1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sông Đông Êm Đềm

Chủ đề trong 'Album' bởi doctruyen, 12/12/2016.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0

    Tên thượng uý Itvarin đã bỏ chạy khỏi trung đoàn trước khi ở Kamenskaia họp đại hội đại biểu các binh sĩ Cô- dắc ở mặt trận về.

    Hôm trước khi chuồn khỏi đơn vị, hắn có đến gặp Grigori, đánh tiếng về việc mình sắp bỏ đi.

    - Tình thế đã chuyển biến đến bước như thế nầy thì khó mà ở lại phục vụ trong trung đoàn được nữa. Anh em Cô- dắc cứ lúng túng ngả nghiêng giữa hai cực đoan: bọn Bolsevich và chế độ quân chủ trước kia. Còn Chính phủ Kaledin thì chẳng ai muốn ủng hộ, thậm chí một phần vì lão cứ khư khư bám lấy cái thái độ trung dung trước đội quân của lão như giữ mả tổ 1. Nhưng chúng ta lại đang cần có một nhân vật cứng rắn, có ý chí kiên cường, có biện pháp đặt bọn ngụ cư vào đúng cương vị của chúng nó… Tuy nhiên tôi vẫn cho rằng trong lúc nầy tốt nhất vẫn là ủng hộ Kaledin để khỏi hoàn toàn sôi hỏng bỏng không. - Hắn nín lặng một lát, châm thuốc hút rồi hỏi - Anh… có lẽ đã theo cái đạo của bọn Đỏ rồi phải không?

    - Cũng gần như thế. - Grigori thú nhận.

    - Anh thực tâm theo chúng nó hay lại muốn kiếm chác chút uy tín trong bọn Cô- dắc như thằng Golubov?

    - Tôi thì chẳng cần uy tín uy tiếc làm gì. Chỉ muốn tìm một lối thoát cho mình thôi.

    - Anh đã húc đầu vào tường, chứ không phải đã tìm ra lối thoát đâu - Chúng ta hãy chờ xem…

    - Grigori ạ, tôi chỉ sợ lần sau chúng ta sẽ gặp nhau như hai kẻ thù.

    - Anh Efilm Itvarin ạ, trên chiến trường người ta không nhận được ra bạn bè nữa đâu. - Grigori mỉm cười.

    Itvarin ngồi lại một lát rồi ra về, và sáng hôm sau hắn mất hút như hòn đá dưới đáy sông.

    Hôm họp đại hội, có một gã Cô- dắc trung đoàn Atamansky người thôn Lebirgi trấn Vesenskaia đến chỗ Grigori ở. Grigori đang lau và bôi mỡ khẩu Nagan. Gã ngồi chơi một lát rồi mãi đến khi sắp ra về mới nói như nhân lúc vui chuyện, nhưng thật ra gã đến tìm chàng chỉ vì việc nầy (gã vốn biết rằng tên Litnhitki trước kia là sĩ quan trung đoàn Atamansky đã cướp vợ của Grigori, vì thế sau khi ngẫu nhiên gặp Litnhitki ngoài ga, gã đã đến báo cho chàng biết).

    - Anh Grigori Panteleevich ạ, hôm nay tôi có gặp thằng bạn quý của anh ở ga đấy.

    - Thằng nàỏ thế?

    - Thằng Evgeni Litnhitki ấy mà. Anh có biết nó không?

    - Gặp lúc nào thế? - Grigori vội hỏi ngay.

    - Trước đây một tiếng.

    Grigori ngồi phịch xuống. Mối căm hờn âm ỉ từ ngày xửa ngày xưa bỗng cắn ngập răng vào tim chàng như con chó ngao chuyên dùng để săn sói. Chàng không còn cảm thấy mối hận thù đối với kẻ tình địch sục sôi như xưa nữa. Nhưng chàng biết rằng nếu mình trạm trán với hắn trong hoàn cảnh nội chiến vừa bùng nổ thì giữa hai người phải có đổ máu. Bất ngờ nghe nhắc tới Evgeni, Grigori bỗng nhận thấy rằng vết thương cũ của mình chưa được thời gian chữa lành hẳn: chỉ một lời sơ ý nhắc tới là nó lại rỉ máu ngay. Có lẽ Grigori sẽ khoái trá trả thù cho mình về chuyện xưa kia, trả thù vì chính do tội của cái thằng đáng nguyền rủa nầy mà cuộc đời chàng mất hết màu sắc và thay cho niềm hân hoan tràn trề, hừng hực sức sống xưa kia, chỉ còn lại một nỗi đau khổ lạnh giá, nhức nhối, một cái gì ảm đạm và bạc màu.

    Grigori nín lặng một lát, và sau khi cảm thấy mặt mình vừa rực lên một chút đã trở lại bình thường, chàng mới hỏi:

    - Nó đến đây à, cậu có biết rõ không?

    - Chưa chắc chắn thế. Có lẽ nó đi Novocherkask.

    - À à à…

    Gã Cô- dắc trung đoàn Atamansky nói thêm vài câu về đại hội, về những tin trong trung đoàn rồi ra về. Sau đó mấy ngày liền, Grigori cố gắng thế nào cũng không dập tắt được nỗi đau khổ âm ỉ trong lòng. Chàng lang thang như một thằng say rượu, miệng đắng như ngậm bồ hòn, lòng tê tái và rắn lại như đá, những hồi ức về Acxinhia càng ám ảnh chàng nhiều hơn hẳn ngày thường. Chàng cũng nghĩ tới Natalia, tới hai đứa con, nhưng niềm vui đã quá xa xưa, đã bị thời gian gặm nhấm nham nhở mất rồi. Trái tim chàng vẫn hướng về Acxinhia, vẫn bị nàng hấp dẫn một cách ghê gớm, vẫn không sao cưỡng lại được.

    Hôm Chernechev đánh tới, các lực lượng ở Kamenskaia đã phải cấp tốc rút đi. Các chi đội thiếu tập trung của Uỷ ban quân sự cách mạng sông Đông, các đại đội Cô- dắc đã tan nát đến một nửa, tất cả đều được đưa nháo nhào lên xe lửa, hoặc bỏ chạy bằng ngựa hay bằng chân trên đường, bao nhiêu đồ nặng không tiện mang theo đều vứt hết. Người ta cảm thấy ảnh hưởng của tình trạng thiếu tổ chức, và thiếu một bàn tay cứng rắn có khả năng thâu tóm và sắp xếp sử dụng toàn bộ số lực lượng thật ra khá lớn nầy.

    Những ngày gần đây, trong số các cán bộ chỉ huy được bầu ra, không hiểu từ đâu ngoi lên trung tá Golubov, Golubov đã lên nắm quyền chỉ huy trung đoàn Cô- dắc 27 là đơn vị có sức chiến đấu mạnh nhất và lập tức sắp xếp mọi việc với bàn tay sắt. Binh sĩ Cô- dắc nhìn thấy ở Golubov điều mà trung đoàn đang thiếu là khả năng tổ chức lại một cách chặt chẽ các thành phần, phân phối nhiệm vụ, điều khiển công việc. Golubov là một sĩ quan phục phịch, má phính, mắt nhìn trâng tráo. Anh ta đứng trên sân ga, tay vung gươm, miệng quát những gã Cô- dắc chậm chất các đồ lên tàu:

    - Chúng mày làm sao thế nầy? Chơi ú tim với nhau đấy à? Mẹ chúng mày ra! Khiêng lên ngay? Nhân danh cách mạng tao ra lệnh phải lập tức phục tùng! Cái gì hử? Thằng mị dân nầy là đứa nào thế hử? Tao sẽ bắn chết mày, đồ khốn kiếp! Câm ngay cái mồm! Tao không là đồng chí của những thằng phá hoại và ngấm ngầm phản cách mạng đâu!

    Thế là anh em Cô- dắc đều cúi đầu phục tùng. Theo lề thói cũ thậm chí còn có nhiều người thích như thế người ta còn chưa kịp rũ bỏ các tập quán cũ. Xưa kia đối với binh sĩ Cô- dắc thì một chỉ huy càng "hắc" càng tốt. Đối với những con người như Golubov, họ thường nói: "Phạm tội thì lão lột da ra, nhưng lão lại biết lo cho anh em".

    Các đơn vị thuộc Uỷ ban quân sự cách mạng sông Đông ào ào rút đi và kéo đến tràn ngập thị trấn Glubokaia. Trên thực tế, quyền chỉ huy tất cả các lực lượng đều do Golubov nắm hết. Trong không tới hai ngày. Golubov đã tập hợp lại được các đơn vị bị tan rã, áp dụng một số biện pháp thích hợp để củng cố việc phòng thủ Glubokaia.

    Theo yêu cầu khẩn khoản của Golubov, Grigori được chỉ huy một tiểu đoàn gồm hai đại đội của Trung đoàn dự bị số 2 và một đại đội của trung đoàn Atamansky.

    Ngày hai mươi tháng Giêng, lúc trời hoàng hôn, Grigori ra khỏi nơi anh ở để kiểm tra các vọng tiêu mà đại đội của trung đoàn Atamansky đặt bên kia đường sắt. Chàng vừa ra khỏi cửa thì gặp Pochenkov.

    - Anh đấy à, Melekhov?

    - Phải, tôi đây.

    - Anh đi đâu thế?

    - Đi kiểm tra các vọng gác. Anh ở Novocherkask về đã lâu chưa? Kết quả ra sao?

    Pochenkov cau mày:

    - Với những kẻ thù không đội trời chung của nhân dân thì không có chuyện chạm trán với chúng nó một cách hoà bình đâu. Anh đã thấy chúng nó diễn một tiết mục như thế nào chưa? Đang đàm phán thì chúng nó phái thằng Chernechev đến cắn mình. Kaledin là một thằng bẩn thỉu như thế đấy! Nhưng tôi không có thì giờ, còn vội tới bộ tư lệnh đây.

    Pochenkov chia tay qua quít với Grigori rồi bước những bước rất dài về phía trung tâm thành phố.

    Ngay trước khi được bầu làm chủ tịch Uỷ ban quân sự cách mạng, Pochenkov đã thay đổi khá nhiều trong thái độ đối với Grigori cũng như anh em Cô- dắc quen biết khác, giọng nói đã rõ ràng có vẻ kẻ cả và đôi phần kiêu ngạo. Như hơi men, quyền hành đã làm choáng váng đầu óc anh chàng Cô- dắc bản chất giản dị nầy.

    Grigori bẻ cao cổ áo ca- pôt đi rảo bước hơn. Đêm nay hứa hẹn sẽ rét cóng. Một làn gió hiu hiu thổi tới từ xứ Kirgizia. Bầu trời đã trong sáng hơn. Nước đã đóng băng khá nhiều. Tuyết kêu, lạo xạo dưới chân. Mặt trăng từ từ nghiêng mình lên cao dần như một người tàn tật lên thang gác. Đằng sau những ngôi nhà, hơi khói xanh lơ tím ngắt của buổi chiều tà bốc lên ngùn ngụt trên đồng cỏ. Đang là lúc đêm sắp xuống, lúc mọi hình thù, đường nét, màu sắc, khoảng cách đều nhoà đi, lúc ánh sáng ban ngày còn đan quyện, còn bíu chặt lấy màn đêm, vì thế muôn vật đều có vẻ hư ảo, uyển chuyển, co dãn như trong thần thoại. Trong giờ phút nầy, ngay các mùi vị cũng mất tính chất rành rọt, cũng chỉ còn phảng phất một cách rất là đặc biệt.

    Kiểm tra xong vọng gác, Grigori trở về chỗ chàng ở trọ. Chủ nhà là một nhân viên đường sắt, mặt rỗ nhằng nhịt, nom rất gian giảo. Hắn nhóm lửa trong samova rồi ngồi vào bàn.

    - Các ông sẽ tấn công chứ?

    - Còn chưa biết.

    - Hay là các ông chờ chúng nó kéo đến.

    - Có lẽ thế.

    - Như thế mới thật là đúng. Xem ra các ông cũng chẳng có đâu lực lượng mà tấn công. Trong trường hợp nầy, dĩ nhiên tốt nhất là chờ họ đến. Phòng ngự thì lợi hơn. Trong chiến tranh với quân Đức chính tôi đã làm công binh nên được hiểu cặn kẽ về chiến lược chiến thuật… Binh lực có phần quá ít phải không?

    - Cũng đủ. - Grigori đánh lảng không muốn nói tiếp câu chuyện đang làm chàng khó chịu.

    Nhưng người chủ quán cứ lượn đi lượn lại quanh cái bàn, vừa luồn tay vào trong cái áo gi- lê bằng nỉ để gãi cái bụng lép như bụng con cá dầy, vừa lải nhải dò hỏi một cách rất đáng ghét.

    - Pháo binh có nhiều không? Có pháo không, có pháo không?

    - Anh đi lính rồi mà không biết luật nhà binh hay sao? - Grigori đã điên tiết lắm rồi nhưng giọng chàng nói vẫn lạnh như tiền. Chàng trợn tròn hai con mắt làm tên chủ nhà ngật người sang bên như sằp bất tỉnh - Anh đã đi lính mà không biết hay sao? Anh có quyền gì mà dò hỏi tôi về quân số bộ đội của chúng tôi và kế hoạch của chúng tôi? Tôi sẽ lôi cổ anh đi hỏi cung…

    - Ngài… ngài sĩ quan… quý… quý mến! - Tên chủ nhà tái mặt, tắc họng nói lắp bắp, những nốt rỗ trên mặt hắn xạm lại, miệng hắn há không ra há, mím không ra mím. - Tôi ngu… ngu dại quá! Ngài tha tội cho?

    Trong lúc uống trà, Grigori ngẫu nhiên ngước mắt nhìn tên chủ nhà, thấy mắt hắn chớp chớp rất nhanh như ánh điện, nhưng dến khi hắn hạ hai hàng mi xuống thì vẻ mặt hắn biến đổi hẳn, trở nên âu yếm thân thiết, thậm chí gần như cung kính tôn sùng. Gia đình hắn có một mụ vợ và hai đứa con gái đã lớn tuổi, cả ba cứ thì thầm rỉ tai nhau. Grigori chưa uống hết tách trà thứ hai đã bỏ về phòng của chàng.

    Chẳng mấy chốc có sáu gã Cô- dắc không biết ở đâu mò về. Tất cả đều thuộc đại đội bốn trung đoàn dự bị số hai và ở cùng nhà với Grigori. Họ sì sụp uống nước trà, chuyện trò cười nói ầm ĩ. Grigori đã thiu thiu, nên chỉ nghe được những đoạn rời rạc trong câu chuyện họ nói với nhau. Một gã kể chuyện (Grigori nghe giọng nói nhận ra trung đội trưởng Barmachev, một anh chàng người trấn Luganskaia), mấy gã kia chốc chốc cũng chõ vào góp một ý kiến nhận xét.

    - Mình đã chính mắt chứng kiến chuyện nầy đấy. Có ba anh chàng thợ mỏ khu Gorlovsky, mỏ số mười một, đến đây nói rằng ở chỗ chúng tôi đã tổ chức một đội vũ trang, nhưng đang thiếu vũ khí ghê lắm, xin các đồng chí chia được bao nhiêu thì cho chúng tôi bấy nhiêu. Còn ông uỷ viên Uỷ ban quân sự cách mạng nhà ta thì chính tai mình nghe thấy ông ấy giật giọng trả lời một ý kiến của một anh chàng nào đó mà mình nghe không rõ lắm. Ông ấy bảo: "Các đồng chí ạ, các đồng chí đến chỗ Sablin mà xin, ở chỗ chúng tôi chẳng có gì đâu". Sao lại chẳng có gì đâu? Mình thì biết rõ là súng ống hiện nay có thừa. Vấn dề không phải ở chỗ đó… Họ thấy bọn mu- gích nhúng tay vào nên đâm ra đố kỵ đấy thôi.

    - Nhưng làm như thế là đúng đấy! - Một gã khác nói. - Trang bị cho chúng nó rồi cũng chẳng biết chúng nó có chiến đấu hay không. Nhưng hễ động đến chuyện ruộng đất là thế nào chúng nó cũng chìa tay ra.

    - Cái hạng người ấy chúng ta đã biết chán rồi? Một gã thứ ba nói ồm ồm.

    Barmachev trầm ngâm gõ chiếc cùi dìa uống trà lên cái cốc rồi nói rành rọt từng tiếng theo nhịp gõ.

    - Không, giải quyết công việc như thế không được đâu. Người Bolsevich đang vì lợi ích của toàn thể nhân dân mà có những nhượng bộ, còn chúng ta thì chỉ là những thằng Bolsevich hạng bét. Lăm lăm chờ lật đổ được Kaledin là đi lấn ép người khác…

    - Nhưng ông anh thân mến ơi! - Một giọng vỡ tiếng của một gã nào không biết, nghe như cái giọng trầm của một thằng thiếu niên, kêu lên cố thuyết phục - Anh phải nhớ rằng chúng mình cũng chẳng có gì mà cho! Phần đất tốt thì mỗi nhân khẩu chỉ được một đê- xi- a- chin rưỡi. Ngoài ra toàn một loại đất sét, đất khe núi, đất chăn nuôi chung. Thế thì lấy gì mà cho đi bây giờ?

    - Người ta có lấy của cậu đâu mà sợ, còn có những kẻ thừa mứa ruộng đất ra đấy.

    - Thế còn đất của Quân khu?

    - Thôi tôi van các cậu! Mình có gì đem cho đi cả rồi chính mình lại ngửa tay xin à? Đầu óc cậu suy với nghĩ gì mà lạ?

    - Đất Quân khu thì chính chúng mình cũng phải dùng đến chứ.

    - Nói thế là đúng đấy.

    - Cậu đã bị lú lấp vì cái thói tham lam rồi!

    - Chuyện nầy thì có gì mà tham lam?

    - Có lẽ cũng phải cho bà con Cô- dắc chúng ta ở các vùng trên xuống đây ở mới được. Chúng mình cũng biết rằng đất của họ toàn một thứ cát vàng.

    - Đúng như thế đấy?

    - Đâu đến phần chúng ta phải lo việc triều đình.

    - Câu chuyện nầy không có vodka thì không lần được ra ngành ngọn đâu.

    - Nầy các cậu ạ! Hôm nọ chúng nó phi vỡ một kho rượu. Có thằng cha bị sặc rồi chết đuối trong thùng rượu đấy.

    - Bây giờ mà có cho mình tuý luý một mẻ nhỉ. Phải uống cho đến thấm qua sườn mới được.

    Grigori nửa tỉnh nửa mê còn nghe thấy mấy gã Cô- dắc dọn chỗ ngủ trên sân, ngáp vắn ngáp dài, gãy sồn sột rồi lại bàn ra tán vào về chuyện chia lại ruộng đất.

    Trời sắp rạng thì bên ngoài cửa sổ có tiếng súng nổ đánh "pằng".

    Mấy anh chàng Cô- dắc nhảy chồm cả dậy. Grigori chui đầu vào cái áo quân phục, ***g mãi chẳng thấy tay áo đâu. Chàng vơ nhanh chiếc áo ca- pôt, vừa chảy vừa đi giầy. Bên ngoài cửa sổ, súng đã nổ loạn như pháo ran. Một chiếc xe tải chạy long xồng xộc. Ngay gần cửa ra vào có người hốt hoảng kêu như cháy đồi.

    - Cầm lấy súng! Cầm lấy súng!

    Những đội hình tản khai của quân Chernechev đang đẩy lui các vọng tiêu, đột nhập vào Glubokaia. Trững tên cưỡi ngựa loáng thoáng qua bóng tối xám xịt mung lung sương khói. Bọn lính bộ binh chạy, ủng dẫm rầm rập. Một khẩu súng máy nặng đã được đặt ở chỗ ngã tư. Chừng ba chục binh sĩ Cô- dắc nối đuôi nhau chạy qua phố. Một tốp khác vượt qua một cái ngõ. Vang lên những tiếng quy- lát lách cách lên đạn. Trong căn phố cạnh đấy, một giọng ra lệnh vẳng tới, oang oang, rành rọt:

    - Đại đội ba, nhanh lên! Ai làm rối hàng ngũ thế kia? Nghiêm!

    Các xạ thủ súng máy, sang cánh bên phải! Sẵn sàng chưa? Đại đội.

    Một trung đội pháo ầm ầm chạy qua, ngựa phi nước đại. Bọn coi ngựa vung roi vun vút… Các hòm đạn kêu lạch xạch, tiếng giá súng lóc cóc hoà lẫn với tiếng đạn nổ rền ở ngoại ô. Ngay lúc đó, ở một chỗ gần đấy có mấy khẩu súng máy nặng khạc lửa ầm ầm. Ở góc phố bên cạnh, một chiếc xe nhà bếp dã chiến không biết định chạy đi đâu mà lớ ngớ húc ngay vào cái cọc buộc ngựa trồng bên dãy hàng rào rồi đổ kềnh.

    - Đồ quỉ dữ, mắt mù à? Mắt mũi để đâu thế? Đâm đầu đi đâu thế nầy? - Không biết là từ chỗ nào có tiếng người hết hồn hết vía gầm lên tức tối.

    Grigori phải mất không biết bao nhiêu hơi sức mới tập hợp được một đại đội rồi cho chạy nước kiệu ra ngoài lề thôn. Bọn Cô- dắc ngoài đó đang lốc nhốc rút lui.

    - Chạy đi đâu hử? - Grigori nắm lấy khẩu súng trường của gã chạy đầu.

    - Buông ra! - Gã Cô- dắc cố giằng ra - Buông ra, đồ chết tiệt! Làm gì mà nắm lấy người ta như thế hử? Không thấy là đang rút lui! Quân địch mạnh quá!

    - Chạy đến vãi ***…

    - Chúng mình chạy đi đâu bây giờ? Chạy đâu thế? Đến Mileskaia à? - Có tiếng người hổn hển hỏi to.

    Grigori cố dàn đại đội của anh thành đội hình tản khai ở ngoại ô, cạnh một căn nhà kho dài, nhưng lại bị một toán bỏ chạy khác cuốn đi Bọn Cô- dắc trong đại đội của Grigori lẫn ngay vào đám người đang tháo chạy, rút trở lại, trở về các phố.

    - Đứng lại? Không được chạy… Tao bắn cho bây giờ! - Grigori gầm lên, chàng điên tiết run bắn cả người.

    Chẳng còn ai tuân lệnh Grigori nữa. Một luồng hoả lực súng máy nặng bắn lùa theo dãy phố. Bọn Cô- dắc vội nằm rạp xuống đất, lốc nhốc từng đống. Họ bò vào sát tường rồi chạy lao vào các phố ngang.

    - Bây giờ thì đừng hòng nắm được quân nữa, Melekhov ạ! - Gã trung đội trưởng Barmachev chạy qua trước mặt Grigori, nhìn vào mắt chàng kêu lên.

    Grigori vung khẩu súng trường, nghiến răng chạy theo.

    Tâm trạng hoang mang xâm chiếm các đơn vị đã kết thúc bằng một cuộc tháo chạy khỏi Glubokaia, chẳng còn hàng ngũ gì nữa. Họ rút lui, bỏ lại hầu như toàn bộ vật liệu dụng cụ của chi đội. Mãi đến khi trời rạng mới tập hợp được vài đại đội để điều ra phản công.

    Golubov mặc chiếc áo da mở phanh chạy theo các đội hình tản khai của trung đoàn 27 của anh, mặt đỏ như gấc, mồ hôi đầm đìa, giọng hô sôi nổi, lanh lảnh như tiếng kim khí:

    - Chạy nhanh lên! Không nằm xuống nữa! Tiến, tiến!

    Đại đội pháo 14 đã chiếm lĩnh trận địa, các khẩu pháo đã tháo khỏi xe. Người sĩ quan chỉ huy đại đội trên một hòm đạn, dùng ống nhòm quan sát.

    Cuộc chiến đấu mở màn lúc sáu giờ sáng. Những đội hình tản khai hỗn hợp vừa lính Cô- dắc, vừa các chiến sĩ Xích vệ của chi đội Petrop ở Voronez xông lên dày đặc, dãy hình người đen đen hiện lên trên nền tuyết nom như một đường viền đăng ten.

    Một làn gió lạnh thổi tới từ phía mặt trời mọc. Dưới đám mây được gió thổi sạch bong, đường chân trời rực lên đỏ như máu trong ánh bình minh.

    Grigori cắt nửa đại đội của trung đoàn Atamansky tới yểm hộ cho đại đội pháo 14 rồi lôi số còn lại lên tấn công.

    Phát đạn pháo đầu tiên rơi rất xa trước đội hình tản khai của quân Chernechev. Khói nổ bốc vút lên nom như là cờ vàng vàng xanh xanh rách như xơ mướp. Phát thứ hai ròn rã dội lên tiếp theo. Từng khẩu đội tự điều chỉnh xạ kích.

    Viu viu viu… Những phát đạn bay đi xa dần.

    Sau một giây chết lặng căng thẳng mà những loạt súng trường chỉ càng nhấn mạnh thêm, từ xa vẳng tới một tiếng nổ rất vang. Những phát đạn pháo đầu tiên còn bắn quá xa, nhưng sau đã dần dần trúng vào gần các đội hình tản khai của địch. Gió thổi mạnh làm mặt Grigori cau lại, chàng cảm thấy sung sướng, bụng bảo dạ: "Mò đúng được chúng mầy rồi nhé! "

    Các đại đội của trung đoàn 44 tiến ở gần sườn bên phải. Golubov đưa trung đoàn của anh tiến lên ở giữa đội hình. Grigori ở bên trái Golubov. Sau Grigori, các đại đội Xích vệ chiếm nốt phần cuối của sườn bên trái. Ba khẩu súng máy được ghép vào các đại đội của Grigori. Người đội trưởng Xích vệ là một anh chàng nhỏ bé, mặt mũi âm thầm, có hai bàn tay rất to đầy lông lá. Anh ta tiến hành xạ kích rất khéo, làm tê liệt được các đợt tấn công vu hồi của địch. Anh ta luôn luôn có mặt bên cạnh một khẩu súng máy tiến trong đội hình tản khai của đại đội Atamansky. Ở bên cạnh anh có một nữ chiến sĩ Xích vệ mặc áo ca- pôt, người béo lẳn. Trong khi đi dọc theo đội hình chiến đấu, Grigori bỗng bực tức nghĩ thầm: "Đồ liếm váy! Tiến trên tuyến lửa mà cũng chẳng xa được đàn bà. Với những thằng như thế nầy thì đánh chác cái gì! Sao không mang theo cả con cái, chăn gối và nồi niêu xoong chảo luôn thể?". Người đội trưởng súng máy đi tới trước mặt Grigori, sửa lại cái dây đeo khẩu Nagan trên ngực?

