1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SON 'S BUCXUC

Chủ đề trong 'Tâm sự' bởi sonsbucxuc, 27/02/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    Dao anh:
    http://hanoicorner.com/phpBB/viewtopic.php?t=4098&postdays=0&postorder=asc&start=16
  2. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    Tren web co nguoi hoi cach hoc cac mon HTL
    Học thuộc lòng ntn ư? Câu trả lời quá đơn giản:
    1. Luong can nho cang nhieu thi ton cang nhieu thoi gian
    2. Nap cham thi lau quen, nap nhanh thi nhanh quen
    Tuy chon thoi cac ban.
    - Tuy vao thoi gian can ghi nho va do chinh xac cua thong tin can thuoc ma cac ban " mix " cho phu hop.
    1 Doc luot toan bo cac dau de trong phan Muc luc
    2. Doc tat ca cac phan in dam in nghieng, chu to...
    Cac buoc tren chi can 10 phut cho 1 cuon sach. Chua nho gi thi dung ngai. Hay lap lai i xi viec tren lan nua.
    Neu van nuoc do la khoai hoac sot ruot, hay nghi ngoi 15 phut.
    3. Bay gio lay 1 to giay viet lai cai muc luc tu tri nho cua ban. No khac xa voi muc luc cua sach cung dung ngai.
    4. Bay gio xem lai muc luc "xin"; quan trong nhat la tu nhan ra va danh dau nhung phan ban cho la quan trong nhat. Xep thu tu.
    5. Bay gio moi phan can thuoc tu uu tien cao nhat tro xuong, ban hay doc tham 3 lan. Lan 1 ky tung chu, lan 2 ba chu doc 1 chu; lan 3 ,moi doan paragraph doc 3 chu.
    6. Viet tom tat ngay phan ban vua doc voi muc gon nhat ma ban co the tom.
    7. Doc toan van doan do (k bo chu) to ro, toc do cuc nhanh.
    Bay gio roi sang phan tiep theo hoac la nghi, lam viec chan tay 10 phut.
    Neu cam thay chua thuoc hoac chua my man, mai cung gio do ta hoc lai.
    Voi cach tren, toi thuoc duoc 72 cau triet Mac trong 5 ngay hoc day!
    Va bay gio thi chi con nho moi cai muc luc vi toi chua ghet mon triet ma.
    Chuc ban thanh cong.
    Được sonsbucxuc sửa chữa / chuyển vào 16:44 ngày 03/04/2005
  3. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    Tren web co nguoi hoi cach hoc cac mon HTL
    Học thuộc lòng ntn ư? Câu trả lời quá đơn giản:
    1. Luong can nho cang nhieu thi ton cang nhieu thoi gian
    2. Nap cham thi lau quen, nap nhanh thi nhanh quen
    Tuy chon thoi cac ban.
    - Tuy vao thoi gian can ghi nho va do chinh xac cua thong tin can thuoc ma cac ban " mix " cho phu hop.
    1 Doc luot toan bo cac dau de trong phan Muc luc
    2. Doc tat ca cac phan in dam in nghieng, chu to...
    Cac buoc tren chi can 10 phut cho 1 cuon sach. Chua nho gi thi dung ngai. Hay lap lai i xi viec tren lan nua.
    Neu van nuoc do la khoai hoac sot ruot, hay nghi ngoi 15 phut.
    3. Bay gio lay 1 to giay viet lai cai muc luc tu tri nho cua ban. No khac xa voi muc luc cua sach cung dung ngai.
    4. Bay gio xem lai muc luc "xin"; quan trong nhat la tu nhan ra va danh dau nhung phan ban cho la quan trong nhat. Xep thu tu.
    5. Bay gio moi phan can thuoc tu uu tien cao nhat tro xuong, ban hay doc tham 3 lan. Lan 1 ky tung chu, lan 2 ba chu doc 1 chu; lan 3 ,moi doan paragraph doc 3 chu.
    6. Viet tom tat ngay phan ban vua doc voi muc gon nhat ma ban co the tom.
    7. Doc toan van doan do (k bo chu) to ro, toc do cuc nhanh.
    Bay gio roi sang phan tiep theo hoac la nghi, lam viec chan tay 10 phut.
    Neu cam thay chua thuoc hoac chua my man, mai cung gio do ta hoc lai.
    Voi cach tren, toi thuoc duoc 72 cau triet Mac trong 5 ngay hoc day!
    Va bay gio thi chi con nho moi cai muc luc vi toi chua ghet mon triet ma.
    Chuc ban thanh cong.
    Được sonsbucxuc sửa chữa / chuyển vào 16:44 ngày 03/04/2005
  4. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0

    va
  5. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0

    va
  6. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    (tiep tieu thuyet)
    "- Thịnh ơi, nằm lại nhé với đại ngàn thân yêu ! Bọn mình ra đi để bước vào trận mới ?" văng vẳng tôi nghe giọng nói của chính mình chiều hôm xưa ấy, thay mặt toàn trung đội nói lời từ biệt hương hồn Thịnh - từ lòng sâu đất ẩm xin bạn thân yêu hãy nghe thấu lời anh em vĩnh biệt. Xin hãy chứng giám và phù hộ cho anh em tung hoành luồn lách trong đồn bốt quân địch hoàn thành nhiệm vụ. Xin hãy lắng nghe tiếng súng của anh em rửa thù cho bạn rồi đây sẽ rung chuyển đất trời..."
    Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi ! Suốt đêm nước mắt tôi ướt đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương và cay đắng ngậm ngùi.
    Một đêm khác, cũng trong mơ, tôi nhìn thấy truông Gọi Hồn và mơ thấy Hoà, cô giao liên xinh tươi, người Hải Hậu đã hy sinh vào thuở tối tăm mù mịt năm 68, và lần gặp gỡ trong mơ này hầu như là lần duy nhất chúng tôi thoáng bóng nhau sau ngần ấy năm trời người còn kẻ mất. Trong màn sương mù đặc của giấc mơ, tôi chỉ thấy Hoà thấp thoáng, xa vời nhưng với một tình yêu, một niềm đắm say và cảm giác gần gũi da diết mà ngay hồi đó tôi không hề cảm thấy. Hồi đó chỉ có nỗi sợ hãi, sự bất lực đầy nhục nhã, cảm giác chiến bại và trạng thái rã rời tuyệt vọng. Suốt đêm tôi trôi dạt trong bể khổ thời Mậu Thân. Khi tỉnh dậy thì ngoài cửa sổ trời đã tảng sáng, và lưu ảnh cuối cùng đọng trong tâm trí là cảnh tượng đau thương rùng rợn ấy: Hoà gục ngã giữa trảng cỏ và đằng sau bọn Mỹ xô tới, vây xúm lại, trần trùng trục, lông lá một bầy như những con đười ươi, phì phò thở, giằng giật, nặng nề hộc rống lên... Toàn thân tôi lạnh giá nhưng đẫm mồ hôi, cổ họng đau rát vì mê hoảng la hét, môi rướm máu, cúc áo ngủ đứt bung, ngực bị móng tay cào xoạc da. Và trái tim tôi run rẩy nhói đau, hồi hộp dồn dập như treo trên đầu sợi chỉ.
    Trở về sau chiến tranh, cho đến tận bây giờ, tôi đã phải chịu đựng hết hồi ức này sang hồi ức khác, đêm thâu này thấu đêm thâu kia thử hỏi đã bao năm ròng ?
    Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi "Xáo Thịt" la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72. Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hoá rồ trước mắt người qua đường. Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hoá thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở đợi một trái hoả tiễn từ tàu rà phụt xuống. "Chéo ?" éo ?" éo... Đoành !". Và tôi không thể nào bình tâm nổi trước cảnh bọn lính Mỹ mặc áo giáp đang gào lên xung trận trên màn ảnh truyền hình. Tôi như sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá. Tôi chóng mặt, choáng hồn đi vì niềm hưng phấn man rợ khi bật sống dậy trước mắt một trận chiến bằng báng súng và lưỡi lê. Và trống ngực nện thùm thùm, tôi nhìn chằm chằm vào các góc tối cầu thang nơi các hồn ma rách nát thường vẫn hiện hình, ôm theo những vết thương đỏ lòm toác hoác.
    Thì ra cuộc đời tôi kỳ thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lui về dĩ vãng. Đối với tôi tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi.Và không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay. Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại trong tôi không phải do những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của hồi tưởng.
