1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SMERSH - VŨ KHÍ BÍ MẬT CỦA STALIN

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vacbay03, 20/07/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Các chỉ huy và zampolit của tiểu đoàn trừng giới có quyền bắn một người lính trừng giới ngay lập tức nếu anh ta từ chối làm theo lệnh. Đối với những sĩ quan này, một tháng phục vụ trong một đơn vị trừng giới tương đương với sáu tháng trong quân đội. Một phát thanh viên radio đi cùng với một tiểu đoàn trừng giới năm 1944 nhớ lại những sĩ quan bị trừng phạt này: "Hầu hết họ là người đúng mực ... có trách nhiệm cao và tinh thần quân đội tốt…Ngôn ngữ tục tằn (maternaya bran’) được coi là không phù hợp đối với họ [mặc dù nó là một ngôn ngữ chung của sĩ quan Hồng quân] ... Họ không bắt tù binh. Họ cũng không lấy chiến lợi phẩm của quân Đức ... [kể cả] những chai rượu schnapp và rượu nguyên chất.

    Cơ hội sống sót trong một tiểu đoàn xung kích trừng giới, là rất thấp, vì những binh sĩ này được sử dụng để trinh sát hoặc tấn công thông qua các bãi mìn. 'Shtrafbat [tiểu đoàn trừng giới] và cái chết đồng nghĩa với nhau', theo một thành viên tòa án quân sự. Năm 1944, tổn thất hàng tháng trong các đơn vị quân đội là 3.685 người, trong khi ở các đơn vị trừng giới, con số này là 10.506. Ít nhất 1,5 triệu quân nhân đã phục vụ trong đơn vị trừng giới từ năm 1942 đến năm 1945. Chưa biết có bao nhiêu người sống sót. Nếu một quân nhân hoàn thành thời gian phục vụ của mình hoặc bị thương trong trận chiến, anh ta sẽ được phục hồi cấp bậc cũ và gửi trả lại cho một đơn vị quân đội, và những huân chương giải thưởng cũng được trả lại

    Tù binh Đức
    Trong năm đầu tiên của cuộc chiến tranh với Đức, Liên Xô bắt được rất ít tù binh Đức. Vào năm 1942, chỉ có 9.174 tù binh Đức và lính Rumani bị giam tại trại tù binh NKVD. Theo báo cáo OO gửi cho Abakumov, một số lính Đức tự nguyện đầu hàng. Hầu hết các lính Đức và các tù binh nước ngoài khác, cũng như binh lính bị thương, chỉ đơn giản là bị bắn tại chỗ hoặc bị giết sau khi bị tra tấn. Đích thân Stalin đã ban hành một chỉ thị trực tiếp cho tướng Georgii Zhukov: 'Anh không nên tin vào các tù binh. Anh nên tra tấn khi thẩm vấn tù binh và sau đó bắn chết chúng’.

    Sau khi thẩm vấn tù binh, OO sẽ chỉ gửi một số đến trại tù binh NKVD ở phía sau. Hầu hết đã bị bắn. Dưới đây là một báo cáo về cuộc thẩm vấn một phi công Đức bị bắt đã từ chối trả lời các câu hỏi của sĩ quan OO (định dạng của nguyên bản tiếng Nga, trong đó có các cấu trúc điển hình được tìm thấy trong tài liệu NKVD/SMERSH, được giữ lại):

    'Tôi chấp thuận'
    18 Tháng Mười Hai 1942
    Cục Phó OO NKVD của Phương diện quân Tây,
    Thiếu Tá An Ninh Quốc Gia
    / Shilin /

    QUYẾT ĐỊNH
    Tại mặt trận, ngày 18 tháng 12, [1942]. Tôi, Phó Phòng 6 của OO NKVD của Phương diện quân Tây, Đại uý An Ninh Quốc Gia Gordon, sau khi đã kiểm tra các tài liệu về vụ án của một tù binh Đức, một phi công chiến đấu, Trung uý Justel Martin, sinh năm 1922 tại thị trấn Osterade (Đông Phổ)

    THẤY [RẰNG]
    Justel là một thành viên của tổ chức thanh niên Hitler, đã tình nguyện gia nhập quân đội Đức vào năm 1939, và tích cực tham gia vào các hành động khi Đức chiếm đóng tại Pháp và các nước khác. Vì vậy, hắn đã được nhận huân chương Chữ thập sắt hạng 2. Hắn không khai gì về các thiết bị quân sự của quân đội Đức, nói rằng hắn không biết gì về nó. Trên cơ sở trên, tôi

    QUYẾT ĐỊNH [rằng]
    Justel Martin NÊN BỊ XỬ BẮN như một kẻ thù không khoan nhượng của Liên Xô.

    Phó phòng 6 của OO NKVD,
    Đại uý An Ninh Quốc Gia [Chữ ký] / Gordon /

    'Tôi đồng ý':
    Trưởng phòng 6 của OO NKVD của Phương diện quân Tây,
    Đại uý An Ninh Quốc Gia [Chữ ký] / Zaitsev /
    Ngày 18 tháng 12, 1942

    Tài liệu thứ hai, viết tay, đã báo cáo về việc hành quyết viên phi công:

    Tại mặt trận, ngày 19 tháng 12 năm 1942
    Chúng tôi, ký tên dưới đây Thiếu úy An Ninh Quốc Gia Ostreiko và Thiếu úy An Ninh Quốc Gia Samusev, viết biên bản này để thông báo rằng ngày hôm nay, vào lúc 2 giờ sáng, chúng tôi đã thực hiện quyết định của OO NKVD của P/T [Phương diện quân Tây] về tù binh Justel Martin.

    Chúng tôi đã ký sau khi thực hiện,

    [Chữ ký] Samusev, Ostreiko.

    Tất nhiên, không phải tất cả tù binh đều từ chối trả lời các sĩ quan phản gián. Nếu một tù binh Đức cung cấp thông ti quan trọng trong quá trình thẩm vấn đầu tiên, anh ta có thể được đưa đến Moscow để thẩm vấn thêm bởi trưởng phòng 4 của UOO, thường là cùng với các đồng nghiệp từ các phòng ban khác.

    Chính sách bắt giữ tù binh của đối phương càng ít càng tốt tiếp tục cho đến khi kết thúc Chiến tranh Thế giới II. Năm 1944, chỉ huy Phương diện quân Ukraine 2 Nguyên soái Ivan Stepanovich Koniev đã mô tả cho người Cộng sản Nam Tư Milovan Djilas về chiến thắng của Liên Xô tại Korsun'-Shevchenkovsky tháng Giêng năm 1944. Djilas nhớ lại:

    Không che giấu niềm hân hoan, [Konev] đã phác thảo một bức tranh về thảm họa cuối cùng của quân Đức: Từ chối đầu hàng, một số khoảng tám mươi người, nếu không muốn nói là cả một trăm, một ngàn lính Đức bị lùa vào một khoảng đất hẹp, sau đó xe tăng nghiền nát các ổ súng hạng nặng, trong khi kỵ binh Cossack cuối cùng kết liễu tính mạng của họ. "Chúng tôi cho phép lính Cossacks chém giết tuỳ thích. Họ thậm chí còn chém cả những cánh tay giơ lên đầu hàng!". Vị Nguyên soái dứt câu với một nụ cười mỉm.

    Tuy nhiên, vào năm 1943 Liên Xô bắt đầu bắt được một số lượng đáng kể tù binh. Vào ngày 30 Tháng năm 1943, Tư lệnh quân Đức bị bao vây tại Stalingrad, Thống chế Friedrich von Paulus, đầu hàng cùng với quân đội của ông. Trong số khoảng 100.000 lính Đức và 19.000 'hiwis' (Tù binh Liên Xô tình nguyện làm những công việc phi chiến đấu trong quân đội Đức) bị bắt làm tù binh, chỉ có 5.000 người-chủ yếu là sĩ quan, những người được đối xử tốt hơn so với binh lính, còn sống sót trong trại tù của Liên Xô.

    Từ Stalingrad trở đi, một dòng tù binh khổng lồ của quân Đức, Ý, Tây Ban Nha và Hungary bắt đầu lũ lượt gia nhập các trại tù binh bên trong nước Nga. Một số sĩ quan tình báo bị bắt đã kết thúc cuộc đời trong nhà tù Lubyanka dưới bàn tay của UOO.

    Nhìn chung, công tác tuyên truyền của Liên Xô đã mô tả người Đức không phải là người. Dưới đây là một ví dụ về một đoạn trích 'tính chính trị đúng đắn' từ một lá thư do binh nhì Il'ichev viết cho người thân của mình, nó được đính kèm trong một báo cáo chính thức của OO (trong khi dịch lá thư này, tôi đã cố gắng nắm bắt được văn phong của bản gốc tiếng Nga): 'tôi là một nhân chứng sống chứng kiến sự đầu hàng quy mô lớn của bọn cặn bã phát xít không xa thị trấn Kalinin. Tôi ước gì mọi người có thể nhìn thấy cái hình dạng khổ sở và đáng sợ của những con chó đội lốt người ... Ngày này sẽ đến khi quân đội của chúng ta đánh bại loài cặn bã này trên chính lãnh thổ của chúng. Sau đó, sẽ không có lòng thương xót với bất kỳ ai, ngay cả đối với một đứa trẻ ba tháng tuổi. Cá nhân tôi sẽ xé nát một hậu duệ thoái hoá [con] của bọn chó đó '.