    - Đồng chí chỉ huy chi đội nầy à?

    - Vâng, tôi đây.

    - Tôi sẽ bắn chặn trong khu vực nửa đại đội Atamansky nầy. Đồng chí thấy không, chúng nó không để cho ta tiến nữa.

    - Đồng chí trị chúng nó đi, - Grigori đồng ý rồi quay ngoắt lại vì ở chỗ khẩu súng máy từ nãy lắng bặt bỗng có tiếng kêu.

    Một xạ thủ súng máy lực lưỡng, râu ria xồm xoàm, kêu to giọng hung dữ:

    - Buntruc! Súng máy nóng chảy rồi! Sao lại có thể như thế nầy được?

    Người đàn bà mặc áo ca- pôt quì ngay bên cạnh anh ta. Hai con mắt đen láy của chị sáng bừng dưới chiếc khăn len xồm làm Grigori vụt nhớ tới Acxinhia. Chàng nín thở trong một giây, đăm đăm nhìn chị không chớp bằng cặp mắt âu sầu.

    Đến giữa trưa, có một liên lạc ở chỗ Golubov phi ngựa đến gặp Grigori với một mẩu giấy. Trên tờ giấy xé nham nhở trong quyển sổ dã chiến thấy viết nguệch ngoạc mấy dòng chữ:

    "Nhân danh Uỷ ban quân sự cách mạng sông Đông, tôi ra lệnh cho đồng chí đem hai đại đội đã trao cho đồng chí chỉ huy rút khỏi trận địa theo tốc độ hành quân cấp tốc, luồn ra bao vây sườn bên phải của địch. Hướng di chuyển là khu vực ở đây có thể nhìn thấy, hơi bên trái cái cối xay gió, trong lòng khe… Phải vận động thật bí mật (đến đây có vài chữ đọc không rõ)… Đồng chí sẽ đánh vào sườn địch ngay khi chúíng tôi chuyển sang đợt tấn công quyết định.

    Golubov"

    Grỉgôri rút hai đại đội, cho lên ngựa, vận động về phía sau, cố giữ cho địch khỏi nhận ra hướng tiến của mình.

    Con đường du hồi dài hai mươi vec- xta. Những con ngựa vừa chạy vừa thụt chân xuống lớp tuyết rất dày. Cái khe dùng làm đường bao vây cũng đầy tuyết. Đôi chỗ tuyết lên đến bụng ngựa. Grigori lắng nghe những tiếng đạn pháo nổ, chốc chốc lại lo lắng xem chiếc đồng hồ tháo ở tay một tên sĩ quan Đức bị giết ở Rumani, trong lòng thấp thỏm chỉ lo đến muộn. Chàng lấy địa bàn kiểm tra lại hướng tiến, thấy vẫn cứ lệch sang bên trái một chút. Đoàn người ngựa leo theo một khoảng dốc rộng ra khỏi khe núi. Những con ngựa bốc hơi ngùn ngụt, bẹn con nào con nấy ướt đẫm. Grigori ra lệnh xuống ngựa rồi leo trước lên một cái gò. Ngựa được để lại bên dưới cùng với những người lính coi ngựa. Grigori quay đầu nhìn lại thấy sau lưng mình có hơn một đại đội đã xuống ngựa, tản thưa ra trên đoạn sườn khe đầy tuyết, bất giác cảm thấy mình tin tưởng hơn, sung sức hơn. Cũng như mọi người, trong chiến đấu bao giờ Grigori cũng hoàn toàn bị xâm chiếm bởi tinh thần đồng đội. Chàng đưa mắt nhìn qua toàn bộ tình hình, hiểu rằng do thiếu tính tới vấn đề đường khó đi, mình đã đến muộn ít nhất nửa tiếng đồng hồ.

    Grigori dùng một chiến thuật vật động táo bạo, đã gần như cắt đứt được đường rút lui của quân Chernechev. Anh rút các bộ phận trắc vệ ra khỏi hai bên sườn để tấn công chính diện vào đám quân địch lúc nãy đã gần như bị vây kín. Các đại đội pháo bắn từng loạt long trời. Súng trường nổ rền như có người lăn những viên đạn chì trên chảo gang. Đạn ghém nổ chùm lên những đội hình chiến đấu đã rối loạn của quân Chernechev. Đạn pháo rơi sin sít.

    - Tản kha...ai!

    Grigori đem hai đại đội của chàng đánh vào bên sườn địch. Mọi người không nằm xuống nữa, cứ vừa tiến vừa bắn như trong diễn tập.

    Nhưng một tên lính tháo vát của Chernekov đã hướng một khẩu "Mác- xim" quét rất dữ vào đội hình tản khai làm anh em Cô- dắc phải ngoan ngoãn nằm xuống ngay, để lại ba người không theo được đội hình nữa.

    Đến hơn hai giờ trưa, Grigori bị trúng một viên đạn. Trong cái vỏ bọc bằng kền, hòn chì nóng bỏng thui cháy một chỗ thịt phía trên đầu gối. Grigori cảm thấy một vật nóng rực đập vào mình và cái buồn nôn quen thuộc những khi mất máu. Chàng nghiến răng, bò ra khỏi đội hình chiến đấu, rồi giữa lúc đang hăng chàng nhảy chồm dậy, lắc mạnh đầu, thấy đầu mình cũng bị dập thương vì một viên đạn. Vết thương ở chân, viên đạn không xuyên sang bên kia, vì thế càng ******** làm tội chàng. Lúc bắn vào Grigori, viên đạn đã gần hết đà, nên chỉ xuyên qua áo ca- pôt, quần cưỡi ngựa và làn da rồi nằm chết dí trong lớp thịt. Chỗ đạn xé thịt nóng rát trở ngại mọi cử động của chàng. Grigori vừa nằm vừa hồi tưởng lại trận tấn công của trung đoàn Mười hai trong vùng núi Transinvani ở Rumani. Lần đó chàng đã bị thương ở tay. Những hình ảnh của trận tấn công ấy hiện lên rành rọt trước mắt chàng: "Tóc trái đào", bộ mặt căm uất đến méo đi của Miska Kosevoi, Emelian Grosev chạy từ trên núi xuống lôi theo viên trung uý bị thương.

    Viên sĩ quan Liubiskin Paven, tiểu đoàn phó của Grigori, lên nắm quyền chỉ huy các đại đội. Theo lệnh của Liubiskin hai chiến sĩ Cô- dắc dìu Grigori về chỗ các anh em giữ ngựa. Hai người đỡ Grigori lên ngựa rồi khuyên chàng, giọng đầy thiện cảm:

    - Đồng chí phải băng vết thương mới được.

    - Có băng đấy à?

    Grigori đã ngồi lên yên, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thế nào lại tụt xuống. Chàng cởi chiếc quần đi ngựa, một cơn lạnh truyền khắp cái lưng đẫm mồ hôi, lan tới bụng và hai chân làm chàng nhăn mặt. Chàng vội vã băng vết thương nóng rát, vẫn chảy máu, tựa như vết rạch của một con dao gọt bút chì.

    Cùng với người cần vụ, Grigori cho ngựa chạy theo con đường vòng cũ, về tới chỗ cuộc phân công đã mở màn lúc nãy. Chàng nhìn những vết móng ngựa in hằn nhằng nhịt trên mặt tuyết, nhìn những đường nét quen thuộc của cái khe núi trong đó chàng đã chỉ huy hai đại đội của chàng vận động mấy giờ trước đây, bỗng cảm thấy buồn ngủ và không hiểu sao những việc xảy ra trên gò tự nhiên trở nên xa xôi và không còn có ý nghĩa gì nữa.

    Nhưng ở đằng kia, những loạt súng trường vẫn nổ, lúc thì dồn dập, lúc thì rời rạc. Đại đội trọng pháo của địch bắn ầm ầm hòng chi viện cho quân của chúng. Và thỉnh thoảng lại có những khẩu súng máy nổ tẳng tằng đính những đường kim khâu liên tục, vẻ như muốn vạch một nét vô hình định chỗ kết thúc trận chiến đấu.

    Grigori cho ngựa đi chừng ba vec- xta dưới khe núi. Chân hai con ngựa bị tuyết níu lại.

    - Rẽ ra chỗ quang kia đi… - Grigori lầu bầu với người cần vụ rồi kéo cương về phía khoảng dốc lổn nhổn những đám tuyết trên bờ khe.

    Xa xa, hình những xác chết hiện rõ đen sì trên khắp cánh đồng, như có một đàn quạ đậu xuống. Ngay trên khoảng chân trời sắc như một lưỡi dao có con ngựa không người cưỡi chạy loạn lên, đứng đấy trông nó chỉ còn nhỏ xíu.

    Grigori nhìn thấy thấy bộ phận chủ lực của Chernekov đang vòng sang bên cạnh, rút khỏi cuộc chiến đấu và chạy về phía Glubokaia. Chúng đã bị đánh tan nát, thưa thớt đi nhiều. Chàng bèn cho con Hạt Dẻ phi nước đại. Đằng xa hiện ra những đám người ngựa Cô- dắc đứng rải rác. Chàng phi ngựa đến toán đầu tiên thì thấy Golubov. Golubov ngồi ngửa người trên yên, cái áo da ngắn có vạt áo viền lông cừu non vàng khè phanh trước ngực, chiếc mũ lông dội lệch sang một bên, trán đẫm mồ hôi. Golubov vê vê chòm ria vểnh ngược như ria của một lão chánh quản, kêu to lên với Grigori bằng một giọng khàn khàn.

    - Melekhov, cậu cừ lắm! Nhưng cậu bị thương hay sao thế? Mẹ khỉ? Xương còn nguyên vẹn chứ? - Rồi Golubov không chờ trả lời, mỉm cười nói tiếp luôn - Không còn mảnh giáp. Bọn mình đã nện cho chúng nó không còn mảnh giáp! Chi đội sĩ quan đã bị đánh tơi bời, không thể tập hợp lại được nữa. Phen nầy thì thất điên bát đảo!

    Grigori xin thuốc hút. Khắp chiến trường chỗ nào cũng thấy những chiến sĩ Cô- dắc và Xích vệ đổ về cuồn cuộn. Một chiến sĩ Cô- dắc cho người chạy nước kiệu trên đầu một đám người ngựa đen ngòm.

    - Bắt tù binh được bốn mươi thằng, Golubov ạ! - Từ xa anh chàng đã kêu lên. Bốn mươi thằng sĩ quan, và chính thằng Trecnechev.

    - Chỉ nói láo! - Golubov kinh hãi ngọ nguậy một lát trên yên rồi thúc ngựa phi vụt lên, vừa phi ngựa vừa quất không tiếc tay con ngựa cao chân trắng.

    Grigori nán lại một lát rồi cũng cho ngựa chạy nước kiệu theo Golubov.

    Ba chục chiến sĩ Cô- dắc vây kín, áp giải một đám lốc nhốc những tên sĩ quan bị bắt làm tù binh. Đội áp giải gồm những chiến sĩ thuộc trung đoàn 44 và một đại đội của trung đoàn 27. Chernechev đi đầu toán tù binh. Trong khi cố chạy thoát bộ phận truy kích, hắn đã vứt bỏ cái áo lông ngắn mặc ngoài, nên bây giờ trên mình chỉ còn độc một chiếc áo da mỏng. Cái lon trên vai trái đã bị giựt đứt. Trên mặt hắn có một vết mới toạc ở gần mắt bên trái, máu còn chảy ròng ròng. Hắn đi rất nhanh, chân bước không có vẻ gì luống cuống.

    Chiếc mũ lông đội lệch sang một bên làm cho mặt hắn nom như nhởn nhơ, ngang tàng. Khuôn mặt đỏ hồng của hắn không lộ một chút gì khiếp hãi. Có lẽ đã mấy hôm nay không cạo râu nên trên má và dưới cằm hắn thấy lồm xồm một đám râu ngô óng ánh như vàng.

    Chernechev đưa nhanh mắt gườm gườm nhìn mấy chiến sĩ Cô- dắc phi ngựa tới, giữa hai hàng lông mày hiện lên một vết nhăn đầy đau khổ và căm hờn. Hắn vừa đi vừa đánh diêm châm thuốc hút, điếu thuốc kẹp chặt bên mép cặp môi hồng cứng cỏi.

    Phằn lớn những tên sĩ quan khác còn trẻ, chỉ có vài tên tóc bạc như sương. Một tên bị thương ở chân đi tụt lại sau. Một chiến sĩ Cô- dắc nhỏ bé, đầu to, mặt rỗ hoa, lấy báng súng nện vào lưng hắn, thúc hắn đi nhanh hơn. Một tên đại uý cao lớn, dáng hùng hổ, đi gần ngang hàng với Chernechev. Có hai tên mỉm cười khoác tay nhau cùng đi, một tên là thiếu uý, một tên là trung uý. Sau lưng hai tên nầy là một thằng Yunke vai rộng, đầu không mũ, tóc xoăn. Một tên khoác cẩu thả một chiếc áo ca- pôt của lính có hai chiếc lon vai khâu chặt. Còn một tên nữa cũng không có mũ lông, mà chỉ có một chiếc mũ ba tai màu đỏ của sĩ quan chụp xuống tới cặp mắt đen đẹp như mắt phụ nữ, gió thổi lất phất như cái tai mũ trên vai hắn.

    Golubov cho ngựa chạy phía sau. Anh dừng lại một lát rồi quát lên với các chiến sĩ Cô- dắc:

    - Nầy nghe đây! Anh em sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho tù binh theo đúng luật cách mạng thời chiến? Phải giải tất cả về bộ tư lệnh cho đầy đủ.

    Rồi Golubov gọi một chiến sĩ Cô- dắc cưỡi ngựa và vẫn ngồi trên yên, viết nguệch ngoạc trên một mảnh giấy, viết xong gấp lại trao cho người chiến sĩ.

    - Phi ngay về! Đưa cái nầy cho Pochenkov.

    Nói xong anh quay sang hỏi Grigori:

    - Cậu cũng về đằng ấy chứ, Melekhov?

    Thấy Grigori trả lời là có, Golubov cho ngựa chạy lên ngang với chàng và nói:

    - Cậu bảo hộ với Pochenkov rằng tôi bảo đảm cho Chernekov! Cậu hiểu chứ? Thôi, cậu cứ nói lại hộ tôi như thế. Cậu đi đi.

    Grigori vượt qua đám tù binh, cho ngựa chạy tới bộ tư lệnh Uỷ ban quân sự cách mạng đóng ngay trên cánh đồng, gần một cái thôn.

    Pochenkov đang đi đi lại lại bên cạnh một cái xe hai ngựa rất rộng của người Tavria, nước bám đông cứng trên các bánh xe, trên xe có một khẩu súng máy nặng trong cái áo súng màu xanh lá cậy. Các nhân viên tham mưu, liên lạc, một số sĩ quan và cần vụ Cô- dắc cũng đang luẩn quẩn ở đấy, đế ủng lạo xạo trên tuyết. Cũng như Pochenkov, Minaev mới trở về chưa được bao lâu từ các đội hình chiến đấu. Anh ngồi trên cái ghế đánh xe, ăn một miếng bánh mì trắng đã đóng cứng, tiếng răng nhai sồn sột.

    - Anh Pochenkov! - Grigori rẽ ngựa sang bên. - Sắp giải tù binh đến đây rồi đấy. Anh đã đọc bức thư của Golubov chưa?

    Pochenkov vung mạnh chiếc roi ngựa. Anh đưa hai con mắt đỏ ngầu những máu nhìn xuống đất rồi quát lên:

    - Tôi thì mặc xác thằng Golubov! Mơ ước chuyện ấy còn ít đấy! Muốn đảm bảo cái mạng cho thằng Chernechev, cho thằng ăn cướp thằng phản cách mạng ấy à? Tôi không để cho đâu! Đem tất cả chúng nó đi bắn sạch một lượt, thế là xong!

    - Golubov nói là sẽ đảm bảo cho hắn.

    - Tôi không để cho làm như thế đâu! Tôi đã nói là không để cho làm như thế rồi? Đấy, chỉ có thế thôi! Toà án cách mạng sẽ lôi cổ nó ra xử và sẽ lập tức trừng trị ngay. Để cho những đứa khác không còn dám làm như nó nữa? Anh có biết, - Pochenkov đưa cặp mắt sắc ngọt nhìn đám tù binh đang đi tới gần, nói tiếp bằng một giọng đã bình tĩnh hơn, - Anh có biết nó đã làm đổ bao nhiêu máu trên đời lày không - Hàng biển máu! Nó đã giết hại bao nhiêu anh em thợ mỏ rồi! Nói đến đây Pochenkov lại sôi sục căm hờn, hai con mắt long lên một cách hung dữ. - Tôi không để cho làm như thế đâu!

    - Ở đây có gì mà phải quát lác như thế! - Cả Grigori cũng giật giọng. Lục phủ ngũ tạng của chàng run lên bần bật, tựa như cơn phẫn nộ của Pochenkov đã lan sang chàng. - Các anh ở đây sao mà lắm quan toà thế? - Chàng hất đầu về phía sau, cánh mũi phập phồng. - Để xử trí tù binh các anh thật không thiếu kẻ quyết định?

    Pochenkov vò cái roi ngựa trong gay, bỏ đi. Nhưng đi đã xa anh mới quát lên:

    - Tôi đã có mặt ngoài ấy đấy! Anh đừng tưởng tôi đã giữ lấy cái thân xác của mình trên cái xe nầy. Còn anh, Melekhov ạ, hãy im cái mồm đi! Hiểu chưa hử? Anh đang nói với ai đấy? Hử… Những cái thói sĩ quan ấy thì liệu vứt đi đâu thì vứt! Quyền xét xử của Uỷ ban quân sự cách mạng chứ không phải bất cứ…

    Grigori thúc ngựa tới trước mặt Pochenkov. Chàng quên rằng mình đang bị thương, nhảy luôn trên yên xuống, nhưng một cơn đau nhói đã làm chàng ngã vật ra. Máu trong vết thương ào ra, nóng rát như lửa. Không cần người khác giúp đỡ, chàng đứng dậy được rồi khập khiễng lê bước tới bên cạnh chiếc xe ngựa và dựa sườn vào cái díp phía sau.

    Toán tù binh đã bị giải tới. Một phần các chiến sĩ áp giải đi chân đến đứng lẫn vào đám cần vụ và số chiến sĩ Cô- dắc bảo vệ bộ tư lệnh. Tinh thần sôi sục của họ trong chiến đấu còn chưa nguôi. Mắt long lanh hung tợn, họ trao đổi với nhau những nhận xét về các chi tiết và kết cục của trận chiến đấu.

    Pochenkov nặng nề bước tới gần đám tù binh, chân anh dẫm tới đâu, tuyết sụt tới đó Chernechev đứng trước cả đám. Hắn nhìn Pochenkov, hai con mắt sáng quắc gan lì nheo lại khinh bỉ. Hắn đưa thoải mái một chân ra phía trước, rung rung đầu gối, hàm răng trên trắng nhởn hình móng ngựa cắn lên bên trong cái môi dưới hồng hồng. Pochenkov bước tới sát trước mặt hắn. Toàn thân anh run bắn lên, hai con mắt không chớp nhìn lướt trên mặt tuyết lồi lõm nham nhở, đưa lên cao đầu, bắt gặp cặp mắt liều lĩnh và khinh bạc của Chernechev, cuối cùng áp đảo được cặp mắt đó với sức nặng của lòng căm hờn.

    - Thế là tóm cổ được mày rồi… đồ chó đẻ! - Pochenkov nói bằng một giọng trầm nhưng rất to rồi lùi một bước, một nụ cười méo xệch mở hoác như nhát gươm giữa hai bên má.

    - Mầy phản bội người Cô- dắc! Quân khốn nạn! Đồ phản bội! - Chernechev rít răng gầm lên.

    Pochenkov lắc đầu như để tránh một cái tát, hai gò má anh đen xạm lại, hơi thở khò khè qua cái miệng vẫn mở to.

    Mọi việc sau đó đã diễn ra một cách nhanh chóng lạ lùng.

    Chernechev áp hai nắm tay lên ngực, ngả hẳn người về phía trước, tiến về phía Pochenkov, mặt hắn tái nhợt, hai hàm răng nhe ra. Qua cặp môi giật giật vì chuột rút, thấy thều thào những lời líu nhíu lẫn với những tiếng cười tục tĩu. Pochenkov từ từ lùi lại. Những lời Chernechev nói, chỉ riêng anh nghe thấy.

    - Rồi sẽ đến lượt mày… Hiểu không? - Chernechev bất thần nói giật giọng.

    Câu đó, cả bọn sĩ quan bị bắt làm tù binh, các chiến sĩ áp giải lẫn các nhân viên tham mưu đều nghe thấy.

    - Cha.. à- à- à… - Pochenkov đưa tay xuống cán gươm, rít lên như bị nghẹt thở.

    Không khí bất thần chết lặng. Minaev, Krivoslykov và vài người nữa chạy bổ tới chỗ Pochenkov, tiếng đế ủng của họ ràn rạt trên tuyết nghe rõ mồn một. Nhưng Pochenkov đã hành động nhanh hơn họ. Anh khuỵu chân xuống một chút, xoay toàn bộ thân phải, rút đánh soạt thanh gươm ra khỏi vỏ rồi xông vụt lên phía trước, nhằm đầu Chernechev chém bổ xuống với một sức mạnh khủng khiếp.

    Grigori nhìn thấy Chernechev run bắn người, giơ bàn tay trái lên che đầu, cố đỡ nhát gươm. Chàng nhìn thấy bàn tay bị chém đứt chếch còn lưỡi gươm thì ăn rất ngọt vào đầu hắn, không một tiếng động, giữa lúc hắn cố ngửa ra sau. Chiếc mũ lông của Chernechev rơi xuống trước tiên, rồi sau như một cây lúa gẫy ngang thân, cả cái thân hình của hắn từ từ ngả xuống, miệng hắn méo xệch đi nom rất kỳ quặc, hai con mắt nheo lại một cách đau khổ như chói ánh chớp.

    Pochenkov còn bồi thêm cho Chernechev một nhát nữa rồi mới bỏ ra chỗ khác, chân bước nặng nề, nom già hẳn đi, vừa đi vừa chùi hai cái má gươm van vát, đỏ lòm những máu.

    Đến lúc vấp phải chiếc xe ngựa, anh quay lại nhìn các chiến sĩ áp giải, quát lên như chó sủa:

    - Chém mẹ tất cả chúng nó đi! Chém kỳ hết! Không có tù binh gì hết… Chém cho trúng tim, cho xối máu ra?

    Những phát súng nổ loạn lên một chập. Bọn sĩ quan xô nhau chạy tán loạn, gã trung uý có cặp mắt đen như mắt phụ nữ và cái mũ ba tai của sĩ quan đưa hai tay lên ôm đầu, cắm cổ chạy. Một viên đạn đã làm hắn bật lên như người nhảy vượt hàng rào. Hắn ngã vật xuống để không bao giờ nhỏm dậy được nữa. Viên đại uý cao lớn, vẻ ngang tàng, bị hai gã Cô- dắc xông đến chém. Hắn giơ tay lên nắm lấy hai lưỡi gươm, từ hai bàn tay bị rách toạc, máu chảy ròng ròng xuống tay áo hắn. Hắn khóc rống lên như một đứa con nít, khuỵu đầu gối, ngã ngửa ra, đầu lăn lộn trên tuyết. Trên mặt hắn chỉ còn có thể nhìn thấy hai con mắt đầy máu và cái miệng đen ngòm với tiếng gào không ngớl. Hai thanh gươm vung lên xả xuống mặt hắn, miệng hắn, nhưng hắn vẫn kêu lên những tiếng the thé vì kinh hoàng và vì đau. Một gã Cô- dắc mặc chiếc áo ca- pôt mất dây lưng đứng dạng chân trên đầu hắn, kết liễu đời hắn bằng một phát súng.

    Tên Yunke tóc xoăn thiếu chút nữa thì vượt được khỏi vòng vây, nhưng một tên lính trung đoàn Atamansky đã kịp lao theo chém cho hắn một nhát vào gáy chết tươi. Cũng chính tên lính nầy đã nã một viên đạn vào trúng giữa hai cái xương bả vai của một tên trung uý đang bỏ chạy với cái áo ca- pôt bay phành phạch trước gió như con chim vươn cánh. Tên trung uý ngồi sụp xuống và cứ cào mười ngón tay lên ngực cho đến khi tắt thở. Một tên thượng uý tóc hoa râm bị giết ngay tại chỗ. Trước khi chia tay với cuộc đời, hắn cứ giãy đành đạch và chưa biết chừng sẽ còn đập mãi hai chân xuống tuyết như một con ngựa tốt khi bị buộc vào cọc, nếu mấy gã Cô- dắc không động lòng thương cho hắn sớm về với ông bà ông vải.

    Cuộc chém giết vừa mở màn, Grigori đã rời khỏi chiếc xe ngựa. Hai con mắt đục ngầu không rời khỏi Pochenkov, chàng khập khiễng bước nhanh tới chỗ Pochenkov. Nhưng Minaev đã từ phía sau ôm ngang lưng chàng, bẻ ngoặt tay chàng và giằng lấy khẩu Nagan. Minaev đờ đẫn nhìn thẳng vào mắt Grigori, thở hổn hển hỏi chàng.

    - Thế cậu cho rằng phải làm như thế nào hử?

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Nguyên văn: "Như thằng ngốc giữ cái túi thóc vẽ hoa" (ND)
  2. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 102

    Dưới ánh nắng tràn trề như màu sứ và bầu trời xanh ngắt không gợn một chút mây nào, đường sống gò đầy tuyết sáng loá, trắng tinh, lấp lánh như những tinh thể đường. Làng Onkhovyi Rok nằm dài dưới chân gò như một cái chăn sặc sỡ rách mướp. Ở bên trái, sông Svinyukha lượn lờ xanh biếc bên phải là những thôn Cô- dắc và những khu di dân của người Đức hiện lên thành những mảng mung lung sương khói. Trấn Chernovskaia nằm xanh xanh sau khúc sông.

