1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sơn Tây - Tình yêu của tôi.

Chủ đề trong 'Hà Tây' bởi moonlight4u, 14/09/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. moonlight4u

    moonlight4u Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/01/2005
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Híc, Trang kia!! Quá đáng, quá đáng, dám giành giật zai với Đại ca, đã bảo là để giành cho Đại ca tên bụ bẫm dễ thương, híc, thế mà, bắt đền đấy. À Trang ơi!! thứ 7 này có ở Sơn Tây ko? Đi xem bói không? Nhớ hỏi họ tên bạn bụ bẫm dễ thương rồi hỏi thầy bói xem bạn ấy hợp với chị hay em nhé.
    Mà mấy em mình có ai về tuần này ko nhỉ? Chị cho đi uống Cafe ké! Chấp nhận chịu phạt của Ku Nam mà.
  2. linhnhivn

    linhnhivn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2006
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Cảm ơn chi Moon, cảm ơn các bạn trong room.Em cũng đang rất mong được gặp lại Sơn Tây.Đặc biệt là trông dịp hội Đền Và này.Em nghe nói...đền Và thiêng lắm phải không chị? Em muốn về đó thắp hương, xin thánh thần phù hộ cho em năm nay học hành tiến bộ hơn năm trước...và xin thần phù hộ cho em iêu được một chàng trai đất.......Tây
  3. Pionochi

    Pionochi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2005
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    chào cả nhà chào pà pà Đại ca!mấy hum rùi iem ko lên mạng post bài được công việc bận rộn wá mà!topic mình lại có nhìu nhân mới nhỉ
    Đại ca ơi hôm này đi coi bói hả?cn này iem về iem wa nhà đại ca nhá!àh đại ca t7 này đi coi bói hả ???đại ca xiem dùm iem đường tình duyên nghe lận đận gớm đại ca nhá!
    àh chít iem xin thông bao 1 tin nhá!cn này la sinh nhật của saobacdaust đó !!!!!
  4. moonlight4u

    moonlight4u Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/01/2005
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Ê, ku Minh. Sao mà tình duyên lận đận hả em? Khổ thân chưa, đẹp trai thế mà khổ. để đên thứ 7 này chị đi xin cho mày một cái bùa Yêu nhé.
    To Nam: Chủ nhật này sn em hả? Tụ tập đê!!!! Bé Trang ở Sơn Tây đến chủ nhật đấy, mấy chị em mình off.
    To linhnhivn: chị có mấy thằng em đó, em xem Ku nào ưng mắt em thì em cứ duyệt thôi, toàn zai Sơn Tây 100%. Chị nói thế này không phải là người nhà khen nhau đâu, chứ zai Sơn Tây hơi bị được đấy, đặc biệt là mấy Ku em chị, hiền lành dễ thương lắm
    Được moonlight4u sửa chữa / chuyển vào 11:36 ngày 09/02/2006
  5. moonlight4u

    moonlight4u Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/01/2005
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    0
    Ảnh tết đê!!! Chuyện là thế này, ngày tết ai chẳng muốn đi chơi nghỉ ngơi với bạn bè, thế nên chị cũng tranh thủ đi chơi chút, vậy mà những giây nghỉ ngơi hiếm hoi của chị lại bị mấy tay paparazzi quấy dầy, khổ thế đấy, nổi tiếng quá cũng khổ.
    Đây là ảnh Chị đi off riêng với Trang, chắc bọn paparazzi tưởng chị em mình là người mẫu em nhỉ, xinh thế còn gì
    [​IMG]
    Còn ảnh này là chị lén đi off riêng với Ku Trung, híc, đêm khuya trời tối, vậy mà vẫn bị phát hiện, khổ ghê
    [​IMG]
  6. Pionochi

    Pionochi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2005
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    hix đại ca có mấy tấm hình đẹp gớm nhỉ nhưng sao có vẻ ít người thế hình như thíu thíu thì fải
  7. habee20

    habee20 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/10/2005
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    0
    Buồn quá đi mất !
    Mấy hôm Tết lên kế hoạch Off eff mà cuối cùng mình lại không tham gia được mới chán chứ !!!
    Chờ cả buổi chẳng thấy ai í ới gì, thế là lại theo mẹ sang Vĩnh Phúc thăm nhà bác ... Ai dè đang đi thì anh Bình lại alô bảo về Off ...
    Chị Trang ơi ... xin lỗi chị nhé .. Hôm đấy em ko check tin nhắn nên ko biết kế hoạch của mọi người ...
    Em cũng xin lỗi cả mọi người nữa ... Hẹn nhau như thế rồi mà em lại ko có mặt ... Hic hic ... cũng khổ thân em lắm cơ !
    Mấy hôm Tết, cũng chẳng đi đâu chơi ... đến bây giờ vẫn còn ốm lay ốm lắt ... mà chẳng thấy ai hỏi han gì ...
    Hôm nay là hội làng mà cũng không về được nữa ...
    Ở đây buồn quá !
    Thôi ... viết nữa lại càng thêm ướt át ... dễ khóc ngập box này thì chết !
    Em chúc cả nhà vui vẻ nhé !
  8. huongvx