    Thái độ của người dân đối với quân Đức cũng tương tự. Nikolai Gavrilov, một cư dân Moscow đã đến thăm thành phố Kaluga (cách Moscow chỉ 100 dặm) ngay sau khi thành phố được giải phóng từ tay quân Đức vào ngày 30 Tháng 12 1941, đã chứng kiến cảnh tượngsau đây: "Tôi nhìn thấy bọn trẻ đang trượt xuống từ trên một ngọn đồi ... Sau khi đến gần, tôi nhận ra rằng chúng đang dùng [như một chiếc xe trượt tuyết] cái xác đông cứng của một tên Fritz [tên gọi chung chỉ lính Đức ở Nga trong Thế chiến II]. Đôi ủng của hắn đã bị lấy đi và đôi chân bị cắt đứt. Nước được đổ lên cái xác, nó phủ đầy phân súc vật. Cái mũi đã bị phá hủy ... Những đứa trẻ kéo lê cái xác một cách nặng nhọc với một sợi dây thừng và một cái móc móc vào xác. Cái 'gánh nặng' rất nặng, và chúng làm việc rất chăm chỉ.’

    Khi chiến tranh tiếp tục, tinh thần của các tù binh Đức cũng thay đổi. Lazar Bront-man, một phóng viên chiến trường đã viết trong nhật ký của mình vào tháng 3 năm 1944: "Thiếu tá Shemyakin, cựu giáo sư tâm lý học tại Đại học Moscow ... đã mô tả một nguyên tắc phân loại tù binh thú vị như sau: a) lính Đức bị bắt làm tù binh trong thời kỳ 1941-1942 thường tự cao và kiêu ngạo; chúng chỉ bắt đầu khai sau khi bị đấm vào tai; b) một viên cai đội Đức (lance corporal) bị bắt trong năm 1943, trong trận đánh Stalingrad ... thường không chỉ ra lệnh cho tù binh xếp hàng, mà còn ngồi xuống bên cạnh kiểm tra và sắp xếp lại; c) lính Đức bị bắt trong năm 1943-1944 là hoàn toàn thờ ơ và vô cảm'.

    Trong khi đó, vào mùa hè năm 1942, tập đoàn quân Nam Đức theo lệnh của Hitler 'đánh chiếm các giếng dầu Kavkaz' và tiến đến Bắc Caucasus. Mặc dù vào ngày 21 quân Đức đã kéo lên lá cờ Đức Quốc xã trên đỉnh Elbrus, đỉnh cao nhất ở châu Âu, Hồng quân đã nhanh chóng đẩy lùi quân Đức khỏi khu vực đó.

    Đến tháng hai năm 1943, sau khi tập đoàn quân 6 của Paulus đầu hàng tại Stalingrad, quân đội Liên Xô bắt đầu lấy lại những gì họ đã mất trong hai năm trước của cuộc chiến.
    DepTraiDeu, danngochuytop thích bài này.
  2. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Trong gần hai năm, một lãnh thổ rộng lớn Ukraine, Belorussia và một phần lãnh thổ Nga đã bị cai trị bởi sự chiếm đóng của quân đội Đức và chính quyền dân sự, trong đó các lực lượng an ninh Đức đã đóng một vai trò quan trọng. Ngoài ra, trong lãnh thổ này nhiều cơ quan an ninh Đức đã mở nhiều trường gián điệp tuyển mộ tình nguyện viên từ các tù binh Liên Xô và dân địa phương. Tại thời điểm bước ngoặt này, rõ ràng là phản gián quân đội cần tập trung sự chú ý vào các cơ quan tình báo và phản gián Đức thật sự, không phải vào các điệp viên bị cáo buộc trong hàng ngũ Hồng quân. Trong khi đó, cơ cấu và hoạt động của các cơ quan tình báo và phản gián Đức là rất phức tạp.

    PHẦN IV. CÁC CƠ QUAN TÌNH BÁO ĐỨC Ở MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG

    Chương 13: Tình báo quân sự Đức ở mặt trận phía Đông
    Đến năm 1943, một mạng lưới tình báo phức tạp của Đức đã hiện diện tại Mặt trận phía Đông và các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Sau khi SMERSH được thành lập, mục tiêu chính của phản gián Liên Xô là truy lùng và bắt giữ các nhân viên tình báo và phản gián Đức. Bắt giữ những công dân Liên Xô hợp tác với Đức và sàng lọc cư dân sống trong khu vực bị chiếm đóng cũng là một phần công việc quan trọng của SMERSH. Cho dù các cơ quan mật vụ Đức ở mặt trận phía Đông chưa bao giờ được mô tả chi tiết trong các nguồn tư liệu lịch sử bằng tiếng Anh, cấu trúc và hoạt động tổng quát của chúng được trình bày như sau.

    Đức có hai cơ quan tình báo chính, Abwehr, cơ quan tình báo và phản gián quân sự, và SD (Sicherheitsdienst) hoặc Amt (Cục) VI, tình báo Hải ngoại nằm trong Cơ quan An Ninh Đế Chế (Reichssicherheitshautamt hoặc RSHA) của SS (Schutzstaffel, một tổ chức quân sự của Đảng Quốc xã). Abwehr có thể được mô tả giống như Cục Tình báo Hồng quân khi sáp nhập với UOO, trong khi chức năng của RSHA là tương tự như GUGB trong NKVD hoặc NKGB năm 1941. Ngoài trụ sở chính tại Berlin, cả hai cơ quan đều có chi nhánh ở mặt trận và lãnh thổ bị chiếm đóng.

    Abwehr, các lãnh đạo của nó và RSHA
    Abwehr là một phần trong cơ cấu lãnh đạo quân sự của Đức quốc xã. Một cách chính thức, Bộ Tư lệnh Tối cao các Lực lượng vũ trang (Oberkommando der Wehrmacht hoặc OKW) chỉ đạo hoạt động của các lực lượng vũ trang Đức bao gồm Lục quân (Heer), Hải quân (Kriegsmarine), và Không quân (Luftwaffe). Abwehr là một trong bốn chi nhánh của OKW, và tên đầy đủ của nó là Bộ phận Hải ngoại/Cục Quốc phòng của Bộ Tư lệnh Tối cao các lực lượng vũ trang (Amt Ausland/Abwehr im Ober-kommando der Wehrmacht). Văn phòng điều hành OKW gửi thông tin tình báo của Abwehr đến Bộ phận Phân tích tình báo của Lục quân, Hải quân, và Không quân. Đô đốc Wilhelm Canaris, lãnh đạo Abwehr, báo cáo lên Bộ Tư lệnh tối cao Đức, gồm Tổng tư lệnh OKW Wilhelm Keitel, Tư lệnh phụ trách Hành quân Alfred Jodl, và phó của ông, Walter Warlimont. Canaris là "một người đàn ông gầy có chiều cao trung bình ... sở hữu trí thông minh khác thường. Mỗi ngày, Bộ Tư lệnh Tối cao Đức báo cáo với Hitler về tình hình chiến trường, nhưng những thông tin tình báo quan trọng nhất thì Canaris báo cáo riêng với Hitler.

    Cơ cấu Abwehr được thành lập vào ngày 01 tháng sáu năm 1938, bốn tháng trước khi Beria tổ chức lại NKVD. Abwehr có ba Cục chính trong 5 Cục của nó: I (Tình báo), II (phá hoại), và III (phản gián). Trụ sở chính tại Berlin có quy mô nhỏ; vào tháng 3 năm 1943 chỉ có sáu mươi ba sĩ quan phục vụ trong Cục 1, ba mươi bốn sĩ quan ở Cục 2, và bốn mươi ba sĩ quan trong Cục III. Do đó, Văn phòng Cục III tại Berlin có quy mô nhỏ hơn 15 lần so với trụ sở chính của SMERSH ở Moscow (646 sĩ quan) được thành lập cùng năm đó với chức năng phản gián tương tự

    Cục 1 của Abwehr thu thập thông tin tình báo về quân đội nước ngoài, phụ trách việc xác định các điệp viên nước ngoài trong các lực lượng vũ trang (tương tự như UOO và một phần nhiệm vụ của SMERSH), tung thông tin hoả mù trong hàng ngũ kẻ địch, và bảo vệ bí mật quân sự và bí mật quốc gia. Nó gồm mười hai nhóm, được tổ chức theo khu vực địa lý và kinh tế. Đại tá Hans Piekenbrock, 'một người vùng sông Rhine thích tận hưởng cuộc sống và thích bông phèng’ , chỉ huy Cục 1 từ năm 1936 cho đến tháng 3 năm 1943 và có thể là bạn thân nhất của Đô đốc Canaris. Đô đốc Canaris gọi ông là 'Pieki', và 'Pieki' 'gọi Canaris là "Ngài", tước hiệu để chỉ các tướng lãnh có quyền hạn chỉ dưới ‘Hoàng đế’. Piekenbrock nổi tiếng trong giới đồng nghiệp đến nỗi một trong các chiến dịch của Abwehr nhằm vào nước Anh vào năm 1940 thậm chí còn được gọi là 'Chiến dịch Elena', tên của vợ ông. Piekenbrock thường xuyên đi cùng với Canaris trong những chuyến công tác hải ngoại, thiết lập quan hệ với các cơ quan tình báo nước ngoài, tổ chức và kiểm tra công việc của các chi nhánh của Cục 1. Trước chiến tranh, ông đã đến mười bảy quốc gia.

