1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sỏi thận gồm có những loại nào?

Chủ đề trong 'Sức khoẻ - Y tế' bởi trisoithan, 24/05/2012.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. trisoithan

    trisoithan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/05/2012
    Bài viết:
    8
    Đã được thích:
    0
    Sỏi thận là một căn bệnh thường gặp. Hiện nay, có rất nhiều phương pháp điều trị sỏi thận và việc lựa chọn phương pháp nào còn phụ thuộcnhiều vào bản chất của từng loại sỏi. Điều quan trọng ở đây là cá nhân mỗi người có người thân trong gia đình chẳng may mắc bệnh sỏi thận, nên trang bị cho mình kiến thức về phân loại sỏi và cách để phòng ngừa đối với từng loại sỏi đó, để làm giảm thẩp nhất nguy cơ mắc bệnh.

    Sỏi canxi

    Sỏi canxi là loại sỏi thường gặp nhất trong các loại sỏi, chiếm khoảng 80% các trường hợp. Bình thường, sỏi canxi cứng, có nhiều hình dạng, kích thước, kết cấu khác nhau. Sỏi canxi hình hành trong thận và đường tiểu khi nồng độ canxi trong thận vượt quá mức cho phép. Canxi thường tạo sỏi với oxalat – chất thường gặp trong các thức ăn giàu dinh dưỡng ví dụ như cải thìa, củ cải, củ cải đường, sô cô la đen. Chính vì thế, các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo những người có nguy cơ mắc sỏi canxi cao nên tránh ăn các thức ăn có chứa nồng độ oxalat cao và cần uống hơn 12 ly nước/ngày (khoảng 2,5 – 3lít/ ngày).

    Sỏi struvite hay sỏi nhiễm trùng

    Sỏi struvite tạo thành trong thận là điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở trong đường tiểu. Sỏi struvite chiếm khoảng 10% các loại sỏi thận. Sỏi struvite được tạo thành do magie kết hợp với những chất thải của vi khuẩn ví dụ như ammoniac. Người ta thấy sự xuất hiện sỏi struvite hầu như luôn luôn đi kèm với tình trạng tắt nghẽn hay nhiễm trùng đường tiểu. Vì thế, đối với những người bị sỏi struvite, việc dùng kháng sinh phòng ngừa nhiễm trùng tiểu được xem là một bước bắt buộc, không thể thiếu trong quá trình điều trị.

    Sỏi axit uric

    Sỏi axit uric thường gặp ở những người có nồng độ axit uric cao, chiếm khoảng 10% các trường hợp sỏi thận. Sỏi axit uric không cứng và cũng không dễ phát hiện bằng tia X như sỏi canxi. Một số bệnh lý di truyền có thể làm thay đổi cân bằng pH của nước tiểu thúc đẩy sự tạo thành sỏi. Nước tiểu có nhiều axit thường gặp ở những người béo phì và những người tiểu đường kháng insulin. Vì thế, những người này cần phải được kiểm soát nồng độ axit uric và có những xét nghiệm tầm soát sỏi định kỳ. Hiện nay, một vài loại thuốc làm tăng nồng độ pH có thể được chỉ định cho những bệnh nhân mắc phải loại sỏi axit uric.

    Sỏi cystin

    Sỏi cystin rất hiếm, thường gặp ở những người có yếu có di truyền làm chống lại sự đào thải amino axit cystin. Trong các loại sỏi thì sỏi cystin có tính di truyền rõ rệt nhất. Những người với tiền sử gia đình có người mắc bệnh thì rất dễ thừa hưởng gen di truyền và có nguy cơ cao bị mắc loại sỏi này. Tuy nhiên, hiện nay người ta đã có thể ngăn ngừa loại sỏi này bằng thuốc. Song song đó, hầu hết những chuyên gia sức khỏe cho rằng những người có nguy cơ mắc loại sỏi này nên uống thật nhiều nước và tránh các thực phẩm giàu cystin hay những thức ăn chứa nhiều đạm nói chung.

    BS. Trần Vũ Anh Đào – Trung tâm nghiên cứu thực phẩm và dinh dưỡng
    Nguồn: http://trisoithan.vn/blog/soi-than-gom-co-nhung-loai-nao
  2. loithuan19

    loithuan19 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/12/2011
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Nguy cơ và nguyên nhân sỏi thận

    Ai là người có nguy cơ cao mắc bệnh sỏi thận?

    Bất cứ ai cũng có thể bị sỏi thận. Tuy nhiên, người mắc một số bệnh hay có những điều kiện thuận lợi (trình bày bên dưới) hoặc sử dụng một số loại thuốc sẽ có nguy cơ mắc bệnh sỏi thận cao hơn. Sỏi thận thường gặp ở nam nhiều hơn nữ. Tại Mỹ, khoảng 12% ở nam và 7% ở nữ sẽ bị sỏi thận ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời. Khoảng 20 triệu người nhập viện hằng năm vì sỏi thận. Hầu hết sỏi thận gặp ở người từ 20 đến 49 tuổi. Người đã có hơn một viên sỏi sẽ có nguy cơ phát triển thêm nhiều viên sỏi khác.

