1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

So sánh khả năng lặn sâu, chạy êm của tàu ngầm Nga và US

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi ducsnipper, 11/04/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ducsnipper

    ducsnipper Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2003
    Bài viết:
    1.866
    Đã được thích:
    0
    So sánh khả năng lặn sâu, chạy êm của tàu ngầm Nga và US

    Mình đả xem qua các topic trưóc đây các bạn luận về tàu ngẩm , nhưng chưa thấy ai bàn về chuyện này cả.....

    Các cao thủ ở đâI mình nghỉ trình dộ tiếng Anh đều ok hết nên xin mạn phép mờI các bạn và đây ( Mình không muốn post lên vì nó dài quá, còn dịch thì không có thời gian):

    http://www.fas.org/man/dod-101/sys/ship/deep.htm

    Tóm tắt:

    - Họ ( US) kết luận là tàu ngầm của LX chạy ồn và không lặn sâu bằng của họ.

    My idea:

    - đây là là trang web của Mỷ nhưng mình nghỉ thông tin cũng có ph62n khách quan vì tổ chức FAS không có nhiều( chú không phải là không ) cái nhìn phiến diện.
    - Trong lịch sử phát triển tàu ngầm theo mình biết thì US là nước đầu tiên, cả về tàu ngầm nguyên tử đầu tiên của tgiới nửa, cho nên có lẽ vể mặt nảy họ vượt Nga thật.
    - Các tai nạn về tàu ngẩm theo các tải liệu mỉnh được đọc thì Lx (cũ), Nga bị nhiều hơn Mỹ.

    -Mong các cao thủ góp ý kiến cho diễn đàn chúng ta thêm phong phú

    JUST BE COOL






    Được ducsnipper sửa chữa / chuyển vào 09:41 ngày 11/04/2003
  2. nguyenam78

    nguyenam78 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/04/2003
    Bài viết:
    293
    Đã được thích:
    0
    He he, Meo khong co Diesel sumarine nen cung hoi kho so sanh. Bon Taiwan dinh dat hang do diesel submarine nhung meo phai nho Duc hop tac. Neưu so diesel thi do cua Nga cha dau bang ve kha nang lan sau va chay em, nhat la lop KILO. Vo cua no 2 lop, giua dem bang cao su co ma. Tuy nhien hang cua Nga cai nao cung to vat va nen neu oanh nhau that thi nham mat cung trung
    .
    FAS cung co nhieu thong tin lam nhung co ve than My. Hang cua nga thi cung tu khen nhu vay thoi. Chi luc nao lam tran moi biet hieu qua cua thang nao hon.
  3. nguyenam78

    nguyenam78 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/04/2003
    Bài viết:
    293
    Đã được thích:
    0
  4. shinano

    shinano Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2003
    Bài viết:
    339
    Đã được thích:
    0
    Em chỉ mê diesel submarine thôi, như U 212, Amur, Agosta, Delfin..
    Loại Midget submarine như Dagger, Yugos.
    Chemical-Spirou will ambush U with his fcuk Mac 10
  5. nguoiradikhongve

    nguoiradikhongve Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2003
    Bài viết:
    535
    Đã được thích:
    0
    Trích từ :
    He he, Meo khong co Diesel sumarine nen cung hoi kho so sanh. Bon Taiwan dinh dat hang do diesel submarine nhung meo phai nho Duc hop tac. Ne­u so diesel thi do cua Nga cha dau bang ve kha nang lan sau va chay em, nhat la lop KILO. Vo cua no 2 lop, giua dem bang cao su co ma. Tuy nhien hang cua Nga cai nao cung to vat va nen neu oanh nhau that thi nham mat cung trung
    .
    FAS cung co nhieu thong tin lam nhung co ve than My. Hang cua nga thi cung tu khen nhu vay thoi. Chi luc nao lam tran moi biet hieu qua cua thang nao hon.
    -----------------------------------------------------------------------------------
    Có vẻ như các bác trong đây yêu Nga quá nên mù quáng rồi thì phải,bọn TW đặt US Diesel marine,nhưng US không có vì đơn giản là US không còn sản xuất hàng này từ năm 1970(cai nay trong bao KHKTKT có nói)chứ không phải là US không có khả năng chế tạo.
    2.US là thằng có tiền,tàu ngầm của US là một trong 3 quả đấm chủ lực của chiến luợc người Mỹ,cho nên tàu ngầm của US chuyên về vũ khí hạng nặng như tên lửa hải đối đất mang đầu đạn hạt nhân..US không ưu tiên sản xuất lớp tàu ngầm tuần tra như Nga.
    3.2 tàu ngầm chiến lược của Nga và Us mà đụng nhau trên chiến trường thì theo tôi với Kt bây giờ thì 2 chiếc điều tiêu hết,không còn chiếc nào có thể quay về bến cảng,bởi vậy chúng ta không cần phải bàn là ai mạnh hơn ai đâu các bác a.
  6. Antey2500

