga thì cho rằng, SU-100 là chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới làm điều đó. SU-100 được chế tạo đầu thập kỷ 1960. SU-100 kết cấu giống như Concorde, TU-144 hay XB-70, đây là các máy bay cỡ lớn, cánh tam giác và có bào khí trước. Các máy bay tốc độ cao cần bào khí trước để ổn định trục dọc khi tốc độ cao, nhưng điều này càng gây ra những bất ổn. Xu thế chuyển từ lái sau sang lái trước bắt đầu từ đây, càng ngày càng cần máy tính hàng không mạnh. Tuy nhiên, trong các máy bay cỡ lớn đó, chỉ Concorde, chiếc có tốc độ thấp nhất là sống sót.( Nhưng không bao giờ bù được lỗ). XB-70 một hôm đói ăn nuốt phải một chiếc máy bay tiêm kích, chương trình quá tốn kém hết xiền đành dừng. TU-144 chỉ được dùng để chở thư, nhưng chén nhiều thư quá nên thôi. Đầu thế kỷ 21, vẫn còn một vài TU-144 được NASA thuê làm phòng thí nghiệm tốc độ cao. SU-100 dừng lại vì XB-70 đối thủ của nó nghỉ, hết người chơi cùng.
    Nhưng SU-100 và CF-5 vẫn là những máy bay sử dụng máy tính dòng, rất kém và hay trục trặc. Lúc đó, bên Mikoyan, hai chiếc máy bay dự định áp dụng khí tài điệnt ử mạnh là MiG-23 và MiG-25 đang được thai nghén, chúng có khoang lớn để chưa radar và máy tính, chuyển sang không chiến quá tầm nhìn. Đối trọng của MiG-23 là máy bay F-111. Như trên đã phân tích, dòng máy bay cánh tam giác như MiG-21 và F-12 có chế độ bay tốc độ thấp rất tồi, rất không ổn định, mất nhiều năng lượng khi đổi hướng. Các máy bay măng nặng cánh ngang hay xuôi sau như MiG-17 hay Tu-16 lại không bay được tốc độ cao. F-111 và MiG-23 đã giải quyết vẫn đề cân bằng ở tốc độ thấp và sải hẹp ở tốc độ cao bằng cánh cụp xoè. Khi bay chậm, nó xoè ra như cánh ngang hơi xuôi sau, còn khi bay nhanh nó cụp lại thành cánh tam giác. Kết cấu cánh cụp xoè này lập tức ưu thế. Đây là loại máy bay đầu tiên có thể hoá trộn chức năng chiến đấu trên không và mang bom ném mặt đất. Nhưng rất nhanh sau đó bị đoạt ưu thế bởi máy tính. Các máy bay này mới có máy tính chiến đấu, chưa có chức năng hàng không bằng máy tính.
    MiG-25 hình thành từ mẫu thử YE-155 năm 1964. Máy bay ngay từ đầu đã được thiết kế chiến đấu quá tầm nhìn. Tức phải mang khí tài hạng nặng nhưng vẫn bay nhanh. và phải tìm cách giải quyết mấu thuẫn mang nặng và bay nhanh. Máy bay chuyên nghiệm không chiến lại không muốn mang bộ khớp vốn yếu và nặng. Đây là máy bay chiến đấu đầu tiên trên thế giới sử dụng máy tính trung tâm số. Từ năm 1964 đến 1967, những người kế tục Mikoyan (đã về hưu) tiếp tục hoàn thiện bộ khung, giảm yêu cầu cho máy tính và hệ thống thuỷ lực bằng cách bổ sung trọng lượng ở đầu mút cánh. So với dòng MiG-23 cụp xoè, máy bay có kết cấu vứng chắc vì thay thế khớp cánh bằng máy tính. Nó sử dụng kết cấu tiên tiến, là cánh chữ nhật cụp sát thân, điều này làm khung cánh khoẻ, mà vẫn tăng được diện tích cánh để mang nặng. Nhược điểm bất ổn khi bay chậm được khắc phục bằng phi cộng cực nhậy, là máy tính số và các thiết bị đo.
    Nhìn chung, hệ thống khí động của MiG-25 được xây dựng từ MiG-21 quan hàng loạt các mẫu thử. Trong đó đáng kể nhất là YE-6 và YE-8 ( các mẫu máy bay MiG-21 thử nghiệm 1959-1962). YE-6 được đóng để thử nghiệm góc đón gió lớn, nó giống hệt như MiG-21 chỉ manh thêm bào khí trước. Bào khí nay cố đinh trên không nhưng có thể điều chỉnh được trong xưởng. Yêu cầu góc đón gió lớn để tăng độ linh hoạt cho máy bay và phi công bắn súng được thoải mái hơn, ưu thế của dogfight ngày đó
    YE-8 có hai chiếc, lúc này radar đã to lớn cửa hút gió bị đẩy xuống bụng như máy bay ngày nay (F-16 rất giống YE-8). Vẫn có bào khí trước như YE-6. Lúc này, việc ngắm bắn bằng radar-tên lửa đã đủ sức thay thế mắt thường-súng. YE-8-2 sau đó được dùng trong chương trình nghiên cứu MiG-23. Các thử nghiệm YE-6 và YE-8 đã cho thấy vai trò của bào khí trước, nó không thể thiếu để điều chỉnh góc đón gió, giúp máy bay linh hoạt khi dogfight và ổn định khi tăng tốc. Việc lái điện tử đảm bảo cho việc sử dụng bào khí trước, chuyển từ lái sau ổn định khí động tự cân bằng sang lái trước ổn định điện tử cân bằng cưỡng bức.
    Bào khí trước của YE-155 kiêm chức năng của nắp cửa hút gió điều khiển được. Khi bay nhanh, nắp này cụp xuống, dìm đầu máy bay và đóng bớt luồng gió. Của xả có 12 miếng đạy như cửa chụp máy ảnh, đóng lại bớt để điều khiển áp suất động cơ. Người ta cũng chuyển đuôi đúng sang hai bên, tránh bị thân máy bay che mất luồng gió, tăng hiệu quả sử dụng diện tích đuôi đứng, đặc biệt khi mang nặng và bay nhanh ở độ cao lớn.
    Nó trở thành hình mẫu của máy bay không chiến cuối thế kỷ 20 như đã nói đến.

Chia sẻ trang này