    Ở những nước công nghiệp phát triển, sỏi thận thường gặp hơn sỏi bàng quang. Ngược lại, ở những nước đang phát triển thì sỏi bàng quang là sỏi đường niệu thường gặp nhất. Điểm khác biệt trên được giải thích là do chế độ ăn khác nhau giữa hai vùng. Người sống ở phía Bắc và Tây Bắc nước Mỹ có chế độ ăn tăng nguy cơ tạo sỏi thận cao hơn những vùng khác. Hơn một vài thập niên vừa qua, tỉ lệ phần trăm người bị sỏi thận ở Mỹ đang ngày càng gia tăng nhưng cho đến nay nguyên nhân chính xác của sỏi thận vẫn chưa được xác định rõ.

    Tiền sử gia đình bị sỏi thận cũng là yếu tố nguy cơ của sự hình thành sỏi thận. Sỏi thận có thể gặp ở tất cả chủng tộc thường gặp ở người châu Á và châu Âu hơn là người Mỹ chính gốc, người châu Phi hay người Mỹ gốc Phi.

    Sỏi axit uric thường gặp hơn ở những người có nồng động axit uric trong máu tăng mạn tính.

    Một số ít phụ nữ có thai (khoảng 1/1500-3000 thai kỳ) hình thành sỏi thận và có những bằng chứng cho thấy có những thay đổi trong thai kỳ làm tăng nguy cơ hình thành sỏi. Những yếu tố đó bao gồm: dòng chảy của nước tiểu chậm lại do sự gia tăng nồng độ progesterone trong máu, giảm lượng nước đưa vào cơ thể do giảm khả năng chứa nước tiểu của bàng quang do tử cung lớn dần chèn vào. Phụ nữ có thai cũng tăng bài tiết canxi trong nước tiểu. Dù vậy, người ta vẫn còn chưa rõ liệu những thay đổi này của thai kỳ có trực tiếp tác động lên việc hình thành sỏi niệu hay không? Hay là những người phụ nữ này còn có những yếu tố tiềm ẩn nào khác dẫn đến việc hình thành sỏi thận của họ.

    Các nguyên nhân gây ra sỏi

    [​IMG]

    Sỏi thận được hình thành khi có sự giảm sút thể tích nước tiểu và/hoặc có sự gia tăng những chất hình thành sỏi trong nước tiểu. Loại sỏi niệu thường gặp nhất là sỏi canxi kết hợp với oxalat hay photphat. Khoảng 75% các trường hợp sỏi niệu là sỏi canxi. Những hợp chất hoá học khác có thể tạo thành sỏi niệu bao gồm axit uric, magie ammonium photphat (tạo thành sỏi struvite) và amino axit cystine.

    Sự mất nước do giảm lượng nước uống vào hoặc luyện tập thể thao tích cực mà không bổ sung đầy đủ lượng nước sẽ làm gia tăng nguy cơ hình thành sỏi thận. Tắc nghẽn dòng nước tiểu cũng có thể dẫn đến sỏi thận.

    Mặt khác, thời tiết cũng là yếu tố nguy cơ của bệnh sỏi thận. Ở những vùng khí hậu khô và nóng, bạn sẽ dễ bị mất nước hơn, do đó sẽ tăng nguy cơ tạo thành sỏi hơn.

    Sỏi thận cũng có thể do nhiễm trùng đường tiểu, nhất là sỏi struvite hay còn được gọi là sỏi nhiễm trùng. Bất thường chuyển hoá, bao gồm những rối loạn chuyển hoá di truyền có thể làm thay đổi thành phần của nước tiểu và làm gia tăng sự tạo thành sỏi ở một số người.

    Một số bệnh có thể làm tăng nguy cơ phát triển sỏi thận

    Gút: do tăng nồng độ axit uric mạn tính trong máu và nước tiểu có thể dẫn đến việc hình thành axit uric.

    Tăng canxi niệu: là bệnh di truyền, gây ra sỏi trong hơn 50% trường hợp mắc bệnh. Người mắc bệnh này có nồng độ canxi trong nước tiểu rất cao do sự hấp thu quá mức canxi từ thức ăn. Từ đó hình thành sỏi canxi photphat và canxi oxalat.

    Những bệnh khác liên quan đến ngu cơ sỏi thận bao gồm cường tuyến cận giáp, toan hoá ống thận xa và những bệnh chuyển hoá di truyền khác bao gồm tiểu cystin hay tăng oxalat niệu.

    Bệnh mạn tính như tiểu đường, tăng huyết áp cũng liên quan đến việc tăng nguy cơ sỏi thận.

    Bệnh viêm ruột, ruột nhân tạo, phẫu thuật tạo hậu môn nhân tạo cũng làm tăng nguy cơ sỏi thận.

    Một số thuốc cũng làm tăng nguy cơ sỏi thận. Những thuốc này bao gồm: một số loại thuốc lợi tiểu, thuốc kháng axit chứa canxi và thuốc ức chế protease như indinavir (Crixivan), một loại thuốc dùng để điều trị nhiễm HIV.

    Chế độ ăn và luyện tập thể dục có thể làm tăng nguy cơ hình thành sỏi thận ở một số người. Một vài trường hợp, uống nước không đủ có thể dẫn đến mất nước – yếu tố nguy cơ chính hình thành sỏi.

    Những chế độ ăn khác có thể làm gia tăng nguy cơ hình thành sỏi thận ở một số người là ăn nhiều protein động vật, ăn nhiều muối, tiêu thụ nhiều đường, cung cấp nhiều vitamin D, ăn quá mức các thức ăn có chứa oxalat như cải thìa. Điều bất ngờ là chế độ ăn ít canxi có thể làm thay đổi cân bằng canxi – oxalat và hậu quá là tăng tiết oxalat, cuối cùng tạo nên sỏi oxalat.

Chia sẻ trang này