    Về phía đông, sau làng có một ngọn gò nhỏ hơn nham nhở những khe rãnh, sườn gò dốc lên thoai thoải. Những cột dây thép trồng trên đó chạy về phía Kasary nom như một dãy hàng rào.

    Kể ra cũng hiếm có một ngày băng giá lại sáng sủa thế nầy. Những ụn khói chập chờn ngũ sắc như cầu vồng bốc lên gần mặt trời. Gió thổi dồn từ phía bắc tới. Trên đồng cỏ, một trận bão tuyết nhỏ làm bốc lên một đám xanh xanh. Nhưng khoảng trời tuyết mênh mông trong vòng tay của đường chân trời rất sáng. Mãi đằng đông, chỗ góc chân trời, mới thấy đồng cỏ bốc lên một làn hơi lím ngát như khói.

    Ông Panteley Prokofievich đánh xe đưa Grigori từ Minlerovo về, ông quyết định không dừng lại ở Onkhovyi Rok mà cho ngựa chạy thẳng đến Kasary và nghỉ đêm tại đó. Nhận được bức điện của Grigori, ông đã ở nhà ra đi ngay và đến ngày 28 tháng Giêng thì đến Minlerovo lúc trời đã hoàng hôn. Grigori chờ bố ở một nhà trọ. Sáng hôm sau hai bố con ra về và chừng mười một giờ đã chạy qua Onkhovyi Rok.

    Sau khi bị thương trong trận chiến đấu ở gần Glubokaia, Grigori nằm lại quân y dã chiến Minlerovo một tuần. Thấy chân đã đỡ một chút chàng quyết định về nhà. Anh em Cô- dắc cùng trấn đã đem con ngựa về cho chàng. Grigori ra đi, trong lòng vừa bực mình lại vừa vui: bực mình vì đã rời bỏ đơn vị giữa lúc cuộc đấu tranh dành chính quyền ở vùng sông Đông đang diễn ra quyết liệt, còn vui thì chỉ với ý nghĩ là mình sẽ lại được gặp gia đình, thôn xóm. Chính chàng tự giấu mình niềm mong muốn gặp mặt Acxinhia, nhưng thật ra chàng không khỏi có những ý nghĩ về nàng.

    Hai bố con gặp nhau, thái độ có phần nào ghẻ lạnh. Vì đã bị Petro rỉ tai to nhỏ nên ông Panteley Prokofievich cứ nhìn Grigori với bộ mặt sầm sầm dái trâu và những cái nhìn lấm lét trơn như mỡ của ông đầy một vẻ vừa bực bói vừa lo lắng chờ đợi. Tối hôm ấy, ở nhà ga, ông hỏi han Grigori rất lâu về các sự kiện vừa bùng nổ trong Quân khu. Có lẽ những câu trả lời của con trai đã không làm ông thoả mãn. Ông cứ nhai nhai chòm râu hoa râm, dán mắt xuống đôi ủng dạ đế da, mũi thở phì phì. Kể ra ông cũng không muốn tranh luận trong lúc nầy, nhưng trong khi bênh vực Kaledin, ông đã nổi nóng lên và những phúl cái máu hoàng bào nổi dậy, ông vẫn quát rầm lên với Grigori như xưa, thậm chí còn dẫm bành bạch bên chân thọt.

    - Mầy đừng dạy khôn tao! Mùa thu năm ngoái, ông Kaledin đã về thôn ta đấy! Hôm ấy đã họp toàn dân trên bãi bàn việc làng. Ông ấy đã đứng lên bàn nói với các cụ bô lão và nói trước như lời tiên tri trong Kinh thánh rằng bọn mu- gích sẽ kéo đến đây, chiến tranh sẽ bùng nổ và nếu chúng ta cứ ngả nghiêng, nghiêng ngả thì sẽ bị chúng nó vơ vét sạch trơn và chúng sẽ đến sinh cơ lập nghiệp trên Quân khu. Ngay từ hồi đó ông ấy đã biết rằng chiến tranh sẽ nổ ra rồi. Còn cái lũ chó đẻ chúng mày thì nghĩ ngợi được cái gì? Hay là ông ấy hiểu biết ít hơn chúng mầy? Một vị tướng học vấn uyên thâm đã từng chỉ huy tập đoàn quân mà lại hiểu biết không bằng chúng mầy hay sao? Những thằng kéo đến Kamenskaia toàn là một bọn vô tài bất tướng, dốt nát, ngu xuẩn như mày cả, chỉ làm nhân dân rối loạn thôi. Thằng Pochenkov của mày xuất thân là gì hử? Phó quản phải không? Ái chà chà? Té ra cấp bậc cũng chỉ như tao. Thì ra là như thế! Sống được đến bây giờ… Thật đã đến lúc mạt vận!

    Grigori tranh cãi với bố một cách miễn cưỡng. Ngay từ lúc chưa gặp mặt bố, chàng đã biết rõ câu chuyện sẽ như thế nầy. Nhưng đến bây giờ lại có một tình hình mới xen thêm vào: Grigori không thể nào tha thứ, cũng không thể nào quên cái chết của Chernechev và cuộc bắn giết bọn sĩ quan bị bắt làm tù binh, không cần xét xử.

    Đôi ngựa thắng hai bên cái càng giữa nhẹ nhàng kéo chiếc xe trượt tuyết chạy băng băng. Con ngựa của Grigori còn nguyên đồ thắng chạy phía sau, dây cương buộc vào xe. Những làng người Ukraina và những thôn Cô- dắc mà chàng đã quen từ thời thơ ấu lần lượt hiện ra hai bên đường: Kasary, Popoca, Kamenka, Hạ - Yablonovsky, Grachev, Yasenovka. Suốt chặng đường về tới thôn nhà, không hiểu sao Grigori cứ suy nghĩ miên man không đầu không đũa về những việc xảy ra gần đây, cố dò ra con đường tương lai, dù chỉ định được vài điểm mốc trên đó, nhưng mọi ý nghĩ của chàng đều chỉ dẫn tới những ngày nghỉ ngơi ở nhà, và đến đây là đâm vào ngõ cụt anh sẽ về nhà nghỉ ngơi ít bữa, mình sẽ chữa cho vết thương lành hẳn, rồi sau… - Grigori nghĩ thầm như thế rồi lại thầm vung tay gạt bỏ hết mọi việc - Về sau ra sao thì hãy chờ xem. Bản thân tình hình sẽ cho mình thấy rõ…

    Sự mệt mỏi tích lại qua cả một cuộc chiến tranh đè nặng lên chàng. Chàng chỉ muốn lánh xa hẳn cái thế giới sôi sục hằn thù, cái thế giới thù địch mà chàng không tài nào hiểu nổi. Mọi việc bỏ lại ngoài kia, sau lưng chàng, đều rối như bòng bong và đầy mâu thuẫn. Thật khó mà lần được ra hướng đi đúng đắn: cứ y như trên một con đường lát bằng cành cây trên bãi lầy, dưới chân rập rập rình rình, con đường chốc chốc đứt quãng, trong lòng chẳng cảm thấy tin lưởng chút nào: Đi theo hướng nầy hay đi theo hướng kia bây giờ?

    Chàng đã bị lôi cuốn theo người Bolsevich, đã đi với họ và lôi kéo cả những người khác theo mình, nhưng sau đó lại đâm ra do dự, nhiệt tình nguội dần đi. "Chẳng nhẽ Itvarin đã nói đúng? Không biết nên dựa vào ai bây giờ đây?". Grigori đã có những ý nghĩ mung lung như thế trong khi chàng tưởng tượng như mình đang sửa soạn cái bừa và chiếc xe bò cho công việc đồng áng mùa xuân, đang đẵn những nhánh liễu đỏ làm cái máng ăn cho gia súc, tưởng tượng khi mặt đất đã tan hết băng giá, đã đỡ ẩm, mình lại được ra đồng cỏ, hai bàn tay khao khát lao động lại được nắm lấy tay cày, mình lại được đi theo cái cày, cảm thấy lưỡi cày hết vấp lại chạy băng băng, tưởng tượng mình lại được ngửi thấy mùi cỏ non ngọt ngọt và mùi chất đất đen đã bị lưỡi cày lật lên nhưng còn chưa hả hết cái hơi tuyết, đến khi chàng tưởng tượng những cảnh như thế thì trong lòng lại thấy ấm áp. Chàng chỉ muốn được chăm nom bò ngựa, tải cỏ khô, được ngửi cái mùi ngai ngái heo héo của cỏ sông Đông và cỏ băng thảo, cùng cái mùi hăng hắc của phân khô. Chàng chỉ muốn có hoà bình và một cuộc sống yên tĩnh, vì thế một niềm vui kín đáo vẫn ẩn hiện trong hai con mắt lừ lừ của Grigori khi chàng nhìn cảnh vật chung quanh, nhìn đôi ngựa, nhìn cái lưng thẳng đứng của bố bó chặt trong chiếc áo lông. Tất cả đều nhắc nhở chàng cuộc sống xưa kia mà hầu như chàng đã quên mất nửa: cả mùi lông cừu của chiếc áo, cả cái dáng quen thuộc của hai con ngựa chưa được tắm rửa, lẫn tiếng một con gà trống trong làng gân cổ gáy dưới một tầng hầm. Trong giờ phút nầy, chàng có cảm tưởng như đời sống trong cái làng hẻo lánh nầy ngọt và nồng cứ như mùi hốt bố.

    Hôm sau hai cha con về tới thôn trước khi trời hoàng hôn. Từ trên đỉnh gò, Grigori đưa mắt nhìn sang bên kia sông Đông: kia là vùng đất sạt lở Babi với những đám lau sậy màu lông rái cá mọc quanh; kia vẫn còn cây tiêu huyền khô, nhưng chỗ lội qua sông Đông không còn là chỗ xưa kia nữa rồi. Thôn xóm, những hình chữ nhật thân thuộc của các khối phố, toà nhà thờ, cái bãi giữa thôn… Nhưng máu càng dồn mạnh lên đầu Grigori khi chàng nhìn thấy nhà mình.

    Những hồi ức cũ dồn dập ập đến với chàng. Cái cần kéo nước giếng trong sân nuôi gia súc như vươn một cánh tay bằng gỗ liễu xám xám vẫy gọi chàng.

    - Thế nào, đã thấy cay mắt chưa? - Ông Panteley Prokofievich ngoái đầu lại mỉm cười. Grigori thú nhận ngay, không vờ vĩnh, cũng không tự dối lòng.

    - Có cay cay thật… tất nhiên như thế rồi!

    - Quê hương làng xóm là như thế đấy? - Ông Panteley Prokofievich thở dài có vẻ rất vừa ý.

    Ông đánh xe chạy vào giữa thôn. Hai con ngựa chạy ***g từ trên dốc xuống, chiếc trượt tuyết nghiêng bên nọ ngả bên kia, long sòng sọc. Grigori không phải không đoán ra ý định của bố, nhưng chàng vẫn hỏi:

    - Sao cha lại cho xe chạy vào trong thôn thế nầy? Về thẳng ngõ nhà có hơn không?

    Ông Panteley Prokofievich quay đầu lại, mỉm cười qua chòm râu trắng loá vì sương muối, nháy mắt nói:

    - Có được hai thằng con, lúc tiễn chân ra trận còn là hai thằng Cô- dắc lính trẻ thế mà nay đều làm nên sĩ quan cả. Sao, chẳng nhẽ tao không được kiêu hãnh đánh xe cho con trai tao diễu qua thôn một lượt hay sao? Cho thiên hạ nhìn, cho thiên hạ ghen. Mà người anh em ạ, bây giờ tao đang nở từng khúc ruột đây nầy!

    Vào đến phố chính, ông quát hai con ngựa bằng một giọng rất bình tĩnh rồi nghiêng hẳn người sang một bên, vung cái roi bện bằng sợi. Hai con ngựa đánh hơi thấy sắp về đến nhà, phóng vụt lên rất nhanh, rất sảng khoái, cứ như phía sau không hề có chặng đường bốn mươi véc- xta vừa chạy qua! Những người đàn ông gặp hai bố con đều cúi chào. Từ trong những sân nhà và những cửa sổ có những người đàn bà đưa tay lên che mắt nhìn ra. Vài con gà mái cục cục chạy qua phố với những bộ lông lốm đốm như cỏ mãn thiên tinh.

    Mọi việc đều diễn ra trơn tru, yên ổn như tả trong truyện. Xe đã chạy qua cái bãi giữa thôn. Con ngựa của Grigori nhìn thấy một con khác không biết của ai buộc ngoài hàng rào vào nhà Mokhov bèn ngẩng cao đầu hí lên một tiếng. Trước mắt đã hiện ra phần cuối thôn và cái mái của nhà Astakhov… Nhưng xe vừa chạy đến chỗ ngã tư đầu tiên thì có một chuyện không may xảy ra. Một con lợn sữa chạy qua phố nhưng chậm chân, lọt ngay vào dưới vó ngựa. Bị chiếc xe chẹt qua, nó kêu lên éc éc và vừa chạy lùi lại, vừa cố dướn cái sống lưng bị chẹt gãy.

    - Mẹ khỉ, ma dẫn lối quỉ đưa đường mày? - Ông Panteley Prokofievich vừa chửi vừa vung cái roi quất trúng con lợn bị chẹt.

    Chẳng may con lợn đó lại là của mụ Anhiutca, vợ goá của gã Afonka Ozerov, một con mụ đanh ác và lắm mồm lạ lùng. Mụ lập tức nhảy bổ trong sân ra rồi vừa chít cái khăn lên đầu vừa tuôn ra một tràng những câu chửi rủa chọn lọc đến nỗi ông Panteley Prokofievich phải ghìm ngựa nhìn lại.

    - Có câm đi không, con mụ ngu xuẩn nầy? Làm gì mà hoác mồm ra như thế hử? Con lợn ghẻ của mụ chúng ta sẽ đền cho!

    - Đồ hung thần ác quỷ!… Đồ yêu quái hại người! Có lão ghẻ thì có, cái con chó thọt? Gái nầy sẽ xách ngay cổ lão lên ông ataman - Mụ hoa chân múa tay, gào lên như cháy đồi. - Mẹ lão ra, gái nầy sẽ dạy cho lão chừa chẹt chết gia súc của kẻ côi cút goá bụa!

    Ông Panteley Prokofievich phát khùng, đỏ mặt tía tai gầm lên:

    - Đồ nặc nô!

    Cái thằng Thổ nhĩ kỳ chết tử chết tiệt! - Mụ Anhiutca tức khắc ăn miếng trả miếng.

    - Đồ chó cái, trăm con quỷ dữ nằm với mẹ mầy! - Ông Panteley Prokofievich cất cao giọng trầm của ông.

    Nhưng xưa nay mụ Anhiutca đâu có cần thọc tay vào túi mới tìm ra câu đối đáp.

    - Đồ lạc loài? Cái thằng già mất dạy! Quân đầu trộm đuôi cướp! Lão đã ăn cắp cái bừa của nhà người ta! Lão tằng tịu với con vợ lính vắng chồng! - Mụ liến thoắng như con liếu điếu.

    - Ông quất cho mày một roi bây giờ, cái con chó cái… Có câm mẹ cái mồm đi không!

    Nhưng đến lúc nầy, mụ Anhiutca đã mồm loa mép giải ghê gớm đến nỗi một con người nếm đủ mùi đời và mặt dầy mày dạn như ông Panteley Prokofievich cũng phải thẹn đỏ mặt, mồ hôi đổ ra như tắm.

    - Thôi bố đi đi! Dính vào nó làm gì? Grigori nói giọng bực bội vì chàng thấy đã có vài người ra phố, chú ý lắng nghe cuộc trao đổi ý kiến ngẫu nhiên giữa ông già Melekhov và người vợ goá chính chuyên của gã Ozerov.

    - Chà cái lưỡi nó… dài đến bằng cái dây cương? - Ông Panteley Prokofievich buồn bực nhổ toẹt một bãi nước bọt, mặt mày nom đến là thảm hại, rồi đánh cho hai con ngựa chạy ***g lên như định chẹt chết cả mụ Anhiutca.

    Cho xe chạy hết một khối phố, ông mới dám ngoái cổ nhìn lại, nhưng chưa phải đã hết sợ.

    - Cái con mụ chửi rủa đến là độc địa! Ông báo đời cho mày biết, mày đã muốn kiểu quân thù quân hằn như thế… ông thì chẹt đút ngang người mày ra, cái con yêu tinh nung núc những thịt? Ông nói giọng sôi nổi. - Mày đáng bị chẹt chết cùng với con lợn của mày. Rơi vào một con mồm loa mép giải như thế nầy thì cái xương chẳng còn.

    Chiếc xe đã chạy lướt qua dãy cửa chớp sơn màu xanh da trời của ngôi nhà. Petro mở toang hai cánh cổng, đầu không đội mũ lông, áo quân phục cũng chẳng thắt dây lưng. Trên thềm đã loáng thoáng hiện ra cái khãn trùm đầu trắng trắng và cặp mắt đen láy long lanh nét cười của Dunhiaska.

    Petro hôn em rồi nhìn loáng vào mắt em.

    - Có khoẻ không?

    - Vừa bị thương.

    - Ở đâu thế?

    - Gần Blubokaia.

    - Việc gì mà mò đến đó cho mất xác! Mày đáng là phải về nhà từ lâu rồi.

    Hắn thân mật và âu yếm lắc lắc Grigori mấy cái rồi đẩy thẳng chàng ra cho Dunhiaska. Grigori ôm lấy hai cái vai đầy đặn và chắc nịch của em gái, hôn môi hôn mắt em rồi lùi lại ngạc nhiên nói.

    - Đúng là em đây à, Dunhiaska! Quỉ quái nào còn nhận được ra mày nữa! Lớn lên thành một cô gái như thế nầy mà trước kia anh cứ tưởng mày sẽ là một con vừa ngu vừa đoảng.

    - Hừ, cái anh Grigori nầy! - Dunhiaska né ra tránh một cái véo rồi mỉm cười lui sang bên, hai hàm răng trắng loá nhè ra, hệt như Grigori.

    Bà Ilinhitna bồng hai đứa cháu trên tay bước ra, nhưng Natalia đã chạy vượt lên trước. Nom nàng phây phây, đẹp ra một cách lạ lùng. Làn tóc đen nhánh chải mượt ra sau đầy thành một cái búi to đến là to càng làm nổi bật khuôn mặt đỏ ửng tràn trề hạnh phúc. Nàng nép mình vào người Grigori và vài lần cố đặt thật nhanh môi mình lên má lên ria chàng, tuy lúc nầy đâu phải là lúc hôn nhau. Rồi nàng giằng lấy thằng con trai trong tay bà Ilinhitna, chìa nó cho Grigori.

    - Con trai của anh nó như thế nầy đây, anh nhìn mà xem? - Nàng nói lanh lảnh, giọng hân hoan đầy tự hào!

    - Nhưng để tao ngắm con trai tao đã nào! - Bà Ilinhitna xúc động đẩy con dâu ra.

    Bà mẹ vít đầu Grigori xuống, hôn trán chàng và rồi đưa bàn tay thô sần xoa rất nhanh trên mặt chàng và nhỏ những giọt nước mắt bồi hồi sung sướng.

    - Còn con gái anh nữa đây, anh Gri- i- isa! Anh bế lấy con đã nào…

    Natalia đặt đứa con trai trùm kín trong một chiếc khăn bịt đầu vào bên tay kia của Grigori. Còn chàng thì luống cuống chẳng còn biết nhìn ai bây giờ: nhìn Natalia, nhìn mẹ hay nhìn hai con. Thằng bé mặt mày cau có, hai con mắt âm thầm nom vừa đen vừa dài, hơi có vẻ nghiêm nghị, hai đường lông mày vươn rộng, hai cái lòng trắng phồng phồng xanh xanh và nước da bánh mật. Nó đút nắm tay nhỏ xíu nhem nhuốc vào miệng rồi vẹo đầu nhìn chằm chằm vào mắt bố với cặp mắt rất khó gần: Còn đứa con gái thì Grigori chỉ nhìn thấy hai con mắt bé tí tẹo nhìn chăm chú và cũng đen láy, vì mặt nó đã bị chiếc khăn bịt gần kín.

    Với hai đứa con trên tay, chàng định bước lên thềm, nhưng bên chân bị thương bỗng đau nhói.

    - Bế lấy hai đứa đi, Natasa! - Grigori nhếch mép mỉm cười như nhận lỗi. - Nếu không anh không bước qua nổi ngưỡng cửa đâu.

    Daria đứng ở giữa bếp sửa lại mớ tóc. Chị chàng mỉm cười, thõng thẹo bước tới trước mặt Grigori, rồi dim hai con mắt tươi cười, áp chặt cặp môi vừa ướt vừa ấm của mình lên môi chàng.

    - Cứ sặc mùi thuốc lá? - Daria nói rồi rung rung một cách tinh nghịch hai hàng lông mày cong lên thành hai đường vòng cung đen như tô mực tầu.

    - Thì lại đây để mẹ ngắm con lần nữa nào! Chà, thằng con yêu con quý của mẹ?

    Grigori mỉm cười áp sát mình vào vai mẹ, niềm xúc động làm tim chàng cứ nhoi nhói.

    Ngoài sân ông Panteley Prokofievich đang tháo ngựa. Ông khập khiễng lượn đi lượn lại quanh cái xe trượt tuyết, cả cái thắt lưng vải lẫn cái đỉnh của chiếc mũ ba tai đều đỏ loé, Petro đã dắt con ngựa của Grigori vào tầu. Hắn mang bộ yên vào phòng ngoài, vừa đi vừa ngoái đầu lại nói không biết những gì với Đunhiasca lúc nầy đang xách một thùng dầu hoả nhỏ trên xe xuống.

    Grigori cởi chiếc áo lông mặc ngoài và áo ca- pôt, mắc lên thành giường, rồi lấy lược chải đầu. Chàng ngồi xuống một chiếc ghế dài, gọi con trai:

    - Mitsatca, lại đây với bố nào! Con làm sao thế, không nhận ra bố à?

    Thằng bé vẫn không rút nắm tay ra khỏi miệng, nó nghiêng nghiêng người đi tới rồi đứng lại bên cạnh bàn. Người mẹ đang đứng bên bếp lò âu yếm và kiêu hãnh nhìn con trai. Nàng rỉ tai con gái không biết những gì rồi đặt nó xuống đất và khẽ đẩy nó.

    - Con cũng lại với bố đi!

    Grigori kéo cả hai đứa lại với mình, cho ngồi lên đầu gối rồi hỏi:

    - Chúng mầy không đoán được ra bố à, hai quả óc chó rừng nầy? Cả con nữa, Poliuska, con cũng không nhận ra bố à?

    - Ông không phải là bố - Thằng bé khẽ nói (có em gái ở bên cạnh, nó cảm thấy mạnh dạn hơn).

    - Thế thì là ai?

    - Là một bác Cô- dắc ở đâu ấy.

    - Trả lời cừ lắm. - Grigori phá lên cười - Thế thì bố đâu?

    - Bố đi lính rồi. - đứa con gái nghiêng nghiêng đầu, nói một cách tin tưởng (con bé có phần bạo dạn hơn anh).

    - Đúng bố các cháu đấy, hai cháu yêu của bà ạ! Bảo nó nhớ lấy nhà lấy cửa, kẻo nó cứ quanh năm suốt tháng đi biền biệt chẳng còn làm thế nào nhận được ra nó nữa! - Bà Ilinhitna vờ làm giọng nghiêm khắc nhưng khi thấy Grigori mỉm cười thì bà cũng mỉm cười - Cả vợ mầy không bao lâu nữa cũng sẽ không nhận mầy nữa đâu. Chúng tao đã định kiếm cho nó một thằng chồng đấy.

    - Sao em lại thế, Natalia? Sao thế hả? - Grigori nói đùa với vợ.

    Nàng đỏ ửng mặt lên rồi tuy ngượng ngùng trước mặt mọi người trong nhà, nàng vẫn cố gắng bước tới gần Grigori, ngồi xuống bên cạnh chàng, nhìn mãi khắp người chàng bằng cặp mắt vô cùng sung sướng và đưa bàn tay to ráp, nóng hổi lên vuốt ve bàn tay khô khan, nâu nâu của chồng.

    - Daria, sắp sửa bàn ăn đi!

    - Có vợ chú ấy để làm gì? - Daria phá lên cười rồi đi vào bếp, dáng đi vẫn ưỡn ẹo, nhẹ nhàng như xưa.

    Chẳng khác gì trước kia, Daria vẫn thon thả, ăn mặc vẫn diêm dúa. Một đôi bít tất lụa dài màu tím bó chặt lấy cặp chân rất gọn, rất đẹp; đôi ủng ngắn đi khít như đóng khuôn. Cái váy xếp nếp màu hoa cà không có một nếp nhăn, chiếc tạp dề thêu hoa trắng muốt bóng nhoáng. Grigori chuyển con mắt sang nhìn vợ thấy vẻ người của nàng cũng có phần khác trước. Từ lúc chồng về, nàng đã thay quần áo: chiếc áo ngắn mặc ngoài bằng xa tanh màu xanh da trời, cổ tay hẹp viền đăng ten, ôm lẳn lấy một thân hình tuyệt đẹp, phồng lên trên bộ ngực nở nang, cái váy màu lam, bên trên chật khít, nhưng cái gấu thêu hoa chếp nếp thì xoè rộng ra. Grigori ngồi bên cạnh, ngắm cặp chân đầy đặn đẹp như tượng tạc, cái bụng thẳng căng nhìn mà rạo rực cả người và cặp mông to như mông một con ngựa được cho ăn cẩn thận. Chàng nghĩ thầm: "Người đàn bà Cô- dắc thì không thể nào lẫn với tất cả những người đàn bà khác được. Áo sống bao giờ cũng quen ăn vận sạch mắt. Không nhìn thì thôi chứ đã nhìn thì không chán. Còn như bọn đàn bà mu- gích thì đằng trước cũng chẳng khác gì đằng sau: người cứ như chui vào một cái túi"…

    Bà Ilinhitna bắt gặp cặp mắt của con bèn cố ý khoe:

    - Các bà vợ sĩ quan ở vùng chúng ta ăn vận như thế đấy! Ngay bọn đàn bà con gái thành phố cũng ghen đến chết.

