1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

So sánh các Hàng Không Mẫu Hạm lớn

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi macay3, 27/10/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Russianfan

    Russianfan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/10/2008
    Bài viết:
    2.547
    Đã được thích:
    3.146
    TSB FOCH TIẾP THEO
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
  2. Sigsauer

    Sigsauer Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/07/2007
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    0
    Bác russianfan cho em hỏi con Alizé làm nhiệm vụ gì vậy,có phải chống ngầm không ?
  3. Russianfan

    Russianfan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/10/2008
    Bài viết:
    2.547
    Đã được thích:
    3.146
    Đúng là con Alizé, tên đầy đủ là Breguet Br.1050 Alize (Tradewind), dùng để chống ngầm. Nó là máy bay chống ngầm chủ yếu của các HKMH Pháp trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Nghỉ hưu từ năm 2000 nhường nhiệm vụ chống ngầm cho trực thăng Dauphin
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Vũ khí mang theo: 3160kg bao gồm
    1 x ngư lôi hoặc 3 x Depth Charges (Bom chống ngầm) được chứa ở khoang bên trong
    2 x Bom chống ngầm mang bên ngòai
    6 x ngư lôi hoặc 2 x tên lửa air-to-surface ở dưới cánh
    Thông số kỹ thuật
    Phi hành đoàn : 03 (1 phi công, 1 radar & dẫn đường, 1 điều khiển vũ khí)
    Dài : 13,86 m
    Sải cánh : 15,60 m
    Cao : 4,75 m
    Trọng lượng không tải : 5.700 kg
    Tối đa khi cất cánh : 8.250 kg
    Động cơ : 01 động cơ cánh quạt Rolls-Royce Dart RDa.21 có sức đẩy 2.100 ngựa.
    Tốc độ : 475 km/giờ
    Cao độ : 6.250 m
    Tầm hoạt động : 2.500 km
    Hỏa lực : Ngư lôi, thủy lôi, bom, rocket, tên lửa.
    Bay lần đầu : 06/10/1956
    Số lượng sản xuất : 89 chiếc.
    Quốc gia sử dụng : Pháp, Ấn Độ.
    Bom chống ngầm (depth charges)
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Cơ chế họat động của bom chống ngầm (depth charges)
    [​IMG]
    Torpedo được mang bởi Dauphin
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được russianfan sửa chữa / chuyển vào 00:50 ngày 15/11/2008
  4. Russianfan