    Tháng 3 năm 1943 Piekenbrock rời Abwehr gia nhập quân đội, và Đại tá Georg Hansen kế nhiệm ông đứng đầu Cục I. Ông 38 tuổi, "tóc vàng, cao và gầy, đẹp trai,’ trái ngược với một Piekenbrock nhã nhặn, thân thiện với nhân viên thuộc quyền '. Tháng 5 năm 1945, Piekenbrock bị SMERSH bắt làm tù binh.

    Trong cơ cấu tổ chức của Liên Xô, tình báo quân đội có chức năng tương tự như các chức năng chính của Cục I. Từ 18 tháng tư năm 1943 trở đi, có hai tổ chức tình báo: Razvedupr hoặc RU (viết tắt từ Razvedyvatel'noe Upravlenie hoặc Cục tình báo; do Fyodor Kuznetsov lãnh đạo) của Bộ Tổng tham mưu Hồng quân (tình báo mặt trận) và Glavnoe razvedyvatel'noe Upravlenie (Tổng Cục tình báo) viết tắt là GRU (đứng đầu bởi Ivan Il'ichev) của Dân Uỷ Quốc phòng (NKO) (phụ trách tình báo Hải ngoại). Có ba Phòng ban hành động trong RU: Phòng 1 phụ trách tình báo mặt trận; Phòng 2 phụ trách các nhân viên tình báo, và Phòng 3 phụ trách phân tích thông tin. Phòng điều tra, cùng với Phòng 1 và 2 phụ trách thẩm vấn tù binh Đức.

    Cho đến mùa hè năm 1943, Đại tá Erwin von Lahousen, "một sĩ quan người Áo và là một kẻ thù nguy hiểm của Hitler’, đứng đầu của Cục 2 của Abwehr phụ trách các hoạt động phá hoại. Trước khi nước Áo bị sáp nhập vào Đế chế thứ ba vào năm 1938, Lahousen phục vụ trong Cục tình báo Bộ Tổng Tham Mưu Áo ở vị trí chuyên gia về Tiệp Khắc. Ông cao 6 feet, được gọi là 'L dài' trong Abwehr và 'đã đạt được sự tin tưởng hoàn toàn của cấp trên ', Canaris. Vào tháng Tám năm 1943, von Lahousen được cử tới mặt trận phía Đông, và một trong những cộng sự gần gũi của Canaris, Nam tước von Wessel Freytag- Loringhoven, kế nhiệm ông. Năm 1944, Loringhoven cung cấp thiết bị nổ và thuốc nổ để ám sát Hitler. Vào ngày 26 tháng 7 1944 ông đã tự sát sau khi bị bắt bởi Gestapo.
    DepTraiDeu, huytopdanngoc thích bài này.
  3. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Người phó của Von Lahousen, Đại Tá Erwin Stolze, được gọi là 'Kẻ phá hoại số 2', đứng đầu Nhóm 2A trong Cục II, phụ trách việc làm chệch hướng và phá hoại ở Liên Xô. Cho đến năm 1936, Stolze phục vụ ở Cục 1 và chịu trách nhiệm về các thông tin tình báo thu thập được ở vùng Đông và Đông Nam châu Âu. Ông giám sát một số sĩ quan Bạch vệ Nga bao gồm Tướng Yevgeny Dostovalov và Đại tá Pyotr Durnovo, những người làm công việc phân tích thông tin trên của báo chí Liên Xô và sử dụng những mối quan hệ với người Nga để cung cấp thông tin cho Stolze. Stolze không biết Tướng Dostovalov là một điệp viên hai mang. Từ năm 1923, ông ta đã làm việc cho tình báo Liên Xô, và sau đó ông thậm chí chuyển tới ở tại Liên Xô, nơi ông đã bị bắt và xử tử vào năm 1938. Do đó, có lẽ hầu hết thông tin mà ông cung cấp cho Stolze đều là những thông tin giả. Đại tá Durnovo, trái lại, đã trở thành trưởng nhóm điệp viên của Abwehr ở Nam Tư năm 1941. Tháng 2 năm 1945, ông và gia đình ông đã thiệt mạng trong vụ đánh bom Dresden khét tiếng. Mối quan hệ chặt chẽ của Stolze với các lãnh đạo cộng đồng di dân người Ukraine là rất hữu ích trong việc chuẩn bị của Abwehr cho chiến dịch Barbarossa. Ngày 31 tháng năm 1945, SMERSH bắt Stolze tại Berlin.

    Chức năng của Cục II chủ yếu dựa trên hoạt động của Sư đoàn Brandenburg- 800. Bắt đầu vào tháng 10 năm 1939, gốc của sư đoàn này là một tiểu đoàn Volks-deutsche, người Đức sống ở nước ngoài và nói giỏi tiếng Ba Lan. Họ đã hoạt động phá hoại rất thành công trong cuộc xâm lược Ba Lan, hoạt động ở hậu phương quân đội Ba Lan. Tiểu đoàn Brandenburg-800 nguyên thuỷ gồm bốn đại đội, mỗi đại đội bao gồm những người đến từ các nước Baltic và Nga, chủ yếu là dân di cư. Sau đó thêm vào các tù binh Liên Xô tình nguyện. Khi Brandenburg-800 phát triển thành một sư đoàn, nó gồm người Anh, Rumani, châu Phi, Ả rập, và các đơn vị khác. Từ cuối năm 1942, sư đoàn được sáp nhập trực tiếp vào Cục II. Binh lính của sư đoàn này được gọi là Brandenburgers.

    Trong khi hành động, một đơn vị Brandenburger có thể có quy mô nhỏ như một nhóm hai người hoặc lớn như một đại đội đầy đủ 300 lính tuỳ thuộc vào nhiệm vụ. Các đơn vị hoạt động trong hậu phương của đối phương hoặc ở hậu phương của quân Đức nếu quân đội rút lui. Từ mùa thu năm 1939 trở đi, một nhóm đặc biệt của Brandenburgers giám sát các mỏ dầu Ploesti ở Romania. Năm 1940, những nhóm Brandenburgers mặc quân phục đối phương đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xâm chiếm Na Uy, Bỉ và Hà Lan. Sau đó, họ cũng hoạt động ở Afghanistan, Iran, Trung Đông và Châu Phi.

    Trong cơ cấu của Liên Xô, Cục 4 NKVD do Pavel Sudoplatov khét tiếng chỉ huy, cũng tương tự như Cục II. Đầu tiên, Cục này được thành lập ngày 05 tháng bảy năm 1941, là Ban đặc biệt (phụ trách phá hoại ở phía sau phòng tuyến của đối phương) do Beria phụ trách trực tiếp. Ngày 03 tháng 10 1941 Ban được đổi thành Phòng 2 NKVD (với chức năng tương tự), ngày 18 tháng 1 năm 1942 trở thành Cục 4 NKVD. Ngày 14 tháng tư năm 1943, nó được sáp nhập vào NKGB, thành Cục 4 NKGB.

    Cục 4 NKVD/NKGB gần như là một cơ quan độc lập với mạng lưới tình báo riêng ở hậu phương của đối phương và ở hải ngoại, và có lực lượng phá hoại riêng. Các đơn vị hành động gồm 5.000 quân, trong số đó có tới 2.000 người là những người Cộng sản nước ngoài sống ở Liên Xô. Các hoạt động của Cục 2 Abwehr và Cục 4 NKVD/NKGB tương tự như các chiến dịch hành động đặc biệt của người Anh (SOE).

    Cục 3 của Abwehr, tương tự như trụ sở chính của SMERSH, bao gồm mười một phòng ban, hầu hết trong số đó được cấu thành theo lãnh vực. Đại tá Franz von Eccard Bentivegni, trong nội bộ gọi là 'Benti', chỉ huy nó cho đến tháng tư năm 1944. Karl Abshagen, người viết tiểu sử về Canaris, đã viết: "Mặc dù có tên tiếng Ý, [Bentivegni] xuất thân từ một gia đình Phổ ... Ông là sĩ quan Phổ kiểu cũ điển hình, rất chăm chút bề ngoài và luôn đeo kính một mắt ... Mối quan hệ cá nhân giữa Bentivegni với Canaris không trở nên thân thiết như Piekenbrock.’ Tháng 5 năm 1944 von Bentivegni rời Abwehr gia nhập quân đội, và tháng 3 năm 1945 ông bị SMERSH bắt làm tù binh.