    Antey2500 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/07/2002
    Bài viết:
    2.764
    Đã được thích:
    6
    Tôi chỉ kể bác nghe 1 chuyện có thật về ông Putin thôi .Vào năm 198x có 1 hội nghị ăn mừng công của tình báo Nga có ông Putin tham dự trong đó công lao thuộc về nhân vật XXX nhân vật này liên kết với Đức lấy công nghệ gia công mới ra đời của họ rồi liên kết với Nhật chôm về công nghệ sứ chịu lực mới thế là người Nga nâng cấp 3 và sau đó là 5 chiếc tàu ngầm hạt nhân .Nhờ như thế tàu lặn sâu hơn bất thường làm Mỉ phải bỏ ra gần 30 tỉ đola để nâng cấp toàn bộ hệ thống phát hiện và tác chiến chống ngầm trên các bến cảng và toàn bộ hải quân của họ.

    With these advanced weapon the WW3 will be fought ,but in the WW4 they will fight with sticks and stones (Albert Einstein)
  7. khongquen25

    khongquen25 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/05/2002
    Bài viết:
    2.543
    Đã được thích:
    127
    Không phải là bị quan nhưng để tìm hiểu hết những công nghệ áp dụng trong QS thi em chúng ta chỉ là ếch ngồi đáy giếng. Tàu ngầm là 1 trong những bí mật QS quan trọng nhất trong tác chiến trên biển nên chúng ta chỉ biết rất ít và rất nhỏ về lĩnh vực này thui. Tuy nhiên theo những tài liệu em đọc thì yếu tố quan trọng nhất của tàu ngầm để nó chạy êm là chân vịt. Ngày xưa các tàu ngầm thường chỉ có 1 chân vịt ngày nay các lớp tàu ngầm mới đều trang bị 2 chân vịt để tăng tính cơ động ( giống phi cơ chiến đấu ). Trong nguyên lý chế tạo chân vịt thì tốc độ và độ nhẵn của nó lại góp phần quyết định đến tất cả. Để làm nhẵn chân vịt người ta không mài hay đúc nó 1 cách thông thường mà phải làm nhẵn và lazer. Nga ( hay LX cũ ) không phải cường quốc hàng đầu về lĩnh vực này. Mỹ khi xưa cũng vậy mà Nhật Bản mới là quốc gia hàng đầu. Năm 89 khi chiến tranh lạnh vẫn còn cao trào tổ hợp CN Hitachi đã bị tình báo Mỹ phát hiện bán công nghệ làm nhẵn chân vịt cho LX giúp tàu ngầm LX giảm tối đa độ ồn. Mỹ đã đòi trừng phát hết sức cứng rắn với Nhật vì vi phàm thoả thuận cấm bán công nghệ cao phục vụ QS cho LX và khối Vacsava. Nhật Bản nhượng bộ bằng cách chuyển cho Mỹ chi tiết chính xác công nghệ Nhật đã bán cho Lx và cả siêu máy tính cung cấp cho bộ QP LX nữa Mỹ mới để yên vụ này.
    Tuy nhiên ngày nay công nghệ đã phát triển vượt bậc. Nga và đặc biệt là Mỹ đều thả các hệ thống đị vị thủy âm cánh báo ở các vùng biển chiến lược để phát hiện sớm sự di chuyển của các tàu ngầm đối phương. Công nghệ vật liệu và lazer cũng tiến những bước rất dài nên những tiêu chí đánh giá độ ồn và sâu đều thay đổi và nâng lên 1 tầm cao mới. Chưa có 1 cuộc thi thố công khai nào cả mà đều là sự suy đoán của các chuyên gia phân tích QS mà thui. Trong QS có câu khi lâm trận mới biết tướng tài là thế.
    Bác nào tinh thông về hệ thống sonar thì post lên cho anh em biết nguyên lý hoạt động để hiểu thêm về tàu ngầm - 1 trong những vũ khí tối tân và còn nhiều bí mật chúng ta chưa bao giờ biết đến!
    Ăn xong liếm mép quèn quẹt!
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Đồng ý bác nhớ mãi tu phai.