    Russianfan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/10/2008
    Bài viết:
    2.547
    Đã được thích:
    3.146
    BÀI NÀY GIỚI THIỆU VỀ CÁC LẦN NÂNG CÁP CỦA SEM (SUPER ETENDARD MODERNISE) TỪ "STANDARD 1", SUPER ETENDARD NGUYÊN BẢN, CHO TỚI SEM "STANDARD 5" VÀ CÁC NÂNG CÁP CAO HƠN NỮA
    [​IMG]
    Vào đầu những năm 1980, hầu hết các Super Étendard đã được nâng cấp để hỗ trợ trong sứ mệnh tấn công hạt nhân, giống với các chuyến bay mang tên lửa Exocet - 1 tên lửa hạt nhân ở 1 bên cánh, bên kia là thùng dầu phụ và 1 vũ khí AAMs (thường là Matra Magic). Vũ khí hạt nhân bao gồm bom hạt nhân rơi tự do AN52, sức nổ khoảng 15 kilotons; hoặc tên lửa hạt nhân "Air-Sol Moyenne Portee (ASMP)", sức nổ trên 100 kilotons, bay với tốc độ trong phạm vi từ Mach 2 đến Mach 3 tùy thuộc vào độ cao và sự cân bằng, tầm bắn khoảng 100 km (60 dặm). Việc mang Exocet hay ASMP yêu cầu phải gỡ bỏ pháo 30 mm để dành chỗ cho "hộp đen".
    Tất nhiên, các vũ khí quy ước được triển khai bởi Étendard IVM vẫn có thể được sử dụng như bom câm và unguided rocket, với một vũ khí trên mỗi mấu cứng bên ngoài và một thùng dầu phụ trên mấu cứng bên trong
    Thùng dầu phụ mới lọai 1.100 lít (290 US gallon) được trang bị cho các Super Étendard, tận dụng MTOW của nó lớn hơn. Tuy nhiên, thùng dầu phụ 1.100 lít quá nặng nề trong trường hợp load đầy vũ khí. Khi đó thùng cũ 625 lít sẽ được lắp thay thế. Khi 1 tên lửa Exocet được mang, thùng 1.100 lít thường được mang cho sứ mệnh đó.
    Tải tối đa mang bên ngoài trong trường hợp nhiên liệu bên trong đã được bơm đầy là 2.100 kg (4.360 cân Anh)
    Vào cuối những năm 1980, một loạt các cải tiến đã được triển khai thực hiện cho các Super Étendard với kết quả ra đời "Super Étendard Modernise" (SEM). SEM ban đầu, được biết đến như là "standard 2" (Super Étendard là "standard 1"). Nó được sửa đổi, bổ sung ****pit mới. Các chương trình mới được xây dựng xung quanh một HUD (head up display) hiện đại, và phù hợp với radar Thomson-CSF (bây giờ Thales) Anemone thay cho radar cũ Agave . Radar Anemone có range gấp 2 lần radar Agave cũ và có một lọat các chế độ nâng cao, bao gồm chế độ air-to-air. Chuyến bay đầu tiên của một SEM standard 2 được thực hiện vào tháng 10 năm 1990, chiếc đầu tiên đi vào phục vụ vào tháng 6 năm 1993.
    SEM "standard 2"
    [​IMG]
    SEM "standard 3" đã nhanh chóng theo sau standard 2, nó được trang bị ATLIS laser targeting pod treo ở mấu cứng giữa thân. Một lần nữa, pháo 30 mm đã bị dời đi để lấy chỗ cho?hộp đen? khi ATLIS được đeo. ATLIS là 1 laser targeting pod sử dụng ban ngày với một TV camera có độ zoom phóng lớn 2.5/5/10/20 kết hợp với một laser, và khả năng tự động theo dõi và bám mục tiêu sau khi đã khóa - một tính năng hữu ích với máy bay một chỗ ngồi như Super Étendard.
    Khi mang ATLIS pod, SEM có thể dẫn đường một cách chính xác đến mục tiêu cho tên lửa AS-30L hoặc bom dẫn hứơng laser (LGBs). Với một số lý do bị che giấu các SEM standard 3 không thể dẫn đường ch LGBs của chính nó và chỉ có thể được sử dụng cho LGBs của các SEM khác.
    SEM "standard 3" với ATLIS pod mang ở trung tâm dưới thân, 1 tên lửa AS-30L ở cánh bên phải & 1 thùng dầu phụ ở cánh bên trái
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    SEM đang bắn AS-30L dưới sự dẫn đường laser của ATLIS targeting pod
    [​IMG]
    ATLIS targeting pod
    [​IMG]
    [​IMG]
    SEM "Standard 4" là một bước chuyển tiếp lớn, với các tính năng như:
    ? Nâng cấp các thiết bị countermeasures (gây nhiễu), đáng kể nhất là Thales Sherloc RWR (radar warning receiver), hình chữ nhật với ăng-ten trên mặt trước và sau của tailfin, thay thế cho BF RWR cũ
    Bởi mấu cứng cho countermeasures pod gắn kết thường là tương đối yếu, một mấu cứng mới đã được bổ sung vào mỗi cánh. SEM standard 4 có thể mang các countermeasures pod mới nhất, bao gồm cả Barracuda NG (New Generation) RF jammer và Alkan LL5081 chaff-flare. Alkan LL5081 có thể chứa của 90 đạn 40 mm họăc 40 đạn 60mm.
    Đáng kể nhất là, toàn bộ hệ thống countermeasures được tích hợp, cho phép jammer hoặc flare dispenser pod RWR hoạt động tự động khi xác định một mối đe dọa.
    ? Mang CRM280 pod (thiết bị tring sát reconnaissance) ở trung tâm thân máy bay. CRM viết tắt từ "Chassis de reconnaissance Marine / Marine reconnaissance Module)". Thiết bị này bao gồm một camera AP40 Panoramic và một SDS250 electro-optic imager (quang học điện tử), AP40 là một wet-film camera, có khả năng sử dụng phim đen trắng hay phim màu, và được gắn kết theo chiều dọc thân máy bay. SDS250 có thể được điều chỉnh để quan sát theo chiều dọc 22 độ, 30 độ, hoặc 60 độ cả hai bên. Các dữ liệu thu được bởi các SDS250 có thể sao vào băng. Hình ảnh từ SDS250 cũng hiện lên trên HUD, cho phép phi công giám sát & điều chỉnh hệ thống reconnaissance.
    ? Khả năng dẫn đường cho LGBs của chính nó (khác biệt với SEM standard 3)
    SEM "Standard 4" với ATLIS targeting pod mang ở trung tâm dưới thân
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Damocles targeting pod
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    CRM280 pod (thiết bị tring sát reconnaissance) gắn dọc thân dưới máy bay
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Tất cả các SEMs đã được nâng cấp lên ?ostandard 4? vào cuối năm 2002, và "Standard 5" được giới thiệu vào các năm tiếp theo. Standard 5 cung cấp khả năng "tấn công ban đêm", được xây dựng xung quanh Damocles targeting pod mới. Damocles không chỉ là một imager hồng ngoại, cho phép hoạt động ban đêm, mà hình ảnh còn có độ phân giải cao hơn, tăng tầm quan sát lên rất nhiều.
    ****pit của SEM standard 5 này cũng đã được sửa đổi với ánh sáng tương thích với night vision goggles (NVGs).
    Một đổi mới quan trọng cho các SEM standard 5 là máy tính SEM PCN90 liên kết với hệ thống dẫn đường quán tính UNI40 và hệ thống địng vị toàn cầu (GPS). Hệ thống PCN90/UNI140 cho phép cài đặt trước lên đến 63 chương trình dẫn đường cho mỗi nhiệm vụ.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    * Các cải tiến khác đang được xem xét:
    ? Bởi không còn chỗ trên bảng điều khiển, một màn hình mới hiển thị các dữ liệu dẫn đường ?oknee-board? được đặt gần đầu gối của phi công. Công nghệ này đang được sử dụng cho các máy bay trực thăng của quân đội Pháp nhưng hệ thống NVG là bắt buộc đối với các SEM.
    ? Một hệ thống quang học nhỏ cho phép tầm quan sát xác định mục tiêu cũng như tầm dẫn đường laser cho các tên lủa tăng lên

    ? Solid-state recorder cho CRM280 pod.
    ? Tính năng mới cho radar Anemone, bao gồm cả khả năng truyền tín hiệu của tên lửa Matra Magic AAMs đến radar, nâng cao việc tự động hóa.
    * Các SEMs của HQ Pháp đã chứng tỏ được tính hiệu quả trong cuộc chiến ở Balkan vào cuối những năm 1990 và tại Afghanistan vào năm 2002. Với tất cả những nâng cấp, Super Étendard sẽ vẫn họat động đến ít nhất 2011. Airframe của nó rất khỏa nên tuổi thọ của nó không phải là một vấn đề đáng quan tâm.