    - Sao lại nói thế hả mẹ! - Daria ngắt lời mẹ chồng. - Chúng con thì bì thế nào được với bọn thành thị? Cái hoa tai của con gãy rồi đây nầy, có đáng bao nhiêu mà cũng chẳng mua được! - Chị chàng nói thêm giọng chua chát.

    Grigori đặt tay lên lưng vợ, cái lưng to rộng của một người đàn bà lao động, và lần đầu tiên chàng thoáng có ý nghĩ: "Natalia đẹp lắm, nhìn cứ mòn con mắt. Trong lúc mình vắng nhà không biết cô nàng đã sống như thế nào. Có lẽ bọn Cô- dắc trông thấy cũng thèm, còn Natalia thì chưa biết chừng cũng có mê thằng nào rồi. Cứ chịu sống cái cảnh vợ lính vắng chồng mãi được sao?". Những ý nghĩ ấy đột nhiên nảy ra làm tim chàng như ngừng đập, trong lòng khó chịu lạ. Cặp mắt chàng cứ như dò hỏi trên khuôn mặt hồng hồng bóng lên dưới lớp pho- mát dưa chuột thơm phức. Thấy chồng nhìn mình chằm chằm như thế, Natalia đỏ mặt, ngượng quá, nhưng vẫn khẽ hỏi:

    - Sao anh lại nhìn em thế? Vừa qua anh có nhớ em không?

    - Nhớ hẳn đi chứ?

    Grigori cố xua đuổi những cảm giác khó chịu, nhưng trong giây phút nầy không hiểu sao những ý nghĩ bực bội với vợ tự nhiên cứ làm chàng rạo rực.

    Ông Panteley Prokofievich bước vào cửa, miệng rên è è. Ông đến trước bức tượng thánh đọc vài câu kinh rồi nói to.

    - Nào, chào cả nhà lần nữa!

    - Lạy chúa tôi, ông già… có cóng không? Mẹ con bà cháu chúng tôi lại đang chờ ông đây. Súp bắp cải đang nóng bỏng, vừa hạ trên lò xuống đất - Bà Ilinhitna chạy đi chạy lại lăng xăng, những chiếc cùi dìa kêu lạch cạch.

    Ông Panteley Prokofievich vừa lê lệt sệt đôi ủng dạ đế da vừa tháo cái khăn đỏ trên cổ xuống. Ông cởi cái áo lông khoác ngoài, gỡ những thỏi băng nhỏ bám trên râu trên ria rồi đến ngồi trước mặt Grigori và nói:

    - Cóng quá, vừa rồi chạy ở ngoài thôn ấm hơn… Vừa nãy cha con tôi đã chẹt phải con lợn sữa nhà mụ Anhiutca.

    - Của ai hả cha? - Daria đang cắt nhỏ một ổ bánh mì trắng rất dày vội dừng lại để hỏi, giọng lo lắng.

    - Của nhà Ozerov. Con mụ khốn kiếp ấy, nó nhẩy ***g trong sân nhà nó ra, tam bành lục tặc lên một trận đến ghê. Nó chửi hết điều nầy đến điều khác, nào là gian giảo lừa bịp, nào là ăn cắp cái bừa của một nhà nào đó. Làm gì có cái bừa nào? Có quỉ dữ hiểu được nó.

    Rồi ông bắt đầu kể lại rất tỉ mỉ tất cả các biệt hiệu mà mụ Anhiutca đã tặng cho ông. Nhưng chỉ có một điều ông không kể lại là đã bị mụ bới cái tội hồi còn trẻ của ông, chuyện liên quan đến những mụ vợ lính vắng chồng. Grigori cười mát ngồi vào bàn ăn. Để tự bào chữa trước mặt con trai, ông Panteley Prokofievich còn nói thêm rằng:

    - Nó đã tuôn ra những lời trái đạo Chúa đến nỗi tôi chẳng còn làm thế nào mà nghe được nữa! Tôi đã định quay lại quật cho nó một roi vào ngang lưng, nhưng thằng Grigori lại đang có mặt ở đấy, có nó mà làm như thế thì cũng không tiện.

    Petro mở cửa, Dunhiaska cầm cái dây da kéo một con bê lông đỏ, trán đốm trắng, vào trong nhà.

    - Đến lễ tống tiễn mùa đông anh em mình sẽ được ăn bánh tráng với kem đây! - Petro vừa đưa chân đá con bê vừa nói một cách khoái trá.

    Sau bữa trưa, Grigori cởi ba- lô chia quà cho cả nhà. - Cái nầy biếu mẹ đây! - Chàng đưa cho bà Ilinhitna một chiếc khăn san rất ấm.

    Bà Ilinhitna nheo mắt nhận quà, mặt ửng lên như một cô gái. Bà quàng chiếc khăn lên vai rồi ra trước cái gương, ưỡn ẹo ngọ nguậy mãi hai cái vai làm ông Panteley Prokofiêvil cũng phải bực mình:

    - Con mụ phù thuỷ già sóc như thế mà cũng soi gương làm dáng! Phì!

    - Còn cái nầy biếu cha đây? - Grigori khẽ nói rất nhanh rồi vung lên cho tất cả mọi người xem chiếc mũ cát- két Cô- dắc mới tinh, đỉnh cao và hớt ngược, vành mũ đỏ chói như lửa.

    - Chà, lạy Chúa tôi! Tao đang khổ vì thiếu một cái mũ cát- két đây! Năm nay các cửa hiệu không có bán nữa… Không mua được thì sang hè lấy gì mà đội… Ra nhà thờ với cái mũ cũ thì cũng nhục. Cái mũ của tao, cái cũ ấy, đã đến lúc phải quăng lên đầu thằng bù nhìn giữ dưa rồi mà vẫn còn phải đội…

    Ông vừa nói bằng một giọng bực bội, vừa lấm lét nhìn quanh như sợ có ai đến cướp mất quà biếu của con. Ông đã len tới trước gương định đội thử xem, nhưng hai con mắt của bà Ilinhitna đã lôi chân ông lại. Ông già nhại lại cái nhìn của vợ, quay ngoắt đi, rồi khập khiễng bước tới trước cái ấm samova. Ông đội lệch chiếc mũ cát- két trên đầu, soi vào đó thay gương.

    - Nầy cái của cổ lỗ kia làm gì thế hử? - Bà Ilinhitna tấn công chồng.

    Nhưng mặt đức ông chồng vẫn trân trân:

    - Lạy Chúa tôi! Chà, sao bà nó ngu thảm ngu hại như thế! Đây là cái samova chứ có phải cái gương đâu! Thế mà cũng!

    Grigori cho vợ một đoạn hàng len để may váy, cho hai con một phun- tơ bánh mật ong. Daria được một đôi hoa tai bằng bạc có nạm đá quí Dunhiaska được một chiếc áo ngắn mặc ngoài, còn Petro thì được một bao thuốc quấn và một phun- tơ thuốc rời. Trong lúc đám phụ nữ riu ríu ngắm nhìn các quà biếu, ông Panteley Prokofievich cứ nghênh ngáo đi trong bếp như một cây ống pích, thậm chí còn ưỡn ngực nói oang oang:

    - Đây chính đây là chàng Cô- dắc trung đoàn ngự lâm Cô- dắc! Đã từng giật được giải đua ngựa chứ đâu phải tay vừa! Trong lần hoàng đế duyệt binh đã đoạt được giải nhất đây! Một bộ yên và toàn bộ đồ trang bị! Ái chà chà, đã thấy chưa!

    Petro nhai nhai chòm ria màu lúa mạch đứng ngắm bố, Grigori chỉ cười. Ba bố con hút thuốc. Ông Panteley Prokofievich đưa mắt nhìn ra cửa sổ có ý đề phòng rồi nói:

    - Trong lúc họ hàng làng xóm mọi kiểu còn chưa đến chơi, mầy hãy kể cho thằng Petro nghe tình hình ngoài ấy như thế nào đi!

    Grigori khoát tay.

    - Người ta đang đánh nhau.

    - Bọn Bolsevich bây giờ ở đâu? - Petro vừa hỏi vừa ngồi lại cho thoải mái hơn.

    - Đang tiến từ ba phía Chikhoreskaia, Taranroc và Voronez.

    - Thế cái Uỷ ban quân sự cách mạng của chúng mày nghĩ ngợi như thế nào? Sao lại để cho chúng nó tiến vào đất đai của chúng ta như thế? Thằng Khristonhia và thằng Kotliarov có về nói lếu láo lung tung nhưng tao không tin chúng nó. Tình hình ngoài ấy hình như không phải như thế…

    - Uỷ ban quân sự cách mạng bất lực. Còn bọn Cô- dắc đang bỏ chạy về nhà.

    - Như vậy có nghĩa là chính vì thế nên chúng nó mới bám lấy Xô viết chứ gì?

    - Dĩ nhiên chính vì như thế đấy.

    Petro nín lặng một lát. Hắn hút thêm một điếu thuốc rồi nhìn thẳng vào mặt em:

    - Thế mày đứng về phía nào?

    - Tôi ủng hộ Chính quyền Xô viết.

    - Đồ ngu! - Ông Panteley Prokofievich nổ ra như thuốc súng. - Petro, mầy hãy vạch mắt cho nó rõ đi!

    Petro mỉm cười vỗ vai Grigori.

    - Nhà ta có nó là nóng như lửa, cứ như một con ngựa bất kham ấy. Làm thế nào vạch mắt cho nó được hả cha?

    - Chẳng làm gì mà phải vạch mắt cho tôi? - Grigori nổi nóng lên. Tôi có mù đâu? Thế anh em ngoài mặt trận về nói những gì?

    - Những thằng ấy thì được tích sự gì? Chẳng nhẽ mầy còn chưa biết cái ngu ngốc của thằng Khristonhia hay sao? Nó thì hiểu nổi cái gì? Nhân dân nhầm đường lạc lối tất cả rồi, không còn biết đường nào mà theo nữa rồi… Thật là đau khổ! - Petro nhai nhai chòm ria. - Mày cứ chờ đến mùa xuân rồi xem tình hình sẽ ra sao, sẽ chẳng thu được kết quả gì đâu… Ngoài mặt trận chúng ta đã từng chơi cái trò Bolsevich, bây giờ đã đến lúc phải thông minh hơn mới được. "Chúng tôi không nhòm ngó cái gì của người khác, nhưng các anh cũng chớ lấy cái gì của chúng tôi", - đấy, với những kẻ hoành hành ngang ngược xăm xăm muốn tiến vào vùng chúng ta, người Cô- dắc phải nói như thế đấy. Còn việc chúng mày đang làm ở Kamenskaia thì chỉ là một việc bẩn thỉu. Cứ đi mà kết bạn kết bè với bọn Bolsevich chúng nó sẽ áp đặt chế độ của chúng nó cho mà xem.

    - Griska ạ, mày biết suy nghĩ một chút mới được. Nào mày có phải là một thằng ngu xuẩn gì cho cam. Mày, phải thấy rõ là một thằng Cô- dắc, đã là Cô- dắc thì phải mãi mãi là Cô- dắc. Cái nước Nga thối hoăng ấy đừng hòng đến vùng chúng ta mà thống trị. Thế mày có biết bọn ngụ cư hiện nay đang nói những gì không? Bao nhiêu ruộng đất đều chia bình quân theo đầu người. Như vậy thì còn ra thể thống gì nữa?

    - Những người ngụ cư cố cụ đã đến ở Quân khu sông Đông từ lâu, chúng ta sẽ cấp ruộng đất cho họ.

    - Cho chúng nó cái con b…! Đây cho chúng nó ăn cái nầy nầy!

    Ông Panteley Prokofievich làm cử chỉ tượng trưng cho sự ********: ông luồn ngón tay cái có cái móng dài nghêu vào giữa ngón tay trỏ và ngón tay giữa rồi ngoáy rất lâu quanh cái mũi gãy sống của Grigori.

    Ngoài thềm bỗng có tiếng chân bước ầm ầm. Cái ngưỡng cửa đóng băng kêu răng rắc. Anikey, Khristonhia, và Tomilin Ivan bước vào. Tomilin đội một chiếc mũ lông thỏ cao quá sức tưởng tượng.

    - Chào thầy quyền! Ông Panteley Prokofievich đem ra thết chúng tôi một chầu đây! - Giọng Khristonhia oang oang như lệnh vỡ

    Nghe thấy cái giọng như sấm của anh chàng, con bê con đang mơ màng bên cái bếp lò ấm áp hoảng sợ be be rầm lên một hồi. Nó nhảy lên trên bốn cái chân còn chập chững, trượt chân liền mấy cái mới đứng thẳng được, rồi giương hai con mắt như mã não nhìn mấy người khách. Có lẽ nó sợ quá nên một tia nước giải nhỏ cứ tè tè tuôn xuống sàn. Dunhiaska vỗ vỗ vào lưng nó cho nó thôi đái rồi lau chỗ nước giải và đặt nó vào một cái nồi gang hỏng.

    - Mồm với miệng gì mà oang oang, làm con bê hết cả hồn vía! - Bà Ilinhitna bực mình nói.

    Grigori bắt tay, mời ba anh em Cô- dắc cùng ngồi. Chẳng mấy chốc vài anh chàng ở đầu nầy thôn cũng kéo đến thêm. Mọi người vừa nói chuyện vừa hút thuốc, khói um lên làm ngọn đèn chập chờn muốn tắt, còn con bê thì ho sặc sụa.

    - Ma quỉ bắt các anh đi! - Mãi đến nửa đêm bà Ilinhitna mới chửi rầm lên tống tiễn mấy ông khách. - Có xéo ngay ra sân không, ra ngoài ấy mà hun khói, thật quá bọn quỉ đói thuốc. Thôi đi đi, đi đi! Thằng lính nhà nầy từ lúc về đã được nghỉ ngơi gì đâu. Xéo đằng nào thì xéo đi!
  3. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 103

    Hôm sau Grigori thức giấc sau tất cả nhà. Mấy con chim sẻ ríu rít ầm ĩ như đang mùa xuân dưới hàng hiên và bên ngoài mấy khung cửa sổ đã đánh thức chàng. Những hạt bụi vàng óng vằn lên trong các tia nắng chiếu xuyên qua các khe cửa chớp. Tiếng chuông gọi nguyện kinh sáng đã vang lên dóng dả. Grigori chợt nhớ rằng hôm nay là ngày chủ nhật. Natalia không còn nằm bên cạnh chàng nữa, nhưng cái đệm lông chim vẫn còn lưu chút hơi ấm của cơ thể nàng. Có lẽ nàng vừa dậy chưa được bao lâu.

    - Nataska! - Grigori gọi.

    Dunhiaska bước vào.

    - Anh cần gì thế, anh yêu của em?

    - Mở hộ anh cái cửa sổ và gọi chị Natalia vào cho anh. Chị ấy đang làm gì đấy?

    - Đang làm bếp với mẹ, chị ấy sẽ vào ngay.

    Natalia bước vào, bóng tối làm nàng nhăn mặt.

    - Anh dậy rồi à?

    Bàn tay nàng còn nặc mùi bột bánh mới. Vẫn nằm trên giường, Grigori ôm lấy vợ. Chàng nhớ lại những chuyện đêm qua, bật cười.

    - Em ngủ được chứ?

    - Chà! Mệt chết đi được… - Nàng đỏ mặt mỉm cười và rúc đầu vào bộ ngực lông lá của Grigori.

    Nàng giúp Grigori băng lại vết thương, rồi lấy trong chiếc rương ra một cái quần đi ngựa mặc ngày hội và hỏi:

    - Anh mặc áo quân phục và đeo huân chương nhé?

    - Thôi đi! - Grigori khoát tay có vẻ sợ hãi.

    Nhưng Natalia nhất định không chịu thôi, vẫn cố nài:

    - Đeo vào đi anh? Cha sẽ thích lắm đấy! Anh làm sao thế, có huân chương mà cũng như không, cứ quẳng dưới đáy hòm mãi hay sao?

    Thấy vợ nói đi nói lại mãi, Grigori đành phải nghe theo. Chàng đứng dậy, mượn con dao cạo của Petro, cạo râu xong, lau mặt và cổ.

    - Mày đã cạo gáy chưa? - Petro hỏi.

    - Ồ mẹ khỉ, quên khuấy đi mất.

    - Thôi ngồi xuống, tao cạo cho.

    Nước xà phòng lạnh quá, bôi vào cổ rát như phải bỏng. Grigori nhìn trong cái gương, thấy Petro vừa đưa lưỡi dao vừa thè đầu lưỡi ra một bên mép như con nít…

    - Cổ mày gầy nhom như cổ con bò sau một vụ cày ấy. - Petro mỉm cười.

    - Đúng thế đấy, ăn cơm Nhà nước thì làm thế nào mà trơn lông đỏ da được.

    Grigori mặc cái áo quân phục đính lon thiếu uý, huân chương đầy ngực. Đến khi chàng soi cái gương đẫm hơi nước thì gần như không nhận được ra mình nữa: một sĩ quan vừa cao vừa gầy, đen như một gã Digan đang nhìn người anh em sinh đôi của anh ta.

    - Nom mày cứ như một ông đại tá ấy. - Petro đứng ngắm em, nhận xét một cách sung sướng và không có chút gì ghen tị.

    Tuy Grigori không muốn, nhưng câu nói ấy vẫn làm chàng nở từng khúc ruột. Chàng bước vào bếp. Cặp mắt thán phục của Daria cứ dính lấy người chàng. Dunhiaska ngạc nhiên kêu lên:

    - Chà, sao nom anh sang trọng thế!

    Ngay lúc nầy, bà Ilinhitna cũng không cầm nổi nước mắt. Bà đưa chiếc tạp dề nhớp nhúa lên lau mặt rồi trả lời câu nói đùa của Dunhiaska.

    - Nầy con bé lắm mồm kia, mày hãy đẻ được những đứa như thế nầy cho tao xem! Ít nhất hãy cố lấy hai thằng con trai, mà đứa nào cũng làm ăn nên người cả!

    Hai con mắt đắm đuối, bừng bừng sôi nổi và đẫm lệ của Natalia không rời khỏi chồng một lúc nào.

    Grigori khoác áo ca- pôt lên vai rồi bước ra sân gia súc. Bên chân đau đi rất vướng, chàng bước trên thềm xuống khó quá, phải tì tay vào lan can, bụng bảo dạ: "Không chống nạng thì đừng hòng đi được" Ở Minlerovo người ta đã rạch lấy viên đạn ra cho chàng. Một đám thịt nâu nâu đã lồi lên ở chỗ vết thương, và chính chỗ thịt nầy làm da bị căng, nên chàng vướng không thể tuỳ ý co chân được.

    Một con mèo đang sưởi nắng trên bức tường đất đắp quanh sân. Ngay cạnh thềm, một đám tuyết bị nắng chiếu vào tan ra, để lại một vũng nước lênh láng. Grigori sung sướng nhìn chăm chú khắp sân.

    Ngay sát thềm có trồng một cái cột, bên trên cột lắp một cái bánh xe. Grigori nhớ rằng từ hồi chàng còn nhỏ, cái bánh xe đã được lắp lên cho các bà phụ nữ dùng: ban đêm, không cần bước xuống thềm cũng có thề đặt các vò sữa lên đấy, ban ngày có thể dùng nó làm chỗ phơi bát đĩa, hoặc lợi dụng nắng hâm chảy các bình bơ. Nhưng trong sân cũng có vài điều thay đổi đập vào mắt chàng. Thay cho lớp sơn đã phai, trên cửa nhà kho có trát đất sét vàng. Mái nhà kho mới được lợp lại lợp rơm đại mạch còn chưa ngả sang màu nâu. Đống gỗ tròn dựng đứng có vẻ nhỏ đi, chắc hẳn một phần đã được đem dùng để chữa lại cái hàng rào. Một lớp tro xám phủ lên đống đất cao gồ như cái bướu trên nắp hầm chứa. Một con gà trống đen như con quạ co một chân đứng trên đó như bị lạnh, chung quanh có khoảng một chục con gà mái hoa dành lại làm giống. Để tránh những ngày mưa rét mùa đông, các nông cụ trong nhà đã được cất dưới mái nhà kho: khung chiếc xe bò được đặt đứng chỏng gọng, một bộ phận bằng kim khí của chiếc máy gặt sáng rực lên dưới dé nắng lọt xuống từ vết nứt trên mái. Vài con ngỗng nằm trên đống phân khô bên cạnh tàu ngựa. Một con ngỗng Hà Lan mào to kếch xù thấy Grigori khập khiễng bèn lên mặt hóm hỉnh lườm chàng một cái.

    Grigori đi thăm tất cả cơ ngơi một lượt rồi đi vào trong nhà.

    Từ trong bếp, mùi bơ nấu chảy ra và mùi bánh mì nướng đã nóng đưa ra ngòn ngọt. Dunhiaska đang rửa vài quả táo ngâm trong cái đĩa hoa. Nhìn thấy táo ngâm, Grigori cao hứng hỏi luôn:

    - Có dưa hấu muối không nhỉ?

    - Ra lấy dưa hấu muối đi con, Natalia - Bà Ilinhitna gọi to.

    Ông Panteley Prokofievich đi lễ nhà thờ về. Ông chia cái bánh thánh làm chín miếng cho đủ số người trong gia đình rồi đặt lên từng chỗ quanh bàn ăn. Mọi người ngồi vào ăn sáng. Petro ngồi bên cạnh Grigori, anh chàng cũng ăn mặc rất diện, cả bộ ria cũng bôi bóng nhẫy không biết bằng chất gì. Daria ngồi trước mặt hai anh em trên một chiếc ghế đẩu. Một dé ánh nắng dọi ngay vào mặt chị chàng, khuôn mặt hồng hào bôi nhẫy mỡ, Daria nheo mắt lại một cách khó chịu và hạ thấp hai hàng lông mày hình vòng cung đen bóng dưới ánh mặt trời. Natalia cho hai con ăn bí ngô bung. Chốc chốc nàng lại mỉm cười đưa mắt nhìn Grigori. Dunhiaska ngồi bên cạnh bố. Bà Ilinhitna ngồi ở góc bàn, gần bếp lò.

    Cũng như trong tất cả các ngày lễ, mọi người ăn uống phè phỡn, no đến kễnh bụng. Đĩa mì sợi được đưa ra tiếp theo món súp rau cải nấu với thịt cừu, rồi lại thịt cừu nướng, thịt gà, giăm bông cừu, khoai tây rán, cháo lúa mạch có bơ, mứt anh đào, bánh tráng ăn với kem sữa, dưa hấu muối. Grigori ăn đến chướng bụng, chàng nặng nề đứng dậy, lảo đảo làm dấu phép, rồi thở như kẽo bễ, lăn kềnh ra giường. Ông Panteley Prokofievich vẫn còn đánh vật với món cháo đặc: ông dùng cùi dìa nén chặt cháo xuống, ngoáy ở giữa thành một cái lỗ sâu (thường gọi là cái giếng), đổ vào đấy ít bơ mầu hổ phách rồi mới dùng cùi dìa múc rất cẩn thận món cháo đầy bơ ấy lên ăn.

    Petro đang cho thằng Misatca ăn. Hắn vốn tính yêu trẻ nên vừa cho thằng cháu ăn vừa bôi sữa chua đầy mặt đầy mũi nó.

    - Bác đừng có nghịch bậy!

    - Gì thế?

    - Sao bác lại bôi bẩn cháu?

    - Gì thế?

    - Cháu mách mẹ cháu cho mà xem?

    - Gì thế?

    Thằng Misatca ức quá trợn mắt lên, hai con mắt còn nhỏ xíu mà đã có cái vẻ lừ lừ của nhà Melekhov, vài giọt nước mắt bực bội rung rung trên hai hàng mi. Nó thấy nói nhẹ không xong bèn vừa đưa nắm tay lên quệt mũi vừa kêu tướng lên:

    - Đừng bôi thế nữa! Bác ngu thế? Bác bậy thế?

    Petro khoái trá cười ha hả rồi lại cho thằng cháu ăn tiếp: một cùi dìa vào miệng, một cùi dìa lên mũi.

    - Cái thằng đến là trẻ con… Chỉ được cái nghịch tinh, - bà Ilinhitna làu bàu.

    Dunhiaska đến ngồi cạnh Grigori và kể:

    - Anh Petro ấy đến là dại, lúc nào không nghĩ ra được một trò gì là không xong. Hôm nọ anh ấy dắt thằng Misatca ra sân. Thằng bé muốn đi ngoài bèn hỏi: "Bác ơi bác, ị bên thềm có được không hả bác?" Anh Petro bảo: "Không được đâu. Phải ra xa một chút mà ị, Thằng Misatca chạy được vài bước lại hỏi: "Ở đây nhá?" - "Không, không đâu. Ra nhà thóc kia kìa". Rồi anh ấy bắt nó chạy từ nhà thóc ra chuồng ngựa, từ chuồng ngựa vào sân đập lúa. Thằng bé phải chạy mãi, chạy mãi chạy đến bĩnh ra quần mới thôi… Đến chị Natalia cũng phải nói cho một trận.

    - Bác đưa đây, cháu ăn lấy! Giọng thằng Misatca lanh lảnh như tiếng chuông của người đưa thư.

    Petro không nghe, hai hàng ria rung rung nom đến là buồn cười:

    - Không được đâu, thằng bé nầy! Để bác cho mày ăn.

    - Cháu ăn lấy!

    - Trong chuồng nhà ta có cả lợn đực lẫn lợn cái, mày có thấy không? Ngay đến lợn cũng phải có bà, mẹ, bác gái hay cô đổ nước gạo cho ăn cơ mà 1!

    Grigori vừa cuốn điếu thuốc vừa mỉm cười lắng nghe hai bác cháu nói chuyện với nhau. Ông Panteley Prokofievich bước tới.

    - Hôm nay tao định đi Vosenskaia đây.

    - Cha lên đó làm gì thế?

    Ông Panteley Prokofievich ợ lên đầy mùi mứt anh đào, vuốt vuốt chòm râu.

    - Có chút việc cần phải lên đấy tới chỗ thằng sửa chữa yên cương. Hôm nọ có đưa sửa hai cái cổ ngựa.