    Nói chung, các lãnh đạo Abwehr cố tìm cách không tuân theo những mệnh lệnh làm Abwehr bị liên quan đến các hành động tàn ác của quân đội. Vào tháng Tư năm 1942, Đại tá Piekenbrock nói Canaris: "Nên thông báo với Ngài Keitel [Tư lệnh OKW] một lần cuối cùng rằng ông ấy nên nói với Hitler là Abwehr của chúng ta không phải là một tổ chức giết người như SD hay SS." Với quan điểm này, Canaris và nhiều sĩ quan Abwehr cấp cao khác sau đó đã tham gia vào phe quân sự chống Hitler

    Có một lý do nghiêm trọng về việc tại sao Piekenbrock đề cập đến SD: vào mùa xuân năm 1942, Abwehr đã bắt đầu để mất vị trí của mình vào tay SD, một bộ phận của RSHA. Được thành lập vào tháng Chín 1939, RSHA bao gồm SD hoặc Cục 6 (tình báo Hải ngoại), Gestapo (giám sát tư tưởng chính trị đối lập), Kripo (cảnh sát hình sự), tình báo nội địa và bộ phận giám sát lòng trung thành của ý thức hệ. Cơ quan này của Đức và cơ quan NKVD có chức năng tương tự, bảo vệ Đảng cầm quyền. Ngay cả phương châm của SS và NKVD cũng tương tự: SS có nghĩa là 'Đội lá chắn" của Đảng Quốc xã, trong khi NKVD là" Thanh kiếm và lá chắn' của Đảng Cộng sản Liên Xô. Chức vụ của Chỉ huy RSHA, Reinhard Heydrich (từ tháng 1 năm 1943 trở đi là Ernst Kaltenbrunner), là 'Tư lệnh Cảnh sát an ninh và SD’. Walter Schellenberg đứng đầu SD từ mùa thu năm 1941 cho đến khi chiến tranh kết thúc. Ông mang cấp bậc đại tá, và từ tháng 6 năm 1944 trở đi là thiếu tướng.

    Đến tháng ba năm 1942, SD đã kiểm soát gần như tất cả các công việc phản gián của Abwehr. Đô đốc Canaris đã ký thỏa thuận sau đây với Heydrich: 'Công tác phản gián trong tương lai sẽ là một chức năng bổ sung của cảnh sát an ninh và SD'


    Chi nhánh Abwehr phụ trách Nga 'Stab Walli'

    Trước cuối năm 1939, Abwehr gần như không có thông tin về Hồng quân. Sau khi Đức và Liên Xô chiếm đóng Ba Lan vào tháng Chín năm 1939 và Liên Xô sáp nhập các nước vùng Baltic vào mùa hè năm 1940, tình hình đã thay đổi. Trong thời gian này, nhiều ngàn người người đã đổ xô đi tị nạn. Abwehr sử dụng đám đông tị nạn để đưa các điệp viên người Đức, Ukraine, và Ba Lan vào các khu vực lãnh thổ Liên Xô mới chiếm đóng. Ngoài ra, từ tháng 1 năm 1940 đến ngày 22 tháng sáu năm 1941, 327 binh lính Hồng quân, từ lính thường đến cấp đại tá, đã bỏ trốn sang Đức. Họ mang theo rất nhiều tài liệu và bản đồ.

    Kết quả là, tính đến tháng 5 năm 1941, Abwehr biết chính xác vị trí của bảy mươi bảy sư đoàn bộ binh Liên Xô đóng tại các vùng lãnh thổ Ba Lan trước đây, mà ngay sau đó đã nhanh chóng trở thành chiến trường.

    Paul Leverkühn, trưởng trạm Abwehr ở Thổ Nhĩ Kỳ, sau này đã viết: "Vào tháng Sáu năm 1941, sự phân bố lực lượng, vũ khí và trang bị của các lực lượng Nga và vị trí các sân bay của họ, ít nhất là trong phần lãnh thổ Ba Lan mà họ chiếm đóng, đã được xác định với tính chính xác tương đối.’ Thông tin này đã giúp tiêu diệt nhiều máy bay Liên Xô trên mặt đất trong những giờ đầu tiên của cuộc tấn công của quân Đức vào ngày 22 tháng sáu năm 1941.

    Các điệp viên Đức không chỉ thu thập thông tin quân sự mà còn thông tin về NKVD và OO. Tháng 5 năm 1941, Anatolii MIKHEEV, cục trưởng cục 3 NKO tại Moscow, đã mô tả các mục tiêu của tình báo Đức, lưu ý rằng:

    Đôi khi các điệp viên Gestapo [vào thời điểm đó, người Liên Xô gọi là 'các điệp viên Gestapo' khi nói về tất cả các điệp viên Đức] ... được giao nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo cụ thể về cơ cấu NKVD và lãnh đạo của họ, ví dụ như việc tìm ra những điều sau đây:

    1. Cục đặc biệt [OO] là gì và nó báo cáo cho ai?

    2. Có mối liên hệ nào giữa NKVD và Cục đặc biệt và chúng cơ cấu với nhau như thế nào?

    3. Tên, quốc tịch, địa chỉ của các nhân viên [OO]?
    DepTraiDeu, huytopdanngoc thích bài này.
  4. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.406
    Đã được thích:
    5.927
    Ôi...Vạc bay đã trở lại...Cố gắng thu xếp thời gian làm nốt đi nhé...Truyện hay quá....
  5. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Dạ em sẽ cố gắng, không biết được bao lâu nhưng sẽ cố, thanks bác đã động viên
    huytop thích bài này.
  6. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Vào đầu năm 1941, một tổ chức hoạt động với tên mật mã 'Stab Walli'-mục tiêu chính trong tương lai của SMERSH-được hình thành từ các nhóm phụ trách phía Đông của Cục 1 để tham gia vào hoạt động của Abwehr trong Chiến dịch Barbarossa. Nó được đặt trong khu vực Sulejowek bên ngoài Warsaw, trên lãnh địa của Tướng Jozef Piłsudski, nhà độc tài Ba Lan từ năm 1925 đến năm 1935. Ngay sau đó Stab Walli được chia thành ba Phòng I, II, III, đại diện cho ba Cục Abwehr.

    Ngoài ra, các trường đào tạo điệp viên Walli Nga cũng được mở. Vào tháng Giêng năm 1942, Phòng 1 Walli bắt đầu tuyển chọn tình nguyện viên cho các trường từ các tù binh Liên Xô. Một cựu học viên của trường Trung tâm tại Sulejowek nhớ lại:

    Các 'học viên’ chủ yếu là các cựu sĩ quan Hồng quân hay những điện đài viên trẻ bị bắt của Liên Xô cần được dạy về mật mã ... Một Hauptmann người Đức (Đại uý) là hiệu trưởng trường Tình báo Warsaw ... Trong Thế chiến I, ông là tù binh chiến tranh ở Nga, nói tiếng Nga một cách hoàn hảo và thích lặp lại rằng ‘ông biết rõ tâm hồn Nga nữa’. Không ai biết tên của ông.

    Các giáo viên hướng dẫn của Đức đã dạy chúng tôi sử dụng radio và các phương pháp mật mã, trong khi các cựu sĩ quan Xô Viết được học các môn học khác: tình báo về các mảng quân sự, kinh tế, chính trị, và xã hội học, địa hình, phương pháp hoạt động của [NKVD] và phản gián, v..vv. Có Thiếu Tướng [M. B.] Salikhov (bí danh Osmanov), một trung tá của Bộ Tổng Tham mưu với bí danh [I. P.] Pavlov, một thiếu tá với bí danh Zorin (ông cũng đứng đầu một phòng thí nghiệm đặc biệt làm giả bất kỳ tài liệu nào của Liên Xô), và một Đại Tá với bí danh Shelgunov ...

    Một khóa học kéo dài 11 hoặc 6 tháng, và học viên đã dành 10 giờ một ngày trong lớp học ... Mỗi tuần có 4-5 học viên tốt nghiệp rời trường để nhảy dù xuống hậu phương Hồng quân.