    Vũ khí trang bị, bao gồm các phiên bản mới nhất của Exocet, các ASMP (tên lửa hạt nhân), AS-30L, LGBs, và Matra Magic II AAM. Các rocket cổ điển SNEB 68 mm bị lọai bỏ bởi phi công phải bay thẳng hướng tới mục tiêu, cộng với tầm bay ngắn của rocket, đã khiến máy bay phải đến quá gần hệ thống phòng vệ của đối phương. Cần lưu ý rằng khi mang các loại vũ khí nặng như Exocet và AS-30L, nếu chúng không được sử dụng, SEM phải vất bỏ chúng trước khi hạ cánh.
    Được russianfan sửa chữa / chuyển vào 23:54 ngày 21/11/2008
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    bác Russìafan làm nốt mấy con Sea Harrier và Râfael luôn đe , đang hấp dẫn mà
  6. Russianfan

    Russianfan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/10/2008
    Bài viết:
    2.547
    Đã được thích:
    3.146
    Mình đang thu thập tài liệu và hình ảnh của Rafale để viết bài. Đây là một máy bay không những rất đẹp (có một số forum đã đánh giá nó là máy bay đẹp nhất, đứng thứ hai là Mig-29) mà tính năng chiến đấu cũng rất cao. Hy vọng sẽ pót được sớm.
    Còn về F/A-18 và Sea Harrier, thú thực với bác là mình hòan tòan không có cảm xúc gì hết. Chẳng biết là bởi chúng là những máy bay xấu hay là bởi chúng là hàng Mỹ, vốn được PR & lăng xê ầm ỹ trên media, đôi khi vượt xa tính năng thực của chúng. Mong rằng các bạn pro Mỹ sẽ tham gia viết về những con này.
  7. Anonymous_boy

    Anonymous_boy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2006
    Bài viết:
    548
    Đã được thích:
    1
    Xin phép mod cho em spam tí, nếu nói về độ đẹp thì em thấy F/A-18F đẹp trên cả Rafale. Em rất khoái đồ Nga nhưng nhìn con đấy thấy kết ko thể chịu đc, từ tất cả mọi góc độ. Mà đẹp nhất của Nga theo em lại là Su-27 2 người lái chú ko phải MiG-29(Su-27UB, Su-30MK, MKI, MKM, MKV, ...). Hay là mở 1 topic bình luận về vẻ đẹp của các laọi máy bay nhỉ?
    Còn tính năng thì đúng là dòng F-18 ngon thật (vì đã trải qua 2 Gulf War, phục vụ trên tầu sân bay của Mỹ từ lâu rồi, cũng phục vụ trong KQ 1 số nước đồng minh của Mỹ), nên em nghĩ nó cũng rất ok. Tuy nhiên PR của Mỹ thì khỏi bàn rồi.
  8. chipheovd

    chipheovd Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/09/2008
    Bài viết:
    389
    Đã được thích:
    0
    Cũng khó mà xác định vì cảm nhận mỹ thuật của mỗi người mỗi khác. Tớ thì thích con gián F-117 vì nhìn nó rất ngổ ngáo
  9. Russianfan

    Russianfan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/10/2008
    Bài viết:
    2.547
    Đã được thích:
    3.146
    RAFAEL, MÁY BAY THẾ HỆ 4.5 ++ CỦA KHÔNG / HẢI QUÂN PHÁP
    Dassault Rafale
    * Vào những năm cuối cùng của Chiến tranh Lạnh, trong niềm tin rằng USSR đang phát triển & cải tiến các máy bay chiến đấu, một số nước phương Tây đã bắt đầu nỗ lực của chính mình để phát triển một loại máy bay chiến đấu cấp cao "thế hệ thứ tư" để chống lại các mối đe dọa từ KQ Xô Viết.
    Dự án của Pháp trong lĩnh vực này là Dassault "Rafale". Dù sự sụp đổ của Liên Xô có nghĩa rằng mối đe dọa cho các máy bay thế hệ thứ tư đối với Phương Tây không còn nữa, lực lượng KQ vẫn cần nâng cao chất lượng để thay thế các máy bay hiện tại đang dần trở nên lão hóa. Kết quả là Rafale ra đời & đi vào hoạt đông. Tài liệu này mô tả về lịch sử ra đời & phát triển của Rafale