    Tuy nhiên, mặc dù rất đỗi mù quáng tôi vẫn không thể không biết rằng không thể trông đợi gì vào những điều nhớ lại, rằng từ lâu đã không còn gì nữa cả, tất cả đã tắt hẳn và mất hút một cách không thương tiếc. Tôi cũng không thể không hiểu rằng ngôi sao chiếu mệnh của thời tôi đã vĩnh viễn lụi tắt. Vinh quang của cái thời đã qua ấy dầu rằng tột đỉnh nhưng chỉ một sớm một chiều. Hào quang choáng ngợp buổi đầu sau chiến tranh đã chóng vánh mai một trong từng thân phận. Những người đã chết đã chết cả rồi, người được sống tiếp tục sống xong những khát vọng nồng cháy từng là cứu cánh của cả một thời, từng soi rọi cho chúng tôi nội dung lịch sử, thiên chức và vận hội của thế hệ mình, rủi thay đã không thể thành ngay hiện thực cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến như chúng tôi hằng tưởng. Đến bây giờ, đến lúc này đây, bạn hãy xem thực chất quanh ta có gì khác hơn ngoài cuộc sống tầm thường và thô bạo của thời hậu chiến ?
    Và như thế là đã đằng đẵng bao nhiêu năm trời rồi trôi qua ? Mười năm. Rồi mười một. Rồi mười hai, mười ba năm. Ngay cả cái tuổi bốn mươi ngày nào xa lạ và khó tin biết mấy nay cũng chỉ còn lại nốt một mùa đông này.
    Từ chân trời dĩ vãng ngọn gió buồn vô hạn của tình yêu và tự do như là niềm tiếc nuối khôn nguôi cứ mãi hoài thổi qua thành phố, qua làng mạc, và trong đời tôi?
    Kiên buông bút, đưa tay tắt ngọn đèn bàn khẽ ẩy ghế ra, đứng dậy, lặng lẽ đến bên cửa sổ. Trong phòng rất lạnh nhưng anh thấy tức thở, oi bức, khó chịu như thể đang trước một cơn giông trước một đêm hè. Cảm giác không toại nguyện đắng ngắt. Dường như cứ càng nhích gần tới thì ngòi bút của anh càng chệch xa khỏi cốt lõi của điều cần đạt tới trong tác phẩm.
    Mỗi buổi tối, trước khi ngồi vào bàn giở bản thảo ra bao giờ Kiên cũng gắng chuẩn bị cho mình một tâm trạng thích hợp ?" anh cố tách bạch từng cảm xúc, cố định hình các vấn đề phức tạp như là phác sẵn ra trong đầu từng trang và từng trường đoạn cần phải viết xong trong từng thời gian nhất định. Đại để nhân vật của anh sẽ làm gì, nói gì, sẽ gặp những cảnh huống nào phải có tính trước. Thế nhưng thường thường đã viết là cuốn trôi đi hết mọi dự định hoặc xáo trộn lên làm mất trình tự và mạch lạc mà Kiên mong muốn. Khi đọc lướt lại bản thảo, anh ngỡ ngàng và kinh hãi thấy điều mà mình vừa khẳng định ở trang trước đã bị phủ định ở trang này. Và các nhân vật của anh không ngừng tự mâu thuẫn. Tuồng như càng trăn trở anh càng tuột nhanh khỏi vấn đề làm anh trăn trở.
    Nhiều đêm ngồi bên bàn viết anh miệt mài theo đuổi một ý tưởng nào đó, bám theo nó từng dòng, từng trang vật vã với nó, dằn vặt đầu óc bởi nó, để rồi rốt cuộc chợt nhận thấy rằng hoá ra là nói chung mình chẳng có một ý tưởng nào cả, hoặc giả có thì ý tưởng ấy vẫn là một cái gì hoàn toàn mờ mịt, vẫn nằm ở ngoài bản thảo, ở ngoài tầm với của tâm hồn anh, tuồng như là nó còn lạc sâu trong miền bất khả tri của cõi lòng, miền của những bí quyết và năng lực tinh thần có thể là bẩm sinh song rất có thể chẳng bao giờ bộc lộ, mãi mãi chỉ là tiềm ẩn.
    Anh viết ra dường như chỉ để mà huỷ. Nỗi xót xa tiếc rẻ công sức và tâm lực bị phí hoài cùng nỗi lo sợ mãi mãi giẫm chân tại chỗ không thắng nổi bệnh cầu toàn đầy oan nghiệt. Gạch, xoá, gạch, xoá, và xé, xé sạch, rồi lại cặm cụi viết, nhích dần từng chữ như thể một gã i tờ đang học đánh vần. Nhưng dù sao thì Kiên cũng chưa bao giờ sẵn sàng đón nhận cái khả năng là mình chẳng hề có chút tài năng nào, thậm chí cả năng khiếu cũng không. Anh tuyệt vọng nhưng không khi nào là hoàn toàn tuyệt vọng. Anh viết, anh chờ đợi, rồi lại viết, lại chờ đợi, nôn nóng, căng thẳng, đầy những kích động thái quá của nội tâm, sống một mình với những cảm xúc của mình, anh lao động, lao động không ngừng, và già đi trông thấy. Có lẽ chỉ nhờ niềm tin kỳ quái vào bản thân mà Kiên vẫn đứng vững sau chừng ấy thất bại, vẫn kiên trì nuôi dưỡng cái linh cảm về những thành quả sẽ tới với quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình.
    Tuy nhiên từ khi bắt tay vào tiểu thuyết tâm trạng Kiên như mấp mé bờ vực. Bên cạnh niềm hi vọng và lòng tin vào thiên chức của mình, anh như luôn ngờ vực sự sáng suốt của chính mình. Anh không còn dám chắc vào bản ngã trong anh nữa. Mặc dù vẫn hết trang này sang trang khác, chương này sang chương khác, song càng viết Kiên càng âm thầm nhận thấy rằng, tuồng như không phải là anh mà là một cái gì đấy đối lập, thậm chí thù nghịch với anh đang viết, đang không ngừng vi phạm, không ngừng lật ngược tất cả những giáo điều cùng tất cả những tín niệm văn chương và nhân sinh sâu bền nhất của anh. Và hoàn toàn không cưỡng nổi, mỗi ngày Kiên một dấn mình thêm vào vòng xoáy của nghịch lý hiểm nghèo ấy của bút pháp. Ngay từ chương đầu tiên cuốn tiểu thuyết của anh đã buông lơi cốt truyện truyền thống, không gian và thời gian tự ý khuấy đảo không kể gì đến tính hợp lý, bố cục bấn loạn, dòng đời các nhân vật bị phó mặc cho ngẫu hứng. Trong từng chương một Kiên viết về chiến tranh một cách rất tuỳ ý như thể ấy là một cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới, như thể đó là cuộc chiến tranh của riêng anh. Và cứ thế, nửa điên rồ Kiên lao vào chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình, một cách đơn độc, phi hiện thực, một cách cay đắng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc.
    Thế nhưng dẫu có biết mười mươi là rồi sẽ đại bại Kiên cũng chẳng sao ngừng được. Sau những truyện ngắn và truyện vừa, giờ đây cuốn tiểu thuyết đầu tay cực kỳ bấp bênh và còn vô cùng dang dở này như là một cuộc phiêu lưu cuối cùng trong cả cuộc đời làm lính của anh, đồng thời cũng là một sự thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự sinh tồn của anh không chỉ trên tư cách là một người cầm bút. Sự nghiệp bút nghiên đã đưa Kiên đến bờ cao dốc đứng của cuộc sống, không có cách gì lẩn tránh hoặc lần lữa, cũng không hề có một phép mầu, một cứu cánh nào...
    (con nua)
  7. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    (tiep tieu thuyet)
    "- Thịnh ơi, nằm lại nhé với đại ngàn thân yêu ! Bọn mình ra đi để bước vào trận mới ?" văng vẳng tôi nghe giọng nói của chính mình chiều hôm xưa ấy, thay mặt toàn trung đội nói lời từ biệt hương hồn Thịnh - từ lòng sâu đất ẩm xin bạn thân yêu hãy nghe thấu lời anh em vĩnh biệt. Xin hãy chứng giám và phù hộ cho anh em tung hoành luồn lách trong đồn bốt quân địch hoàn thành nhiệm vụ. Xin hãy lắng nghe tiếng súng của anh em rửa thù cho bạn rồi đây sẽ rung chuyển đất trời..."
    Ôi năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi ! Suốt đêm nước mắt tôi ướt đầm gối bởi nhớ nhung, bởi tiếc thương và cay đắng ngậm ngùi.