    huongvx Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/07/2003
    Bài viết:
    32
    Đã được thích:
    0
    Hi,
    Tui chỉ là rể ở Sơn Tây thôi có được tham gia không?
    Regards
    Huong VU
  9. duonglamquetoi

    duonglamquetoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/02/2006
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Trong tâm thức của người dân xứ Đoài, nói đến Đường Lâm (thị xã Sơn Tây) người ta thường liên tưởng tới địa danh: ?oKẻ Mía?, ?oMột ấp hai Vua?. Người ta cũng có thể nhớ về đất hai Vua này qua những câu ca dao ẩm thực, sinh động thấm đẫm hơi thở cuộc sống:
    Kẻ Mía kéo mật hộn đường
    Thợ rèn Quang Húc, Chu Chàng ươm tơ
    Chàng đi nhớ cháo Dốc Ghề
    Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên?

    Vốn là vùng đất mà các làng đều ở trên những triền đồi dưới chân núi Tản, nên ruộng đất có nhiều vùng trũng, nhất là mạn ven sông Tích, những năm xưa kia thường chỉ cấy được một vụ lúa chiêm. Cũng vì thế, xưa kia ?othóc cao, gạo kém? Đường Lâm cũng như các xã quanh vùng vào lúc ?otháng ba, ngày tám? người dân thường phải đối mặt với cái đói. Vì số lượng thóc gạo làm ra có hạn, bữa ăn thường phải độn sắn, độn khoai lang nên cũng dễ hiểu vì sao công việc làm tương ?" món nước chấm (thay cho thức ăn) phổ biến của cộng đồng dân cư nông nghiệp miền Bắc lại trở thành công việc thường niên của các bà, các chị vùng Kẻ Mía.
    Quả đúng vậy, ở Đường Lâm thời xưa cho đến thời nay nhà nào cũng phải có một chum tương. Chum tương như một biểu tượng về sự nền nếp, cơ bản của nông gia. Cách làm tương miền Bắc vùng nào cũng vậy đều na ná giống nhau. Nhưng các cụ cao tuổi ở Đường Lâm bảo do ?otay?, nên tương mỗi nhà mỗi vị, mỗi vùng mỗi mùi...chính điều đó quyết định nét độc đáo riêng biệt cho tương Đường Lâm (dân gian thường quen gọi tương Mía), khiến món ăn dân gian này cùng với: Mía, mật và gà của vùng kẻ Mía trở thành bộ tứ món đặc sản nổi tiếng xứ Đoài xưa nay. Sự nổi tiếng của tương Mía gắn với các ông chủ làm tương như là thương hiệu của sản phẩm, nó còn đứng đầu bài đồng dao ?ocác đặc sản? mà đám trẻ con vùng Mía vẫn nghêu ngao hát khắp làng: ?oTương cụ Đá, cá cụ Hỹ??
    Để được công nhận là một món nước chấm đặc sắc trong hàng chục loại nước chấm đi kèm với hàng trăm ngàn món ăn của thời nay không phải là chuyện dễ. Với Tương Mía cũng vậy. Từ món ăn dân gian trở thành đặc sản của cả một vùng lại càng khó khăn. Chuyện làm tương ngon ở đất Hà Tây này, ít ai chịu thua ai. Phú Xuyên có tương Vân Từ. Đan Phượng cho rằng mình có tương Hồng Thái. Cự Khê (Thanh Oai) hãnh diện có tương Cự Đà...Hà Tây có nhiều nơi làm tương ngon. Nhưng tương ngon, nổi tiếng ai chẳng biết tương Mía, tương Cự Đà. Ai đã từng ăn tương Mía một lần thì nhớ mãi. Nhớ vị ngọt đằm cùng mùi hương tự nhiên của đỗ tương, nhồn nhột đầu lưỡi, chấm đến đâu hết đến đấy. Tương Mía gắn bó với đời sống hàng ngày của người Đường Lâm như ao rau muống với chum tương trong ca dao cổ:
    ?oCòn ao rau muống còn đầy chum tương?
  10. duonglamquetoi

    duonglamquetoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/02/2006
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Ba vị anh hùng dân tôc đât Đường Lâm
    Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng
    Nửa cuối thế kỷ 8, quyền thống trị của nhà Đường trên đất Việt bắt đầu suy yếu. Nhân cơ hội đó, Phùng Hưng, hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Tây) đã phát động khởi nghĩa, đánh chiếm thành Tổng Bình (Hà Nội) giành lại quyền tự chủ cho đất nước. Sau khi Phùng Hưng mất, con trai ông dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương, đền thờ ông được lập ở nhiều nơi như Quảng Bá (Hà Nội), Triều Khúc (Hà Tây)...
    Vào nửa sau thế kỷ VIII, quyền thống trị của triều đình Trường An đã bắt đầu suy yếu. Chiến tranh giữa "phiên trấn" và "triều đình" - mà đỉnh cao là loạn An Sử - càng làm cho nhà Đường lụn bại. Uy quyền của bọn tiết độ sứ và đô hộ ngày một tăng, chúng tự ý trưng thu thuế má. Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc), năm 767 giúp kinh lược sứ An Nam Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Ja va) ở Chu Diên, sau đó y được cử làm đô hộ An Nam. Y ra sức bòn rút của cải của nhân dân ta, đánh thuế rất nặng. Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của nhân dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình nổi loạn, người hào trưởng đất Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội) là Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ.

    Sử liệu gốc ghi lại về Phùng Hưng không nhiều. Chỉ biết, Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng đất Đường Lâm. Đường Lâm xưa kia vốn là vùng đồi gò và rừng cây rậm rạp, thú vật dữ tợn thường hay lui tới, nên nơi đây tục gọi là Đường Lâm hay Cam Lâm.

    Phùng Hưng có tên tự là Công Phấn, cháu 7 đời của Phùng Tói Cái - người đã từng vào trong cung nhà Đường Cao Tổ, đời Đường Vũ Đức (618-626) dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh - một người hiền tài đức độ. Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời Đường Khai Nguyên, ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Sau đó, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở nên giàu có, trong nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người (theo bia Quảng Bá).

    Theo sự tích, Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử. Ông bà sinh một lần được ba người con trai khôi ngô khác thường, lớn lên ai cũng có sức khỏe, có thể kéo trâu, quật hổ. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ 2 là Phùng Hải (tự là Tư Hào) và em út là Phùng Dĩnh (tự là Danh Đạt). Đến năm ba anh em 18 tuổi thì bố mẹ đều mất.

    Cho tới nay về ngày sinh và ngày mất của Phùng Hưng vẫn chưa rõ. Một nguồn dã sử cho biết Phùng Hưng sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (760) (tức 5-1-761) và chết ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức 13-9-802), thọ 41 tuổi. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách và truyền thuyết dân gian lưu truyền về tài đánh trâu, quật hổ ở đất Đường Lâm. Có lần ông đánh được 2 con trâu mộng đang húc nhau, dân làng ai cũng thán phục. Lần khác lại trừ được hổ dữ, bằng mưu kế, đem lại bình yên cho làng xóm mà cho tới giờ nhân dân Đường Lâm còn lưu truyền về câu chuyện đó.

    Phùng Hưng còn là vị anh hùng đầu tiên trong những người con ưu tú của đất Đường Lâm. Và Phùng Hưng cũng là người anh hùng đầu tiên đã đánh chiếm lại thành Tống Bình (Hà Nội), trị sở của chính quyền đô hộ lúc đó và xây dựng nền tự chủ trong khoảng gần chục năm.

    Thoạt kỳ thủy, anh em họ Phùng nổi dậy làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng là: Đô Quân; Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.

    Năm Tân Mùi 791, mùa hạ, tháng 4, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành. Quân của Cao Chính Bình (khoảng hơn 4 vạn bia Quảng Bá) đem ra chống cự. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt trong khoảng 7 ngày, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ cuối cùng bị ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước được 7 năm thì mất. Rất tiếc trong 7 năm ấy, sử sách không để lại một nguồn tài liệu nào về ông. Sau khi mất, con trai ông là Phùng An lên nối ngôi, dâng tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. An nối nghiệp được hai năm thì chính quyền lại rơi vào tay giặc. Nền tự chủ vừa mới xây dựng, chỉ tồn tại vẻn vẹn trên dưới 9 năm.