    Nguồn gốc Rafale
    * Các nước phương Tây hơi khác nhau về cách thức cụ thể để phát triển một máy bay thế hệ thứ tư. Vào cuối những năm 1970, Armée de l''''''''Air (ADA, Lực lượng không quân Pháp) đã đưa vào hoạt động các máy bay multirole mới Dassault Mirage 2000 của họ, và tiếp tục xem xét một thế hệ kế thừa tiếp theo. ADA đã phải đối mặt với sự xuống cấp trong hơn hai thập kỷ kế tiếp của nhiều loại máy bay đã ra đời trứơc đó bao gồm Dassault Mirage III, 5 và F1; máy bay ném bom hạt nhân Dassault Mirage IV, và đặc biệt là máy bay SEPECAT Jaguar. Vì thế ADA đã yêu cầu một "Avion de Combat Tactique (ACT / máy bay chiến đấu chiến lược)" cho sự thay thế.
    Tương tự, Aeronavale (Hải quân Pháp) cũng cần sự thay thế cho các máy bay tấn công Dassault Étendard và Super Étendard, và đặc biệt là máy bay Mỹ Vought F-8 crusader. Aeronavale các yêu cầu các máy bay mới phải là "Avion de Combat Marine (ACM / máy bay chiến đấu HQ).
    Có nhiều sự giống nhau giữa yêu cầu của ADA và Aeronavale, và vì vậy cả hai lực lượng đã đồng ý để phát triển chung một loại máy bay multirole để đáp ứng nhu cầu của họ. Thỏa thuận này đã nêu bật lên những yêu cầu cho một demonstrator, được xem là Avion de Combat Experimental (ACX / máy bay thử nghiệm)". ACX yêu cầu một máy bay với trọng lượng khoảng 9 tấn (10 tấn) có thể mang theo ít nhất sáu tên lửa air-to-air (AAMs), và lên tới 3.500 kg (7.715 cân Anh) của các loại vũ khí khác trong vai trò tấn công với bán kính chiến đấu khoảng 650 km (405 dặm). Những đòi hỏi này tương đối khiêm tốn nếu so với máy bay Rafale hiện nay.
    Dassault đã được ủy quyền để bắt đầu phát triển một ACX demonstrator đầy đủ vào đầu năm 1983, máy bay được đặt tên là "Rafale (la lên)", trong khi SNECMA (nhà sản xuất động cơ) bắt đầu công việc việc trên một turbojet afterburning mới cho ACX, "M88". Khi bắt đầu, hai Rafale demonstrators được dự định sản xuất, nhưng sau đó đã bị cắt chỉ còn một.
    Vài thảo luận đã được tiến hành với các đối tác tiềm năng châu Âu trước và sau khi quyết định này, nhưng người Pháp vẫn khăng khăng vào việc phát triển một loại máy bay được ?othiết kế & may đo? cho nhu cầu của riêng họ, và Pháp chắc chắn phải là người lãnh đạo của dự án. Cuối cùng Pháp đã không chịu bất cứ nhượng bộ nào cho sự thỏa hiệp và Anh, Đức, Ý & Tây Ban Nha đã tách ra vào năm 1985 để phát triển riêng họ một máy bay thế hệ thứ tư, "Eurofighter", song song với các Rafale. Người Pháp đã đi một mình gần như hoàn toàn trong việc xây dựng các Rafale, thậm chí không áp dụng bất cứ công nghệ nào của nước ngoài, khác với Thụy Điển đã làm với Gripen thế hệ thứ tư, Jas-39
    * Dassault bắt đầu làm việc trên một "Rafale A" vào tháng ba năm 1984, với các máy bay lăn bánh vào ngày 14 tháng 12 năm 1985. Nó là một máy bay bóng mượt, một chỗ ngồi, có một cánh nhỏ dạng delta gắn phía trước cánh chính, với hai động cơ afterburning turbofans General Electric F404-GE-400, được sử dụng cho F-18 Hornet, bởi động cơ SNECMA M88 chưa sẵn sàng tại thời điểm đó. Demonstrator thực hiện các chuyến bay đầu tiên vào ngày 4 tháng 7 năm 1986. Nó vượt quá Mach 1,3 trên chuyến bay đầu tiên này và Mach 1,8 một vài ngày sau đó. Rafale A làm đầu tiên chính thức xuất hiện trước công chúng vào tháng 9 năm 1986. Demonstrator đã tạo được ấn tượng đủ mạnh để khiến Bộ Quốc phòng Pháp quyết định đặt hàng Rafale vào tháng 4 năm 1988.
    Rafale A tiếp tục thử nghiệm để thực hiện các chuyến bay trong chương trình hỗ trợ phát triển. Mặc dù các tầu sân bay không phù hợp, các chuyến bay thử nghiệm vẫn bao gồm chương trình cất & hạ cánh trên Clemenceau và Foch để xem xét Rafale có phù hợp với các TSB hay không. Tại các thử nghiệm, Rafale A thậm chí có tốc độ tiếp cận (hạ cánh trên TSB) còn thấp hơn cả Super Étendard và F-8 crusader.
    Vào tháng 5 năm 1990, Rafale A đã được gắn một động cơ SNECMA M88, loại sẽ dành để sản xuất Rafales, thay thế động cơ GE F404 ở bên trái. Rafale A cuối cùng đã được nghỉ hưu năm 1994, ban đầu nó được giữ ở trường đào tạo phi công Istres nhưng sau đó được di chuyển tới trưng bày trên một cái cây-Dassault tại Saint-Cloud. Nó ở lại đó cho đến khi chính quyền địa phương cho rằng điều đó là không bình thường và gây ra một số vụ tai nạn giao thông trên đường bởi việc ngắm nó của các tài xế; Dassault đã buộc phải xoá bỏ nó.
    * Ba phiên bản của Rafale:
    ? "Rafale C" 1 chỗ ngồi cho KQ Pháp, "C" viết tắt cho "Chasseur / Fighter".
    ? "Rafale B" hai chỗ ngồi cho KQ Pháp, "B" viết tắt cho "Biplace".
    ? Rafale M" 1 chỗ ngồi cho HQ Pháp, "M" viết tắt cho "Marine". Mặc dù nó không được đặt ra vào lúc ban đầu, HQ Pháp quyết định đặt hàng loại hai chỗ ngồi, "Rafale BM".
    Bởi việc Chiến tranh Lạnh kết thúc, chương trình Rafale lặp đi lặp lại sự chậm trễ, nhưng vẫn đi tiếp về phía trước. Rafale C đầu tiên thực hiện các chuyến bay vào tháng 5 năm 1991. Mặc dù hai mẫu Rafale C đã được dự định sản xuất, chiếc thứ 2 bị đánh giá là dư thừa, tuy nhiên 2 mẫu "M01" và "M02" của Rafale M vẫn được xây dựng. M01 bay vào tháng 12 năm 1991 và M02 theo sau vào tháng 11 năm 1993. Mẫu cho Rafale B hai chỗ ngồi, "B01", thực hiện các chuyến bay đầu tiên vào tháng 4 năm 1993, trước các chuyến bay của M02.
    M01 đã bay đến Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1992 để thực hiện các việc cất & và hạ cánh trên mô hình TSB (được xây dựng tại đất liền) bởi châu Âu không có các thiết bị tương tự. M01 đầu tiên thực hiện một loạt các thao tác & tác nghiệp trên TSB Foch vào tháng 4 năm 1993.
    Mô tả Rafale
    * Rafale C là cấu hình nền tảng cho các gia đình Rafale. Các mô tả dưới đây là dành cho Rafale C, và theo sau là mô tả của Rafale B và Rafale M và những khác biệt của chúng với Rafale C.
    Rafale về cơ bản có cùng một cấu hình giống như là Rafale A, nhưng là hơi nhỏ hơn một chút. Những thay đổi là để giảm bớt sự phản xạ của sóng radar "radar cross section (RCS)? chẳng hạn như cải tiến hình dạng airframe, sử dụng vật liệu hấp thụ radar (RAM)" và gold-plated canopy. Thực tế thời gian đầu những năm 1990, Dassault quảng cáo các loại như là "Rafale D", "D" viết tắt của "discreet / kín đáo", để nhấn mạnh khả năng bán tàng hình tự nhiên của nó.
    The Rafale C cũng sử dụng nhiều vật liệu composite hơn Rafale A, làm giảm cả trọng lượng của máy bay và RCS. Nó tương đối nhỏ cho một máy bay 2 động cơ, với trọng lượng rỗng lớn hơn máy bay một động cơ F-16C là 1.360 kg (3000 lbs) và trọng lượng cất cánh tối đa lớn hơn khoảng 4.535 kg (10.000 cân Anh).
    Rafale là được gắn hai động cơ turbojets SNECMA M88-2, với 50 kN (5100 kgp / 11.240 lbf) dry-thrust và 75 kN (7645 kgp / 16.860 lbf) afterburning-thrust, và "khả năng điều khiển hòan tòan bằng kỹ thuật số (FADEC ). Động cơ được khởi động bằng Microturbo auxiliary power unit (APU), cái cũng được dùng để cung cấp điện cho các hệ thống máy bay. M88-2 được thiết kế để bảo đảm sự họat động mạnh mẽ, đáng tin cậy, và dễ dàng bảo trì, với một cấu hình tương đối đơn giản lắp ráp theo từng cụm. SNECMA đang làm việc với 1 phiên bản nâng cấp M88-3 với afterburning-thrust 90 kN (9175 kgp / 20.233 lbf). Khi đó Rafale sẽ đòi hỏi intakes phải lớn hơn cho M88-3, nhưng intakes mới có thể được gắn cho máy bay cũ với một chút khó khăn.
    Cánh chính của Rafale là lọai compound-sweep gắn thấp, và cánh canard gắn ở cao hơn và phía trước cánh chính (chỉ ngay phía sau ****pit). Có một airbrake trên cả hai bên của thân. Rafale, có aero-dynamically không ổn định để cung cấp tính nhanh nhẹn, được điều khiển bằng hệ thống "fly-by-dây (FBW)".
    Máy bay có một cần tiếp dầu được gắn kết vào phía trên bên phải của mũi, và bộ phận hạ cánh dạng tricycle. Rafale được thiết kế để có khả năng họat động tin cậy và dễ dàng bảo trì trong điều kiện ?okhổ hạnh?
    DASSAULT RAFALE C:
    Thông số Chi tiết