    Một đêm khác, cũng trong mơ, tôi nhìn thấy truông Gọi Hồn và mơ thấy Hoà, cô giao liên xinh tươi, người Hải Hậu đã hy sinh vào thuở tối tăm mù mịt năm 68, và lần gặp gỡ trong mơ này hầu như là lần duy nhất chúng tôi thoáng bóng nhau sau ngần ấy năm trời người còn kẻ mất. Trong màn sương mù đặc của giấc mơ, tôi chỉ thấy Hoà thấp thoáng, xa vời nhưng với một tình yêu, một niềm đắm say và cảm giác gần gũi da diết mà ngay hồi đó tôi không hề cảm thấy. Hồi đó chỉ có nỗi sợ hãi, sự bất lực đầy nhục nhã, cảm giác chiến bại và trạng thái rã rời tuyệt vọng. Suốt đêm tôi trôi dạt trong bể khổ thời Mậu Thân. Khi tỉnh dậy thì ngoài cửa sổ trời đã tảng sáng, và lưu ảnh cuối cùng đọng trong tâm trí là cảnh tượng đau thương rùng rợn ấy: Hoà gục ngã giữa trảng cỏ và đằng sau bọn Mỹ xô tới, vây xúm lại, trần trùng trục, lông lá một bầy như những con đười ươi, phì phò thở, giằng giật, nặng nề hộc rống lên... Toàn thân tôi lạnh giá nhưng đẫm mồ hôi, cổ họng đau rát vì mê hoảng la hét, môi rướm máu, cúc áo ngủ đứt bung, ngực bị móng tay cào xoạc da. Và trái tim tôi run rẩy nhói đau, hồi hộp dồn dập như treo trên đầu sợi chỉ.
    Trở về sau chiến tranh, cho đến tận bây giờ, tôi đã phải chịu đựng hết hồi ức này sang hồi ức khác, đêm thâu này thấu đêm thâu kia thử hỏi đã bao năm ròng ?
    Nhiều hôm không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi qua đồi "Xáo Thịt" la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng Chạp 72. Tử khí xộc lên từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hoá rồ trước mắt người qua đường. Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hoá thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở đợi một trái hoả tiễn từ tàu rà phụt xuống. "Chéo ?" éo ?" éo... Đoành !". Và tôi không thể nào bình tâm nổi trước cảnh bọn lính Mỹ mặc áo giáp đang gào lên xung trận trên màn ảnh truyền hình. Tôi như sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá. Tôi chóng mặt, choáng hồn đi vì niềm hưng phấn man rợ khi bật sống dậy trước mắt một trận chiến bằng báng súng và lưỡi lê. Và trống ngực nện thùm thùm, tôi nhìn chằm chằm vào các góc tối cầu thang nơi các hồn ma rách nát thường vẫn hiện hình, ôm theo những vết thương đỏ lòm toác hoác.
    Thì ra cuộc đời tôi kỳ thực có khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lui về dĩ vãng. Đối với tôi tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi.Và không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hi vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi, mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay. Chút lòng tin và lòng ham sống còn lại trong tôi không phải do những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của hồi tưởng.
    Tuy nhiên, mặc dù rất đỗi mù quáng tôi vẫn không thể không biết rằng không thể trông đợi gì vào những điều nhớ lại, rằng từ lâu đã không còn gì nữa cả, tất cả đã tắt hẳn và mất hút một cách không thương tiếc. Tôi cũng không thể không hiểu rằng ngôi sao chiếu mệnh của thời tôi đã vĩnh viễn lụi tắt. Vinh quang của cái thời đã qua ấy dầu rằng tột đỉnh nhưng chỉ một sớm một chiều. Hào quang choáng ngợp buổi đầu sau chiến tranh đã chóng vánh mai một trong từng thân phận. Những người đã chết đã chết cả rồi, người được sống tiếp tục sống xong những khát vọng nồng cháy từng là cứu cánh của cả một thời, từng soi rọi cho chúng tôi nội dung lịch sử, thiên chức và vận hội của thế hệ mình, rủi thay đã không thể thành ngay hiện thực cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến như chúng tôi hằng tưởng. Đến bây giờ, đến lúc này đây, bạn hãy xem thực chất quanh ta có gì khác hơn ngoài cuộc sống tầm thường và thô bạo của thời hậu chiến ?
    Và như thế là đã đằng đẵng bao nhiêu năm trời rồi trôi qua ? Mười năm. Rồi mười một. Rồi mười hai, mười ba năm. Ngay cả cái tuổi bốn mươi ngày nào xa lạ và khó tin biết mấy nay cũng chỉ còn lại nốt một mùa đông này.
    Từ chân trời dĩ vãng ngọn gió buồn vô hạn của tình yêu và tự do như là niềm tiếc nuối khôn nguôi cứ mãi hoài thổi qua thành phố, qua làng mạc, và trong đời tôi?
    Kiên buông bút, đưa tay tắt ngọn đèn bàn khẽ ẩy ghế ra, đứng dậy, lặng lẽ đến bên cửa sổ. Trong phòng rất lạnh nhưng anh thấy tức thở, oi bức, khó chịu như thể đang trước một cơn giông trước một đêm hè. Cảm giác không toại nguyện đắng ngắt. Dường như cứ càng nhích gần tới thì ngòi bút của anh càng chệch xa khỏi cốt lõi của điều cần đạt tới trong tác phẩm.
    Mỗi buổi tối, trước khi ngồi vào bàn giở bản thảo ra bao giờ Kiên cũng gắng chuẩn bị cho mình một tâm trạng thích hợp ?" anh cố tách bạch từng cảm xúc, cố định hình các vấn đề phức tạp như là phác sẵn ra trong đầu từng trang và từng trường đoạn cần phải viết xong trong từng thời gian nhất định. Đại để nhân vật của anh sẽ làm gì, nói gì, sẽ gặp những cảnh huống nào phải có tính trước. Thế nhưng thường thường đã viết là cuốn trôi đi hết mọi dự định hoặc xáo trộn lên làm mất trình tự và mạch lạc mà Kiên mong muốn. Khi đọc lướt lại bản thảo, anh ngỡ ngàng và kinh hãi thấy điều mà mình vừa khẳng định ở trang trước đã bị phủ định ở trang này. Và các nhân vật của anh không ngừng tự mâu thuẫn. Tuồng như càng trăn trở anh càng tuột nhanh khỏi vấn đề làm anh trăn trở.
    Nhiều đêm ngồi bên bàn viết anh miệt mài theo đuổi một ý tưởng nào đó, bám theo nó từng dòng, từng trang vật vã với nó, dằn vặt đầu óc bởi nó, để rồi rốt cuộc chợt nhận thấy rằng hoá ra là nói chung mình chẳng có một ý tưởng nào cả, hoặc giả có thì ý tưởng ấy vẫn là một cái gì hoàn toàn mờ mịt, vẫn nằm ở ngoài bản thảo, ở ngoài tầm với của tâm hồn anh, tuồng như là nó còn lạc sâu trong miền bất khả tri của cõi lòng, miền của những bí quyết và năng lực tinh thần có thể là bẩm sinh song rất có thể chẳng bao giờ bộc lộ, mãi mãi chỉ là tiềm ẩn.
    Anh viết ra dường như chỉ để mà huỷ. Nỗi xót xa tiếc rẻ công sức và tâm lực bị phí hoài cùng nỗi lo sợ mãi mãi giẫm chân tại chỗ không thắng nổi bệnh cầu toàn đầy oan nghiệt. Gạch, xoá, gạch, xoá, và xé, xé sạch, rồi lại cặm cụi viết, nhích dần từng chữ như thể một gã i tờ đang học đánh vần. Nhưng dù sao thì Kiên cũng chưa bao giờ sẵn sàng đón nhận cái khả năng là mình chẳng hề có chút tài năng nào, thậm chí cả năng khiếu cũng không. Anh tuyệt vọng nhưng không khi nào là hoàn toàn tuyệt vọng. Anh viết, anh chờ đợi, rồi lại viết, lại chờ đợi, nôn nóng, căng thẳng, đầy những kích động thái quá của nội tâm, sống một mình với những cảm xúc của mình, anh lao động, lao động không ngừng, và già đi trông thấy. Có lẽ chỉ nhờ niềm tin kỳ quái vào bản thân mà Kiên vẫn đứng vững sau chừng ấy thất bại, vẫn kiên trì nuôi dưỡng cái linh cảm về những thành quả sẽ tới với quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình.