    Phòng 1 Walli chịu trách nhiệm về tình báo quân đội và kinh tế ở mặt trận Xô-Đức. Trưởng phòng, Trung tá Wilhelm Baun, là ‘một cựu lính bộ binh thấp, gầy, hút thuốc liên tục... sinh ra tại Odessa năm 1897, nói tiếng Ukraina cũng như tiếng Nga '. Từ 1921-1937, ông làm việc tại lãnh sự Đức tại Odessa và Kiev. Đô đốc Canaris thường nói rằng Baun là ‘một món quà quý của công tác tình báo'. Năm năm sau, trong khi thẩm vấn Baun, sĩ quan phản gián Mỹ Arnold Silver đã đánh giá thấp ông: ‘Chỉ mất vài giờ để xác định rằng Baun nghiện rượu'. Thêm một sĩ quan tình báo Mỹ, đại uý Eric Waldman, nhớ lại rằng Baun là một người không trung thực: 'Gustav Hilger, một cựu nhân viên ngoại giao Đức ... đã phát hiện ra rằng Baun đã giấu dưới giường một thùng lớn đầy đô la Mỹ mà đúng ra cần phải được chi cho các chi phí hoạt động’. Một sự cố khác xảy ra là khi Baun tìm cách tống tiền [Thiếu tá Heinz Danko] Herre [cũng là một sĩ quan Đức bị bắt]'.

    Phòng 1 Walli gồm năm Ban:
    IX: tình báo Lục quân;
    IL (Luft): tình báo không quân;
    I Wi: tình báo kinh tế;
    I G: chế tạo các tài liệu giả;
    I I: Radio, mật mã, và mã số

    Phòng 2 Walli phụ trách phá hoại trong hàng ngũ và hậu phương Hồng quân, được lãnh đạo bởi Thiếu tá Seeliger, người có nhiều kinh nghiệm trong kiểu chiến tranh không quy ước. Vào mùa hè năm 1943 du kích Liên Xô đã giết chết ông. Đại uý Müller và cuối cùng là Đại uý Becker kế nhiệm ông. Chỉ thị của OKW cho Cục II và Phòng 2 Walli của nó là 'giao cho điệp viên nhiệm vụ thúc đẩy sự ganh đua và hận thù giữa các dân tộc khác nhau của Liên Bang Xô Viết’.

    Phòng 3 Walli chủ yếu thu thập thông tin về NKVD. Trưởng ban, Trung tá, sau đó là Đại tá Heinz Schmalschläger bắt đầu sự nghiệp trong Abwehr của ông ở Vienna vào năm 1935 và sau đó tuyên bố rằng ông là cháu của Đô đốc Canaris. Ông cũng là người chịu trách nhiệm tổng quát về Stab Walli. Đến năm 1943, Phòng 3 Walli gồm năm Ban:

    1. Ban chỉ huy (hành chính nói chung, lên kế hoạch hành động), Trưởng ban: Obers-tleutnant (Trung tá) Heinz Schmalschläger
    2. Ban phân tích (phân tích tình báo, cung cấp thông tin cho các nhóm hành động ở mặt trận và gửi báo cáo bằng văn bản về Berlin), Trưởng Ban: Đại Uý Krickendt , Tiểu ban I (nghiên cứu và phân tích các dữ liệu tình báo, viết báo cáo). Tiểu ban IIIF (bắt giữ điệp viên đối phương, phân tích hoạt động của tình báo Liên Xô, viết biên bản). Tiểu ban phụ trách Nhân sự và Huấn luyện
    3. Ban Quân sự-địa hình (xây dựng các bản đồ hoạt động cho các nhóm hành động ở mặt trận của Abwehr, bản đồ vị trí của các nhân viên tình báo của Liên Xô; biểu đồ định vị các điện đài viên Đức và các điệp viên của Abwehr, vv), Trưởng ban: Đại Uý Krickendt
    4. Ban Điện đài (sáp nhập với Phòng 1 Walli cho đến cuối năm 1942)
    5. Ban Vận tải (sửa chữa các loại xe của các nhóm nhóm hành động ở mặt trận)

    Stab Walli nhận được tài liệu tình báo và phản gián từ các đơn vị hành động ở mặt trận. Sau khi đánh giá sơ bộ, tài liệu được gửi đến trụ sở chính của Abwehr ở Berlin và Fremde Heere Ost hay FHO (xem dưới đây). Tại mặt trận, trong thời gian tiến công của ba Cụm Tập đoàn quân Đức A (Nam), B (Trung tâm), và C (Bắc) vào lãnh thổ Liên Xô, các phân đội trinh sát của Cục I và III hoạt động trong Phòng 1 và 3 tương ứng của Walli đi cùng với quân đội thường xuyên thậm chí còn vượt lên trước họ với các đơn vị xe tăng tiên phong

    Có hai loại phân đội, các đơn vị biệt động gồm 25-60 người được giao cho mỗi Cụm tập đoàn quân, và biệt đội (Gruppen) gồm 12 người đi theo mỗi tập đoàn quân. Tất cả chỉ có 500-600 nhân viên tình báo trong các phân đội Abwehr tại Mặt trận phía Đông. Cả hai loại đơn vị biệt động và biệt đội bao gồm sĩ quan Abwehr, phiên dịch, điện đài viên và những người khác. Đơn vị biệt động và biệt đội liên lạc thường xuyên với Phòng 1 và 3 Walli. Tất cả các nhóm Abwehr cũng báo cáo với sĩ quan Abwehr của Phòng '1c' phụ trách tình báo của Cụm tập đoàn quân. Trong tập đoàn quân, nhân sự của mỗi phân đội Đức từ cấp sư đoàn trở lên bao gồm ba ban, 1a (hành động), 1b (hậu phương, vật tư), và 1c (tình báo).
    DepTraiDeu, ngthi96, danngoc1 người khác thích bài này.
  7. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Trong các thành phố bị Hồng quân bỏ lại khi rút lui, các đơn vị biệt động và biệt đội tìm kiếm các tài liệu-mệnh lệnh, điện tín, vv bị các chỉ huy quân sự (trách nhiệm của Cục I) và NKVD (trách nhiệm của Cục III) bỏ lại. Ví dụ, tại thành phố Brest-Litovsk, họ phát hiện ra một lượng lớn các tài liệu được cất giấu trong trụ sở NKVD, họ gửi đến Stab Walli bằng xe hơi và xe tải. Nó bao gồm một cuốn danh bạ điện thoại tuyệt mật ghi tất cả các số điện thoại của Kremlin và số điện thoại nhà của tất cả các thành viên chính phủ Liên Xô. Tại thủ đô Minsk của Bêlarút, nhóm Abwehr phát hiện ra hai mươi chín két chứa đầy tài liệu mật, gồm danh sách tất cả các thành viên chính phủ Liên Xô và thành phần cán bộ tinh hoa của Đảng cũng như thân nhân của họ với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại. Biệt đội đặc biệt IIIF của Abwehr phụ trách việc truy lùng gián điệp và những kẻ phá hoại ở hậu phương quân đội Đức.

    Phòng 1 Walli cũng hoạt động trong một khu vực rộng lớn phía sau chiến tuyến. Các biệt đội được đưa vào lãnh thổ đối phương để trinh sát, thường mặc quân phục Hồng quân. Họ sử dụng chỉ điểm viên địa phương và thẩm vấn tù binh. Từ tháng 12 năm 1941, Phòng 3 Walli bắt đầu đưa điệp viên xâm nhập vào các đơn vị du kích. Tuy nhiên, như Baun đã khai nhận với viên sĩ quan người Mỹ Silver thẩm vấn ông năm 1947: ‘chẳng có một điệp vụ nào được thực hiện thành công ... người Liên Xô đã cất vó [các] điệp viên hết lần này đến lần khác'. Vào mùa hè năm 1942, tên của các Cụm tập đoàn quân Đức đã được thay đổi thành các Cụm tập đoàn quân Nam A, Nam B, và sông Đông, trong khi các nhóm Abwehr đi cùng phiên hiệu bằng những con số.

    Các biệt đội Phòng 2 Walli phụ trách công tác phá hoại đặc biệt. Ví dụ, một nhóm Brandenburger thâm nhập vào lãnh thổ Liên Xô một ngày trước khi quân Đức tấn công. Họ chiếm giữ một cây cầu và ngăn chặn quân Liên Xô phá hủy cho đến khi quân chủ lực Đức đến. Trong những ngày đầu của cuộc chiến, nhiều nhóm phá hoại mặc quân phục Hồng quân hay NKVD/NKGB đã nhảy dù xuống nhiều địa điểm khác nhau ở Belorussia, thường là trước khi quân Đức tấn công. Tại Brest, những nhóm phá hoại cắt đường dây điện thoại, điện tín, cắt nguồn cung cấp điện và nước cho thành phố trong sự bất lực của các cơ quan Đảng, thành phố, và quân sự trước khi nó bị quân đội Đức Quốc xã chiếm. Tại các nước vùng Baltic, 80 người Estonia được huấn luyện đặc biệt đã được thả xuống phía sau chiến tuyến Liên Xô thu thập thông tin về các địa điểm, hoạt động, và sự di chuyển của các đơn vị quân đội Xô Viết. Để phân biệt với các quân nhân Liên Xô, họ đeo ‘một miếng vải đỏ hoen ố có kích thước của một chiếc khăn tay với một chấm vàng tròn ở giữa’

    Ngày 09 Tháng 10 năm 1941, trong cuộc tấn công nhanh chóng của quân Đức về phía Moscow, một đại đội Brandenburgers đã được thả xuống Trạm chứa nước Istra, khoảng 30 km từ Moscow. Một đơn vị NKVD đã tiêu diệt toàn bộ đại đội trước khi họ đặt chất nổ phá hủy nguồn cung cấp nước chính cho Moscow.