    Sải cánh 10.90 m
    Diện tích cánh 46.0 m2
    Dài 15.30 m
    Cao 5.34 m
    Trọng lượng rỗng 10,000 kg
    Trọng lượng cất cánh tôi đa 24,000 kg
    Tốc độ tối đa 2,130 KPH
    Bán kính chiến đấu 1,095 KM
    Nhiên liệu bên trong 4,500 kg
    Tải trọng vũ khí tối đa 9,500 kg
    RCS (Ước đóan) 0.1 ?" 0.2 m2
    Radar PESA RBE2 (radar AESA RBE2 đang trong quá trình phát triển)

    Được russianfan sửa chữa / chuyển vào 23:00 ngày 25/11/2008
  10. Russianfan

    Russianfan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/10/2008
    Bài viết:
    2.547
    Đã được thích:
    3.146
    RAFALE TIẾP THEO PHẦN TRƯỚC
    Vũ khí mang theo
    Không đối không:
    - Tên lửa tầm nhiệt Mica IR và dẫn đường bằng radar Mica EM có tầm bắn 50 km cho không chiến tầm trung & dogfight
    - Tên lửa ngoài tầm nhìn ?oBVR? & ?oFight and Forget? Mica Moteor, tầm bắn 100 km cho không chiến tầm xa
    Không đối đất / biển
    - Bom dẫn hướng laser LGB
    - ASSM bom câm kết hợp với hệ thống lái & dẫn đường bằng tia laser, có thể kết hợp với 1 rocket booster để tăng tầm bắn tối đa lên 50 km
    - Tên lửa Apache / Scalp tầm bắn 250 km
    - Tên lửa Exocet tầm bắn 100 km
    Vũ khí hạt nhân
    - Tên lửa (ASMPA / Air *****rface Medium Range A) tầm bắn 200 km
    * Rafale trang bị một pháo 30 mm GIAT 791B được gắn bên phải, bên trên air-intakes. GIAT 791B có thể bắn 2.500 viên / phút với số đạn là 125 viên.
    Rafale có 14 mấu cứng bên ngoài bao gồm 2 wingtip (đầu cánh chính) cho các tên lửa A-2-A "dogfighting", ba mấu cứng dưới mỗi cánh, 6 ở dưới thân (4 ở hai bên, 2 ở trung tâm). Tên lửa A-2-A có thể tải bao gồm tên lửa tầm nhiệt Matra / BAE Dynamics Magic, và các phiên bản mới hơn Matra / BAE Dyanmics "Missile d''''''''''''''''Interception, de Combat d''''''''''''''''Autodefense (MICA / Missile for Interception, Combat, & Self-Defense)".
    Các MICA này được thiết kế song song với các nỗ lực phát triển Rafale. Chúng cực kỳ nhanh nhẹn, tầm bắn khá xa với hai phiên bản: tên lửa tầm nhiệt MICA IR, và tên lửa MICA EM (Electromagnetique), với 1 radar tự tìm mục tiêu gắn trên đầu. The MICA IR has a "launch before lock" capability allowing it to engage distant targets without giving much warning of its approach through a radar signal. Tên lửa MICA IR có khả năng "bắn trước khi khóa" nó cho phép khả năng bay tới mục tiêu mà gây ra cảnh báo nhiều cho máy bay đối phương. Tên lửa MICA EM lại có khả năng "bắn và quên". Trong vai trò trong không chiến, Rafale có thể mang đến mười tên lửa MICAs. Rafale cũng có khả năng mang theo các tên lửa ?ongoài tầm nhìn / BVR? long-range, ramjet-powered Matra / BAE Dynamics "Meteor.
    Rafale có thể mang theo bom câm và unguided rocket, tuy nhiên xu hướng ngày nay là sử dụng các vũ khí thông minh. Rafale sẽ mang theo bom dẫn hướng laser (LGBs) Paveway được dẫn đường bởi Thales Damocles listening targeting pod. Nó cũng sẽ mang theo các tên lửa Matra-BAE Dynamics "Apache? và ?oScalp?.
    Pháp cũng đã giới thiệu một hệ thống vũ khí hướng dẫn mới, "Armament Air-Sol Modulaire (AASM / Modular Air Armament *****rface Missile)". ASSM sẽ cung cấp khả năng phối hợp bom câm với một bộ thiết bị bao gồm hệ thống định vị toàn cầu / Hệ thống dẫn hướng quán tính (GPS / INS), hoặc một bộ hướng dẫn INS kết hợp với một thiết bị "thông minh" tìm kiếm hình ảnh hồng ngoại, hoặc một bộ hướng dẫn sử dụng một hệ thống cánh mũi để lái bom, cũng như một một rocket booster lắp ráp với ở cánh đuôi của bom để tăng tầm cũng như phạm vi tấn công mục tiêu
    Một mấu cứng khác của Rafale sẽ mang nhiệm vụ gắn tên lửa hạt nhân the "Air Sol Moyenne Portee A (ASMPA / Air *****rface Medium Range A)" ramjet-powered, Mach 2.5. ASMPA là phiên bản cải tiến tiếp tên lửa ASMP mang bởi Mirage 2000N (Nuclear), với tầm bắn xa gấp đôi. Rafale hiện đang mong đợi để có được tên lửa ASMPA vào năm 2009. Một phiên bản anti-ship (chống tầu) của ASMPA cũng đang được xem xét, tuy nhiên, về tên lửa Exocet Rafale có thể mang trong bất kỳ trường hợp nào.
    Các Rafale của Pháp sẽ có thể mang theo hệ thống "reconnaissance Nouvelle Generation (Reco NG)" kỹ thuật số, bao gồm cảm ứng quang học điện tử cho ngày-đêm, chế biến cư dân quyền lực, solid-state recorder, và một đường truyền datalink tốc độ cao. Reco NG is now in service for use on Mirage 2000N fighters, and will begin service with the Rafale in 2008. Reco NG hiện đang được sử dụng trên máy bay Mirage 2000N, và sẽ bắt đầu với Rafale trong năm 2008.