    - Cha về ngay hôm nay chứ?

    - Không về thì ở lại làm gì? Tao sẽ về trước khi trời tối.

    Ông nghĩ ngợi một lát, thắng con ngựa cái già vừa bị quáng mắt năm nay vào chiếc xe trượt tuyết to, rồi lên đường. Con đường chạy qua đồng cỏ. Hai tiếng đồng hồ sau ông đã tới Vosenskaia. Ông ghé qua nhà dây thép, đến lấy hai chiếc cổ ngựa rồi tạt vào nhà một người bạn nối khố. Người nầy có một đứa con được ông đỡ đầu, nhà ở gần toà nhà thờ mới. Vốn tính mến khách, chủ nhà mời ông ở lại ăn trưa.

    - Bác qua nhà dây thép rồi chứ? - Người đó vừa hỏi vừa rót không biết chất nước gì vào một cái ly.

    - Có - Ông Panteley Prokofievich kéo dài giọng trả lời, cặp mắt hau háu nhìn mãi cái bình nhỏ, vẻ vừa ngạc nhiên vừa âu yếm, mũi hít hít như con chó săn theo vết chân thú.

    - Thế bác không nghe thấy có tin gì mới à?

    - Tin mới ấy à? Chẳng nghe thấy gì cả. Nhưng có chuyện gì thế bác?

    - Ông Kaledin, ông Aleksey Maximovich ấy, đã về chầu Chúa rồi.

    - Bác nói gì vậy?

    Mặt ông Panteley Prokofievich tái nhợt đi. Ông quên mất cả cái bình khả nghi lẫn cái mùi ngửi thấy, cứ mặc cho người rủn xuống lưng ghế. Chủ nhà nói tiếp, mặt nhăn như bị, hai con mắt hấp háy:

    - Điện tín truyền đi là hôm kia ông ấy đã tự tử bằng súng ở Novocherkask. Khắp Quân khu chỉ được một mình ông ấy là một vị tướng có uy tín. Đã từng được thưởng huân chương, lại chỉ huy cả một tập đoàn quân. Mà là một con người có tâm huyết biết bao! Ông ấy còn sống thì quyết không để cho đồng bào Cô- dắc bị bắt nạt đâu.

    - Thôi ông bạn đỡ đầu ơi! Bây giờ rồi sẽ ra sao đấy! - Ông Panteley Prokofievich hoảng hốt đẩy ly rượu ra và hỏi.

    - Có trời biết được. Sắp đến lúc sống cực sống nhọc rồi đây. Có lẽ nếu được sống một cuộc đời sung sướng thì con người nào lại tự bắn một viên đạn vào mình?

    - Vì sao ông ấy lại làm như thế nhỉ?

    Người bạn đỡ đầu của ông Panteley Prokofievich là một người Cô- dắc vai u thịt bắp, vẻ như dân cựu giáo. Hắn khoát tay một cách bực bội.

    - Bọn ở ngoài mặt trận về bỏ ông ta, mở cửa cho tụi Bolsevich tiến vào quân khu, vì thế ông ataman nhà ta phải bỏ đi thôi. Tìm đâu ra những con người như thế bây giờ? Lấy ai bảo vệ bà con ta bây giờ? Ở Kamenskaia đã thành lập một cái "Uẩy" ban quân sự cách mạng gì đó, có những thằng Cô- dắc ở ngoài mặt trận về tham gia… Thế là ở vùng chúng ta… có lẽ bác đã nghe tin rồi chứ? Đã có lệnh của chúng nó: đánh đổ các ataman và bầu ra các "uẩy" ban quân sự cách mạng ấy. Thế là bọn mu- gích đã ngóc đầu lên rồi. Tất cả những thằng thợ mộc, thợ rèn, thợ da linh tinh lang tang ấy, chúng nó nhung nhúc ở Vosenskaia quá muỗi ngoài đồng.

    Ông Panteley Prokofievich gục cái đầu hoa râm xuống bàn, ngồi lặng đi giờ lâu. Đến khi ông ngửng đầu lên thì cặp mắt nom vừa nghiêm khắc vừa dữ tợn.

    - Trong cái bình của bác có gì thế?

    - Rượu nặng đấy. Được thằng cháu gọi bằng chú đem ở Kavkaz về cho.

    - Nào thôi, ông bạn đỡ đầu ơi, chúng ta hãy uống vài ly để tưởng nhớ ông Kaledin, ông ataman vừa quá cố của chúng ta. Cầu cho ông ấy được hưởng phúc nơi thiên đàng.

    Hai người uống cạn một ly rượu. Con gái chủ nhà, một cô cao lênh khênh, mặt đầy tàn nhang, đem đồ nhắm ra. Đầu tiên ông Panteley Prokofievich còn đưa mắt nhìn con ngựa gục đầu đứng ủ rũ bên cạnh chiếc xe trượt tuyết của chủ nhà, nhưng ông bạn đỡ đầu của ông đã nói cho ông yên tâm:

    - Bác chớ bận tâm về chuyện ngựa nghẽo làm gì. Tôi sẽ bảo cho ăn uống đầy đủ.

    Chẳng mấy chốc câu chuyện sôi nổi và bình rượu đã làm ông quên cả con ngựa lẫn mọi chuyện trên đời. Ông kể không đầu không đũa về Grigori rồi lại tranh cãi không biết về chuyện gì với ông bạn đỡ đầu lúc nầy đã chếnh choáng hơi men, cãi xong cũng chẳng nhớ là mình vừa nói gì nữa. Đến lúc trời sắp về chiều ông mới nhớ ra.

    Chủ nhà ba lần bảy lượt mời ông ở lại nghỉ đêm, nhưng ông vẫn khăng khăng đòi về. Con trai người chủ nhà thắng ngựa vào xe cho ông, còn ông bạn đỡ đầu thì giúp ông ngồi lên xe. Bác ta muốn tiễn khách một chặng đường. Hai người ôm lấy nhau nằm trên cái thùng xe rỗng không có chỗ ngồi. Chiếc xe trượt tuyết vấp ngay một cái gì ở cổng, rồi cứ đến một chỗ ngoặt là lại vấp lại vướng, cho tới khi chạy ra đồng cỏ mới thôi. Đến đây thì ông bạn đỡ đầu oà lên khóc và tự ý lăn từ trên xe xuống. Bác ta nằm còng queo rất lâu như một con tôm, chửi rầm lên, nhưng không làm thế nào đứng dậy được.

    Ông Panteley Prokofievich thì cứ mắm môi mắm lợi đánh cho ngựa chạy nước kiệu mà không thấy rằng ông bạn đưa tiễn mình còn lổm ngổm trên tuyết, mũi rúc cả xuống tuyết, cuối cùng phá lên cười khà khà ra vẻ sung sướng lắm, vừa cười vừa van bằng một giọng khàn khàn:

    - Đừng cù nữa! Đừng cù nữa kìa, tôi… van… rồi mà!

    Sau khi ăn mấy chập roi, con ngựa cái của ông Panteley Prokofievich bắt đầu chạy một nước kiệu nhanh nhưng chập chững, nước kiệu của những con ngựa loà. Chẳng mấy chốc chủ nó buồn ngủ rũ ra vì hơi men, đã ngật đầu ra thành xe, nằm im như thóc. Trời run đất rủi thế nào ông lại nằm đè lên dây cương. Con ngựa không còn ai điều khiển, giúp đỡ nữa, chuyển sang lững thững bước một.

    Đến ngã ba đầu tiên nó lấn cấn nhầm đường, chạy về phía thôn Tiểu Kromtronoc. Vài phút sau nó cũng rời khỏi nốt con đường nầy, đi quàng sang một vùng đất hoang không có đường lối gì cả rồi đâm đầu vào một khoảng tuyết rất dày bên lề rừng. Nó thở phì phì, đi xuống một cái khe nhỏ. Chiếc xe vướng phải một bụi rậm, đứng sững lại. Ông Panteley Prokofievich bị lắc mạnh, bừng tỉnh trong một giây. Ông ngóc đầu dậy, quát lên bằng một giọng khàn khàn:

    - Đi, đồ quỷ dữ. - Quát xong lại nằm dúi xuống.

    Con ngựa đi vòng qua khu rừng được bình an vô sự. Nó kéo chiếc xe xuống dốc ra sông Đông một cách yên ổn, rồi nhờ có làn gió đưa mùi khói phân khô từ đằng đông lại, cứ nhắm hướng thôn Semenovskaia mà tiến.

    Cách thôn đó nửa vec- xta, trên bờ bên trái sông Đông có một cái rãnh sâu. Mùa xuân, mỗi khi tuyết tan, nước lũ lại dồn vào đấy. Gần cái rãnh có những dòng nước ngầm từ trong bờ cát chảy xối ra nên suốt mùa đông ở chỗ nầy không đóng băng, tạo thành một khoảng nước giữa mặt băng rộng, hình bán nguyệt màu xanh lá cây. Vì thế con đường dọc theo sông Đông phải rẽ ngoặt sang bên cạnh để tránh cho xa. Mùa xuân, khi nước tuyết tan chảy ào qua cái rãnh quay trở lại sông Đông thành một luồng rất mạnh, thì ở đấy hình thành một cái xoáy nước luôn luôn gầm réo với nhiều dòng đan quyện lấy nhau chảy xối xuống tận đáy. Suốt mùa hạ, những con cá chép ở sâu hàng mấy xa- gien thường mon men tới đám củi đều rơi từ trên bờ xuống gần cái rãnh.

    Với bước chân chập chững mù loà của nó, con ngựa cái nhà Melekhov đã bước đúng tới mép bên trái của khoảng nước không kết băng ấy. Chỉ còn cách chừng hai chục xa- gien thì ông Panteley Prokofievich trở mình, hơi hé mắt ra. Từ trên bầu trời đen kịt, những ngôi sao vàng vàng xanh xanh ngó mắt xuống nom cứ như những quả anh đào chưa chín hẳn. "Êm rồi", ông Panteley Prokofievich thoáng có ý nghĩ mung lung như thế và giật mạnh dây cương:

    - Nào, na- a- ào? Ông lại quật cho bây giờ, đồ mù loà vô dụng!

    Con ngựa chuyển sang nước kiệu. Mùi nước ngay gần đấy đập vào mũi nó. Nó vểnh thẳng hai tai, hơi liếc về phía chủ hai con mắt mù loà đầy vẻ nghi ngại. Đột nhiên có tiếng nước vỗ vẳng đến tai nó. Nó thở phì phì rất nhanh, quay ngoắt sang bên, chạy lùi lại, nhưng khoảng băng dưới chân nó bị dòng nước mài mỏng đi khẽ kêu răng rắc rồi sụt xuống cùng với lớp tuyết mỏng bên trên. Con ngựa hết hồn hết vía hí một tràng. Nó cố đứng vững trên hai chân sau, nhưng hai chân trước đã thụt xuống nước. Chỗ băng bị hai chân sau đạp xuổng cũng nát vụn dần và bắt đầu lạo xạo giãn ra. Hố nước nuốt dần con ngựa. Một bên chân sau của nó giật giật như bị chuột rút, đạp vào càng xe. Nghe thấy tiếng đống báo trước chuyện chẳng lành, ông Panteley Prokofievich nhảy phắt trên xe xuống trong nháy mắt, lăn về phía sau. Ông nhìn thấy chiếc xe bị sức nặng của con ngựa kéo theo, dựng đứng lên, lật ngược cả hai đòn trượt nhấp nhoáng dưới ánh sao, rồi ăn thun thút xuống cái vực xanh đen. Làn nước lổn nhổn những mảnh băng khẽ kêu lóc óc, sóng vỗ tới sát chỗ ông nằm. Ông vội bò ngược lại, nhanh không thể tưởng tượng, và mãi khi đã nhảy chồm đứng lên, hai chân đặt thật vững vàng, ông mới gào lên:

    - Cứu tôi với, ai làm phúc làm đức? Có người chết đu- u- uối!

    Bao nhiêu hơi men trong người ông loáng cái đã tan đâu hết. Ông chạy tới gần hố nước. Những miếng băng vừa vỡ lấp loáng như chọc vào mắt. Gió và luồng nước cuồn cuộn đuổi dồn những mảnh băng chạy vòng trong cái hố vừa rộng vừa đen, sóng nước kêu rào rào làm chuyển động những chỗ xoáy xanh lè. Vài ánh lửa điểm vàng bóng tối trong cái thôn đằng xa. Những ngôi sao to mẩy như những hạt thóc vừa sàng xong cháy bừng bừng thành những điểm sáng rung rung trên bầu trời mượt như nhung. Một ngọn gió nhẹ vừa rít vừa quét thốc những đám tuyết lên rồi rắc những đám bụi tuyết trắng như bột lên cái cổ họng đen ngòm của hố nước. Còn hố nước thì bốc hơi nhè nhẹ, và vẫn cứ đen lại, vồn vã mời chào một cách rợn người.

    Ông Panteley Prokofievich hiểu rằng trong lúc nầy mà kêu lên thì thật là ngu xuẩn và vô ích. Ông nhìn quanh, đoán ra nơi mình đã bất ngờ mò đến vì bị ma men làm mê man, ông bực với mình, với việc vừa xảy ra, run bắn cả người. Trong tay ông còn độc cái roi mà ông đã kịp vơ được khi nhảy ra khỏi xe. Ông vừa chửi rầm lên vừa tự quất vào lưng một thôi một hồi, nhưng sau đó đau chút nào đâu, vì chiếc áo da thuộc đỡ đòn cho ông rất tốt, mà bây giờ cởi áo ra để tự trừng phạt mình thì cũng ngớ ngẩn, vì thế ông chỉ dứt đứt một nhúm râu nhỏ. Ông nhẩm tính lại số hàng vừa mua bị mất, giá của con ngựa, chiếc xe trượt tuyết và hai cái cổ ngựa, rồi điên tiết cười rầm lên một trận nữa, hai chân cứ men dần tới gần hố nước.

    - Cái con quỷ mù! - Ông nói với con ngựa vừa chết đuối, giọng run run rền rĩ. - Con đĩ! Mày tự đâm đầu xuống đây còn chưa đủ hay sao mà còn định lôi cả ông xuống nữa hử? Ma nào dẫn lối, quỷ nào đưa đường mày: Xuống dưới ấy bọn quỷ dữ sẽ thắng mày vào xe. Nếu chúng nó không có gì để quất thì đây, ông cho cái roi nầy nhân thể… - Ông tuyệt vọng vung tay ném vào giữa hố nước cái roi có cái cán bằng gỗ anh đào.

    Cái roi rơi thẳng xuống nước đánh tõm rồi mất hút.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Nguyên văn tiếng Nga có một hình thức chơi chữ tôi không dịch nổi. Trong tiếng Nga, câu thằng Misatca nói. "Cháu ăn lấy" còn có một nghĩa nữa: "Cháu là con lợn đực" vì thế Petro đem chuyện lợn ra trả lời thằng cháu (ND).
  4. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 104

    Sau khi bè lũ Kaledin đánh tả tơi các đơn vị Cô- dắc cách mạng, Uỷ ban quân sự cách mạng sông Đông bắt buộc phải chuyển đến đóng ở Minrovô. Uỷ ban gửi cho người lãnh đạo các hoạt động quân sự chống lại Kaledin và cái Rada phản cách mạng ở Ukraina bản tuyên ngôn nội dung như sau:

    "Kharkov.

    Ngày 19 tháng Giêng năm 1918.

    Gửi từ Lugansk, số 449, 18g20ph.

    Uỷ ban quân sự cách mạng Cô- dắc sông Đông đề nghị đồng chí chuyển cho Xô viết các uỷ viên nhân dân Petrograd nghị quyết dưới đây của Quân khu sông Đông.

    Chiếu theo nghị quyết của đại hội đại biểu các chiến sĩ ở mặt trận trở về họp ở trấn Kamenskaia. Uỷ ban quân sự cách mạng Cô- dắc quyết định:

    1. Công nhận chính quyền Nhà nước trung ương của nước Cộng hoà Xô- viết Nga, Ban chấp hành trung ương đại hội đại biểu Cô- dắc, nông dân, binh sĩ và công nhân cùng Xô- viết các uỷ viên nhân dân do Ban chấp hành trung ương chọn ra.

    2. Thành lập chính quyền biên khu của Quân khu sông Đông do đại hội đại biểu Xô viết các đại biểu Cô- dắc, nông dân và công nhân bầu ra.

    Ghi chú: Vấn đề ruộng đất của Quân khu sông Đông được giải quyết trong Đại hội đại biểu đó của Quân khu".

    Sau khi nhận được bản tuyên ngôn trên đây, các chi đội Xích vệ đã hành quân để chi viện cho quân đội của Uỷ ban quân sự cách mạng. Chính nhờ có sự giúp đỡ đó đã đánh tan được chi đội càn quét của Chernechev và phục hồi được tình thế trước kia. Quyền chủ động đã chuyển sang Uỷ ban quân sự cách mạng. Sau khi chiếm được Zverovo và Likbaia, các chi đổi Xích vệ của Xablin và Petrov, được sự chi viện của các đơn vị Cô- dắc thuộc Uỷ ban quân sự cách mạng đã triển khai công thế và đánh dồn địch về phía Novocherkask.

    Ở sườn núi bên phải về hướng Taranroc, Xivéc 1 bị chi đội tình nguyện của tên đại tá Kutepov đánh thua ở gần Neklimovca, phải lui về Amvrosevca, mất một khẩu pháo, 24 khẩu trọng liên và một xe thiết giáp. Nhưng ở Taranroc, ngay hôm Xivéc thua trận phải rút đi, đã nổ ra cuộc khởi nghĩa ở nhà máy Ban- tích. Anh em công nhân đã đánh bật bọn Yunke ra khỏi thành phố, Xivéc chỉnh đốn được đội ngũ lại chuyển sang thế công, rồi trỉển khai, đánh dồn bọn tình nguyện đến Taranroc.

    Thắng lợi rõ ràng ngả về phía quân đội Xô viết. Từ ba phía, họ khép kín vòng vây quanh Tập đoàn quân tình nguyện và bầy tàn binh bại tướng của các chi đội "giẻ rách" dưới quyền Kaledin. Ngày 28 tháng Giêng Kornilov đánh cho Kaledin một bức điện báo tin Tập đoàn quân tình nguyện bỏ Rostov và rút về vùng Kuban.

    Ngày 29, lúc chín giờ sáng, trong lâu đài của viên ataman có triệu tập hội nghị bất thường các uỷ viên chính quyền sông Đông.

    Kaledin ở nhà đến sau tất cả mọi người. Hắn nặng nề ngồi vào bàn và quơ một số giấy má về phía mình. Phần trên hai bên má hắn vàng ra vì mất ngủ, hai đám quầng thâm hiện rõ dưới cặp mắt âm thầm bạc màu. Có cảm tưởng như khuôn mặt của hắn gầy rộc đi và vàng ra vì bắt đầu thối rữa. Hắn từ từ đọc bức điện của Kornilov và các bản báo cáo của những tên chỉ huy các đơn vị đang chống lại cuộc tấn công của Xích vệ ở phiá bắc Novocherkask. Hắn đưa bàn tay trắng hếu rất to vuốt cẩn thận xấp điện tín rồi nói bằng một giọng âm thầm, hai cái mí mắt xưng húp và xám ngoét vẫn xùm xụp.

    - Tập đoàn quân tình nguyện đang rút đi. Để bảo vệ quân khu và Novocherkask chỉ còn một trăm bốn mươi bảy tay súng.

    Mi mắt bên trái của hắn nháy lia lịa, hai bên mép cặp môi mím chặt giật giật như chuột rút. Hắn cất cao giọng nói tiếp:

    - Tình thế của chúng ta không còn hy vọng gì nữa. Dân chúng không những không ủng hộ chúng ta mà còn có một thái độ thù địch. Chúng ta không còn có thực lực, chống cự cũng vô ích. Tôi không muốn những sự hy sinh vô ích, không muốn có đổ máu vô ích. Tôi xin từ chức để trao quyền cho người khác. Tôi từ bỏ chức vụ ataman Quân khu.

    Bogaevsky nhìn ra một khung cửa sổ rất rộng, sửa lại cái kính kẹp mũi và cứ đứng như thế mà nói, đầu không buồn quay lại:

    - Tôi cũng xin từ chức.

    - Tất nhiên toàn thể Chính phủ cũng sẽ từ chức. Nhưng có một vấn đề được đặt ra là chúng ta sẽ chuyển giao chính quyền cho ai?

    - Cho Duma thành phố 2 - Kaledin lạnh lùng trả lời.

    - Cần phải làm thủ tục về việc nầy, - tên uỷ viên chính quyền Kariev ngập ngừng góp ý.

    Một phút chết lặng nặng nề, rất khó chịu. Làn ánh sáng bềnh bệch của một buổi sáng tháng Giêng u ám toả xuống một cách mệt mỏi bên ngoài những khung cửa sồ đẫm hơi nước. Thành phố mơ màng nằm lịm dưới tấm màn mây mù và sương muối. Tai không còn nghe thấy tiếng mạch đời đập như ngày thường nữa. Tiếng hoả lực pháo binh ầm ầm, vọng tới từ những trận chiến đấu đang diễn ra ở một nơi nào đó gần nhà ga Xulin, đã bóp chết mọi hoạt động và trùm lên thành phố một mối đe doạ âm ỉ không sao tả xiết.

    Vài con quạ đen bay qua bay lại bên ngoài những khung cửa sổ kêu lên những tiếng khô khan rành rọt. Chúng lượn vòng trên cái gác chuông trắng loá như trên thây một con thú chết. Một lớp tuyết mới màu tím ngát phủ lên quảng trường Nhà thờ. Trên đó thỉnh thoảng mới có một người đi bộ và năm thì mười hoạ mới có một chiếc xe trượt tuyết đưa khách chạy qua, để lại phía sau hai cái vạch sẫm.

    Bogaevsky phá tan bầu không khí chết lặng lạnh lẽo, đề nghị làm chứng từ chuyển giao chính quyền cho Duma thành phố.

    - Có lẽ cần phải có một buổi họp chung với họ để bàn giao.

    - Lúc nào họp thì tiện nhất?

    - Muộn một chút thì hơn, khoảng bốn giờ.

    Các uỷ viên chính quyền tựa như lấy làm sung sướng vì bầu không khí nặng nề do tất cả mọi người đều ngậm tăm đã bị xua tan.

    Họ bắt đầu thảo luận về vấn đề bàn giao chính quyền, về thời gian triệu tập cuộc họp. Kaledin cứ lặng thinh và chỉ khẽ gõ đều đặn những móng tay phồng phồng lên mặt bàn. Dưới hai hàng lông mày mọc rủ xuống, mắt hắn như phủ một làn sương mù, với một cái ánh đùng đục như mi- ca. Sự mệt mỏi rã rời, cảm giác kinh tởm gớm ghiếc và cuộc khủng hoảng tinh thần làm cho cái nhìn của hắn có vẻ nặng nề, rất khó gần.

    Để phản đối ý kiến của một tên khác, một tên uỷ viên chính quyền nói tràng giang đại hải một tràng, nghe thật chán ngấy.

    Kaledin ngắt lời hắn, giọng nói chỉ hơi lộ vẻ bực tức:

    - Xin các ngài nói ngắn bớt cho! Không còn có nhiều thì giờ đâu. Nên nhớ rằng nước Nga đi tới chỗ diệt vong cũng chỉ vì quá lắm mồm đấy thôi. Các ngài thảo luận đi và… sau đó sẽ phải mau chóng kết thúc các chuyện nầy.

    Hắn nói xong bỏ về phòng. Bọn uỷ viên Chính phủ túm năm tụm ba xì xào bàn tán. Có người nói rằng thần sắc Kaledin nom quá hãm tài.

    Bogaevsky đứng bên cửa sổ, một câu nói gần như thì thầm vẳng đến tai hắn:

    - Đối với một người như ngài Aleksey Macximovich thì lối thoát duy nhất có thể chấp nhận là tự sát.

    Bogaevsky rùng mình, rảo bước đi tới chỗ Kaledin ở. Chẳng mấy chốc lão đã quay ra, cùng đi có cả tên ataman.

    Mọi người quyết định rằng đến bốn giờ sẽ họp một buổi liên tục với Duma thành phố để bàn giao chính quyền cho Duma và làm các thủ tục. Kaledin đứng dậy, các tên khác cũng đứng dậy theo.

    Trong khi chia tay với một tân uỷ viên có vai vế trong Chính phủ, Kaledin đưa mắt theo dõi Ianov thấy hắn rỉ tai không biết những gì với Kariev.

    - Có chuyện gì thế? - Kaledin hỏi.

    Ianov bước tới có vẻ ngượng nghịu.

    - Các vị uỷ viên Chính phủ trong số không phải là người Cô- dắc xin được cấp tiền đi đường.

    Kaledin cau mày nói gay gắt:

    - Tôi không có tiền… Chán ngấy được!

    Mọi người bắt đầu chia tay Bogaevsky thì nghe được câu chuyện bèn gọi Ianov ra chỗ khác.

    - Mời ngài cùng tôi về chỗ tôi một lát. Ngài bảo giúp Svetozarov chờ một chút ở phòng ngoài.

    Hai người đi theo Kaledin đang gù gù cái lưng bước những bước rất nhanh. Về đến phòng lão, Bogaevsky đưa cho Ianov một gói tiền.

    - Đây có vạn tư. Xin ngài chuyển cho họ.

    Svetozarov chờ Ianov ở phòng ngoài, nhận tiền, cám ơn rồi từ biệt và đi ra cửa. Trong khi tiếp lấy cái áo ca- pôt trong tay người gác cửa, Ianov nghe thấy những tiếng ầm ầm trên cầu thang, bèn ngoái nhìn lên. Moldavsky, viên phó quan của Kaledin chạy những bước rất dài trên thang gác xuống.

    - Gọi bác sĩ! Mau lên!

    Ianov quăng chiếc áo ca- pôt đi, chạy bổ tới. Tên phó quan trực nhật và bọn lính hầu đứng ộn trong phòng ngoài đến vây quanh tên Moldavsky vừa chạy xuống.

    - Có chuyện gì thế? - Ianov kêu lên, mặt tái mét.

    - Ngài Aleksey Maximovich tự sát bằng súng rồi! - Moldavsky khóc nức nở, ngực đập xuống lan can của thang gác.