    Tuy nhiên từ khi bắt tay vào tiểu thuyết tâm trạng Kiên như mấp mé bờ vực. Bên cạnh niềm hi vọng và lòng tin vào thiên chức của mình, anh như luôn ngờ vực sự sáng suốt của chính mình. Anh không còn dám chắc vào bản ngã trong anh nữa. Mặc dù vẫn hết trang này sang trang khác, chương này sang chương khác, song càng viết Kiên càng âm thầm nhận thấy rằng, tuồng như không phải là anh mà là một cái gì đấy đối lập, thậm chí thù nghịch với anh đang viết, đang không ngừng vi phạm, không ngừng lật ngược tất cả những giáo điều cùng tất cả những tín niệm văn chương và nhân sinh sâu bền nhất của anh. Và hoàn toàn không cưỡng nổi, mỗi ngày Kiên một dấn mình thêm vào vòng xoáy của nghịch lý hiểm nghèo ấy của bút pháp. Ngay từ chương đầu tiên cuốn tiểu thuyết của anh đã buông lơi cốt truyện truyền thống, không gian và thời gian tự ý khuấy đảo không kể gì đến tính hợp lý, bố cục bấn loạn, dòng đời các nhân vật bị phó mặc cho ngẫu hứng. Trong từng chương một Kiên viết về chiến tranh một cách rất tuỳ ý như thể ấy là một cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới, như thể đó là cuộc chiến tranh của riêng anh. Và cứ thế, nửa điên rồ Kiên lao vào chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình, một cách đơn độc, phi hiện thực, một cách cay đắng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc.
    Thế nhưng dẫu có biết mười mươi là rồi sẽ đại bại Kiên cũng chẳng sao ngừng được. Sau những truyện ngắn và truyện vừa, giờ đây cuốn tiểu thuyết đầu tay cực kỳ bấp bênh và còn vô cùng dang dở này như là một cuộc phiêu lưu cuối cùng trong cả cuộc đời làm lính của anh, đồng thời cũng là một sự thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự sinh tồn của anh không chỉ trên tư cách là một người cầm bút. Sự nghiệp bút nghiên đã đưa Kiên đến bờ cao dốc đứng của cuộc sống, không có cách gì lẩn tránh hoặc lần lữa, cũng không hề có một phép mầu, một cứu cánh nào...
    (con nua)
  8. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    (tiep tieu thuyet)
    Nhưng trên tất cả mọi lý do, thú thật còn phải kể đến một ý tưởng lạ lùng đã ăn sâu vào Kiên từ nhiều năm. Ngấm ngầm anh tin mình tồn tại ở đời này với một thiên mệnh vô danh, thiêng liêng và cao cả, song tuyệt đối bí ẩn. Chính bởi thiên mệnh ấy mà anh có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế và tóm lại một cuộc sống như đã sống suốt bốn chục năm qua với những đau khổ và hạnh phúc như thế. Cũng vì mang trong người một định mệnh huyền cơ nào đấy nên anh mới có thể sống sót qua cuộc chiến tranh với những hoàn cảnh mà bình thường ra không thể có cơ hội thoát chết. Ánh sáng trong suốt và hình bóng vô hình của một thiên mệnh như thế thật ra đã từng hiển hiện trong đời anh nhưng thoảng lướt và bất chợt đến nỗi không bao giờ anh kịp hiểu, không bao giờ kịp níu giữ. Nó nhói lên, loé sáng và vụt tắt như ánh sao băng. Lần đầu tiên Kiên cảm thấy sức mạnh của mệnh trời soi rọi trong anh không phải là trong chiến tranh mà vào những ngày mới hoà bình khi anh tham gia đoàn thu nhặt hài cốt tử sĩ. Sức mạnh đó từng nhói lên trong anh, thôi thúc anh vượt qua bao hoàn cảnh tối tăm của đời sống thời bình, nó nuôi giữ lòng tin, lòng ham sống, tình thương yêu. Anh chưa bao giờ hiểu được, thậm chí chưa bao giờ cảm nhận nổi thiên mệnh ấy, chỉ biết nó tồn tại trong anh âm thầm bí ẩn, êm ả và đau đớn một cách không thể nhận thức được. Tuy nhiên theo dần năm tháng tâm hồn anh càng ngày càng chín muồi hơn cái khát vọng thể hiện thiên chức thiêng liêng huyền bí của đời mình, chí ít thì cũng nắm bắt được nó, gọi được nó lên thành lời.
    ... Vào một mùa hè cách đây đã dăm năm, trên đường lãng du, Kiên tình cờ láng qua thị trấn Nhã Nam, và cũng hoàn toàn do tình cờ thôi mà từ thị trấn anh đã rẽ vào thăm Đồi Mơ, xóm nhỏ ngày xưa. Hai mươi năm về trước , tiểu đoàn tân binh của anh đã chốt ở vùng này ba tháng trời, huấn luyện và an dưỡng, chờ ngày lên đường "đi bê dài".
    Tuy nhiên dường như chưa một ngày nào của hai chục năm trường ấy đã trôi qua. Cảnh vật vẫn y nguyên như thể bị thời gian bỏ sót. Những đồi thông, đồi sim mua, đồi cỏ giàng giàng, cỏ đuôi chồn, những rừng dẻ, rừng bạch đàn quạnh vắng, đìu hiu. Nhà cửa thưa thớt, mỗi đồi mỗi nhà và vẫn buồn thảm không khác gì xưa. Không định trước, Kiên rời đường cái rẽ vào đường rất mỏng chìm trong cỏ vòng quanh đồi Mơ tìm đến túp nhà của mẹ Lành, mẹ nuôi của bọn anh, ba đứa trong tổ tam tam ngày ấy.
    Túp nhà vẫn đó và hệt như thuở ấy: tường đất, mái gianh, với mảnh sân hẹp và khoảng vườn um tùm cỏ. Bên thềm giữa những bụi Ngấy hoang tàn cái giếng nước với cái ròng rọc kêu ken két vẫn đấy. Mẹ nuôi của anh đã qua đời. Bây giờ một mình một bóng sống trong túp nhà xưa ấy là Lan, con gái út của bà cụ. Chị nhận ngay ra Kiên, chị nhớ cả cái biệt hiệu "Thần sầu" trứ danh của anh hồi đó nữa. Vậy mà Kiên thậm chí không hề nhớ là có một cô bé nào đó sống ở đây hồi ấy. "Lúc ấy em mới chưa đầy mười ba, vẫn đang chú cháu với các anh... mới lại con gái đồng rừng xấu xí nhút nhát...", chị nói. Nhưng bây giờ trước mắt anh là một thiếu phụ mảnh dẻ, cặp mắt to đượm buồn và vẻ quyến rũ thầm lén.
    Chị ứa nước mắt khi được Kiên cho hay rằng, Quang và Hùng, hai người cùng tổ tam tam với anh đã đều nằm lại trong chiến tranh. "Thời buổi ác nghiệt - chị nói ?" và dài quá là dài, cuốn đi mất biết bao nhiêu là người... bao nhiêu là lượt tân binh đã về đóng ở nhà em, gọi mẹ em là mẹ, coi em là em, thế mà chỉ mỗi anh trở lại... Hai anh trai của em, các bạn học của em và cả anh ấy nhà em nữa đều lứa đàn em của các anh, đi bộ đội sau các anh bao nhiêu năm, nhưng chẳng ai thoát về được cả".
    Chị đưa anh lên đồi viếng mồ bà mẹ. Sau trận mưa chiều màu cỏ xanh mướt nước trên đồi Mơ thắm hồng ánh đỏ của vừng ráng. Dưới đồi có con sông chảy lượn qua và qua những đám cỏ rậm rạp trên đồi có thể nhìn thấy loáng thoáng từng quãng sông uốn khúc lấp lánh ánh phản quang. Kiên thắp nhang, cúi đầu hồi lâu trước mồ bà mẹ nuôi, bất lực cố hình dung nét mặt của bà.
    - Giá kể hồi đó người ta hẵng gườm gượm, báo tử lần lượt thưa ra thì có khi mẹ em vẫn còn sống được tới giờ. Không may là bấy giờ lại hoà bình vừa xong, những chuyện chết chóc họ muốn dứt khoát đâm thành ác nghiệt. Nhè cùng một ngày, buổi sáng buổi chiều mà gởi hai cái giấy báo hy sinh hai người anh trai của em. Mẹ em thật như là bị xô ngã, mê thiếp đi, bằn bặt suốt ba ngày không một lần hồi tỉnh. Mẹ mất đi chẳng nói một lời, anh ạ...
    Bên mồ bà cụ là nấm mộ nhỏ nhoi của con trai Lan, Lan kể, không khóc:
    - Thằng cu nhà em đẻ ra nặng gần bốn ký thế mà chỉ sống được có hai ngày. Cháu tên Việt, họ Nông. Anh ấy nhà em người Tày, quê tít đâu trên mạn ngược Hà Giang. Về đóng ở đây được có non một tháng nên chúng em nào đã kịp cưới xin, cả đến báo cáo cấp chỉ huy cũng chưa. Đi được nửa năm thì có thư về cho em, cơ mà không phải anh ấy viết. Người cùng tiểu đội viết. Báo tin rằng anh ấy đã hy sinh trên dọc đường qua Lào... Thằng cu Việt con em còn trong bụng mẹ đã mồ côi cha, có nhẽ vì thế nên cháu chẳng muốn sống... Đấy, nông nỗi đời em như thế đấy anh ạ. Mỗi năm mỗi xiêu đi. Em cứ ở vậy. Quanh quẩn trong nhà ngoài đồi, chẳng để ý tới ai, chẳng ai để ý tới... mà cũng lạ từ sau đợt đơn vị nhà em, Đồi Mơ này không có thêm đợt bộ đội nào về nữa. Rồi thì hoà bình rồi tới hôm nay, bao năm rồi...