    Rafale có 3 mấu cứng ( 1 ở giữa thân sau, 2 ở dưới 2 cánh) có thể mang 3 thùng dầu phụ loại 2,000 lít. Ngoài ra nó còn có thể mang 2 confomal tank (Thùng dầu phụ nằm trên gốc cánh và được gắn sát vào then giống F-16 block 60 hay F-16I) chứa mỗi thùng 1,250 liter nâng tổng số nhiên liệu mà Rafale có thể mang bên ngoài lên 8,500 lít (6,800 kg)
    Rafale trang bị một "glass-****pit" và một hệ thống avionics toàn diện cho chiến đấu. Nó bao gồm một "head up display (HUD)" góc nhìn rộng để hiển thị hầu hết các thông tin liên quan bằng cách sử dụng các biểu tượng & dấu hiệu tinh vi, và hai phụ kiện hiển thị (MFDs) màu đa năng liên lạc với đầu vào overlays. Ngoài ra, khi phát triển đầy đủ, các phi công sẽ có một Helmet Sagem Gerfaut-gắn kết trước mắt.
    Hệ thống avionics bao gồm:
    ? Một hệ thống radar đa năng của Thales (trước đây là Thomson-CSF) "Radar một Balayage Electronique 2 (RBE2)". Nó sử dụng một ăng ten phased array (xoay điện tử), có range lên đến 100 km (60 dặm), và được quảng cáo như là multimode-array radar phased "look-down / shoot-down" airborne đầu tiên phát triển ở Châu Âu. RBE2 có thể theo dõi tối đa 40 và dẫn đường cho tên lửa MICA EM tấn công lên đến 8 mục tiêu trong số đó cùng một lúc với khả năng tự động "xác định bạn hay kẻ địch" khi ở chế độ dogfight. Nó cũng hỗ trợ tấn công air-to-surface cho cả mục tiêu trên bộ và trên, cũng như chế độ điều hướng và xác lập địa hình tự động, và có thể hoạt động trong môi trường bị gây nhiễu mạnh.
    Phát hiện mục tiêu có RCS = 5 m2 ở khoảng 130 ~ 148 km --> Phát hiện mục tiêu có RCS = 3m2 ở khoảng 114 ~ 130 km.
    Chức năng như ?ođịa hình? sau đây có thể được sử dụng trong khi theo dõi các mục tiêu đó. Một chế độ "synthetic aperture radar (SAR)" cũng đang được phát triển để cung cấp khả năng xác lập hình ảnh & địa hình được hỗ trợ bằng phương pháp điện tử.
    ? An optical sensor suite, the system, mounted on the nose in front of the windscreen. Một bộ cảm biến quang học, Thales / Sagem "Optronique Sector Frontale (OSF)" or "Frontal Sector Optronics (FSO)" gắn trên mũi ở phía trước của kính chắn gió. Một thiết bị tìm kiếm và theo dõi hồng ngoại (IRST) góc độ rộng đơn vị được gắn vào bên trái, và một TV / laser rangefinder CIU được gắn vào bên phải. Các CIU có thể theo dõi một mục tiêu và hiển thị nó trên HUD của phi công, với chế độ cho phép nó tự động chọn mục tiêu.
    ? Một hệ thống ring-laser gyro quán tính với một bộ tiếp nhận GPS.
    ? A voice and data communications suite, including a secure radio system and a "Link 16" tactical datalink. Hệ thống thông tin liên lạc ?ovoice & data? uite, bao gồm một radio bảo mật "Have Quick" và một hệ thống chiến thuật "Link 16"
    ? Hệ thống "Tự bảo vệ? Thales / BAE Matra Dynamics Spectra phát hiện các mối đe dọa đối máy bay Rafale bao gồm các radar, laser, cảnh báo tên lửa cùng với hệ thống Jamming (gây nhiễu) chủ động và bốn chaff-flare dispensers; nó có thể tự động nhận dạng phân loại các mối đe doạ và tự động kích hoạt các hành động cần thiết cho việc bảo vệ.
    Hệ thống Spetra được cài đặt bên trong than máy bay để dành cả 14 mấu cứng cho việc mang vũ khí.
    ? Một máy tính "Modular Data Processing Unit (MDPU)", dựa trên các linh kiện dân dụng, dễ dàng để cập nhật. Nó điều phối và kiểm soát tất cả các avionics của máy bay. Nó cũng chạy và tích hợp ?ogiám sát y tế? máy bay và bảo trì hệ thống-dữ liệu
    * Rafale B là rất tương tự với những Rafale C, ngoại trừ việc có them một chỗ ngồi. Hai chỗ ngồi được bao phủ bởi vòm kính một mảnh, bản lề mở ở bên phải. Rafale B được trang bị đầy đủ với các thiết bị hoạt động và hệ thống kiểm soát và bố trí cho cả ghế trước và sau để đảm bảo tính linh hoạt tối đa. Nó có trọng lượng trống rỗng lớn hơn Rafale C khoảng 350 kg (772 lbs), và chứa ít nhiên liệu hơn.
    Mục đích của Rafale B ban đầu chủ yếu dành cho huấn luyện vì thế được đặt mua số lượng nhỏ. Không quân Pháp tin rằng, với các cải tiến avionics của máy bay sẽ cho phép phi công của Rafale-C một chỗ ngồi thực hiện được tất cả các hoạt động. Tuy nhiên, Chiến tranh vùng Vịnh vào năm 1991 và Balkan năm 1999 đã chứng minh sự cần thiết và hữu ích của phi công thứ 2 trong các nhiện vụ tấn công và reconnaissance. Vì thế KQ Pháp đã quyết định tăng số Rafale B đặt mua
    * Rafale M là rất tương tự với những Rafale C, duy nhất sự khác biệt là nó nhìn cao hơn và có arresting hook ở phía sau, Càng hạ cánh ở mũi dài và khỏa hơn để cài thiện quãng đường cất cánh. Tuy nhiên vì điều này mà mấu cứng trung tâm phía trước bị gỡ bỏ khiến Rafale M chỉ còn tổng cộng 13 mấu cứng