    Bogaevsky chạy vội vã, môi run bần bật như tróng một cơn lạnh khủng khiếp. Lão lắp bắp:

    - Cái gì thế? Cái gì thế?

    Mọi người chạy rầm rập trên thang gác, xô nhau lên tầng trên. Tiếng những bước chân chạy rung lên ầm ầm.

    Bogaevsky há hốc miệng thở lấy thở để, hơi thở khò khò. Lão là người đầu tiên đẩy cánh cửa đánh rầm, chạy qua phòng ngoài vào phòng làm việc của Kaledin. Cái cửa thông từ phòng làm việc vào căn phòng nhỏ để mở toang. Từ trong đó trườn ra một làn khói nhẹ xanh xanh hăng hắc, kèm theo có mùi thuốc súng cháy.

    - Ơi giời ôi là giời! ư- ư- ư- hư- hư! Anh Aliusa? Anh yêu quí… - Mụ vợ của Kaledin gào lên, giọng thất thanh không nhận ra được nữa, nghe rợn cả người.

    Như bị nghẹt thở, Bogaevsky giật từng cổ áo sơ- mi, chạy vào trong đó. Bên cửa sổ, Kariev gù lưng xuống, bám tay vào cái nắm đấm mạ vàng xỉn xỉn. Trên lưng cái áo lễ phục của hắn, hai cái xương bả vai hết co vào lại dãn ra như bị chuột rút, thỉnh thoảng người hắn lại run lên một cơn rất mạnh. Tiếng gào khóc của một kẻ có tuổi, trầm trầm, nghe như tiếng hú của thú rừng, thiếu chút nữa thì làm Bogaevsky không đứng vững được nữa.

    Kaledin nằm thẳng cẳng trên chiếc giường hành quân của sĩ quan, hai tay đặt trên ngực, đầu hơi vẹo sang một bên, mặt quay vào trong tường. Cái áo gối trắng càng làm nổi bật vừng trán xám ngoét đẫm mồ hôi và bên má áp xuống gối. Hai con mắt he hé như buồn ngủ, cặp môi khắc nghiệt trễ mép xuống nom đến là đau khổ. Vợ hắn quỳ xuống vật vã dưới chân hắn. Tiếng mụ gào man rợ the thé như chọc vào tai. Trên giường có một khẩu súng ngắn kiểu "Côn". Một dòng máu rất nhỏ mầu đỏ sẫm chảy ngoằn nghoèo từ trên chiếc áo sơ- mi xuống bên cạnh khẩu súng.

    Chiếc áo quân phục cổ đứng mắc rất cẩn thận trên lưng cái ghế dựa, trên cái bàn nhỏ có đặt một chiếc đồng hồ đeo tay.

    Bogaevsky nghiêng người lảo đảo quỳ xuống, áp tai vào bộ ngực mềm nhũn còn ấm. Một mùi mồ hôi đàn ông nồng nặc như mùi dấm xông vào mũi hắn. Tim Kaledin không đập nữa. Trong lúc nầy toàn bộ sự sống của Bogaevsky tập trung cả vào thính giác, lão hết sức thèm khát lắng nghe, nhưng chỉ nghe tiếng tích tắc rành rọt của chiếc đồng hồ đeo tay đặt trên bàn và tiếng sụt sịt ấm ức của mụ vợ lão ataman vừa quá cố. Và ngoài ra, bên ngoài cửa sổ có những tiếng quạ kêu chói tai báo tin chết chóc.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Xi- véc R. Ph - trước kia là chuẩn uý bộ binh. Đảng viên Bolsevich. Năm 1917, làm chủ bút tờ "Sự thật trong chiến hào" của đảng Bolsevich. Là một trong những người lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang chống Bạch vệ và bè lũ can thiệp ở Ukraina và vùng sông Đông. Qua đời vi bị thương nặng tháng Mười hai năm 1918 (Lời chú của bản tiếng Nga).

    2 Một thứ hội đồng dân biểu dưới chính quyền tư sản địa chủ ở nước Nga trước kia (ND
  5. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 105

    Buntruc vừa mở mắt ra lần đầu thì bắt gặp ngay hai con mắt đen láy của Anna long lanh sau những giọt nước mắt và trong nét cười.

    Anh đã bất tỉnh và mê sảng ba tuần liền. Đã ba tuần liền, anh đi lang thang trong một thế giới khác, hư ảo, không sờ thấy được. Đến chiều ngày hai mươi tháng Chạp anh mới tỉnh lại. Anh đăm đăm nhìn mãi Anna bằng cặp mắt nghiêm nghị, mung lung như qua một lớp sương mù, cố nhớ lại tất cả những chuyện có dính dáng tới Anna, nhưng chỉ hồi tưởng được một phần. Trí nhớ của anh đã kém đi nhiều, không chịu tuân theo ý muốn của anh nữa, và vẫn còn cố chôn giấu rất nhiều điều ở một nơi nào sâu kín.

    - Cho tôi uống nước… - Vẫn như trước, tiếng nói của chính anh cứ vẳng tới tai anh như từ một nơi xa xôi nào, nhưng anh thấy thế lại lấy làm thích thú. Buntruc mỉm cười.

    Anna vội chạy bổ đến với anh. Một nụ cười dè dát, cố ghìm lại, làm cho toàn thân Anna như sáng bừng lên.

    - Để em cầm cho anh uống, - Buntruc đờ đẫn vươn tay về phía cái ca, nhưng Anna gạt tay anh ra.

    Buntruc phải cố gắng đến run cả người mới ngẩng được đầu lên, uống vài ngụm rồi mệt quá, lại nằm vật xuống gối. Anh nhìn sang bên cạnh giờ lâu, muốn nói không biết câu gì, nhưng cuối cùng sự mệt mỏi lại chiếm phần thắng, và Buntruc lại thiu thiu.

    Và cũng như lần đầu, lúc tỉnh dậy điều anh nhìn thấy trước tiên vẫn là cặp mắt hốt hoảng của Anna chằm chằm nhìn mình, rồi sau đó anh mới nhìn thấy cái ánh sáng vàng như nghệ của ngọn đèn và cái vòng tròn màu trắng chiếu từ ngọn đèn lên khoảng trần nhà ghép bằng ván mộc.

    - Anna, lại đây em.

    Anna bước tới, nắm lấy tay anh. Buntruc nắm lại tay Anna một cách yếu ớt để trả lời.

    - Anh thấy trong người thế nào?

    - Lưỡi của người khác, đầu óc của người khác, hai chân cũng vậy, còn tuổi thì như đã hai trăm, - Anh cố rặn ra nói từng tiếng, lặng đi một lát rồi hỏi - Tôi bị thương hàn à?

    - Vâng, thương hàn.

    Buntruc đưa mắt nhìn khắp căn phòng, thều thào hỏi:

    - Đây là đâu thế?

    Anna hiểu ra câu hỏi, mỉm cười:

    - Chúng ta đang ở Sarysin!

    - Thế còn em… tại sao lại ở đây?

    - Chỉ có một mình em ở lại với anh. - Rồi tựa như để bào chữa cho mình hoặc cố tránh không muốn đả động tới một ý nghĩ mà hai người chưa nói ra, Anna vội nói tiếp - Không thể nào bỏ mặc anh cho người khác trông nom được. Đồng chí Abramxon và các đồng chí khác trong đảng uỷ có bảo em trông nom cho anh… Anh xem đấy, thế là bất ngờ em có dịp được săn sóc cho anh.

    Anh đưa mắt và khẽ động đậy bàn tay cám ơn Anna.

    - Krutogorov đâu?

    - Qua Voronez đi Lugansk rồi.

    - Georgkian?

    - Ôi anh tưởng tượng, được không… bị thương hàn chết mất rồi.

    - Chao ôi!

    Hai người lặng đi một lát như để tưởng nhớ người đã khuất.

    - Em đã lo cho anh quá. Vì anh ốm quá nặng, - Anna khẽ nói.

    - Còn Bogovoi?

    - Tất cả các đồng chí, em chẳng còn gặp ai nữa. Một số đã đi Kamenskaia. Nhưng thôi, anh hãy nghe em, anh nói quá nhiều có hại không? Mà anh có muốn ăn sữa không?

    Buntruc lắc đầu ra ý không muốn. Anh phải cố gắng lắm mới điều khiển nổi cái lưỡi để hỏi thêm:

    - Abramxon đâu?

    - Đã đi Voronez từ tuần trước rồi.

    Buntruc cựa quậy rất khó khăn, đầu óc anh quay lộn, máu dồn lên hai con mắt đến là nhức. Cảm thấy trên trán mình có một bàn tay mát mát, anh mở mắt ra. Một câu hỏi ******** làm tội anh: trong lúc mê man chẳng biết gì như thế, ai đã giúp mình trong lúc ỉa đái bẩn thỉu? Chẳng nhẽ chính là Anna? Má anh hơi ửng đỏ, anh hỏi:

    - Chỉ có một mình em trông nom cho tôi thôi à?

    - Vâng, một mình em.

    Buntruc quay mặt vào trong tường lẩm bẩm:

    - Nhục nhã cho chúng nó… Cái bọn khốn kiếp! Mặc cho một mình em chịu đựng.

    Di chứng của bệnh thương hàn đã ảnh hưởng đến thính giác: Buntruc trở nên nghễnh ngãng. Bác sĩ do Ban chấp hành Đảng bộ Sarysin cử đến bảo Anna rằng chỉ khi nào bệnh khỏi hẳn mới có thể bắt đầu chữa tai cho anh được. Buntruc lấy lại sức khoẻ rất chậm chạp. Anh trở nên phàm ăn một cách lạ lùng nhưng Anna rất nghiêm khắc giữ đúng mức ăn qui định. Chỉ vì thế mà giữa hai người đã xảy ra những sự va chạm.

    - Cho tôi ít sữa nữa đi. - Buntruc cố nài.

    - Không thể thêm được nữa.

    - Tôi van em đấy, lấy ra đi Anna! Sao lại thế, em muốn tôi chết đói à?

    - Anh Ilia, tất nhiên tự anh cũng biết rằng em không thể nào cho anh ăn quá mức qui định được.

    Buntruc giận quá không nói gì nữa, chỉ quay mặt vào tường thở dài, giờ lâu cứ im như thóc; Anna rất thương Buntruc, rất đau khổ, nhưng vẫn phải cương quyết không nhượng bộ. Một lát sau anh quay lại van lơn, mặt mày nhăn nhó, vì thế nom càng đáng thương:

    - Không cho tôi được ít bắp cải muối à? Thôi, em Anna yêu quý, cho tôi ăn đi! Em cũng phải nể tôi một chút chứ! Có hại ấy à? Bọn bác sĩ nói xằng đấy thôi?

    Trước thái độ cương quyết từ chối của Anna, có lần Buntruc nói rất tệ, xúc phạm cả Anna:

    - Cô không có quyền ******** làm tội tôi như thế? Tôi sẽ tự gọi lấy bà chủ nhà, sẽ xin bà ấy vậy? Cô là một người phụ nữ không có lương tâm, một con người đáng ghét! Thật đấy, tôi đã bắt đầu căm ghét cô rồi.

    - Em làm con sen con đòi, chịu cực chịu khổ để hầu hạ anh, anh đền bù lại như thế là tốt nhất rồi phải không? - Anna không nhịn được nữa.

    - Tôi có xin cô ở lại với tôi đâu? Cô trách mắng tôi về chuyện nầy thì thật là tội. Cô lợi dụng ưu thế của cô. Thôi cũng được… Không cần cho tôi ăn gì nữa? Cứ mặc cho tôi chết… Lòng thương của cô quả là vĩ đại!

    Môi Anna đã run lên, nhưng Anna vẫn nhẫn nhục, không nói gì nữa. Anna tha thứ cho Buntruc, cố chịu đựng hết thảy.

    Chỉ một lần, sau một trận đấu khẩu đặc biệt gay gắt vì Anna từ chối không cho Buntruc ăn thêm một miếng bánh nướng, Buntruc quay ngoắt đi, Anna cảm thấy tim mình thắt lại vì kịp nhìn thấy một giọt nước mắt long lanh trong mắt anh:

    - Anh thật là con nít! - Anna kêu lên.

    Nói xong Anna chạy vào bếp, mang ra cả một đĩa bánh đầy.

    - Thôi anh ăn đi, ăn nữa đi, Ilia, anh yêu quí! Thôi được rồi, anh đừng bực mình nữa nhé! Anh cầm lấy miếng nầy đi, vừa chín tới đấy! Anna run run nhét miếng bánh vào tay Buntruc.

    Buntruc cảm thấy rất đau khổ, đã định thôi không ăn nữa, nhưng cuối cùng không nhịn được, bèn chùi nước mắt, ngồi dậy cầm lấy chiếc bánh. Một nụ cười nhận lỗi thoáng hiện trên khuôn mặt gầy rộc, lổm xổm bộ râu mềm loăn xoăn. Anh vừa đưa mắt vẻ như xin lỗi, vừa nói:

    - Tôi còn tệ hơn cả đứa con nít nữa là khác… Em xem: chỉ thiếu chút nữa là tôi khóc oà lên…

    Anna nhìn cái cổ ngẩng ra một cách lạ lùng, nhìn bộ ngực hom hem sâu hõm giữa hai tà áo sơ- mi mở phanh, nhìn hai bàn tay chỉ có da bọc xương của Buntruc, rồi một niềm yêu thương thắm thiết chưa từng cảm thấy bao giờ bất thần làm rung động cả tâm hồn Anna, và lần đầu tiên Anna đặt lên cái trán vàng khô của Buntruc một cái hôn giản dị và âu yếm.

    Mãi hai tuần sau Buntruc mới có thể đi lại trong phòng mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác, nhưng hai chân khẳng khiu như cây sậy chỉ muốn gãy gập xuống. Buntruc tập đi lần thứ hai.

    - Xem nầy, Anna, tôi đi được đây nầy! - Buntruc thử đi nhanh một cách thoải mái, nhưng hai chân không đương nồi sức nặng của thân thể, sàn nhà dưới hai bàn chân như muốn trượt đi đâu mất.

    Buntruc nhìn thấy chỗ nào gần nhất có cái gì vịn được là phải nắm ngay lấy, miệng cười toe ra như ông già, làn da trên hai gò má xanh bóng chỗ thì căng ra, chỗ thì nhăn nhúm lại. Anh cười một thôi một hồi, tiếng cười già nua run run, cuối cùng cười mãi mệt lử, lại nằm vật ra giường.

    Chỗ hai người ở rất gần bến tàu. Đứng trong cửa sổ nhìn ra có thể trông thấy mặt sông Vonga trải rộng, đầy tuyết, khu rừng xám xám hình bán nguyệt rộng bát ngát bên kia sông và những nét mềm mại của cánh đồng gợn sóng đằng xa. Anna đứng rất lâu bên cửa sổ suy nghĩ về cuộc sống kỳ dị của mình, một cuộc sống vừa trải qua một bước ngoặt lớn. Bệnh tật của Buntruc đã làm cho hai người trở nên thân thiết lạ lùng.

    Đầu tiên, khi mới đưa Buntruc vượt được một chặng đường vừa dài vừa gian khổ đến được Sarysin, Anna đã cảm thấy nặng nề, cay đắng đến phát khóc. Lần đầu tiên trong đời Anna phải nhìn thẳng vào mặt trái của sự tiếp xúc với một người thân yêu một cách sát sạt và trần truồng như thế. Nàng nghiến răng thay đồ lót cho Buntruc, chải chấy trên cái đầu nóng như lửa, vần cái thân nặng như đá và rùng mình lén nhìn với cả một niềm kinh tởm cái thân hình đàn ông trần truồng và gầy rộc của anh. Nhìn cái vỏ đùm bên ngoài một sinh mệnh yêu quí lúc nầy chỉ còn thoi thóp chút hơi nóng. Ruột gan Anna nôn nao cả lên, Anna thấy tởm lợm quá, nhưng sự bẩn thỉu bên ngoài không làm hoen ố chút nào cái tình cảm vẫn còn giữ được rất sâu sắc, rất bền vững của Anna. Theo mệnh lệnh không thể cưỡng lại được của tình cảm ấy, Anna đã học được cách vượt qua đau khổ và do dự. Và Anna đã vượt qua. Cuối cùng chỉ còn lòng thương và nguồn tình yêu nằm ở một chỗ rất sâu trong lòng thấm đần ra ngoài rồi bật lên sôi sục.

    Có một lần tự nhiên Buntruc hỏi:

    - Sau tất cả những chuyện vừa qua em thấy tôi đáng ghét lắm… có phải không?

    - Đó là một sự thử thách.

    - Thử thách gì? Sức chịu đựng à?

    - Không, tình cảm.

    Buntruc quay đi và mãi không thể giữ nổi cho môi mình khỏi run.

    Hai người không nói thêm gì về chuyện ấy nữa. Bất cứ lời nào cũng thừa và nhạt nhẽo.

    Đến giữa tháng Giêng hai người từ Sarysin đi Voronez.
  6. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 106

    Chiều ngày mười sáu tháng giêng, Buntruc và Anna về đến Voronez. Hai người ở lại đây hai ngày rồi lại đi Minlerovo vì hôm ra đi bỗng có tin Uỷ ban quân sự cách mạng sông Đông đã chuyển đến đây cùng với các đơn vị trung thành với nó phải rút khỏi Kamenskaia dưới áp lực của quân Kaledin.

    Minlerovo rất đông người, quang cảnh bận bịu túi bụi. Buntruc ở lại đấy vài tiếng đồng hồ, rồi vừa thấy có chuyến xe lửa là đi Glubokaia ngay. Ngày hôm sau anh nhận quyền chỉ huy đội súng máy và sáng ngày hôm sau nữa đã có mặt trong trận chiến đấu chống chi đội của Chernechev.

    Sau khi Chernechev bị đánh bại, hai người bất ngờ phải chia tay nhau. Một buổi sáng, Anna ở bộ tư lệnh về, vẻ mặt sôi nổi nhưng hơi buồn.

    - Anh có biết không, đồng chí Abramxon có mặt ở đây đấy. Đồng chí rất muốn gặp anh. Ngoài ra còn một tin nữa, hôm nay em phải lên đường rồi.

    - Đi đâu bây giờ? - Buntruc ngạc nhiên.

    - Đồng chí Abramxon, em và vài đồng chí nữa sẽ đi Lugansk làm công tác tuyên truyền.

    - Cô bỏ chi đội à? - Buntruc hỏi giọng lạnh nhạt.

    Anna vừa cười vừa áp khuôn mặt nóng bừng bừng vào má anh:

    - Anh có thú nhận như thế nầy không: anh buồn không phải vì em rời bỏ chi đội mà vì em rời bỏ anh? Nhưng cũng chỉ một thời gian thôi. Em tin rằng trong công tác tuyên truyền em sẽ là một người có ích hơn là gần anh. Có lẽ em làm công tác tuyên truyền thì hợp với chuyên môn hơn là làm xạ thủ súng máy đấy… - Nói đến đây Anna đảo con mắt lên một cách tinh quái, - Dù em đã được học tập công việc súng máy ấy dưới sự chỉ đạo của một vị chỉ huy giàu kinh nghiệm như Buntruc.

    Chẳng mấy chốc Abramxon cũng tới. Vẫn là con người sôi sục nhiệt tình, thích hành động và không lúc nào chịu ngồi yên một chỗ như xưa. Vẫn đám tóc trắng lấp loáng trên cái đầu bọ hung, đen như bôi nhựa chưng. Buntruc thực tình cảm thấy sung sướng được gặp anh.

    - Khỏi hẳn rồi à? Tuyệt lắm? Bọn mình mang Anna đi đây. - Rồi anh nheo mắt ra ý đã biết hết mọi chuyện giữa hai người - Cậu không phản đối chứ? Cậu không phản đối chứ? Phải, phải… Phải, phải… Tuyệt lắm? Mình đặt câu hỏi như thế vì hình như ở Sarysin hai cô cậu đã thân với nhau rồi thì phải.

    - Tôi cũng chẳng giấu là cũng có lấy làm tiếc vì phải chia tay với Anna, - Buntruc nhăn nhó gượng cười.

    - Lấy làm tiếc à? Như thế cũng đã là nhiều rồi đấy… Anna, cô đã nghe thấy chưa.

    Abramxon đi đi lại lại trong phòng, tiện tay nhặt từ cái rương lên một cuốn sách đầy bụi của Garin Mikhailovsky 1 rồi như chợt nhớ ra điều gì, anh bắt đầu chia tay ra về.

    - Cô sắp xong chưa, Anna?

    - Đồng chí đi trước đi. Tôi xong ngay đây. - Anna trả lời sau cái bình phong.

    Anna thay đồ lót xong bước ra với chiếc áo quân phục cổ chui màu ka- ki của lính có thắt dây lưng, hai túi ngực phồng phồng, và vẫn cái váy đen vá vài chỗ nhưng sạch bong. Bộ tóc rất nặng vừa mới gội bồng lên, thòi cả ra ngoài cái khăn bịt đầu. Anna mặc áo ca- pôt vào và vừa thắt dây lưng vừa hỏi (cái vẻ hào hứng vừa nãy lúc nầy đã tan biến đâu mất, giọng Anna khàn đi, nghe như van lơn):

    - Hôm nay anh sẽ tham gia trận tấn công à?

    - Tất nhiên là có rồi? Em cũng biết rằng anh chẳng chịu bó tay ngồi yên.

    - Em van anh… Anh hãy nghe em, phải cẩn thận mới được? Anh sẽ vì em mà làm như thế chứ? Đồng ý nhé? Em để lại thêm cho anh một đôi bít tất len đấy. Anh cố giữ đừng để bị cảm lạnh, đừng để chân bị ngâm nước đấy. Đến Lugansk em sẽ viết thư về cho anh.

    Mặt Anna không hiểu sao tự nhiên bạc màu đi. Lúc chia tay, Anna thú nhận.

    - Anh xem đây, em rất đau buồn vì phải xa anh. Đầu tiên khi đồng chí Abramxon rủ em đi Lugansk, em rất phấn khởi, nhưng bây giờ em lại cảm thấy rằng không có anh, ở đấy cũng như không có người. Chẳng cần nói nhiều, tình cảm lúc nầy là không cần thiết, chỉ bó chân bó cẳng… Nhưng thôi, dù sao cũng tạm biệt anh!

    Hai người chia tay nhau một cách gần như lạnh nhạt, nhưng Buntruc hiểu nguyên nhân của điều đó đúng như đáng phải hiểu: Anna sợ mất đi cái vốn quyết tâm còn lại.

    Buntruc ra tiễn chân Anna, Anna cắm đầu cắm cổ bỏ đi, hai vai đưa đi đưa lại một cách hối hả. Buntruc đã định gọi Anna, nhưng anh nhận thấy rằng lúc chia tay, trong hai con mắt mờ đi nhìn hiêng hiếng của Anna có một ánh ướt ướt, vì thế anh cố tự chủ, làm vẻ sảng khoái kêu lên.

    - Anh mong rằng chúng mình sẽ lại gặp nhau ở Rostov! Giữ sức khoẻ nhé, Anna!

    Anna quay đầu lại một cái rồi rảo bước hơn.

    Sau khi Anna đi rồi, Buntruc cảm thấy mình cô quạnh khủng khiếp Buntruc từ ngoài phố quay vào trong phòng, nhưng lại lập tức nhảy phắt từ trong ấy ra như phải bỏng… Trong đó mỗi đồ vật đều nhắc nhở sự có mặt của Anna, cái gì cũng còn lưu chút hơi thừa của Anna: nầy chiếc khăn tay bỏ quên, nầy cái túi dết của lính bộ binh, nầy cái ca bằng đồng, tất cả các thứ đó đều đã được bàn tay của Anna đụng đến.

    Buntruc đi lang thang trong trấn đến tối, trong lòng có một cảm giác canh cánh chưa từng cảm thấy bao giờ. Anh thấy như trong người mình vừa bị cắt đi mất một cái gì và mình không thể nào quen với trạng thái mới nầy được. Anh ngơ ngác nhìn vào mặt những chiến sĩ Cô- dắc và Xích vệ nhận ra được vài người và nhiều người cũng nhận ra anh.

    Khi đến một chỗ, có một chiến sĩ Cô- dắc giữ anh lại, chiến sĩ nầy đã ở cùng một đơn vị với Buntruc trong cuộc chiến tranh chống Đức.

    Anh ta lôi Buntruc về chỗ anh ta ở, mời Buntruc đánh bài. Một nhóm Xích vệ thuộc chi đội Petrov và vài chàng thuỷ binh mới được điều tới đây đang ngồi quanh một chiếc bàn chơi bài tính điểm. Họ đập quân bài đen đét giữa một làn khói thuốc lá mù mịt. Họ vò loạt soạt những tờ giấy bạc Kerensky, văng tục, la hét một cách hết sức vô tư lự. Buntruc đang cần có không khí để thở, vội bỏ ra ngoài.

    Buntruc được cứu thoát khỏi tâm trạng của anh nhờ trận tấn công mà một giờ sau anh phải tham gia.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 (1852 - 1906), một tác giả tiến bộ người Nga (ND)
  7. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 107

    Sau khi Kaledin chết đi, trấn Novocherkask trao chính quyền cho viên tướng Nadarov, ataman viễn chinh của Quân khu sông Đông, ngày hai mươi chín tháng Giêng, bọn đại biểu Cơ- rúc họp và cử hắn làm ataman nhiệm mệnh của Quân khu. Đến họp Cơ- rúc chỉ có một phần nhỏ không đáng kể của số đại biểu, phần lớn đại diện cho các trấn hạ du thuộc các khu miền Nam. Cơ- rúc lần nầy lấy tên là "Cơ- rúc nhỏ". Có được sự ủng hộ của Cơ- rúc, Nadarov tuyên bố động viên tất cả các tráng đinh từ mười tám đến năm mươi, nhưng người Cô- dắc cực chẳng đã mới cầm vũ khí dù có những lời hăm doạ và dù có những đội vũ trang được phái đến các trấn để lấy quân.