    Trong 1941-1943, một số nhóm Brandenburger đã nhảy dù xuống gần Murmansk, một thành phố trên biển Barents, với mệnh lệnh phá hủy tuyến đường sắt từ Murmansk tới Leningrad. Murmansk có một cảng lớn, nơi mà trong thời kỳ 1941-42 tàu của Anh và Mỹ đã vận chuyển hàng viện trợ sang Liên Xô như một phần của Hiệp ước cho vay-thuê. Ngoài ra, tuyến đường sắt này rất quan trọng trong việc di chuyển quân đội Liên Xô ở miền Bắc và tiếp viện cho thành phố Leningrad bị phong toả. Trong năm 1942-1943, nhiều nhóm phá hoại Brandenburger đã nhảy dù xuống miền Nam Nga.

    Một số đơn vị Brandenburg là khó kiểm soát. Ngày 30 tháng 6 năm 1941, nhóm Nachtigall, thuộc quân đoàn Brandenburg với quân số được tuyển mộ từ những người vùng Tây Ukraine di cư, tiến vào thành phố Lvov, theo sau là Biệt đội tử thần SS-Einsatzgruppen. Ngay trước khi quân đội Liên Xô rời khỏi thành phố, NKVD đã giết ít nhất 3.000 người Ukraine, những người ủng hộ lãnh tụ theo chủ nghĩa dân tộc Stefan Bandera trong các nhà tù địa phương. Người Do Thái bị quy trách nhiệm cho các hành vi tàn bạo này vì họ được cho là đã hỗ trợ cuộc xâm lược của Liên Xô vào năm 1939. Sử dụng tin đồn này như một cái cớ, Einsatzgruppen, cùng với các đơn vị cảnh sát Ukraine địa phương mới thành lập và, rõ ràng là cả một số thành viên đơn vị Nachtigall, đã tàn sát khoảng từ 2.000 đến 4.000 người Do Thái và người Ba Lan.

    Bandera, được hỗ trợ bởi Nachtigall, đã tuyên bố một 'Nhà nước Ukraine’ độc lập tại Lvov và thành lập một chính phủ do cấp phó của ông, Yaroslav Stetsko lãnh đạo. Tại Berlin, Alfred Rosenberg, Bộ trưởng phụ trách các vùng lãnh thổ phía Đông, đã rất phẫn nộ vì các kế hoạch của ông cho các khu vực này không bao gồm bất kỳ một nhà nước độc lập nào. Ngày 12 tháng 7, Gestapo đã bắt giữ Bandera và Stetsko. Họ đã trải qua hầu hết thời gian chiến tranh trong trại tập trung Sachsenhausen- Zellenbau. Theo lệnh của Canaris, đơn vị Nachtigall được chuyển từ Ukraina sang Đức. Sau đó Quân đội Ukraine nổi dậy (UPA), do những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc người Ukraina thành lập ở Lvov, trở thành một trong những mục tiêu chính của NKVD, SMERSH, và NKGB. UPA đã chiến đấu chống lại quân Đức, Liên Xô, và quân Ba Lan hoạt động ngầm Armija Krajowa.

    Vào mùa thu năm 1941, Phòng 2 Walli thành lập một tiểu đoàn bổ sung, Bergman (sau này là Quân Đoàn Alpine), để hoạt động ở vùng Kavkaz. Nó gồm 1.500 tình nguyện viên, chủ yếu là tù binh Liên Xô thuộc các dân tộc thiểu số vùng Kavkaz. Năm 1942 và 1943, tiểu đoàn này đã chiến đấu ở vùng Kavkaz, sau đó ở Crimea, và từ tháng Tư năm 1944 tại Romania và Hy Lạp. Abwehr cũng sử dụng hai nhóm đặc biệt, Tamara 1 và 2, gồm những người Gruzia di cư, đi theo Cụm tập đoàn quân Nam để làm công tác đánh lừa nghi binh và thu thập thông tin tình báo.

    FHO tiếp quản
    RSHA không phải là mối đe dọa duy nhất cho hoạt động của Abwehr. Vào tháng 12 năm 1941, sau khi quân đội Đức bị chặn đứng gần Moscow, Hitler đã tự trao cho mình quyền quyết định các vấn đề ở Nga và trở thành Tư lệnh Tối cao của Bộ Tư lệnh Lục quân (Oberkommando des Heeres hay OKH). Trên thực tế, OKH chịu trách nhiệm về các hành động quân sự ở Mặt trận phía Đông và OKW tại Mặt trận phía Tây ở Châu Âu. Với sự thay đổi này, Abwehr vẫn ở trong OKW, nhưng sự hợp tác của Stab Walli với OKH đã tăng lên.

    OKH có cơ quan tình báo quân đội riêng là FHO, chịu trách nhiệm về các hoạt động quân sự ở Đông Âu. Nó phân tích thông tin nhận được từ Abwehr và các nguồn khác và làm các công tác đánh giá và dự báo. Từ giữa năm 1942 trở đi, FHO trực tiếp báo cáo với Tổng Tham Mưu Trưởng và Ban Hành quân của OKH. Đại tá Reinhard Gehlen, chỉ huy FHO từ tháng 4 năm 1942 trở đi, là một người đàn ông ‘gầy 40 tuổi có chiều cao trung bình và mái tóc sẫm màu.’ Tướng Franz Halder, Tổng tham mưu trưởng từ năm 1938 đến tháng 9 năm 1942, đã đánh giá cao Gehlen: ‘Ông ấy là một sự kết hợp giữa khả năng và kiến thức phi thường với sự siêng năng nổi bật và nhiệt huyết của một người lính. Ông ấy là một nhà lãnh đạo bẩm sinh.'
    DepTraiDeu, huytopdanngoc thích bài này.
  8. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.327
    Theo cuốn "The Secret War" của Max Hasting (NXB William Collins, 2015) thì tình báo có 2 dạng: humint (nhân báo) nhận được từ điệp viên và sigint (tín báo) có được nhờ giải mã điện tín đối phương. Trong WW2, phe Anh-Mỹ có humint không tốt nhưng lại nhờ Alan Turing (ông tổ của computer) nên có được sigint tuyệt vời. Liên Xô thì có mạng lưới humint tốt nhất nhờ số cảm tình viên CNCS ở khắp thế giới (cài sâu cả trong MI5 và MI6 cũng như khắp Hoa Kỳ nhờ LX được nhân dân Mỹ-Anh xem như đồng minh) nhưng sigint không tốt. Còn Đức và Nhật quá tự cao do thắng lợi ban đầu, cũng như quá tự tin vào các loại máy mật mã (Enigma chỉ là 1 trong số đó) nên ca humint lẫn sigint đề không tốt.
    DepTraiDeuhuytop thích bài này.
  9. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    Gehlen đưa ra một cấu trúc mới gồm ba Phòng cho Ban phụ trách Nga của FHO. Gruppe 1 (Phòng 1), do Đại Uý Gerhard Wessel lãnh đạo, cung cấp báo cáo về tình hình địch hàng ngày, bản đồ tình huống và số liệu thống kê, bao gồm số lượng các tù binh Liên Xô.

    Gruppe II dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Heinz Danko Herre và sau đó là Thiếu tá Horst Hiemenz (Herre cuối cùng trở thành người phụ trách bộ phận huấn luyện của Quân đội Vlasov bao gồm các cựu chiến binh Hồng quân) báo cáo về tiềm năng kinh tế và quân sự của Liên Xô và đánh giá chiến lược và ý định hoạt động của Stavka. Nó phân tích các lời khai của các tù binh Liên Xô, đánh giá các tài liệu tịch thu được và các bài báo của Liên Xô, và cung cấp bảng danh mục các đơn vị và các sĩ quan cao cấp Liên Xô.

    Gruppe III chịu trách nhiệm dịch những tài liệu tịch thu được, những bài báo, thông tin trên đài phát thanh và các tài liệu tuyên truyền. Đại tá Alexis Baron von Rönne, thông thạo tiếng Nga, là sĩ quan điều phối FHO với Abwehr, SD, OKH, và OKW - và sau đó là một thành viên của nhóm chống Hitler - lãnh đạo Phòng này cho đến tháng 3 năm 1943 khi ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu Fremde Heere West, cơ quan có chức năng tương tự như FHO ở mặt trận phía Tây. Đại uý Egon Peterson là người kế nhiệm ông. Tại một Trung tâm thẩm vấn đặc biệt trực thuộc Gruppe III và được chỉ huy bởi cựu Thiếu tá Soviet, Vasilii Sakharov, các tù binh Liên Xô được lựa chọn để thẩm vấn kỹ lưỡng.