    Tính năng tầu ngầm là một thứ tuyệt mật. Chúng ta biết rất ít.
    Các nước có truyển thống đánh tầu ngầm là Nhật Và Đức lại khó phát triển tầu ngầm. Nhưng không phải vì thế mà tầu ngầm của họ không là những tấm gương.
    Trong fas, và cả các tài liệu khác không bao giờ nói đến chiếc chìm ở biển Bantic. Đơn giản là nó chưa có ai qua mặt. Đáng tiếc chiếc tầu này chìm khi tài chính Nga khó bù lại. Nó chìm vì lý do ngớ ngẩn: 1 bộ lọc khí cháy, thuyền trưởng không quyết đoán sửa chữa.
    Lặn sâu 1km. Độ sâu tác chiến một phần 600m. Tác chiến toàn bộ 300m, tốc độ cao (50 hải lý / giờ=80 km / giờ) là ước mơ các tầu ngầm không phải Nga bây giờ. Còn tiếng ồn, từ đó đến nay có nhiều thay đổi, con số về điều này em không có, nhưng với chân vịt titan, vỏ cao su-titan thì hồi đó nó chắc chắn là ước mơ NATO. Vì sau khi liên xô đổ, nguyên liệu này mới chảy máu ra khỏi Nga.
    Bây giờ so sánh tầu ngầm rất khó. Với tầu diesel thì khỏi bàn. Kilo không rõ độ sâu tác chiến thế nào nhưng độ ồn và hoả lực thì không ai bàn. Lớp cá voi (Đức, bán cho Israel) thì 200m. Về loại tầu này (chủ yếu là tầu tấn công hay huấn luyện) thì Mỹ cũng khỏi phải bàn (không có đừng nói yếu hay mạnh). Do đó, Đài Loan chỉ hy vọng có tầu ngầm tấn công mạnh khi Đức hay Nhật là 1/5 nước hội đồng bảo an.
    Mỹ không hề có tầu ngầm tiến công đúng nghĩa. Các tầu ngầm tấn công của họ là lưỡng chiến lược và chiến thuật. Do đó số lượng không bàn nữa.
    Các tầu ngầm hạt nhân không nên so sánh. Thể tích lớn làm hai thứ tiến ồn: cản nước và tiến ồn từ trong rất nhỏ. Do thể tích lớn, độ sâu lặn cũng cao, nhưng chưa gì qua mặt Commxomonxcơ(nếu có thì là tầu nghiên cứu, nhưng loại này chưa ai qua mặt Mir).
    Tầu ngầm Mỹ và Nato phụ thuộc vào ngư lôi và bao tên lửa (một loại ngư lôi, mang tên lửa từ tầu ngầm lên mặt nước). Các bác xem MK thì thấy, đến 2015, họ vẫn lấy ngư lôi tốc độ 30-45 hải lý / giờ làm chủ lực. Các tầu tấn công nổi bây giờ cho loại đó về sau. Một số tầu ngầm tấn công cũng làm thế được (ai đời tốc độ đầu đạn nhỏ hơn mục tiêu).
    Tầu ngầm tấn công chủ yếu có tốc độ cao, ngư lôi tốc độ cao, tầm xa, khả năng phóng ngư lôi mạnh. Còn tầu ngầm hạt nhận chiến lược lặn sâu (ẩn kỹ) và ít tiếng ồn thì so sánh làm sao.
    Các tầu ngầm chiến lược Nga (như Cuôxcơ) cũng có khả năng tấn công. Hơn đứt tầu ngầm Mỹ vì ngư lôi (Mỹ cho tầu ngầm lặn sâu làm gì khi ngư lôi và ống phóng bị phá huỷ). Hiện tại, với ngư lôi tốc độ cao, Mỹ chỉ dám so tầu chiến lược hạt nhân-tấn công của họ với tầu diesel tấn công Nga. Việc đau đầu nhất với Mỹ là Ấn Độ, Iran, Trung Quốc thoải mái tầu ngầm. Israel chỉ có vài chiếc cá voi của Đức. Đài Loan thì chịu chết (trừ Mỹ chả ai dám bán). Úc thì ngang:.........Inđônêxia. Anh bây giờ mới có chiến lược : bộ ba tầu ngầm tấn công+tầu khu trục ba thân+ một thứ vũ khí WW2( tầu ngầm mini chở thuỷ lôi, trước đây là tiền thân katen).
    Không hiểu các bác thế nào, em xem tầu ngầm tấn công Mỹ, lớp Ohio(hạt nhân) để lại một bọt khí lớn quanh chân vịt. Thì tiến ồn không nhỏ tí nào. Có lẽ họ đánh giá theo kiểu tầu ngầm chiến lược, tiếng ồn từ trong ra rất nhỏ khi đứng yên.
  9. Condor