    Các thay đổi cho Rafale M bao gồm một airframe và càng hạ cánh chính mạnh mẽ hơn để chịu đựng được việc cất & hạ cánh trên tầu sân bay; thang được gắn bên trong và một hệ thống định vị và hướng dẫn giúp máy bay hạ cánh trên boong chính xác và dễ dàng hơn Các sửa đổi, bổ sung này khiến Rafale M nặng hơn 500 kg (1.100 cân Anh) so với Rafale C. Để duy trì các ưu điểm của Rafale, cánh của Rafale không thể gấp lại được.
    Rafale trong hoạt động
    Giống như với các Eurofighter, Rafale là đi vào hoạt động lần lượt với các tiêu chuẩn:
    ? Tiêu chuẩn F1: The first Rafales to be delivered are configured to "F1" standard, which only includes capabilities for air-to-air combat and a baseline avionics suite. Các Rafales được giao đầu tiên sẽ được coi là tiêu chuẩn cấu "F1", chỉ bao gồm các khả năng cho không chiến air-to-air combat và một hệ thống avionics cơ bản. Nó được trang bị với 1 pháo 30 mm và các tên lửa Magic và MICA EM tầm trung.
    ? Tiêu chuẩn F2: Tiêu chuẩn "F2", hiện nay đang được giới thiệu, cho thêm các khả năng chiến đấu, bao gồm mang các vũ khí điều khiển như bom LGBs và tên lửa Apache / Scalp; cung cấp them các chế độ air-to-surface và xác lập địa hình cho radar RBE2; và trang bị hệ thống cảm ứng OSF và Liên kết 16 datalink cho máy bay. Cùng với các vũ khí tấn công bề mặt, các đặc điểm kỹ thuật cho phép F2 mang tên lửa tầm nhiệt MICA IR, thay thế các Magic, và Rafale M cũng sẽ có thể mang theo một buddy tanker pod (thiết bị dung để tiếp dầu cho máy bay khác)
    ? Tiêu chuẩn F3: Tiêu chuẩn "F3", kế hoạch giới thiệu trong năm 2008, sẽ thực sự đem lại cho Rafale khả năng, năng lực hoạt động đa dạng và đầy đủ, với việc triển khai thực hiện tất cả các kế hoạch hiện tại cho các chế độ hoạt động của radar RBE2, thêm khả năng mang các tên lửa AASM (Air Arnament *****rface Misile) và khả năng tấn công hạt nhân bằng tên lửa hạt nhân ASMPA; tấn công tầu với tên lửa Exocet hay trinh sát với Reco NG pod.
    Các máy bay tiêu chuẩn F3 cũng sẽ trang bị thêm DVI, Gerfaut helmet-mounted sight, và hỗ trợ cải tiến việc tiếp dầu. Tất cả các máy bay Rafales tiêu chuẩn F1 và F2 sẽ được nâng cấp để đạt tiêu chuẩn F3. Ngoài ra còn có một số thảo luận về việc lắp các động cơ cải tiến M88-3.
    Tiêu chuẩn F4 hiện nay chưa được xác định.
    Hải quân Pháp hy vọng sẽ được nhận Rafale M tiêu chuẩn F3 đầu trong năm 2007. Tất cả 60 Rafale M của Hải Quân sẽ được giao đủ vào năm 2012. Mặc dù đã được lên kế hoạch rằng 35 trên 60 sẽ là Rafale BM hai chỗ ngồi, tuy nhiên kế hoạch cho Rafale BM đã bị hủy bỏ vào cuối 2004 bởi lý do kinh tế. Điều này xuất phát bởi chi phí cho một phi công thứ 2 là quá lớn.
    Cuối năm 2004, 61 Rafale đạt tiêu chuẩn F2đã được gửi đến Không quân Pháp, với 27 trong số đó là Rafale B hai chỗ ngồi. Bởi vào mùa xuân năm 2007, 6 Rafale đã được gửi tới Afghanistan, hỗ trợ NATO chống lại phiến quân Taliban. Chúng đều đạt chuẩn F2 với khả năng mang bom laser LGB và nâng cao khả năng tự bảo vệ. Chúng ban đầu chưa được thiết kế để mang Damocles listening targeting pod và vì thế phải dựa vào Damocles listening targeting pod của Mirage 2000D để nhắm mục tiêu
    Không quân Pháp hy vọng có được 212 Rafale với 60% trong số đó là Rafale B hai chỗ ngồi. Tuy nhiên cùng với lý do cho sự hủy bỏ của Rafale BM vào cuối năm 2004, Không quân Pháp quyết định chỉ dành các Rafale 2 chỗ cho huấn luyện chuyển đổi đào và các sứ mệnh tấn công hạt nhân, giảm tỷ trọng của Rafale B hai chỗ xuống còn khoảng 40%. Dassault tin rằng với chất lượng phần mềm được nâng cao cung cấp bởi các tiêu chuẩn F2 và F3 sẽ thực sự cho phép các Rafale 1 chỗ ngồi thực hiện được các nhiệm vụ phức tạp mà không cần phi công thứ 2.