    Sử liệu và truyền thuyết dân gian ở vùng Đường Lâm kể lại rằng: Phùng Hưng chết rồi rất hiển linh, thường hiện hình trong dân gian, giúp dân trong lúc hoạn nạn. Dân làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Tương truyền sau này, Phùng Hưng còn hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Thấy vậy, Ngô Quyền cho lập đền thờ quy mô to lớn hơn trước. Sự ngưỡng mộ đối với người anh hùng dân tộc họ Phùng còn thể hiện ở việc lập đền thờ phụng của nhân dân như ở đình Quảng Bá (Hà Nội), đình Triều Khúc (Hà Tây), thờ ở lăng Đại áng, Phương Trung, Hoạch An, phủ Thanh Oai (Hà Tây),v.v.

    Hiện nay dấu vết lăng mộ của Phùng Hưng còn lại ở đầu phố Giảng Võ (gần bến xe Kim Mã), vì khi chết, ông được mai táng ở cạnh phủ Tống Bình, sau đó mới đưa thi hài về quê hương. Để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc, Nhà nước ta đã đặt tên phố Phùng Hưng tại phía cửa Đông của thủ đô Hà Nội.
    Ngô Quyền
    Ngô Quyền năm 938 đã đánh tan quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng, kết thúc 1.000 năm bắc thuộc của Việt Nam
    Ngô Quyền sinh năm 897, mất năm 944 quê ở Đường Lâm, Ba Vì (Hà Tây ngày nay). Ông là bộ tướng và là con rể của Dương Đình Nghệ được giao cai quản Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay).
    Từ năm 907 ở Trung Hoa khi nhà Đường mất thì lần lượt nổi lên là các nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.
    Năm 911, Lưu Cung làm Nam Bình Vương do nhà Hậu Lương phong cho, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu. Được ít lâu nhân có việc bất bình với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đế, quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu (917) cải quốc hiệu là Nam Hán.
    Năm Quí Mùi (923) Lưu Cung sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ (khi đó chấp nhận làm Tiết độ sứ của nhà Hậu Lương tại Giao Châu mà không thần phục nhà Nam Hán), rồi sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng với Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.
    Năm Tân Mão (931) Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước (cha của Khúc Thừa Mỹ) nổi lên, mộ quân đánh đuổi bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến đi, rồi tự xưng làm Tiết độ sứ. Được gần 7 năm, Dương Đình Nghệ bị người bộ tướng là Kiều Công Tiễn giết đi mà cướp lấy quyền.
    Trong thời gian cai quản Ái Châu, ông đã đem lại yên vui cho đất Ái Châu, tỏ rõ là người có tài đức.
    Năm 938, ông đã tiêu diệt Kiều Công Tiễn và sau đó là quân Nam Hán của Hoằng Thao (có sách viết là Hoằng Tháo).
    Mùa xuân năm 939, ông xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (thuộc thành phố Hà Nội ngày nay). Tuy chỉ xưng vương nhưng ông có thể coi là người có công lớn trong việc giành được độc lập cho đất nước sau nghìn năm bắc thuộc. Các nhà sử học Việt Nam thời kỳ phong kiến như Lê Văn Hưu (tác giả cuốn Đại Việt sử ký), Phan Phu Tiên (tác giả cuốn Đại Việt sử ký tục biên), Ngô Sĩ Liên đánh giá rất cao công trạng của ông. Trong Đại Việt sử ký toàn thư bản Ngoại kỷ, quyển 5 của Ngô Sĩ Liên đã chép lại lời bình của Lê Văn Hưu về ông như sau:
    Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được
    Năm 938, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn sát hại. Ngô Quyền kéo quân ra thành Đại La tiêu diệt kẻ phản bội. Do lo sợ bị tiêu diệt, Kiều Công Tiễn đã cầu cứu nhà Nam Hán. Vua Nam Hán lúc bấy giờ là Lưu Cung cho con trai là Hoằng Thao kéo quân theo đường thủy sang giúp (thực chất là nhân cơ hội chiếm lấy Giao Châu).
    Đầu mùa đông năm 938, Ngô Quyền dẹp xong bọn phản loạn Kiều Công Tiễn và chuẩn bị toàn lực để đối phó với sự xâm lăng của quân Nam Hán.