    Hai cơ quan tình báo quan trọng chia sẻ thông tin với FHO là Fremde Luftwaffe Ost, Tình báo Không lực Đức và Leitstelle für Nachrichetenaufklärung Ost, Cơ quan tình báo OKH. Người Đức đã giải được một số lớn mật mã của Hồng quân, Không quân Xô viết và NKVD, và FHO đã nhận được rất nhiều thông tin thu được thông qua việc gíam sát đài phát thanh (của Liên Xô-ND).

    Vào giữa năm 1942, các Phòng I và III của Walli được đặt dưới sự điều hành của FHO. Để làm cho công việc liên lạc hiệu quả hơn, Phòng 1 Walli được dời đến gần trụ sở của FHO. Từ tháng 6 năm 1941 cho đến tháng 7 năm 1942, Trụ sở Bộ Tổng tham mưu Đức và văn phòng của Gehlen đặt tại Mauerwald (nay là Mamerki), trong khi trụ sở Phòng 1 Walli ở gần đó. Mauerwald không xa Hang Sói, đại bản doanh của Hitler gần Rastenburg, một thị trấn nhỏ ở Đông Phổ (nay là Ketrzyn, Ba Lan).

    Từ giữa tháng 7 đến tháng 10 năm 1942, khi Hitler sử dụng trụ sở khác của ông ta, 'Wehrwolf' (tiếng Anh phải là 'Werewolf', nhưng Hitler đã ra lệnh rằng nó phải được viết là 'Wehr', là từ 'bảo vệ' bằng tiếng Đức) gần Vinnitsa trong vùng lãnh thổ Ukraine bị chiếm đóng. OKH và Phòng 1 Walli đặt văn phòng tại Vinnitsa. Vào tháng 11 năm 1942, khi Hitler quay trở lại Hang Sói, và OKH dời trụ sở đến Mauerwald, trong khi đó Phòng 1 Walli chuyển đến Neuhof (nay là Timofeevka), một lần nữa không xa Mauerwald. Họ ở đó cho đến tháng 11 năm 1944. Năm 1943, Hitler ở lại 'Wehrwolf' hai lần, vào tháng Hai-tháng Ba và tháng Tám-Tháng Chín.

    Từ tháng 7 năm 1942 trở đi, FHO chịu trách nhiệm đánh giá thông tin từ các Phòng I và III của Walli và đưa ra một bản đánh giá độc lập về tình hình của đối phương. Tuy nhiên, Thiếu tá Hiemenz, người đứng đầu Phòng 2 của FHO, đã hoài nghi về những thông tin mà ông nhận được từ Walli về tình hình Nga: "Tất cả những gì chúng tôi nhận được từ Canaris toàn là rác rưởi.’

    CHƯƠNG 14
    Những thành công và thất bại của Abwehr


    Trên thực tế, vấn đề thực sự là thông tin nhận được từ Walli bị FHO đánh giá là nghèo nàn. Sự tin cậy của cá nhân Gehlen vào những bức điện có tên 'Max' từ 'Klatt Bureau' ở Sofia (Bulgaria), và từ năm 1943, từ Budapest (Hungary) đã trở thành một ví dụ điển hình về sự đánh giá nghèo nàn của Abwehr và Gehlen.

    Fritz hay Richard Klatt là bí danh của Richard Kauder, một người Do thái đã được cải đạo, sinh ra ở Vienna, tình nguyện gia nhập Abwehr để bảo vệ người mẹ Do Thái của ông ta. "Cơ quan Klatt” của ông đã báo cáo về văn phòng Abwehr ở Vienna hai tình hình chính: Việc bố trí binh lực của quân đội Liên Xô trên Mặt trận phía Đông (những bức điện 'Max') và của quân đội Anh ở Trung Đông (những bức điện 'Moritz' từ Thổ Nhĩ Kỳ). Số lượng bức điện nhận được ở Vienna từ 'Max and Moritz' là rất lớn: 3.000 năm 1942, 3.700 năm 1943, và 4.000 vào năm 1944. Tuy nhiên, nguồn thông tin thực sự của Klatt vẫn là một trong những bí ẩn lớn trong ngành gián điệp của Thế chiến II.

    Thông tin của 'Max' và 'Moritz'
    Văn phòng Abwehr tại Vienna, Astra XVII (con số có nghĩa là số khu quân sự Đức), nơi nhận thông tin của Klatt, được tổ chức lại sau sự kiện sáp nhập Áo vào Đức năm 1938, và năm 1940 nó trở thành Ast Vienna. Nó bao gồm hai bộ phận, I (gián điệp) và III (phản gián). Ast chịu trách nhiệm thu thập thông tin tình báo ở các nước phía Đông Nam của Đế chế và ở Liên Xô sau tháng 6 năm 1941. Đại tá Rudolf Count von Margona-Redwitz, một người bạn thân của Đô Đốc Canaris, đứng đầu Ast Vienna cho đến tháng 4 năm 1944, khi ông được chuyển sang Bộ tư Lệnh OKH ở Berlin, và một người bạn khác của Canaris, Đại Tá Otto Amster kế nhiệm ông.

    Tháng 7 năm 1944, sau khi vụ Hitler bị ám sát không thành công, Gestapo đã bắt giữ cả hai đại tá vì tội chống Hitler. Vào ngày 12 tháng 10 năm 1944, Margona-Redwitz bị kết án tử hình và bị hành quyết, trong khi Amster thoát khỏi trại tù vào tháng 4 năm 1945 và tháng 5 SMERSH đã bắt ông ta. Tại Vienna, vào tháng 8 năm 1944, Đại tá Otto Wiese kế nhiệm Amster.

    Vào tháng 10 năm 1940, Kauder và Ira Longin (hay Iliya Lang), một người Nga Bạch vệ và là cộng sự gần gũi của tướng Nga Bạch vệ Anton Turkul, đã thành lập Dienststelle I hay còn gọi là 'Văn phòng Klatt' trong một biệt thự ở trung tâm Sofia, Bulgaria. Sofia rất quan trọng đối với các cơ quan tình báo và phản gián của Đức vì Bulgaria là quốc gia đồng minh duy nhất của nước Đức tiếp tục có mối quan hệ ngoại giao với Liên bang Xô viết và với nhân lực khổng lồ của toà Đại sứ Liên Xô ở Sofia bao gồm tình báo quân đội, NKVD/NKGB.

    Tướng Turkul là người lãnh đạo nhóm phát xít của quân đội Nga Bạch vệ lưu vong ở châu Âu, và năm 1938 ông chuyển từ Pháp sang Berlin. Sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, Turkul rời Béclin tới Rome, nơi ông tổ chức mạng lưới tình báo riêng của mình tại đó. Sau đó, năm 1944, ông gia nhập Quân đội Giải phóng Nga dưới sự chỉ huy của tướng Andrei Vlasov. Năm 1940, Turkul đồng ý cung cấp thông tin thu thập được bởi các điệp viên của ông cho trạm Sofia
    DepTraiDeu, Khucthuydu2, huytop1 người khác thích bài này.
  10. vacbay03

    vacbay03 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/08/2007
    Bài viết:
    329
    Đã được thích:
    859
    David Kahn đã mô tả Kauder trong cuốn sách ‘Gián Điệp của Hitler’ của ông ta: "[Kauder] có chiều cao trung bình với khuôn mặt tròn, và thích ăn ngon mặc đẹp... Ban ngày ông làm việc trong văn phòng và trên đường về, dường như ông có làm một số việc riêng và đã hối lộ cảnh sát Bungari để khỏi bị làm phiền. Buổi tối ông đến nhà hàng và quán cà phê ăn uống thịnh soạn và hẹn hò với phụ nữ.'

    Có lẽ các nhân viên của Kauder, bao gồm cả Max, đã hoạt động bên trong Liên Xô, thậm chí ở các vị trí cao ở Moscow. Kurt Geisler, cựu sĩ quan Abwehr làm việc tại Stab Walli từ năm 1941 đến năm 1943 và sau đó bị Liên Xô bắt, đã khai vào năm 1947: ‘"Max" là một cựu sĩ quan Quân đội Sa Hoàng và một đại tá thông tin của Hồng quân. Trong chiến tranh, ông là chỉ huy hoặc là chỉ huy phó bộ phận truyền tin tại Bộ Tham mưu của một trong những Phương diện quân của Hồng quân ở miền Nam nằm ở Rostov-on-Don, gần Baku và Tbilisi.' Đại tá Friedrich Schildknecht, người đứng đầu nhóm FHO từ tháng 10 năm 1941 cho đến tháng 9 năm 1942, và bị bắt năm 1943 ở Stalingrad, cũng có ý kiến tương tự: "Max" là sĩ quan Bộ Tổng tham mưu Quân đội Hồng quân hoặc là một sĩ quan Tham Mưu cao cấp tại Phương diện quân hoặc tại Bộ Tư lệnh Lực lượng vũ trang Liên Xô.'