    * Một tính năng trong tương lai là hệ thống máy tính và dữ liệu liên kết để cho phép một Rafale B hai chỗ ngồi có thể điều khiển 1 máy bay không người lái (UAVs) cho nhiệm vụ trinh sát, tấn công và hỗ trợ. UAV trinh sát sẽ có thể xác định mục tiêu, và thậm chí hướng dẫn bằng laser cho các vũ khí tấn công được phóng ra bởi các Rafale, hoặc một UAV có trang bị vũ khí có thể thực hiện các cuộc tấn công trực tiếp bởi chính nó. Thông tin liên lạc giữa các Rafale và UAVs có thể được thực hiện qua liên kết vệ tinh, như một liên kết thông tin liên lạc, sử dụng bởi các Rafale, để có được thông tin từ một máy bay AWACS hoặc Joint-STARS.
    Một cải tiến đang lên kế hoạch là một radar "mảng pha điện tử quét chủ động (AESA)" phiên bản của RBE2. Trong mùa hè năm 2004, Thales được trao một hợp đồng để phát triển một hệ thống AESA, Dassault hy vọng rằng AESA radar sẽ bắt đầu giao sớm vào năm 2008. Các tiêu chuẩn Rafale F3 đã bao gồm các hỗ trợ cho một radar AESA.
    * Dassault cùng với Thales và SNECMA đang cộng tác để sản xuất một phiên bản Mark 2, được dung cho xuất khẩu. Rafale Mk.2 sẽ trang bị động cơ được nâng cấp SNECMA M88-3 với hơn 20% thrust; nâng cao chất lượng các phần mềm cho nhiệm vụ tấn công mặt đất; radar AESA RBE2; conformal tank.
    Rafale A, nguyên mẫu đầu tiên của Rafale C, B, M sau này
    [​IMG]
    Airframe của Rafale B
    [​IMG]
    [​IMG]
    Cánh canard gắn ở cao hơn và phía trước cánh chính (chỉ ngay phía sau ****pit).
    [​IMG]
    Radar PESA RBE2
    [​IMG]
    [​IMG]
    Radar AESA RBE2
    [​IMG]
    [​IMG]
    Một thiết bị tìm kiếm và theo dõi hồng ngoại (IRST) góc độ rộng đơn vị được gắn vào bên trái, và một TV / laser rangefinder CIU được gắn vào bên phải phía trước kính chắn gió
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    hệ thống trinh sát "reconnaissance Nouvelle Generation (Reco NG)" kỹ thuật số, bao gồm cảm ứng quang học điện tử cho ngày-đêm, solid-state recorder, và một đường truyền datalink tốc độ cao.
    [​IMG]
    Mang Damocles Listening Targeting pod
    [​IMG]
    [​IMG]
    ****pit
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Conformal tank: Thùng dầu phụ nằm trên gốc cánh gắn sát vào thân có tác dụng mnag thêm nhiên liệu cho các nhiệm vụ ở xa mà không làm tăng sức sản không khí như các thùng dầu phụ truyền thống
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    SẼ POST TIẾP: RAFALE VÀ CÁC LOẠI VŨ KHÍ + THIẾT BỊ MANG THEO TƯƠNG ỨNG VỚI 7 LOẠI NHIỆM VỤ KHÁC NHAU MÀ NÓ ĐẢM TRÁCH
    Được Russianfan sửa chữa / chuyển vào 12:02 ngày 26/11/2008

Chia sẻ trang này