    Chị lưu anh lại tối hôm ấy. Suốt đêm. Đêm hè ngắn ngủi. Văng vẳng tiếng cuốc kêu ngoài xa, mé rừng. Và rì rầm bên kia đồi dòng sông trôi.
    Hôm sau Kiên ra đi từ sáng sớm. Lan tiễn anh qua đồi. Họ đi bên nhau, lặng lẽ. Mặt trời đang lên, sương vãn dần. Sau một đêm gương mặt Lan gầy đi, thâm quầng.
    - Đã có lần em định đi kinh tế mới bỏ hẳn đất này vào Nam sinh cơ lập nghiệp ?" Lan nói, giọng buồn buồn ?" Nhưng không dứt lòng mà đi nổi. Trên kia, hai bà cháu nằm đấy... Với lại chẳng hiểu sao em cứ nán chờ, chờ mãi, chẳng biết là chờ gì, chờ ai. Không lẽ là chờ đợi chính anh ?
    Kiên không thốt nổi nên lời, mắt nhìn tránh đi - Chả hiểu sao em lại nhận ngay ra anh. So với hồi ấy nom anh khác hẳn. Mới lại hồi ấy em còn nhỏ oắt. Hay anh là tình đầu của em mà em không hay.
    Kiên gượng cười, lòng thắt lại.Gần tới đường cái, anh dừng bước. Nắm nhẹ một bàn tay của Lan anh nâng lên, cúi xuống, áp môi, chầm chậm hôn rất lâu.
    - Em ở lại, bình yên sống, đừng buồn nhé, em mến thương ! Đừng nghĩ xấu về anh.
    Âu yếm, Lan vuốt vuốt vai áo anh và hôn lên mái tóc của anh đã điểm bạc.
    - Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi vào hãy sống cho thoả... còn em, em sẽ nuôi con nuôi, sẽ sống bình yên. Giá kể có được với anh... nhưng không, thì cũng gì mà buồn. Coi như cả anh cả em, ta một lần được trở về với hồi trước, khi tất cả người thân yêu còn sống... Còn nói ví dụ, tức là em cũng cứ nói phòng thế, bỗng dưng một ngày nào anh gặp cảnh ngộ không may, thấy đã hết ngã để đi tiếp thì xin anh hãy nhớ ngay rằng, dù sao cũng còn một nơi, cũng còn một người... Đồi Mơ đây là nơi anh đã lên đường chiến đấu lập nghiệp, mai sau nếu anh muốn cũng sẽ là một nơi, một chốn anh về.
    Kiên ôm lấy Lan, riết vào ngực.
    - Thôi anh đi đi kẻo muộn. Em sẽ nhớ anh mãi. Còn anh đừng quên hẳn em nhé, anh thân yêu tình cờ của em !
    Những bãi cỏ ven đường đã ngập nắng. Bóng Kiên ngả dài. Anh bước đi, đầu cúi xuống. Bầu trời mùa hạ cao xanh, buồn bã. Khi anh ngoảnh lại, Lan còn đứng đó trông theo. Nhưng một lần nữa, anh ngoái nhìn, bóng Lan đã khuất sau đồi.
    Mấy năm sau, một chiều nọ, cũng đang hè, trên đường từ biên giới trở về Hà Nội, chiếc com măng ca chở Kiên và nhóm phóng viên trong toà soạn chạy chéo qua ngả Bắc Giang, miền bán sơn địa nhấp nhô đồi gò, khe lũng và những vạt rừng thưa. Trong xe dần dần chỉ còn Kiên thức cùng người lái. Gió lướt dài mát rượi. Hai bên đường từ các khe ngòi um tùm hơi đất mềm mại lan ra, toàn bộ không gian tĩnh lặng một khối lam chiều hoang vắng. Trong lòng Kiên chợt thấy nao lên một nỗi buồn đơn giản, xót xa choáng ngợp.
    Phải, chính là ở đây đây, "Vẫn còn một nơi, vẫn còn một người" - Lời ước hẹn buồn bã và vô vọng ngày nào vẳng lên gợi cho anh nhớ rằng cuộc đời mình thế là đã hết rồi, đã hết đến cả chút dư âm cuối cùng. Bao nhiêu quãng đời yêu dấu với bao người thân yêu nay đều đã biệt mù tăm tích mà anh chẳng hề lưu giữ được gì, đã để phí hoài tất cả. Có thể nói rằng trong nhiều năm qua anh đã sống mà chẳng hề ngoái nhìn lại. Không có dịp và cũng chẳng có nhu cầu, ngày tháng công việc cứ xô trào lên che lấp hết. Giờ thì đã muộn mất rồi. Anh nhắm mắt lại, và một cảm giác nghèn nghẹn lìm lịm lặng lẽ dìm tim anh xuống. Tuy nhiên không phải là niềm tuyệt vọng...
    Chiều hôm ấy, thật kỳ lạ, kỷ niệm về Đồi Mơ, về mối tình vô danh đêm ven đồi năm nào trỗi dậy trên đường xa đã đồng thời làm tỉnh lại trong lòng anh ý thức về một thiên mệnh đầy thôi thúc. Thôi thúc một cách tha thiết và u buồn. Đời anh rộng mở, hãy đi và hãy sống...
    Đấy, cần phải viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc ấy, viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những cảm xúc chỉ có thể diễn đạt được bằng quá khứ. Kiên nghĩ. Mặc dù cố nhiên chiến tranh không hề là như vậy. Chiến tranh...
    Nhưng vì sao anh lại chọn đề tài là chiến tranh và vì sao nhất thiết phải là đề tài ấy ? Trong chiến tranh, cuộc sống của anh, của bao người khác thật là kinh khủng, thậm chí khó có thể bảo đấy là cuộc sống, nói gì đến việc tìm kiếm những sắc thái nghệ thuật trong cuộc sống đó. Và chính anh chứ chẳng phải ai khác cho đến tận ngày hôm nay vẫn không tài nào bước vào rạp chiếu bóng để xem những bộ phim trong đó người ta nhè đầu nhau mà khạc đạn. Không những thế văn chương về chiến tranh, tất nhiên là văn chương của người khác, anh hết sức tránh đọc. Thú thật là anh cực kỳ khiếp hãi những thiên truyện ấy. Thế nhưng bản thân anh thì lại thế, một mực viết mãi không chán những súng nổ bom rơi, những mùa khô mùa mưa, quân địch, quân ta. Anh không thể viết khác, mai sau ví dụ có viết khác đi thì cũng là bởi vì thâm tâm luôn muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước.
    Đôi khi cũng toan một hướng mới nào đó nhưng ngòi bút lại chẳng tuân theo. Như là khi bắt đầu cuốn tiểu thuyết đầu tay này Kiên đã dự định một cốt truyện hậu chiến và vì thế chương thứ nhất anh viết về những người đi thu hài cốt tử sĩ, những người lính sắp giải ngũ để về với đời thường. Song một cách không thể cưỡng lại, các trang bản thảo dựng dậy hết cái chết này qua cái chết khác, dần dần đi sâu mãi vào những cánh rừng nguyên thuỷ của chiến tranh, lặng lẽ nhóm lên mãi lò lửa tàn khốc ấy của ký ức. Vậy mà thực ra anh có thể viết bao nhiêu chuyện có lẽ chẳng dính dáp gì tới trận mạc,bởi vì cũng như mọi người ngày nay anh nhìn cuộc đời đâu chỉ từ một ô cửa duy nhất nào.