    Geisler cũng đã đề cập rằng 'Baun, trưởng phòng Walli 1 đóng tại thị trấn Nikolaiken (Đông Phổ), đã lập một bản đồ hàng tháng, trên đó ông ta đánh dấu thông tin nhận được từ báo cáo của "Max” mỗi ngày. Mỗi tuần ông ấy báo cáo thông tin trên bản đồ cho Đại tá [Eberhard] Kintzel [người tiền nhiệm của Gehlen là lãnh đạo FHO] ... Tôi cũng biết rằng Đô Đốc Canaris đã gửi một số báo cáo của "Max" cho Hitler '. Fremde Luftwaffe Ost (Tình báo Không lực Đức) cũng cho rằng báo cáo của Max là thông tin tình báo tốt nhất Luftwaffe từng có. Tuy nhiên trên thực tế, không ai biết thông tin có thực sự có thật hay không.

    Vào tháng 12 năm 1941, tình báo Anh bắt đầu chặn và giải mã các bức điện của Kauder gửi từ văn phòng của ông ta ở Sofia đến Ast Vienna, và không lâu sau MI6 bắt đầu nghi ngờ việc có bàn tay Liên Xô phía sau những hoạt động của Kauder. Cùng lúc đó, Moscow cũng nhận được một số thông tin do người Anh chặn được bởi John Cairncross và Kim Philby, các điệp viên Liên Xô trong MI6. Thêm vào đó, GRU (cơ quan tình báo quân đội Liên Xô) đã nhận được những bức điện của "Moritz" được giải mã thông qua điệp viên Dolly (có lẽ là James Mac Gibbon) và chỉ huy của ông ta Ivan Sklyarov (bí danh Brion), Tuỳ viên quân sự Liên Xô ở London. Vào tháng 7 năm 1942, NKVD cũng bắt đầu chặn được và giải mã các bức điện của Kauder. Tuy nhiên, phương thức làm việc của Kauder vẫn chưa được biết đến.

    Văn phòng "Klatt" hoạt động độc lập với Trụ sở chính của Abwehr ở Sofia trực thuộc Đại sứ quán Đức và do Đại tá Otto Wagner chỉ huy (bí danh 'Tiến sĩ Delius'). Đại tá Wagner đã hoài nghi về hoạt động của Kauder. Năm 1946, ông nói với điều tra viên người Mỹ Arnold Silver: "Trên một bức tường của văn phòng Klatt được treo một bản đồ của Liên Xô về phía tây dãy Urals, với một bóng đèn nhỏ gần mỗi thành phố. Bất cứ khi nào một sĩ quan Abwehr đến Klatt, một hoặc nhiều bóng đèn sẽ nhấp nháy liên tục, khi đó Klatt sẽ kêu lên, ví dụ "Ah! Một báo cáo từ Kiev đã đến."'

    Vào cuối năm 1942, Wagner phàn nàn với Đô đốc Canaris và Hans Piekenbrock, cho rằng Kauder có thể là gián điệp của Liên Xô và ra lệnh điều tra hoạt động của Kauder. Người ta phát hiện ra rằng không có đài phát vô tuyến phục vụ công việc nhận tin của Kauder ở Bulgaria. Giải thích về chuyện này, Kauder trả lời rằng anh ta đã nhận được thông tin từ Thổ Nhĩ Kỳ qua điện thoại. Điều này trùng hợp với lời khai của Ira Longin với Arnold Silver, điều tra viên Mỹ vào năm 1946 rằng ông đã gọi điện thoại từ Istanbul cho Kauder ở Sofia. Ngoài ra, Geisler đã khai với các thẩm vấn viên Liên Xô rằng do có vấn đề trong việc nhận những bức điện vô tuyến từ 'Max' ở Berlin, năm 1942, ông đã gặp Longin ở Sofia hai lần và thảo luận vấn đề này với ông ta. Nhưng vào năm 1943, cácđiều tra viên của Wagner cũng khám phá ra rằng Kauder và Longin đã tiếp xúc với Đại sứ quán Liên Xô ở Sofia và có thể được cung cấp thông tin ở đó.

    Mặc dù bị nghi ngờ, vào tháng 9 năm 1943, Kauder được phép chuyển đến Budapest, nơi ông đã chỉ huy trạm tình báo Abwehr Luftmeldekopf Südost (Trạm tình báo không quân, Đông Nam). Đến thời điểm này, nhóm của Kauder bao gồm 25-30 thành viên, trong đó có 6-7 nhân viên mật mã, và 4-5 điện tín viên. Tất cả nhân viên của Kauder đều là người Do Thái hoặc có một nửa dòng máu Do Thái, và việc được Văn phòng Klatt tuyển mộ là yếu tố cốt tử để bảo vệ tính mạng của họ. Cho đến tháng 8 năm 1944, thông tin được gửi đến Vienna, và sau đó, cả Vienna và Berlin. Để tạo vỏ bọc hợp pháp, trên bảng hiệu của Văn phòng ghi là Cục Bảo tồn Thực vật 'Trái cây và Rau'.

    Sau tháng 8 năm 1944, khi Cục 1 Abwehr được sáp nhập vào SD của Schellenberg như là một bộ phận của Amt Mil (Ban quân sự), Trung tá Werner Ohletz, người đứng đầu Chi nhánh C (hoạt động ở phía Đông), chịu trách nhiệm về mạng lưới của Kauder. Vào tháng 11 năm 1944, SD đã chuyển ‘Văn phòng Klatt' tới thị trấn Csorna ở Hungary, trong khi Ast Vienna được di dời đến làng Obing ở Bavaria.

    Vào ngày 12 tháng 2 năm 1945, hai ngày trước khi Hồng quân chiếm Budapest, Kauder và các nhân viên của ông đã được đưa tới Vienna. Các viên chức hải quan Áo đã thẩm vấn Kauder vì nghi ngờ ông ta lên kế hoạch trốn thoát tới Thuỵ Sĩ. Họ tịch thu ba hộp kim loại đựng tiền mặt, cũng như một bộ sưu tập tem đắt tiền và đồ trang sức của mẹ và người tình ông ta, Ivolia Kalman. Bên cạnh những đồ vật có giá trị này, Kauder khai báo rằng ông đã để lại 252 đồng vàng và 5.800 franc Thụy Sỹ trong ngân hàng Csorna.

    Cuối cùng, Đại tá Wiesel, người đứng đầu Ast Vienna, đã bắt giữ Kauder theo lệnh của Schellenberg. Đại Uý SS (SS-Hauptsturmführer) Alfred Klausnitzer, đặc phái viên đến từ Berlin, tiếp tục các cuộc thẩm vấn về các hoạt động của Văn phòng Klatt. Sau khi bị giam hai tháng, Kauder đã được thả ra vì Hồng quân đã tiến đến gần.

    Các kênh liên lạc của Kauder
    Trong khi Kauder, Ivolia Kalman, Ira Longin và Tướng Turkul bị bắt bởi người Mỹ và người Anh vào năm 1945 và sau đó bị thẩm vấn kỹ lưỡng, Smersh đã bắt những nhân viên của Văn phòng Klatt, trong đó có vợ của Kauder là Gerda Filitz. Điều này được Nigel West và Oleg Tsarev mô tả ngắn gọn về tập tin lưu trữ của Liên bang Xô viết 'Klatt' vẫn còn được bảo mật trong cuốn Những người Do Thái được tôn vinh. Tập tin này chứa các thông tin về các cuộc điều tra của Smersh/MGB về vụ án Kauder được tiến hành năm 1945-47. Điều tra viên của SD, Klausnitzer cũng bị bắt và bị thẩm vấn bởi Smersh. Thêm vào đó, Franz von Bentivegni, cựu chỉ huy Cục 3 của Abwehr, và Otto Armster, cựu chỉ huy Ast Vienna, đã bị thẩm vấn về Kauder.

    Gần đây một số đoạn trích lời khai của những tù nhân này đã được xuất bản bằng tiếng Nga. Vào ngày 19 tháng 4 năm 1945, Gerda Filitz đã xác nhận: "Văn phòng" Klatt ‘trực thuộc cơ quan tình báo trung ương Không Lực Đức – Cục 1 Abwehr [Ast] ở Vienna. Lúc đầu, Klatt liên lạc với Trung tá von Wahl [Welskirch] và sau đó là Đại tá Wiese ... Ngoài ra, "Klatt" có mối liên hệ trực tiếp với Berlin qua Thiếu tướng SS [Walter] Schellenberg’. Von Wahl-Welskirch, người mà Filitz đã đề cập đến, là chỉ huy Cục 1 Abwehr trong Không lực Đức tại Ast Vienna. Ông là bạn của mẹ Kauder và đã tuyển mộ Kauder vào Abwehr năm 1939.
    DepTraiDeu thích bài này.

Chia sẻ trang này