    Condor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/02/2003
    Bài viết:
    2.311
    Đã được thích:
    0
    Sonar Technology
    The development of underwater sensors is a challenging task mainly due to, unpredictable ocean environment and its unknown factors. Not very many countries have acquired the capability of developing underwater sensors. Sonar (sound navigation and ranging) is the dominating sensor capable of detecting underwater targets. After the successful development of APSOH sonar for leander class of ships, DRDO has not looked back. So far, three types of hull-mounted sonars have been developed for surface ships, i.e., APSOH, HUMVAD and HUMSA. HUMSA is being fitted in all new construction ships. In ad***ion, the .first submarine sonar PANCHENDRIYA has been proved and an airborne sonar MIHIR is in the final phase of acceptance. The development of towed array sonar NAGAN is also in progress. Sonobuoy TADPOLE and its airborne signal processor SIMHlKA and towed torpedo decoy, TOTED have also been developed and are in use.
    Oceanography
    Ocean data collection, prediction and validation is a continuous process to generate inputs for both the design of a sonar and its operational exploitation. The space-time varying ocean environmental and underwater acoustic con***ions critically influence the performance of underwater sensors posing a challenge for the design work. To study ocean behaviour and to develop prediction capability, many experiments are being conducted, encompassing varied fields of basic sciences. Sonar prediction models based on ray, normal mode and parabolic equation approaches have been developed to study the sound propagation characteristics under different oceanic con***ions for different frequency regimes. Based on these models, sonar range prediction packages--PRAN for low frequency application and Ray Sweep for high frequency application have been developed and are in use. An oceanographic database comprising marine geophysical, magnetic, physical oceanographic, marine meteorological and underwater acoustic parameters is being developed with the data collected by INS Sagardhwani, one of its kind marine acoustic research ship specially designed and built for DRDO .
    Transducer
    Sonar transducer technology covers a wide range of scientific disciplines, such as transduction materials, passive acoustic materials, underwater acoustics, encapsulation, engineering and packaging, and underwater acoustic calibration and installation materials. The transduction materials operate on piezoelectric or magnetostirictive principle. While most of the user hardware is now based on piezoelectric ceramics, like lead zirconate titanate (PZT), many other active materials, like lead titanate, TERFENOL which exhibit giant magnetostiriction properties, piezopolymer composites with different connectivities, piezoelectric polymers and new mechanism like fibre-optic sensors are now emerging in specific applications. In ad***ion, there is a large variety of passive materials used in transducer assembly to add acoustic properties. Material system engineering takes a primordial role because the same basic materials can be engineered to work on acoustic absorptions, reflection or acoustic window materials. DRDO has progressively acquired the technology know-how for transducer design and development including testing capability. Besides well-equipped laboratory facilities, there is a lake test facility at IDDUKI. The Materials & Transducer Simulated Testing (MATS) facility has been recently acquired to test the transducers to meet deep sea requirements.
    Signal Processing