    Ông cho quân sĩ đóng cọc có bịt sắt nhọn xuống lòng sông Bạch Đằng và nhử quân địch vào khu vực này khi thủy triều lên. Quân giặc thấy quân của ông chỉ có thuyền nhẹ, quân ít tưởng có thể ăn tươi, nuốt sống lên hùng hổ tiến vào. Đợi đến khi thủy triều xuống ông mới hạ lệnh cho quân sĩ đổ ra đánh. Thuyền chiến lớn của giặc bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm thủng gần hết. Quân giặc thua chạy, còn Hoằng Thao bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ. Từ đó nhà Nam Hán bỏ hẳn mộng xâm lược.
    350 năm sau, vào mùa xuân năm 1288, cũng trên dòng sông này Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã có một trận đánh tương tự như vậy để tiêu diệt chiến thuyền của quân xâm lược Nguyên Mông.
    Năm 944, ông mất, thọ 47 tuổi. Hiên nay còn đền thờ Ngô Quyền trên đất Đường Lâm.
    Thám Hoa Giang Văn Minh (1582-1639)
    Ông sinh ra tại Đường Lâm, thi đậu Thám Hoa, làm quan dướ triều đình nhà Lê. Vào năm 1639, ông đươc triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc, về việc này trong dân gian còn truyền tụng giai thoại như sau :
    Năm 1639,Giang Văn Minh cùng với hơn 50 người nhận lệnh vua đi sứ sang Trung Quốc. Họ đến kinh đô nhà Minh vào một buổi chiều tà. Sau mấy ngày nghỉ ngơi, Giang Văn Minh vội vào yết kiến vua Minh. Ông ung dung bước vào sân rồng dõng dạc tâu rằng:
    - Muôn tâu bệ hạ! Thần sứ giả Nam bang xin bái kiến.
    Vua Minh thấy dáng điệu uy nghi và có vẻ ngạo mạn của ông, liền quát lớn:
    - Ngươi là sứ giả man di, vào sân rồng của ta chưa đúng lễ.
    - Thưa bệ hạ, thần là sứ giả Nam bang, một nước có nền văn hiến đã lâu, chứ đâu có phải sứ giả man...
    Trong bưa tiệc cung đình do vua nhà Minh thiết đãi, khi mọi ngươi ngồi vào bàn tiêc, đột nhiên Ông bật khóc. Mọi người đều ngạc nhiên, vua nhà Minh liền hỏi nguyên do thì Ông tâu rằng:"thưa bệ hạ, hôm nay là ngày giỗ cụ tổ 9 đời nhà thần mà thần không về đươc, trong lòng cảm thấy thương xót vô cùng nên kiềm lòng không nổi ....!" . Vua Minh liền nói :" cụ tổ 9 đời rồi thì cần gì phải giỗ nưa chứ ". Vừa nghe câu này Ông liên tâu lại rằng : " bệ hạ nói vây thì có nghĩa là những ngươi đã chết qua 9 đời rồi thì không cần phai giô nưa rồi, vây thì xin hỏi bệ hạ rằng,Liễu Thăng là tướng đã chết qua mười mấy đời rồi thì tại sao hàng năm nước Việt vân phải cống nạp nhân ngày ông ta chết để cúng giỗ ông ta ?"
    nhà vua suy ngâm môt lát rôi quyết định miễn nợ Liễu Thăng cho nước Viêt.
    Sau bưa tiêc, nhà vua thấy Ông là người thông thái bèn thử tài Ông, nhà vua ra câu đối rằng: "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục" (cột đồng trụ nay rêu đã phủ xanh)
    Câu đối của vua Minh ám chỉ việc xưa: Sau khi Mã Viện dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, y kéo quân trở về. Khi qua vùng Lạng Sơn. Mã Viện dựng một cột đồng, trên có khắc dòng chữ: "Đồng trụ triết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy, đất Giao Chỉ sẽ bị hủy diệt) để uy hiếp tinh thần quật khởi của dân tộc Giao Chỉ.
    Lòng tự cường dân tộc trỗi dậy trong lòng, không do dự, Giang Văn Minh khảng khái đối lại:
    "Đằng giang tự cổ huyết do hồng" (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn tươi).
    Nghe xong câu đó, vua Minh giận tái mặt. Trận Bạch Đằng, một thất bại nhục nhã của quân Nam Hán, quân Tống và cả đế quốc Nguyên Mông năm xưa, nay được nhắc lại rất dõng dạc giữa sân rồng nhà Minh. Câu đối tỏ ý chí bất khuất của dân tộc. Vua Minh bực tức quát:
    - Quân bay! Đem tên này mổ bụng cho ta.
    - Dạ!
    - À thôi! Dẫu sao y cũng tỏ ra là kẻ có tiết tháo. Ta tha tội mổ bụng, nhưng đem ướp xác, trả về triều đình Nam bang, làm gương cho kẻ khác.
    Bực dọc trước câu đối trả ấy, vua Minh hèn hạ đã giết Giang Văn Minh. Đoàn người đi sứ đưa chiếc quan tài sơn son về đến cổng thành Thăng Long, vua Lê thân hành ra đón. Trước linh cữu Giang Văn Minh, vua Lê than thở:
    - Đi sứ không làm nhục mệnh nước, mệnh vua, thực là anh hùng thiên cổ
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này