    Chẳng hạn về thời thơ ấu, thời thơ ấu vô cùng hạnh phúc và vô cùng buồn đau trước chiến tranh còn rất nhiều kỷ niệm chưa phai nhoà, anh nghĩ là mình hoàn toàn có thể viết với niềm tuyệt hứng. "... Tôi sinh ra và lớn lên... cha mẹ tôi lúc sinh thời...", đại khái thế. Mà tại sao không viết về cuộc đời của cha và cả thế hệ của Người nữa, một thế hệ vĩ đại và bi thảm, đầy những hoài bão và đầy những không tưởng, mang nặng những phẩm chất và những tình cảm cao quý mà ngày nay đã bị thế hệ của anh làm cho vĩnh viễn mai một. Cứ mỗi lần nghĩ lại tuổi thơ, nhớ đến cha, bao giờ Kiên cũng cảm thấy ân hận, dường như anh đã yêu thương, tôn kính cha chưa đủ mức một người con, anh đã biết quá ít, hầu như không biết gì cả những năm tháng cuộc đời cha. Anh đã chẳng nhớ gì mấy nữa về tấn bi kịch gia đình, không biết vì sao cha mẹ lại chia tay, không biết rằng cha đã đau khổ như thế nào. Về mẹ thì anh biết càng ít hơn... Và lạ lùng là anh lại rất nhớ người chồng sau của mẹ, một nhà thơ tiền chiến đã ẩn danh và đã về già. Kiên đã một lần và chỉ một lần duy nhất đến thăm ông ở ngôi nhà nhỏ ở gần Chèm có cửa sổ nhìn ra đê sông Hồng. Mùa đông ấy anh vừa mười bảy tuổi, cha anh mới qua đời, còn mẹ thì mất từ trước đấy hơn năm năm rồi. Trước ngày nhập ngũ, Kiên đến để từ biệt dượng. Ấn tượng thật khó quên. Ngôi nhà xám xịt, cũ kỹ. Những ngọn gió lạnh lẽo vô định làm nghiêng ngả ngọn phi lao nhô lên sau mái nhà nằm lọt giữa khu vườn thê lương trơ trụi chiều đông. Cảnh sinh hoạt trong nhà nghèo nàn lộ liễu. Bàn thờ bụi bậm, tấm hình mẹ ***g trong khung kính rạn nứt. Chiếc giường ọp ẹp. Bàn làm việc bừa bộn sách vở, ly chén. Cuộc sống độc thân rời rã, đắp đổi qua ngày của dượng làm anh mủi lòng. Nhưng bản thân dượng cố giữ một phong độ trái ngược với tình cảnh. Tóc bạc trắng, lưng hơi còng, rõ ràng là đang rộc đi vì một chứng bệnh nào đó, tay run run, mắt mờ nhưng râu cạo nhẵn, tóc chải mượt, trang phục tàn cũ nhưng không luộm thuộm và ông cư xử với anh một cách thân mật, hào hứng mà lịch thiệp. Ông pha trà ngon mời anh, đưa thuốc lá cho anh hút, nhìn anh với vẻ buồn buồn và nói với anh bằng giọng hết sức dịu dàng:
    - Thế có nghĩa là con sẽ ra đi đánh trận ? Không phải là ta muốn cản con đâu, ta đã già mà con thì còn trẻ, ngăn chí con làm sao nổi, chỉ muốn con thật thấu hiểu lòng mình. Nghĩa vụ của một con người trước Trời đất là sống chứ không phải là hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ... Không phải là ta khuyên con trọng mạng sống hơn cả nhưng mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy. Với lại, con ạ, mẹ con, cha con và cả ta nữa chỉ có mình con ở lại trên đời nên ta mong con hãy sống và hãy trở về. Cuộc đời còn rất dài với bao nhiêu hạnh phúc và lạc thú phải hưởng của con kia có ai sống hộ cho con được bây giờ ?
    Ngạc nhiên và không đồng tình nhưng Kiên cảm thấy tin cậy những lời lẽ của dượng. Anh tự thấy gần gũi với suy nghĩ của ông mặc dù không hoàn toàn hiểu. Anh cảm nhận ở ông một trí tuệ sâu sắc, đa dạng với một tâm hồn lãng mạn và nhiệt thành theo lối tình cảm chủ nghĩa thời xưa, mơ mộng ngọt ngào, giàu nhạy cảm nhưng dường như rất ngây thơ, thiếu thiết thực và vô bổ, thậm chí lầm lạc. Và bất chợt anh hiểu được rằng tại sao mẹ đã từ bỏ cha con anh để đến với người đàn ông tâm tình yếu đuối này.
    Suốt chiều anh ngồi bên ông trong căn phòng mà trước đây mẹ đã từng sống và đã qua đời. Và buổi chiều mùa đông ấy đã trở thành hầu như kỷ niệm duy nhất của anh về người mẹ mặc dù trong kỷ niệm đó không hề thoáng lên hình bóng của bà. Còn dượng sau khi đọc cho anh nghe mấy câu thơ về tình yêu ông đã sáng tác từ thời trai trẻ, liền lấy đàn ghi-ta treo trên tường xuống rồi bắt đầu hát bằng giọng trầm một bài hát của Văn Cao mà ông bảo ngày xưa mẹ anh hằng ưa thích. Bài hát chầm chậm, buồn buồn gợi nhớ những người thân yêu đã khuất, tiên cảm những ngày mai bất hạnh song lại như khuyên nhủ đừng nên vô vọng, đừng mãi mãi sầu thương, đừng nhiều lời than tiếc, vì như thế chẳng ích gì mà hãy sống, hãy sống...Vào bộ đội, khi còn sống ở Nhã Nam, Kiên đã viết thư cho dượng nhưng không nhận được hồi âm. Mười năm sau sống trở về anh đi tìm nhưng chỉ được biết rằng dượng đã mất từ lâu. Còn ngôi nhà nọ thì không ai nhớ đã bị san đi từ bao giờ.
  9. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    (tiep tieu thuyet)
    Nhưng trên tất cả mọi lý do, thú thật còn phải kể đến một ý tưởng lạ lùng đã ăn sâu vào Kiên từ nhiều năm. Ngấm ngầm anh tin mình tồn tại ở đời này với một thiên mệnh vô danh, thiêng liêng và cao cả, song tuyệt đối bí ẩn. Chính bởi thiên mệnh ấy mà anh có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế và tóm lại một cuộc sống như đã sống suốt bốn chục năm qua với những đau khổ và hạnh phúc như thế. Cũng vì mang trong người một định mệnh huyền cơ nào đấy nên anh mới có thể sống sót qua cuộc chiến tranh với những hoàn cảnh mà bình thường ra không thể có cơ hội thoát chết. Ánh sáng trong suốt và hình bóng vô hình của một thiên mệnh như thế thật ra đã từng hiển hiện trong đời anh nhưng thoảng lướt và bất chợt đến nỗi không bao giờ anh kịp hiểu, không bao giờ kịp níu giữ. Nó nhói lên, loé sáng và vụt tắt như ánh sao băng. Lần đầu tiên Kiên cảm thấy sức mạnh của mệnh trời soi rọi trong anh không phải là trong chiến tranh mà vào những ngày mới hoà bình khi anh tham gia đoàn thu nhặt hài cốt tử sĩ. Sức mạnh đó từng nhói lên trong anh, thôi thúc anh vượt qua bao hoàn cảnh tối tăm của đời sống thời bình, nó nuôi giữ lòng tin, lòng ham sống, tình thương yêu. Anh chưa bao giờ hiểu được, thậm chí chưa bao giờ cảm nhận nổi thiên mệnh ấy, chỉ biết nó tồn tại trong anh âm thầm bí ẩn, êm ả và đau đớn một cách không thể nhận thức được. Tuy nhiên theo dần năm tháng tâm hồn anh càng ngày càng chín muồi hơn cái khát vọng thể hiện thiên chức thiêng liêng huyền bí của đời mình, chí ít thì cũng nắm bắt được nó, gọi được nó lên thành lời.
    ... Vào một mùa hè cách đây đã dăm năm, trên đường lãng du, Kiên tình cờ láng qua thị trấn Nhã Nam, và cũng hoàn toàn do tình cờ thôi mà từ thị trấn anh đã rẽ vào thăm Đồi Mơ, xóm nhỏ ngày xưa. Hai mươi năm về trước , tiểu đoàn tân binh của anh đã chốt ở vùng này ba tháng trời, huấn luyện và an dưỡng, chờ ngày lên đường "đi bê dài".
    Tuy nhiên dường như chưa một ngày nào của hai chục năm trường ấy đã trôi qua. Cảnh vật vẫn y nguyên như thể bị thời gian bỏ sót. Những đồi thông, đồi sim mua, đồi cỏ giàng giàng, cỏ đuôi chồn, những rừng dẻ, rừng bạch đàn quạnh vắng, đìu hiu. Nhà cửa thưa thớt, mỗi đồi mỗi nhà và vẫn buồn thảm không khác gì xưa. Không định trước, Kiên rời đường cái rẽ vào đường rất mỏng chìm trong cỏ vòng quanh đồi Mơ tìm đến túp nhà của mẹ Lành, mẹ nuôi của bọn anh, ba đứa trong tổ tam tam ngày ấy.