    The detection of underwater targets largely depends on the process by which the received reflected sound signal is converted into a detectable signal level and validated followed by display technique. The signal at the output of the acoustic sensors has the amplitude of the order of a few microvolts. These are corrupted by the ambient noise. Considering that the sensor may be capacitive or inductive or resistive, the input impedance has a wide variation. Achieving low electrical noise and proper matching in case of capacitive transducers requires expertise in front-end design. The front-end electronics to be used with the sensors must withstand the hydrostatic pressure and provide satisfactory performance. The hybrid technology has been widely used in systems to meet the above requirements. The expertise in conduction-cooled PCB development has ensured trouble-free performance of front-end electronics in hermetically sealed containers. The signal coding and data transmission schemes adopted to ensure signal integrity have been successfully developed in various systems. The technology available in front-end signal con***ioning can also be exploited for any other type of sensors.
    The digital signal processor (DSP)-based developed hardware has laid a strong foundation for modular approach to spatial and temporal processor required for sonar. Over the years, expertise has been developed for time and frequency domain beam forming in both signal and base bands. The DSP-based signal processors are used in all sonars. DRDO has. expertise in fixed and floating point processing as well as in design of application specific integrated circuits (ASICs) for sonar signal processing. The signal processing ASICs have been developed which reduced the volume of spatial processor and enhanced the capability of DSP boards. These can be adopted for any type of signal processing.
    The neural network and fuzzy logic has been used to classify targets. Many display processing techniques adopted have resulted in easy visualisation of processed data. The menu-driven parameter selection and different user-friendly display formats on high resolution raster scan non-colour monitor ensured easy visualisation of processed data by an unskilled operator also. Sensor data communication to associated weapon system is a complex requirement. A perfect interface of sensors with weapon system through computer control and communications link is the critical design requirement. The computer-aided software development resulted in highly reliable, easily traceable and reusable software. Expertise in developing and evaluating embedded system and associated software is now available. The technique for fault detection and fault localization has been well received by the user.
    Power Amplifier
    Power amplifier generates acoustic power through transducers. These have to withstand wide variation in load and power factors and operates in linear and non-linear switch modes. The switch mode power amplifier with high efficiency, high watt/volume and continuous power control has been developed and patented.
    Sonar Engineering
    Wet-end and onboard installation are the areas where mechanical engineering has a significant role to play. Sensors may be fitted to hull, taken onboard, towed behind a platform, lowered from a hovering helicopter, moored at sea, etc. Therefore, optimum engineering design is required for each wet-end application. For this purpose, DRDO has successfully developed winching and handing systems for towing electromechanical cables, quick disconnect electromechanical and heavy duty connectors, scuttling and pop-up mechanisms, high pressure housings and water sealing, card cages, electronics cabinets, cabinet cooling techniques, encapsulated systems; and embedded hardware.
  10. levanle2001

    levanle2001 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    17/11/2001
    Bài viết:
    250
    Đã được thích:
    0
    Bác có thể vui lòng dẫn chứng cho những nhận xét của bác không nhỉ (link nào, tài liệu nào, v.v..).
    Có lần tôi xem trên một chương trình TV, một chuyên gia tàu ngầm của Mỹ nói là về độ ồn so tàu Nga với tàu Mỹ thì giống như so sánh một chiếc Ford model T (loại xe hơi hồi đầu thế kỷ) với một chiếc Cadillac bây giờ. Chính người Nga cũng không biết điều này cho đến mãi thập kỷ 80, nhờ có một gián điệp hoạt động trong hải quân Mỹ. Sau khi biết thì người Nga toàn dấu tàu dưới lớp băng Bắc Cực (khả năng dùng sonar phát hiện sẽ khó hơn rất nhiều).
    Tất nhiên cũng có thể là ông này chỉ tuyên truyền thôi. Bởi thế cho nên cần "nói có sách, mách có chứng".
    Về tàu ngầm trong chiến tranh lạnh, bác nào ở nước ngoài có thể mua quyển "Blind men's bluff" trên Amazon.

    Le Van Le

Chia sẻ trang này