    Hôm Cơ- rúc nhỏ ở Novocherkask bắt đầu làm việc, trung đoàn Cô- dắc sông Đông số 6 của tên tướng Krasnosekov ở mặt trận Rumani kéo về theo đội hình hành quân, dưới quyền chỉ huy của tên trung tá Tachin. Ngay từ Ekaterinoslav, trung đoàn nầy đã phải vừa chiến đấu vừa hành quân để chọc thủng vòng vây Bolsevich.

    Nó đang bị đánh mạnh ở Piachikhatca, Mezevaia, Medvedvyi Kurgan và nhiều nơi khác, nhưng vẫn về được tới nơi, quân số gần trọn vẹn, với toàn bộ sĩ quan.

    Trung đoàn nầy đã được đón tiếp rất long trọng. Sau lễ cầu kinh ở quảng trường Nhà thờ lớn, Nadarov khen ngợi các binh sĩ Cô- dắc đã giữ kỷ luật, đảm bảo trật tự rất tốt và đã mang vũ khí về bảo vệ sông Đông.

    Chẳng bao lâu trung đoàn được điều ra mặt trận, đóng ở gần trấn Xulin, nhưng hai ngày sau Novocherkask đã nhận được những tin chẳng lành: do ảnh hưởng của tuyên truyền cổ động Bolsevich, trung đoàn đã tự động rời bỏ mặt trận, từ chối không chịu bảo vệ chính quyền Quân khu.

    Cơ- rúc hoạt động một cách uể oải. Mọi người đều đã cảm thấy trước kết cục của cuộc đấu tranh chống lại quân Bolsevich.

    Nadarov vốn là một viên tướng cương nghị và sôi nổi, nhưng suốt thời gian cuộc họp, hắn cứ chống tay ngồi yên, một bàn tay đặt lên trán, như đang đau khổ suy nghĩ về một vấn đề gì.

    Thế là mấy tia hi vọng cuối cùng cũng tan nốt thành mây khói.

    Những trận chiến đấu đã diễn ra ầm ầm gần Chikhoreskaia. Đã có phong thanh là thiếu uý Cô- dắc Artomonov chỉ huy Hồng quân đang từ Sarysin tiến về phía Rostov.

    Lenin ra lệnh cho mặt trận miền Nam chiếm Rostov ngày, hai mươi ba tháng Hai.

    Sáng ngày hai mươi hai chi đội của tên đại uý Chernov tiến vào Rostov. Hắn đã vừa bị Xivéc đánh lui vừa bị những người dân Cô- dắc trấn Glunovskaia bắn từ hậu phương.

    Chỉ còn lại một đường hành lang mỏng manh, vì thế Kornilov hiểu rằng nếu ở lại Rostov thì không phải không nguy hiểm, nên hắn đã ra lệnh rút lui về trấn Olginskaia. Suốt ngày hôm ấy, anh em công nhân ở Temerich nã súng vào nhà ga và vào các đội tuần tiễu của bọn sĩ quan. Trước khi trời hoàng hôn, từ trong thành phố Rostov quân của Kornilov tiến ra với dội hình hành quân dày đặc.

    Nó vươn dài qua sông Đông như một con trăn đeo béo núc rồi ngoằn ngoèo trườn về phía Arxai. Những đại đội chỉ còn lại rất ít quân tiến rất vất vả trên lớp tuyết vừa ẩm vừa xốp. Loáng thoáng những chiếc áo ca- pôt đính khuy bóng nhoáng của bọn học sinh trung học và những chiếc áo ca- pôt của bọn học sinh trường thực nghiệm, nhưng bọn sĩ quan bộ binh vẫn chiếm đa số. Các trung đội do những tên đại tá và đại uý chỉ huy. Đi trong hàng là bọn Yunke và sĩ quan, cấp bậc từ chuẩn uý tới đại tá. Dân chạy nạn lốc nhốc đi sau cơ man nào xe vận tải. Họ là những nhân vật danh tiếng, đã có tuổi, mặc những chiếc áo bành tô kiểu thành thị, đi giày cao su. Bọn phụ nữ oặn oẹo trên những đôi giầy cao gót, chạy lon ton bên những chiếc xe, chốc chốc lại sút chân xuống lớp tuyết sâu.

    Tên đại uý Evgeni Litnhitki đi trong một đại đội của trung đoàn Kornilov. Cùng hàng với hắn có gã thượng uý Starobensky, một tên sĩ quan tại ngũ rất chững chạc, trung uý Bogachev của trung đoàn "grenada" 1 Panagorisky mang tên Suvorov và tên đại tá Lovichev một viên sĩ quan đơn vị chiến đấu già sóc, miệng móm sạch không còn chiếc răng nào, người đầy lông đỏ như một con cáo già.

    Bóng tối sau lúc hoàng hôn mỗi lúc một dầy. Trời rét ngọt. Một ngọn gió ẩm ẩm mằn mặn thổi dai dẳng từ cửa sông Đông tới.

    Evgeni nhìn vào mặt những tên đang vượt đại đội của hắn, nhưng hai chân vẫn dẫm không sai bước, rất quen thuộc trên lớp tuyết đã bị nghiền vụn. Đi bên lề đường có đại uý Nezenchev chỉ huy trung đoàn Kornilov và đại tá Kutepov trước kia là trung đoàn trưởng trung đoàn ngự lâm Preobrazensky. Thằng cha nầy mở phanh áo ca- pôt mũ cát- két hất ngược ra sau gáy.

    - Ngài trung đoàn trưởng! - Lão trung tá Lovichev hất rất lẹ khẩu súng trường lên vai, gọi tên Nezenchev.

    Kutepov quay mặt lại, một khuôn mặt dài như mặt bò với vầng trán rộng, hai con mắt đen rất xa tinh mũi và bộ râu xén vòng như hình cái xẻng. Nghe tiếng gọi, Nezenchev đưa mắt nhìn qua vai Kutepov.

    - Ngài bảo đại đội một tăng thêm lốc độ hành tiến cho! Vì đi như thế nầy mà chết cóng thì cũng chẳng có gì lạ. Hai chân chúng tôi sũng nước cả mà lại hành quân với tốc độ như thế nầy…

    - Chẳng còn ra thể thống gì nữa! - Starobensky cất cái giọng oang oang như tiếng kẻng, hắn vốn hay to tiếng.

    Nezenchev cứ đi qua, không trả lời. Hắn đang tranh cãi không biết vấn đề gì với tên Kutepov. Một lát sau tướng Alekseev vượt đại đội của Evgeni. Gã xà ích đánh một cặp ngựa huyền béo núc, đuôi tết. Dưới vó ngựa, tuyết bắn tung từng đám ra chung quanh.

    Gió làm cho mặt Alekseev đỏ rực lên với hai hàng ria và cặp lông mày đựng đứng trắng loá. Lão kéo chiếc mũ cát- két xuống tận tai, tay trái đưa lên túm lấy cổ áo vì lạnh. Bọn sĩ quan mỉm cười đưa mắt nhìn theo khuôn mặt mà tất cả mọi người đều quen.

    Con đường bị dẫm nát dưới hàng ngàn bước chân. Thỉnh thoảng lại có những váng nước vàng vàng loang ra. Hành quân đến là cực, chân bước trơn như mỡ, nước thấm qua cả ủng. Evgeni vừa đi vừa lắng nghe những mẩu chuyện nói lao xao phía trước. Một tên sĩ quan mặc áo da trắng, đội chiếc mũ lông Cô- dắc của lính, nói giọng nam trung.

    - Ngài thấy không, trung uý? Rodianko, chủ tịch Duma Quốc gia, già như thế mà cũng phải đi bộ.

    - Nước Nga đang đi con đường Gôngôta 2 - Một gã cố nói đùa, vừa nói vừa ho sặc sụa và nhổ ra một bãi đờm.

    - Gôngôta… con đường nầy chỉ khác một điều không có đá giăm mà có tuyết, hơn nữa tuyết ẩm cộng với cái lạnh quỷ quái nầy.

    - Các ngài có biết bọn mình sẽ nghỉ đêm ở đâu không?

    - Ở Ekaterinoda.

    - Bên Phổ chúng tôi cũng đã có lần hành quân thế nầy.

    - Không biết vùng Kuban sẽ đón tiếp chúng ta như thế nào đây? Thế nào nhỉ? Tất nhiên tình hình ở đấy cũng có khác.

    - Ngài có thuốc lá hút không nhỉ? - Tên trung uý Golovachev hỏi Evgeni.

    Hắn tháo găng tay vải thô không có ngón, tiếp lấy điếu thuốc, cảm ơn rồi hỉ mũi và chùi ngón tay vào tà áo ca- pôt như một tên lính:

    - Ngài trung uý, ngài đã tập quen được những thói bình dân ấy rồi à? - Lão đại tá Lovichrep mỉm cười hóm hỉnh.

    - Không muốn tập quen cũng không được. Còn ngài… hay là ngài còn tích trữ được một tá khăn tay?

    Lovichev không trả lời. Những que băng nhỏ xanh xanh rủ xuống trên hàng ria hoa râm, đỏ như râu ngô. Thỉnh thoảng lão lại sịt mũi, nhăn mặt vì cái lạnh lọt vào trong tà áo ca- pôt bị gió thốc lên.

    "Thành phần tinh hoa của nước Nga". - Evgeni nghĩ thầm, trong lòng hắn đau nhói khi hắn nhìn những hàng quân và phần đầu của đội hình hành quân bị cắt ra từng đoạn đang tiến ngoằn ngoèo trên đường.

    Vài tên phi ngựa qua, trong số đó có cả Kornilov. Hắn cưỡi một con ngựa cao giống Donesk, cái áo lót lông ngắn xanh lá cây nhạt có hai cái túi chéo hai bên cùng với chiếc mũ lông trắng nhấp nhô rất lâu trên đầu các hàng quân. Các tiểu đoàn sĩ quan tiễn đưa hắn bằng những tiếng "hu- ra" gầm lên dồn dập.

    - Tất cả những chuyện nầy kể ra cũng chẳng sao, nhưng lại còn gia đình… - Lovichev húng hắng ho theo kiểu người già rồi liếc nhìn Evgeni như tìm kiếm sự đồng tình - Gia đình tôi còn ở lại Smolensk… - Lão nhắc lại. - Còn có vợ tôi và một đứa con gái, chưa đến tuổi lấy chồng. Nó vừa tròn mười bảy hôm Nô- en… Ngài thấy thế nào, đại uý?

    - Vâ- â- âng…

    - Ngài cũng có gia đình chứ? Ở Novocherkask à?

    - Không, tôi là dân Quân khu sông Đông. Tôi còn có ông cụ thân sinh.

    - Tôi không được biết hai mẹ con nó hiện nay thế nào… ở đấy không có tôi thì sẽ ra sao đây. - Lovichev nói tiếp.

    Starobensky ngắt lời lão, giọng bực bội:

    - Ai mà chẳng có gia đình để lại? Thưa ngài trung tá, tôi không hiểu ngài sụt sịt như thế để làm gì? Người đâu mà kỳ quặc! Còn chưa kịp rời khỏi Rostov…

    - Starobensky! Ngài Piot Petrovich! Ngài đã dự trận chiến đấu ở gần Taranroc có phải không? - Cách mấy hàng phía sau có người hỏi với lên.

    Starobensky quay lại, mặt đầy vẻ bực bội, một nụ cười rầu rĩ trên môi.

    - À Ngài Vladimir Georgievich, may mắn sao ngài lại ở cùng trung đội với chúng tôi? Mới điều động à? Ngài ở đấy có chuyện không vừa ý với ai thế? Ái chà… phải, chuyện ấy cũng dễ hiểu thôi… Ngài hỏi về chuyện Taranroc à? Vâng, tôi có tham gia… nhưng có chuyện gì thế? Hoàn toàn đúng là như thế… cậu ấy bị giết rồi.

    Evgeni thẫn thờ mặc cho những lời trao đổi vẳng đến tai mình. Hắn còn đang hồi tưởng lần hắn ở Yagonoie ra đi, về bố, về Acxinhia. Nỗi buồn nhớ bất thần ập tới tim hắn làm hắn cảm thấy như tắt thở. Hắn vừa uể oải cất bước vừa nhìn những cây súng trường lắp lưỡi lê ngả nghiêng phía trước, nhìn những cái đầu đội mũ lông, mũ cát- két hay mũ ba tai ngật ngưỡng theo nhịp chân, bụng bảo dạ: "Trong lúc nầy, mỗi người trong năm nghìn tay súng nầy, năm nghìn kẻ bị xua đuổi nầy đều đang sôi sục căm thù, đang phẫn nộ đến cùng cực như mình. Bọn khốn kiếp, chúng nó dồn mình ra khỏi nước Nga và còn đang muốn dẫm chết mình ở đây. Nhưng cứ chờ xem! Rồi Kornilov sẽ lại đưa chúng ta tiến vào Moskva!". Trong giờ phút nầy hắn hồi tưởng lại chuyện Kornilov đến Moskva và hân hoan sống lại ngày hôm ấy trong ký ức.

    Ở một chỗ nào đó gần đấy, phía sau, có lẽ ở cuối đại đội, có một đại đội pháo đang tiến. Tiếng ngựa hí, tiếng những cỗ xe pháo chạy long sòng sọc, và cả mùi mồ hôi ngựa đưa từ phía đó lên. Ngửi thấy cái mùi thân thuộc và ngây ngất đó, Evgeni vội quay đầu lại. Một tên chuẩn uý còn trẻ cưỡi ngựa đi đầu nhìn hắn mỉm cười như với một người quen.

    ° ° °

    Tập đoàn quân tình nguyện đã tập trung ở khu vực trấn Olginskaia trước ngày mười một tháng Ba. Kornilov chần chừ chưa tiến quân vì hắn còn chờ tên ataman viễn chinh của Quân khu sông Đông là tướng Popop tới Olginskaia. Popop vốn đã rút lui khỏi Novocherkask về những cánh đồng cỏ ở bên kia sông Đông với chi đội của hắn gồm 1600 tay gươm, 5 khẩu pháo và 40 khẩu súng máy nặng.

    Sáng ngày mười ba, Popop đi ngựa đến Olginskaia, cùng đi có viên trưởng ban tham mưu của hắn là tên đại tá Sidorin và vài viên sĩ quan Cô- dắc hộ vệ.

    Đến cái bãi cạnh ngôi nhà Kornilov ở, hắn cho ngựa đứng lại rồi bám chặt lấy mũi yên và nặng nề đưa một chân qua yên ngựa.

    Gã liên lạc vội chạy tới đỡ hắn xuống. Tên Cô- dắc nầy còn trẻ, có bộ mặt ngăm ngăm, món tóc đen xoã trước trán và hai con mắt sắc như mắt con te te. Popop quẳng dây cương cho hắn rồi từ tốn bước lên thềm. Sidorin và mấy tên sĩ quan kia xuống ngựa, đi theo vào.

    Bọn lính hầu dắt những con ngựa qua cửa hàng rào vào trong sân.

    Trong khi tên lính hầu có tuổi, khoèo chân, đeo những túi thóc lên cổ ngựa, thì tên tóc đen, mắt như con te te kia, đã kịp lân la làm quen với người đầy tớ gái của chủ nhà, một cô gái má đỏ hây hây, đầu chít một chiếc khăn đan đỏm dáng, cặp chân không bít tất thọc trong đôi ủng cao su cao ống. Hắn rỉ tai cô ả không biết câu gì làm cô ả phá lên cười rồi lạch bạch chạy qua mặt hắn về phía nhà kho, hai chân vừa đi vừa trượt trên những vũng nước.

    Popop bước vào trong nhà. Hắn đã có tuổi, coi vẻ oai phong lẫm lẫm. Vào đến phòng ngoài, hắn cởi áo ca- pôt trao cho một tên lính hầu rất nhanh nhẹn, treo cái roi ngựa lên mắc áo rồi sỉ mũi ầm ầm.

    Tên lính hầu đưa hắn và Sidorin vào trong phòng họp. Sidorin vừa đi vừa vuốt tóc.

    Các viên tướng được mời tới họp hội nghị đều đã tụ tập đầy đủ.

    Kornilov đã ngồi vào bàn, hai khuỷu tay tì lên tấm bản đồ mở rộng. Alekseev ngồi ngay ngắn bên phải hắn, mặt mới cạo, tóc bạc phơ, người những xương cùng xẩu. Denikin long lanh cặp mắt thông minh nhìn cứ như chọc vào người ta, đang nói không biết những gì với Romanovsky. Lucomsky vuốt râu thủng thẳng đi đi lại lại trong phòng, nom mặt hắn hơi có chút giống Denikin, Markov đứng bên khung cửa sổ trông ra sân, nhìn những tên lính hầu Cô- dắc đi đi lại lại bên mấy con ngựa và cười đùa với cô người làm.

    Sau khi chào hỏi xong, hai nhân vật mới đến ngồi vào bàn.

    Alekseev hỏi vài câu không có ý nghĩa gì lắm về đường đi và cuộc rút lui khỏi Novocherkask. Kutebov bước vào, cùng đi với hắn có vài viên sĩ quan tại ngũ được Kornilov mời đến họp.

    Popop ngồi xuống, vẻ mặt bình thản đầy tự tin. Kornilov nhìn thẳng vào mặt hắn hỏi:

    - Tướng quân làm ơn cho biết quân số chi đội ngài có bao nhiêu?

    - Một ngàn rưởi tay gươm, một đại đội pháo, bốn mươi khẩu súng máy nặng có đủ xạ thủ.

    - Tất nhiên ngài đã được biết các hoàn cảnh bắt buộc Tập đoàn quân tình nguyện rút khỏi Rostov. Hôm qua chúng tôi có họp một cuộc hội nghị. Đã thông qua quyết định đi Kuban, hướng tiến quân là Ekaterinoda. Hiện đang có những chi đội tình nguyện hoạt động chung quanh thành phố đó. Chúng ta sẽ tiến quân theo đường nầy… - Kornilov di chiếc bút chì chưa gọt nhọn trên bản đồ, nói giọng hấp tấp hơn - Vừa đi vừa thu hút dân Cô- dắc Kuban và đánh tan các đại đội Xích vệ tìm cách gây trở ngại cho cuộc tiến quân của chúng tôi các chi đội nầy đều nhỏ bé, thiếu tổ chức và không có sức chiến đấu hắn nhìn vào hai con mắt của Popop lúc nầy đang đem chi đội của ngài liên hợp với Tập đoàn quân tình nguyện và cùng với chúng tôi tiến tới Krasnodar. Phân tán lực lượng là điều không có lợi cho chúng ta.

    - Tôi không thể làm như thế được! - Popop tuyên bố đốp luôn, như đinh đóng cột.

    Alekseev hơi ngả người sang phía hắn.

    - Xin ngài cho phép hỏi vì sao thế?

    - Vì tôi không thể nào bỏ lãnh thổ Quân khu sông Đông để đi tới một vùng nào đó ở Kuban. Chúng tôi sẽ chặn địch ở vùng phía bắc sông Đông, chúng tôi sẽ ở lại trong khu qua mùa đông 3 để chờ các sự kiện xảy ra. Chúng ta chưa phải lo đến những hành động tích cực của quân địch vì không phải ngày một ngày hai mà băng tan ra. Không riêng pháo binh mà cả kỵ binh cũng không thể nào vượt qua sông Đông. Mà trong khu vực qua mùa đông, rơm rạ và lúa mì đã được chuẩn bị hoàn toàn đầy đủ. Chúng tôi có thể phát triển hoạt động du kích bất cứ lúc nào và về bất cứ hướng nào.

    Với vẻ tự tin rất nặng đồng cân, Popop kể những lý lẽ cự tuyệt lời đề nghị của Kornilov. Hắn lấy lại hơi xong, thấy Kornilov có vẻ muốn nói gì thêm, bèn lắc đầu một cách gàn bướng:

    - Tôi xin phép nói nốt… Ngoài các điều đó ra còn có một yếu tố khác đặc biệt quan trọng mà ban chỉ huy chúng tôi phải lính tới là tinh thần binh sĩ Cô- dắc của chúng tôi - Hắn giơ một bàn tay trắng hếu, béo múp, ngón tay trỏ đeo một chiếc nhẫn vàng ăn lẳn vào trong thịt, đưa mắt nhìn tất cả mọi người một lượt rồi hơi cất cao giọng nói tiếp - Nếu chúng tôi chuyển hướng tiến quân sang Kuban, chi đội sẽ có thể đứng trước nguy cơ tan rã. Có thể là binh sĩ Cô- dắc sẽ không chịu đi. Không thể quên một hoàn cảnh là thành phần thường bị và kiên định nhất của tôi là binh sĩ Cô- dắc, mà tinh thần chúng nó thì hoàn toàn không được vững vàng như các đơn vị của các ngài đâu. Chúng nó chỉ là những con người không có ý thức. Chúng nó sẽ không đi, có thế thôi. Còn như mạo hiểm để có thể mất toàn bộ chi đội thì đó là việc tôi không thể nào làm được, - Popop nói rành rọt từng tiếng rồi lại ngắt lời Kornilov - Xin ngài thứ lỗi cho, tôi đã trình bày để ngài rõ quyết định ấy. Tấl nhiên phân tán lực lượng là điều không có lợi cho chúng ta, nhưng tình hình đã phát triển đến nước nầy thì chỉ còn có thể có một lối thoát mà thôi. Xuất phát từ những sự cân nhắc mà tôi vừa nói lên, tôi cho rằng Tập đoàn quân tình nguyện đừng đi Kuban nữa thì hợp lý hơn. Tinh thần dân Cô- dắc Kuban đã gây cho tôi một mối lo ngại không phải là nhỏ. Các ngài hãy cùng với chi đội sông Đông tiến về các đồng cỏ bên kia sông Đông, ở đấy Tập đoàn quân có thể lợi dụng thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức, bổ sung quân số cho tới mùa xuân bằng những cán bộ tình nguyện mới ở nước Nga tới…

    - Không! - Kornilov kêu lên. Mới hôm qua hắn còn ngả theo ý kiến tiến quân tới các đồng cỏ bên kia sông Đông và khăng khăng bác bỏ ý kiến ngược lại của Alekseev. - Tiến quân tới khu vực qua mùa đông thì chẳng có nghĩa gì cả. Chúng tôi có khoảng sáu ngàn quân…

    - Nếu nói đến vấn đề cung cấp lương thực thì thưa quan lớn, tôi dám đảm bảo với ngài rằng khu vực qua mùa đông sẽ không để chúng ta phải mong mỏi một điều gì hơn nữa. Ngoài ra ở đấy ngài sẽ còn có thể lấy một số ngựa của các trại chủ chăn nuôi tư để biến một phần Tập đoàn quân của ngài thành kỵ binh. Ngài sẽ có những cơ may mới để tiến hành vận động chiến ở vùng đồng nội. Các ngài đang cần phải có kỵ binh, mà binh chủng nầy Tập đoàn quân tình nguyện lại chẳng có nhiều gì cho lắm.

    Kornilov đưa mắt nhìn Alekseev. Hôm nay hắn có thái độ đặc biệt săn đón ân cần đối với Alekseev. Rất có thể là hắn đang hoang mang về vấn đề chọn hướng tiến quân và đang tìm kiếm sự ủng hộ của một kẻ có uy tín. Alekseev rất chăm chú lắng nghe.

    Viên tướng già nầy vốn quen giải quyết mọi vấn đề một cách ngắn gọn, đến nơi đến chốn và rành rọt. Hắn trình bày các ưu điểm của hướng tiến quân về Ekaterinoda bằng vài câu cô đọng rồi kết luận:

    - Tiến quân theo hướng nầy chúng ta sẽ có thể phá vòng vây Bolsevich một cách dễ dàng nhất và có thể tập họp các chi đội hiện đang hoạt động ở gần Ekaterinoda.

    - Nhưng nếu không thành công thì sao, thưa ngài Mikhail Vasilievich? - Lucomsky hỏi thêm một cách dè dặt.

    Alekseev nhai nhai cặp môi, đưa bàn tay lên bản đồ.

    - Ngay trong trường hợp giả thiết là không thành công, chúng ta vẫn còn có khả năng tiến thẳng tới Kavkaz và cho Tập đoàn quân phân tán chiến đấu.

    Romanovsky ủng hộ ý kiến của Alekseev. Markov nói chen vào vài câu có phần nóng nảy. Đã gần như không còn có gì cãi lại được các lý lẽ chắc nịch của Alekseev, song những lời phát biểu của Lucomsky đã làm cho cán cân trở lại thăng bằng.

    - Tôi ủng hộ kiến nghị của tướng quân Popop. - Hắn tuyên bố rồi thủng thẳng lựa lời. - Việc hành quân về Kuban sẽ kèm theo với những khó khăn rất lớn, các khó khăn ấy chúng ta không thể ngồi đây mà tính trước được đâu. Trước hết chúng ta sẽ phải vượt qua đường sắt hai lần…

    Tất cả những kẻ có mặt trong hội nghị đều trố mắt nhìn theo hướng ngón tay Lucomsky, Lucomsky kiên quyết nói tiếp:

    - Bọn Bolsevich sẽ không bỏ lỡ cơ hội đón tiếp chúng ta một cách xứng đáng, chúng nó sẽ điều những đoàn xe lửa thiết giáp tới. Chúng ta lại có một đoàn xe tải nặng nề và hàng lô thương binh. Tất cả những thứ đó chúng ta sẽ không thể bỏ lại được và sẽ là một gánh nặng hết sức lớn lao đối với Tập đoàn quân, trở ngại không cho chúng ta đẩy nhanh tốc độ hành tiến. Ngoài ra tôi không hiểu vì sao lại có ý tin tưởng rằng dân Cô- dắc Kuban sẽ có thái độ hữu nghị đối với chúng ta? Theo gương dân Cô- dắc sông Đông hình như họ cũng đang ngả theo chính quyền Bolsevich rồi thì phải. Trước những tin đồn như thế, chúng ta phải cực kỳ thận trọng, và phải có một mức độ hoài nghi rất lớn, một sự hoài nghi lành mạnh. Dân Kuban cũng đang mắc cái chứng đau mắt hột Bolsevich và quân đội Nga trước kia đã truyền lại… Họ có thể có thái độ thù nghịch đối với chúng ta. Để kết luận, cần phải nói dứt khoát rằng ý kiến của tôi là tiến về phía đông, về vùng đồng cỏ, và từ đó uy hiếp bọn Bolsevich sau khi tích luỹ được lực lượng.