    Túp nhà vẫn đó và hệt như thuở ấy: tường đất, mái gianh, với mảnh sân hẹp và khoảng vườn um tùm cỏ. Bên thềm giữa những bụi Ngấy hoang tàn cái giếng nước với cái ròng rọc kêu ken két vẫn đấy. Mẹ nuôi của anh đã qua đời. Bây giờ một mình một bóng sống trong túp nhà xưa ấy là Lan, con gái út của bà cụ. Chị nhận ngay ra Kiên, chị nhớ cả cái biệt hiệu "Thần sầu" trứ danh của anh hồi đó nữa. Vậy mà Kiên thậm chí không hề nhớ là có một cô bé nào đó sống ở đây hồi ấy. "Lúc ấy em mới chưa đầy mười ba, vẫn đang chú cháu với các anh... mới lại con gái đồng rừng xấu xí nhút nhát...", chị nói. Nhưng bây giờ trước mắt anh là một thiếu phụ mảnh dẻ, cặp mắt to đượm buồn và vẻ quyến rũ thầm lén.
    Chị ứa nước mắt khi được Kiên cho hay rằng, Quang và Hùng, hai người cùng tổ tam tam với anh đã đều nằm lại trong chiến tranh. "Thời buổi ác nghiệt - chị nói ?" và dài quá là dài, cuốn đi mất biết bao nhiêu là người... bao nhiêu là lượt tân binh đã về đóng ở nhà em, gọi mẹ em là mẹ, coi em là em, thế mà chỉ mỗi anh trở lại... Hai anh trai của em, các bạn học của em và cả anh ấy nhà em nữa đều lứa đàn em của các anh, đi bộ đội sau các anh bao nhiêu năm, nhưng chẳng ai thoát về được cả".
    Chị đưa anh lên đồi viếng mồ bà mẹ. Sau trận mưa chiều màu cỏ xanh mướt nước trên đồi Mơ thắm hồng ánh đỏ của vừng ráng. Dưới đồi có con sông chảy lượn qua và qua những đám cỏ rậm rạp trên đồi có thể nhìn thấy loáng thoáng từng quãng sông uốn khúc lấp lánh ánh phản quang. Kiên thắp nhang, cúi đầu hồi lâu trước mồ bà mẹ nuôi, bất lực cố hình dung nét mặt của bà.
    - Giá kể hồi đó người ta hẵng gườm gượm, báo tử lần lượt thưa ra thì có khi mẹ em vẫn còn sống được tới giờ. Không may là bấy giờ lại hoà bình vừa xong, những chuyện chết chóc họ muốn dứt khoát đâm thành ác nghiệt. Nhè cùng một ngày, buổi sáng buổi chiều mà gởi hai cái giấy báo hy sinh hai người anh trai của em. Mẹ em thật như là bị xô ngã, mê thiếp đi, bằn bặt suốt ba ngày không một lần hồi tỉnh. Mẹ mất đi chẳng nói một lời, anh ạ...
    Bên mồ bà cụ là nấm mộ nhỏ nhoi của con trai Lan, Lan kể, không khóc:
    - Thằng cu nhà em đẻ ra nặng gần bốn ký thế mà chỉ sống được có hai ngày. Cháu tên Việt, họ Nông. Anh ấy nhà em người Tày, quê tít đâu trên mạn ngược Hà Giang. Về đóng ở đây được có non một tháng nên chúng em nào đã kịp cưới xin, cả đến báo cáo cấp chỉ huy cũng chưa. Đi được nửa năm thì có thư về cho em, cơ mà không phải anh ấy viết. Người cùng tiểu đội viết. Báo tin rằng anh ấy đã hy sinh trên dọc đường qua Lào... Thằng cu Việt con em còn trong bụng mẹ đã mồ côi cha, có nhẽ vì thế nên cháu chẳng muốn sống... Đấy, nông nỗi đời em như thế đấy anh ạ. Mỗi năm mỗi xiêu đi. Em cứ ở vậy. Quanh quẩn trong nhà ngoài đồi, chẳng để ý tới ai, chẳng ai để ý tới... mà cũng lạ từ sau đợt đơn vị nhà em, Đồi Mơ này không có thêm đợt bộ đội nào về nữa. Rồi thì hoà bình rồi tới hôm nay, bao năm rồi...
    Chị lưu anh lại tối hôm ấy. Suốt đêm. Đêm hè ngắn ngủi. Văng vẳng tiếng cuốc kêu ngoài xa, mé rừng. Và rì rầm bên kia đồi dòng sông trôi.
    Hôm sau Kiên ra đi từ sáng sớm. Lan tiễn anh qua đồi. Họ đi bên nhau, lặng lẽ. Mặt trời đang lên, sương vãn dần. Sau một đêm gương mặt Lan gầy đi, thâm quầng.
    - Đã có lần em định đi kinh tế mới bỏ hẳn đất này vào Nam sinh cơ lập nghiệp ?" Lan nói, giọng buồn buồn ?" Nhưng không dứt lòng mà đi nổi. Trên kia, hai bà cháu nằm đấy... Với lại chẳng hiểu sao em cứ nán chờ, chờ mãi, chẳng biết là chờ gì, chờ ai. Không lẽ là chờ đợi chính anh ?
    Kiên không thốt nổi nên lời, mắt nhìn tránh đi - Chả hiểu sao em lại nhận ngay ra anh. So với hồi ấy nom anh khác hẳn. Mới lại hồi ấy em còn nhỏ oắt. Hay anh là tình đầu của em mà em không hay.
    Kiên gượng cười, lòng thắt lại.Gần tới đường cái, anh dừng bước. Nắm nhẹ một bàn tay của Lan anh nâng lên, cúi xuống, áp môi, chầm chậm hôn rất lâu.
    - Em ở lại, bình yên sống, đừng buồn nhé, em mến thương ! Đừng nghĩ xấu về anh.
    Âu yếm, Lan vuốt vuốt vai áo anh và hôn lên mái tóc của anh đã điểm bạc.
    - Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi vào hãy sống cho thoả... còn em, em sẽ nuôi con nuôi, sẽ sống bình yên. Giá kể có được với anh... nhưng không, thì cũng gì mà buồn. Coi như cả anh cả em, ta một lần được trở về với hồi trước, khi tất cả người thân yêu còn sống... Còn nói ví dụ, tức là em cũng cứ nói phòng thế, bỗng dưng một ngày nào anh gặp cảnh ngộ không may, thấy đã hết ngã để đi tiếp thì xin anh hãy nhớ ngay rằng, dù sao cũng còn một nơi, cũng còn một người... Đồi Mơ đây là nơi anh đã lên đường chiến đấu lập nghiệp, mai sau nếu anh muốn cũng sẽ là một nơi, một chốn anh về.
    Kiên ôm lấy Lan, riết vào ngực.
    - Thôi anh đi đi kẻo muộn. Em sẽ nhớ anh mãi. Còn anh đừng quên hẳn em nhé, anh thân yêu tình cờ của em !
    Những bãi cỏ ven đường đã ngập nắng. Bóng Kiên ngả dài. Anh bước đi, đầu cúi xuống. Bầu trời mùa hạ cao xanh, buồn bã. Khi anh ngoảnh lại, Lan còn đứng đó trông theo. Nhưng một lần nữa, anh ngoái nhìn, bóng Lan đã khuất sau đồi.
    Mấy năm sau, một chiều nọ, cũng đang hè, trên đường từ biên giới trở về Hà Nội, chiếc com măng ca chở Kiên và nhóm phóng viên trong toà soạn chạy chéo qua ngả Bắc Giang, miền bán sơn địa nhấp nhô đồi gò, khe lũng và những vạt rừng thưa. Trong xe dần dần chỉ còn Kiên thức cùng người lái. Gió lướt dài mát rượi. Hai bên đường từ các khe ngòi um tùm hơi đất mềm mại lan ra, toàn bộ không gian tĩnh lặng một khối lam chiều hoang vắng. Trong lòng Kiên chợt thấy nao lên một nỗi buồn đơn giản, xót xa choáng ngợp.
    Phải, chính là ở đây đây, "Vẫn còn một nơi, vẫn còn một người" - Lời ước hẹn buồn bã và vô vọng ngày nào vẳng lên gợi cho anh nhớ rằng cuộc đời mình thế là đã hết rồi, đã hết đến cả chút dư âm cuối cùng. Bao nhiêu quãng đời yêu dấu với bao người thân yêu nay đều đã biệt mù tăm tích mà anh chẳng hề lưu giữ được gì, đã để phí hoài tất cả. Có thể nói rằng trong nhiều năm qua anh đã sống mà chẳng hề ngoái nhìn lại. Không có dịp và cũng chẳng có nhu cầu, ngày tháng công việc cứ xô trào lên che lấp hết. Giờ thì đã muộn mất rồi. Anh nhắm mắt lại, và một cảm giác nghèn nghẹn lìm lịm lặng lẽ dìm tim anh xuống. Tuy nhiên không phải là niềm tuyệt vọng...
    Chiều hôm ấy, thật kỳ lạ, kỷ niệm về Đồi Mơ, về mối tình vô danh đêm ven đồi năm nào trỗi dậy trên đường xa đã đồng thời làm tỉnh lại trong lòng anh ý thức về một thiên mệnh đầy thôi thúc. Thôi thúc một cách tha thiết và u buồn. Đời anh rộng mở, hãy đi và hãy sống...
    Đấy, cần phải viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc ấy, viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những cảm xúc chỉ có thể diễn đạt được bằng quá khứ. Kiên nghĩ. Mặc dù cố nhiên chiến tranh không hề là như vậy. Chiến tranh...
    Nhưng vì sao anh lại chọn đề tài là chiến tranh và vì sao nhất thiết phải là đề tài ấy ? Trong chiến tranh, cuộc sống của anh, của bao người khác thật là kinh khủng, thậm chí khó có thể bảo đấy là cuộc sống, nói gì đến việc tìm kiếm những sắc thái nghệ thuật trong cuộc sống đó. Và chính anh chứ chẳng phải ai khác cho đến tận ngày hôm nay vẫn không tài nào bước vào rạp chiếu bóng để xem những bộ phim trong đó người ta nhè đầu nhau mà khạc đạn. Không những thế văn chương về chiến tranh, tất nhiên là văn chương của người khác, anh hết sức tránh đọc. Thú thật là anh cực kỳ khiếp hãi những thiên truyện ấy. Thế nhưng bản thân anh thì lại thế, một mực viết mãi không chán những súng nổ bom rơi, những mùa khô mùa mưa, quân địch, quân ta. Anh không thể viết khác, mai sau ví dụ có viết khác đi thì cũng là bởi vì thâm tâm luôn muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước.
    Đôi khi cũng toan một hướng mới nào đó nhưng ngòi bút lại chẳng tuân theo. Như là khi bắt đầu cuốn tiểu thuyết đầu tay này Kiên đã dự định một cốt truyện hậu chiến và vì thế chương thứ nhất anh viết về những người đi thu hài cốt tử sĩ, những người lính sắp giải ngũ để về với đời thường. Song một cách không thể cưỡng lại, các trang bản thảo dựng dậy hết cái chết này qua cái chết khác, dần dần đi sâu mãi vào những cánh rừng nguyên thuỷ của chiến tranh, lặng lẽ nhóm lên mãi lò lửa tàn khốc ấy của ký ức. Vậy mà thực ra anh có thể viết bao nhiêu chuyện có lẽ chẳng dính dáp gì tới trận mạc,bởi vì cũng như mọi người ngày nay anh nhìn cuộc đời đâu chỉ từ một ô cửa duy nhất nào.
    Chẳng hạn về thời thơ ấu, thời thơ ấu vô cùng hạnh phúc và vô cùng buồn đau trước chiến tranh còn rất nhiều kỷ niệm chưa phai nhoà, anh nghĩ là mình hoàn toàn có thể viết với niềm tuyệt hứng. "... Tôi sinh ra và lớn lên... cha mẹ tôi lúc sinh thời...", đại khái thế. Mà tại sao không viết về cuộc đời của cha và cả thế hệ của Người nữa, một thế hệ vĩ đại và bi thảm, đầy những hoài bão và đầy những không tưởng, mang nặng những phẩm chất và những tình cảm cao quý mà ngày nay đã bị thế hệ của anh làm cho vĩnh viễn mai một. Cứ mỗi lần nghĩ lại tuổi thơ, nhớ đến cha, bao giờ Kiên cũng cảm thấy ân hận, dường như anh đã yêu thương, tôn kính cha chưa đủ mức một người con, anh đã biết quá ít, hầu như không biết gì cả những năm tháng cuộc đời cha. Anh đã chẳng nhớ gì mấy nữa về tấn bi kịch gia đình, không biết vì sao cha mẹ lại chia tay, không biết rằng cha đã đau khổ như thế nào. Về mẹ thì anh biết càng ít hơn... Và lạ lùng là anh lại rất nhớ người chồng sau của mẹ, một nhà thơ tiền chiến đã ẩn danh và đã về già. Kiên đã một lần và chỉ một lần duy nhất đến thăm ông ở ngôi nhà nhỏ ở gần Chèm có cửa sổ nhìn ra đê sông Hồng. Mùa đông ấy anh vừa mười bảy tuổi, cha anh mới qua đời, còn mẹ thì mất từ trước đấy hơn năm năm rồi. Trước ngày nhập ngũ, Kiên đến để từ biệt dượng. Ấn tượng thật khó quên. Ngôi nhà xám xịt, cũ kỹ. Những ngọn gió lạnh lẽo vô định làm nghiêng ngả ngọn phi lao nhô lên sau mái nhà nằm lọt giữa khu vườn thê lương trơ trụi chiều đông. Cảnh sinh hoạt trong nhà nghèo nàn lộ liễu. Bàn thờ bụi bậm, tấm hình mẹ ***g trong khung kính rạn nứt. Chiếc giường ọp ẹp. Bàn làm việc bừa bộn sách vở, ly chén. Cuộc sống độc thân rời rã, đắp đổi qua ngày của dượng làm anh mủi lòng. Nhưng bản thân dượng cố giữ một phong độ trái ngược với tình cảnh. Tóc bạc trắng, lưng hơi còng, rõ ràng là đang rộc đi vì một chứng bệnh nào đó, tay run run, mắt mờ nhưng râu cạo nhẵn, tóc chải mượt, trang phục tàn cũ nhưng không luộm thuộm và ông cư xử với anh một cách thân mật, hào hứng mà lịch thiệp. Ông pha trà ngon mời anh, đưa thuốc lá cho anh hút, nhìn anh với vẻ buồn buồn và nói với anh bằng giọng hết sức dịu dàng:
    - Thế có nghĩa là con sẽ ra đi đánh trận ? Không phải là ta muốn cản con đâu, ta đã già mà con thì còn trẻ, ngăn chí con làm sao nổi, chỉ muốn con thật thấu hiểu lòng mình. Nghĩa vụ của một con người trước Trời đất là sống chứ không phải là hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ... Không phải là ta khuyên con trọng mạng sống hơn cả nhưng mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy. Với lại, con ạ, mẹ con, cha con và cả ta nữa chỉ có mình con ở lại trên đời nên ta mong con hãy sống và hãy trở về. Cuộc đời còn rất dài với bao nhiêu hạnh phúc và lạc thú phải hưởng của con kia có ai sống hộ cho con được bây giờ ?
    Ngạc nhiên và không đồng tình nhưng Kiên cảm thấy tin cậy những lời lẽ của dượng. Anh tự thấy gần gũi với suy nghĩ của ông mặc dù không hoàn toàn hiểu. Anh cảm nhận ở ông một trí tuệ sâu sắc, đa dạng với một tâm hồn lãng mạn và nhiệt thành theo lối tình cảm chủ nghĩa thời xưa, mơ mộng ngọt ngào, giàu nhạy cảm nhưng dường như rất ngây thơ, thiếu thiết thực và vô bổ, thậm chí lầm lạc. Và bất chợt anh hiểu được rằng tại sao mẹ đã từ bỏ cha con anh để đến với người đàn ông tâm tình yếu đuối này.
    Suốt chiều anh ngồi bên ông trong căn phòng mà trước đây mẹ đã từng sống và đã qua đời. Và buổi chiều mùa đông ấy đã trở thành hầu như kỷ niệm duy nhất của anh về người mẹ mặc dù trong kỷ niệm đó không hề thoáng lên hình bóng của bà. Còn dượng sau khi đọc cho anh nghe mấy câu thơ về tình yêu ông đã sáng tác từ thời trai trẻ, liền lấy đàn ghi-ta treo trên tường xuống rồi bắt đầu hát bằng giọng trầm một bài hát của Văn Cao mà ông bảo ngày xưa mẹ anh hằng ưa thích. Bài hát chầm chậm, buồn buồn gợi nhớ những người thân yêu đã khuất, tiên cảm những ngày mai bất hạnh song lại như khuyên nhủ đừng nên vô vọng, đừng mãi mãi sầu thương, đừng nhiều lời than tiếc, vì như thế chẳng ích gì mà hãy sống, hãy sống...Vào bộ đội, khi còn sống ở Nhã Nam, Kiên đã viết thư cho dượng nhưng không nhận được hồi âm. Mười năm sau sống trở về anh đi tìm nhưng chỉ được biết rằng dượng đã mất từ lâu. Còn ngôi nhà nọ thì không ai nhớ đã bị san đi từ bao giờ.
  10. sonsbucxuc

    sonsbucxuc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2005
    Bài viết:
    235
    Đã được thích:
    0
    Xem anh nhe:

Chia sẻ trang này