    Được đa số các tướng lĩnh dưới quyền ủng hộ, Kornilov quyết định tiến về phía tây Velikoniazirskaia, vừa hành quân vừa bổ sung ngựa cho thành phần không chiến đấu của Tập đoàn quân rồi từ đấy quay sang Kuban. Hắn tuyên bố kết thúc hội nghị, trao đổi vài câu với Popop rồi chia tay với viên tướng nầy một cách lạnh nhạt và trở về phòng riêng. Alekseev bước ra theo hắn.

    Đại tá Sidorin trưởng ban tham mưu chi đội sông Đông bước ra thềm, đinh thúc ngựa lách cách. Hắn cất cái giọng oang oang, gọi bọn lính hầu một cách thích thú:

    - Ngựa đâu?

    Một gã trung uý Cô- dắc còn trẻ, có bộ râu màu nhạt, xốc gươm bước qua những vùng nước, đi tới bên thềm. Hắn đừng lại trước bậc cuối cùng khẽ hỏi:

    - Tình hình thế nào, thưa ngài đại tá?

    - Khá lắm? - Sidorin khẽ trả lời, coi bộ hết sức cao hứng. - Ông lão nhà chúng ta đã từ chối không đi Kuban. Chúng ta sẽ ra đi ngay.

    - Ngài đã sẵn sàng chưa, Itvarin?

    - Bẩm xong rồi, chúng nó đang dắt ngựa tới!

    Mấy tên lính hầu lên ngựa rồi dắt ngựa tới. Gã có cái bờm tóc đen và hai con mắt đen như mắt te te liếc nhìn thằng bạn của nó.

    - Con bé có hay không hử? - Nó vừa hỏi vừa phì cười.

    Tên có tuổi trả lời với một nụ cười dè dặt:

    - Cũng như cái vảy hắc lào trên con ngựa thôi.

    - Song nhỡ nó gọi cậu thì sao?

    - Thôi đi, đồ ngu xuẩn. Hôm nay là ngày ăn chay cơ mà!

    Itvarin, gã sĩ quan trước kia cùng đơn vị với Grigori Melekhov nhảy lên con ngựa mông xuôi, trán hói, mũi trắng của hắn, rồi ra lệnh cho bọn lính hầu:

    - Ra phố.

    Popop và Sidorin chào từ biệt một viên tướng nào đó rồi bước xuống thềm. Một tên lính hầu giữ ngựa, giúp cái chân của ông tướng tìm thấy bàn đạp. Popop vung cái roi ngựa xấu xí kiểu Cô- dắc, cho con ngựa chạy nước kiệu nhỏ. Mấy gã lính hầu, Sidorin và bọn sĩ quan rướn người trên bàn đạp, hơi ngả về phía trước, cho ngựa chạy theo.

    Tập đoàn quân tình nguyện hành quân hai chặng thì tới trấn Metrechinskaia. Đến đấy Kornilov nhận được những tin tình báo bổ sung vì khu vực qua mùa đông. Thấy các tin đó không có lợi, hắn bèn triệu tập bọn chỉ huy các đơn vị chiến đấu tuyên bố quyết định đã được thông qua về việc tiến quân đi Kuban.

    Một tên sĩ quan liên lạc được phái đến chỗ Popop mang theo bản kiến nghị thứ hai về việc liên hợp. Tên sĩ quan liên lạc nầy về đến khu vực Staro- Ivanovsky thì đuổi kịp tập đoàn quân. Câu trả lời của Popop mà hắn mang về vẫn như cũ: Popop cự tuyệt kiến nghị đó một cách lễ phép nhưng lạnh nhạt. Hắn viết rằng hắn không thể thay đổi quyết định và tạm thời hắn cứ ở lại khu Xansky.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Dịch nghĩa là trung đoàn ném lựu đạn thường dùng để chỉ những đơn vị ưu tú (ND).

    2 Một ngọn núi nhỏ ở Jeruzalem, nơi Giêsu bị đóng đinh câu rút (ND).

    3 Mùa hè những người Cô- dắc chăn nuôi đuổi bò ngựa đi ăn rong đến mùa đông lại dồn về một nơi nhất định để qua vụ rét (ND).
  8. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 108

    Buntruc cũng ra đi cùng với chi đội của Golubov tiến công vu hồi đánh chiếm Novocherkask. Ngày hai mươi ba tháng Hai, chi đội ra khỏi Sarnaia, tiến qua trấn Badorskaia, và đến đêm đã tới Melikhovskaia. Hôm sau, chi đội rời khỏi trấn nầy lúc trời vừa rạng.

    Golubov cho chi đội hành quân cấp tốc. Anh luôn luôn có mặt trên đầu hàng quân với cái thân hình vạm vỡ, và nóng nẩy quất ngọn roi xuống mông ngựa như mưa. Đến đêm thì tiến qua Besergenevskaia. Anh em kỵ binh chỉ cho ngựa nghỉ ngơi qua quít rồi lại tiếp tục chuyển quân dưới bầu trời xám xịt, không có ánh sao. Lớp băng mỏng phủ trên con đường đất lạo xạo dưới những vó ngựa.

    Đến gần Krivianskaia, chi đội bị lạc đường, nhưng lại lập tức tìm được đúng hướng. Đoàn quân tiến vào Krivianskaia thì trời đắt đầu hửng. Trong trấn còn chưa có ai ra đường. Gần một cái bãi nhỏ, có một ông lão đang đập băng trong cái máng ngựa bên bờ giếng, Golubov cho ngựa tới gần ông cụ. Chi đội dừng lại.

    - Chào cụ.

    Người dân Cô- dắc từ từ đưa bàn tay di chiếc găng không có ngón lên chiếc mũ lông, trả lời bằng một giọng hằn học:

    - Chào ông.

    - Thế nào cụ, anh em Cô- dắc trấn cụ đã lên Novocherkask rồi à? Vùng cụ vừa có động viên phải không?

    Ông cụ vội nhấc cái rìu lên, bước vào trong cổng, không trả lời.

    - Tiến! - Golubov hô lên rồi vừa văng tục vừa bỏ đi.

    Hôm ấy Cơ- rúc nhỏ của quân khu sắp sửa chạy về trấn Conxlachinovskaia. Tên ataman viễn chinh mới của Quân khu sông Đông là tướng Popop đã chỉ huy các lực lượng vũ trang rút khỏi Novocherkask và chuyển các của cải của quân khu đi. Sáng hôm ấy nhận được tin Golubov đang từ Melikhovskaia tiến về hướng Bétxétghê- nhépskaia. Cơ- rúc bèn phái viên đại uý Cô- dắc Xivôtôbôp đến đàm phán với Golubov về các điều kiện đầu hàng của Novocherkask. Các chiến sĩ kỵ binh của Golubov tiến theo Sivolobov đột nhập vào Novocherkask không gặp phải một sự chống cự nào cả. Trên con ngựa mồ hôi sủi lên như bọt xà phòng, Golubov đích thân phi tới ngôi nhà của Cơ- rúc cùng với một toán Cô- dắc rất đông. Vài anh chàng vô công rồi nghề tò mò đứng túm tụm ở cửa ra vào. Một tên lính hầu đứng chờ Nadarov với con ngựa yên cương sẵn sàng.

    Buntruc nhảy trên ngựa xuống, vớ lấy một khẩu trung liên. Anh cùng với Golubov và những anh em Cô- dắc còn lại chạy vào trong trụ sở của Cơ- rúc. Nghe tiếng cửa mở đánh rầm, bọn đại biểu ngồi đông trong căn phòng rộng thênh thang đều quay đầu lại, mặt tên nào tên nấy trắng bệch ra.

    - Đứng cả dậy? - Golubov ra lệnh, giọng gay gắt như trong khi duyệt binh. Hô xong anh tiến thẳng tới cái bàn của đoàn chủ tịch, chung quanh có anh em Cô- dắc hộ vệ. Golubov đi quá vội nên vừa đi vừa vấp Bọn uỷ viên Cơ- rúc nghe tiếng quát oai vệ xô vội ghế ầm ầm, đứng cả dậy. Một mình Nadarov vẫn ngồi yên.

    - Sao các anh lại dám làm đứt quãng cuộc họp của Cơ- rúc? - Hắn tức tối quát lên, giọng oang oang.

    - Chúng mà6y đã bị bắt! Câm ngay! - Golubov đỏ mặt tía tai chạy đến chỗ Nadarov, giật đứt chiếc lon vai trên cái áo quân phục cấp tướng của hắn rồi rít lên, giọng phá ra - Đứng dậy! Tao bảo mày đứng dậy! Tao bảo mày đứng dậy? Giải nó đi! Tao đang nói với đứa nào đó hử?! Cái thằng lon vàng nầy!

    Buntruc bố trí một khẩu súng máy nặng ở cửa. Các uỷ viên Cơ- rúc đứng lốc nhốc một lũ như đàn cừu. Anh em Cô- dắc lôi qua trước mặt Buntruc tên Nadarov, tên chủ tịch Cơ- rúc Volosynov sợ tái xanh tái tím và vài tên nữa.

    Golubov bước ra theo, mặt chỗ tím chỗ đỏ, gươm va lách cách. Một tên uỷ viên Cơ- rúc nắm lấy tay áo Golubov.

    - Bẩm ngài đại tá, bẩm quan lớn, chúng tôi đi đâu bây giờ ạ?

    - Thưa chúng tôi được tự do chứ ạ? - Một tên khác nhô đầu qua vai anh, hỏi.

    - Cút mẹ chúng mày đi! - Golubov vung tay quát lên, rồi đến khi đã đi tới ngang chỗ Buntruc, anh lại quay nhìn bọn uỷ viên Cơ- rúc, dậm chân hét lên - Xéo ngay… Tao hơi đâu coi được chúng mầy! Mau lên!

    Cái giọng khàn khàn thô bạo của anh còn dội lên rất lâu trong căn phòng.

    Buntruc về nghỉ một đêm ở nhà với mẹ. Hôm sau, ở Novocherkask vừa có tin Xivéc đã chiếm được Rostov là anh lên xin phép ngay Golubov vào sáng hôm sau cưỡi ngựa đi Rostov.

    Anh làm việc ở bộ tư lệnh của Xivéc hai ngày. Đồng chí nầy anh đã quen từ hồi còn làm biên tập tờ "Sự thật trong chiến hào". Anh đến thăm Uỷ ban quân sự cách mạng, nhưng cả Abramxon lẫn Anna đều không có ở đấy. Ở bộ tư lệnh của Xivéc có tổ chức một toà án cách mạng, toà án nầy lên án nghiêm khắc và xử tội những tên Bạch vệ bị bắt. Do nhu cầu của toà án, Buntruc làm việc ở đây một ngày, tham gia vài cuộc vây bắt và hôm sau lại đến Uỷ ban quân sự cách mạng. Giữa lúc chẳng còn hy vọng gì nữa, Buntruc vừa lên thang gác đã nghe thấy giọng nói quen thuộc của Anna. Máu dồn lên tim anh trong lúc anh chậm bước, đi vào căn phòng thứ hai, nơi vang ra giọng nói của những người nào đó cùng với tiếng cười của Anna.

    Khói thuốc lá bốc mù mịt trong căn phòng trước kia dùng làm trụ sở của bộ tư lệnh. Ở góc phòng có một người ngồi viết sau một chiếc bàn của phụ nữ. Người ấy mặc một chiếc áo ca- pôt đã đứt hết khuy, đầu đội một chiếc mũ lông của bộ binh tuột cả tai. Một đám vừa binh lính và thường dân mặc áo lông ngắn và áo bành tô đứng quanh anh ta. Họ chia thành từng nhóm, hút thuốc, chuyện gẫu với nhau.

    Anna đứng bên cửa sổ, lưng quay về phía cửa ra vào. Abramxon ngồi trên bàn cửa sổ, mười ngón tay đan vào nhau giữ lấy đầu gối bên chân co lại. Một chàng Xích vệ cao lớn mặt nom như người Ladvia đứng nghiêng đầu bên cạnh Abramxon. Anh ta giơ thẳng ngón tay út, đưa điếu thuốc lá sang bên, kể không biết chuyện gì, có lẽ khá buồn cười: Anna ngửa cổ ra cười lanh lảnh, Abramxon cười đến nhăn cả mặt, những người đứng gần đấy đều mỉm cười lắng nghe. Khuôn mặt rộng bè bè của anh chàng Xích vệ có những nét rành rọt như đẽo bằng rìu trên đó hiện lên rất sống một vẻ thông minh, sâu sắc nhưng có phần ác ác.

    Buntruc đặt tay lên vai Anna:

    - Chào em, Anna!

    Anna quay lại, đỏ bừng mặt lừ má xuống tới xương đòn gánh, vài giọt nước mắt long lanh trong khoé mắt.

    - Anh ở đâu đến thế? Đồng chí Abramxon xem đây nầy? Anh ấy đây nầy, cứ như đồng một hào mới ấy, thế mà đồng chí cứ lo cho anh ấy?

    Anna không ngước nhìn lên, cứ thế nói một thôi một hồi, rồi cảm thấy không giấu nổi vẻ bối rối của mình, Anna đi ra cửa.

    Buntruc nắm lấy bàn tay nóng hổi của Abramxon, trao đổi với anh ta vài câu, nhưng trong khi đó anh cứ cảm thấy rằng trên mặt mình đang có một nét cười ngớ ngẩn, tràn trề hạnh phúc, bèn không trả lời câu hỏi nào đó của Abramxon (thậm chí anh không nắm được ý nghĩa của câu hỏi đó), bước tới chỗ Anna. Lúc nầy đã trấn tĩnh lại được, Anna đón Buntruc bằng một nụ cười có phần bực bội vì sự ngượng ngùng của mình.

    - Nào, chào anh lần nữa nhé? Anh thế nào? Có khỏe không? Anh đến đây bao giờ thế? Từ Novocherkask đến đây à? Anh đã ở trong chi đội của Golubov à? Hay quá… Nào, thế tình hình như thế nào?

    Trong khi anh trả lời các câu hỏi của Anna, hai con mắt cương nghị của anh cứ nhìn Anna đăm đăm không chớp. Anna nhìn lại Buntruc nhưng không chịu được mãi, phải liếc sang chỗ khác.

    - Chúng ta ra phố một lát đi anh. - Anna đề nghị

    Abramxon gọi với theo hai người.

    - Hai cô cậu đi có chóng về, không? Nầy đồng chí Buntruc có công việc bàn với đồng chí đấy. Chúng mình đang định dùng đồng chí vào một công tác đấy.

    - Tôi đi một tiếng sẽ về.

    Ra đến ngoài phố, Anna âu yếm nhìn thẳng vào mắt Buntruc, rồi vung tay bực bội.

    - Anh Ilia ạ, anh Ilia ạ, lúc nãy em có vẻ ngượng như thế thật là khỉ quá Cứ như một đứa con gái nhỏ ấy! Nguyên nhân thứ nhất là anh đến bất thần quá, hai nữa là hoàn cảnh nửa dơi nửa chuột của chúng ta. Anh với em thật ra là thế nào với nhau nhỉ? Có phải là một cặp "vị hôn phu vị hôn thê" như trong tình ca hay không? Anh có biết không, ở Lugansk có lần đồng chí Abramxon đã hỏi em: "Anna cùng sống với Buntruc đấy à?". Em không nhận, nhưng đồng chí ấy nhận xét rất tinh nên không thể không nhìn thấy một điều đập vào mắt như thế được. Đồng chí ấy chẳng nói gì cả, nhưng em nhìn vào mắt thì thấy rằng đồng chí ấy không tin.

    - Em hãy kể về em đi: vừa qua em làm gì và như thế nào?

    - Ồ, ở đấy chúng em đã đẩy mạnh được công tác? Tổ chức được cả một đội hai trăm mười một tay súng. Làm công tác tổ chức và công tác chính trị… nhưng tất cả các chuyện đó thì làm sao mà kể trong hai ba câu được? Anh đến bất ngờ như thế làm em còn chưa trở lại bình tĩnh đây nầy. Anh ở đâu… Anh ngủ ở đâu thế? - Anna không kể nữa mà lại hỏi thêm.

    - Ở đây ở một nhà đồng chí.

    Buntruc luống cuống vì anh đã nói dối mấy đêm nay anh đều ngủ ở trụ sở bộ tư lệnh của Xivéc.

    - Ngay hôm nay anh sẽ chuyển đến nhà em mà ở. Anh còn nhớ chỗ em ở không? Trước kia anh đã có lần đưa em về nhà rồi mà.

    - Anh sẽ tìm thấy. Nhưng… anh có làm phiền gia đình em không?

    - Thôi đủ rồi anh chẳng làm phiền ai đâu mà sợ, và dứt khoát anh không được nói đến chuyện ấy nữa đấy.

    Đến chiều Buntruc nhét tất cả đồ đạc quần áo của anh vào một chiếc ba- lô bộ binh to tướng, và đến cái ngõ ở ngoại ô, chỗ Anna ở.

    Một bà già ra đón anh ở ngưỡng cửa một cãn nhà ngang nhỏ bằng gạch. Khuôn mặt của bà có những nét hao hao như Anna: Cũng cái ánh đen láy đến xanh biếc trong con mắt, cũng cái mũi hơi quặp, chỉ khác có làn da nhăn nheo xám ngắt và cái miệng móm mém của người già.

    - Đồng chí là Buntruc à? - Bà cụ hỏi.

    - Vâng.

    - Xin mời đồng chí vào. Con bé nhà tôi có cho tôi biết về đồng chí.

    Cụ dẫn Buntruc vào một căn phòng nhỏ, chỉ chỗ để đồ đạc rồi đưa ngón tay co lại vì tê thấp chỉ chung quanh:

    - Đồng chí sẽ ở phòng nầy. Cái giường nầy để đồng chí nằm đấy.

    Bà cụ nói bằng một giọng Do Thái khá rõ. Ngoài cụ ra, trong nhà còn có một cô gái còn nhỏ, gầy gò, mắt cũng sâu như mắt Anna. Được một lát thì Anna về, làm trong nhà ồn ào, rộn ràng lên.

    - Nhà ta chưa có ai đến hả mẹ? Anh Buntruc chưa đến à?

    Bà mẹ trả lời Anna không biết những gì bằng tiếng Do Thái.

    Anna đi tới cửa phòng anh, chân bước rắn rỏi, lướt thướt.

    - Em vào được không anh?

    Được được Buntruc, đang ngồi trên chiếc ghế dựa, đứng dậy ra đón Anna.

    - Thế nào anh? Anh thu xếp xong nơi ăn chốn ở rồi chứ?

    Anna nhìn Buntruc bằng cặp mắt tươi cười, có vẻ vừa ý.

    - Anh đã ăn gì chưa? Ta ra ngoài kia đi.

    Anna nắm lấy tay áo quân phục của Buntruc, dắt anh ra phòng ngoài và nói:

    - Mẹ ơi, anh ấy là đồng chí của con đấy, - Anna mỉm cười - Mẹ đừng làm anh ấy giận nhé.

    - Mày làm sao vậy, sao lại có chuyện như thế được? Đồng chí ấy là khách của nhà ta mà.

    Đêm hôm ấy, khắp thành phố Rostov có những phát súng nổ lốp bốp như những quả xiêm gai chín. Thỉnh thoảng có khẩu súng máy sủa lên một hồi rồi tất cả lại lặng đi. Và trời đêm, một đêm trang nghiêm, tối đen như mực của tháng Hai lại trút bầu không khí lặng tờ xuống các dãy phố. Buntruc và Anna ngồi rất lâu trong căn phòng khắc khổ nhưng gọn gàng sạch sẽ của anh.

    - Trước kia em ở căn phòng nầy với em gái của em đấy. - Anna nói - Anh thấy không, chúng em sống giản dị như người tu kín ấy. Không có những bức tranh rẻ tiền, không có những tấm ảnh, chẳng có gì thường thấy trong phòng một cô học sinh trung học.

    - Thế cả nhà sống bằng gì? - Giữa câu chuyện Buntruc hỏi Anna trả lời không khỏi cảm thấy kiêu hãnh:

    - Em làm việc ở nhà máy Axinolov và dạy học.

    - Nhưng bây giờ?

    - Mẹ may vá. Có hai mẹ con thì cũng chẳng cần gì nhiều.

    Buntruc kể tỉ mỉ về trận đánh chiếm Novocherkask, các trận chiến đấu ở gần Zverovo và Kamenskaia. Anna cũng cho anh biết các cảm tưởng của Anna về công tác ở Lugansk và Taranroc.

    Đến mười một giờ, bà mẹ vừa tắt đèn trong phòng bà thì Anna ra ngoài.
  9. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 110

    Ếch nhái kêu lên inh ỏi đủ các giọng sau rặng liễu bên bờ sông.

    Mặt trời đã lặn sau ngọn gò. Khí lạnh trước lúc hoàng hôn đã trải ra khắp thôn Setrakov. Những căn nhà in những cái bóng xiên xiên rất lớn xuống con đường khô ráo. Từ ngoài đồng cỏ, đàn gia súc làm bốc lên một làn bụi mù trên con đường về thôn. Mấy người đàn bà Cô- dắc ở bãi chăn nuôi về, vừa vung roi đuổi những con bò, vừa bàn tán huyên thuyên về những chuyện xảy ra. Trong các ngõ, những đám trẻ chân đất, mặt bắt đầu rám nắng, chơi nhảy cừu. Các cụ già ngồi chững chạc trên những bức tường đất đắp quanh các sân nhà. Toàn thôn đã gieo hạt giống xong. Chỉ còn vài nơi đang gieo nốt kê và hướng dương.

    Bên cạnh một ngôi nhà ở đầu thôn có vài người đàn ông Cô- dắc ngồi chơi trên những cây sồi hạ xuống chất ở đấy. Chủ nhà là một gã pháo thủ rỗ hoa. Anh ta đang kể một câu chuyện gì đó xảy ra trong cuộc chiến tranh chống Đức. Hai người khác ngồi yên lắng nghe: ông cụ láng giềng và con rể ông cụ là một gã Cô- dắc còn trẻ tóc xoăn. Người vợ của chủ nhà bước trên thềm xuống, cao, đẹp, đẫy đà như một ả quý tộc. Chị ta xách một cái thùng đi ra sân nuôi bò với cái dáng đi duyên dáng, đàng hoàng, thoải mái, đặc biệt của người đàn bà Cô- dắc. Vài món tóc xoã dưới chiếc khăn bịt đầu bằng vải trắng hồ lơ (chị vừa xếp những miếng phân ngựa khô vào trong lò để sửa soạn sớm mai nhóm lửa). Cặp chân không đi bít tất trong đôi ủng ngắn mũi nhọn nhẹ nhàng dẫm lên những đám cỏ non xanh rờn mọc um tùm trong sân.

    Tiếng dòng sữa chảy róc rách trên thành chiếc thùng vẳng đến tai ba người Cô- dắc ngồi trên mấy cây sồi. Chị chủ nhà vắt sữa xong mấy con bò lại quay vào trong. Chị hơi nghiêng người, tay trái cong cong như cổ con thiên nga xách thùng sữa đầy.

    - Anh Sema, anh chạy đi tìm con bò non về nhá! - Lên đến ngưỡng cửa chị gọi với ra, giọng véo von như hát.

    - Thế thằng Michiasca đâu? - Người chủ nhà hỏi.

    - Dịch tả dịch hạch nào biết được, nó chạy đi đâu rồi ấy.

    Chủ nhà thong thả đứng dậy, bước ra chỗ đầu nhà. Ông già và gã con rể cũng sắp sửa ra về. Bỗng có tiếng chủ nhà gọi từ chỗ góc nhà:

    - Cụ xem kìa, cụ Dorovey G ich! Cụ lại đây mà xem!

    Ông già và gã con rể đi tới chỗ người Cô- dắc. Người ấy chỉ như một quảng bóng màu đỏ. Sau đám bụi là những hàng bộ binh xe vận tải kỵ binh.

    - Quân đội, có phải không? - Ông già đưa tay lên che hai hàng lông mày bạc phơ, ngạc nhiên nheo mắt hỏi. Quân nào thế nhỉ, họ là những người nào thế nhỉ?- Chủ nhà lo lắng hỏi.

    Người vợ cũng bước từ trong cổng ra, trên vai khoác thêm một chiếc áo ngoài. Chị nhìn ra đồng cỏ rồi hốt hoảng ái chà một tiếng:

    - Người gì thế nhỉ? Lạy chúa Giêsu cứu thế, đông ơi là đông?

    - Xem ra chẳng phải là người tốt đâu…

    Ông già dẫm chân đứng lại một lát rồi bỏ về nhà và quát gã con rể bằng một giọng bực bội:

    - Vào sân đi, có gì mà nhìn!

    Đàn bà trẻ con chạy ra đầu ngõ, bọn đàn ông đi với nhau thành từng đám. Ngoài đồng cỏ, cách cái thôn chừng một vec- xta một đoàn quân đang tiến dài trên con đường. Gió đưa tới các ngôi nhà tiếng người lao xao, tiếng ngựa hí, tiếng bánh xe lăn.

    - Không phải người Cô- dắc đâu… Không phải người của chúng ta đâu. - Người đàn bà Cô- dắc nói với chồng.

    Người chồng chún vai:

    - Đã đành không phải là người Cô- dắc rồi. Hay là quân Đức?

    - Không, người Nga đấy… Xem kìa, chúng nó có mảnh giẻ đỏ kìa!

    - Chà, té ra là…

    Một gã lính cũ của trung đoàn Atamansky bước tới. Gã mặc áo lông, đi đôi ủng dạ, xem ra đang bị sốt rét: mặt gã vàng như màu cát, cứ như người mắc chứng hoàng đản. Gã nhấc cái mũ lông lồm xồm lên và nói:

    - Xem kìa, cờ của chúng nó là cờ gì thế? Quân Bolsevich đấy, - Đích thị chúng nó rồi.

    Vài người cưỡi ngựa tách rời đoàn quân, cho ngựa phi nước đại tới các thôn. Bọn đàn ông Cô- dắc đưa mắt nhìn nhau rồi lặng lẽ bắt đầu giải tán, bọn con gái và trẻ con bỏ chạy tán loạn. Chỉ năm phút sau các ngõ đã chết lặng. Đám người cưỡi ngựa tiến vào trong ngõ.

    Họ đánh ngựa bạt mạng, phi tới chỗ mấy cây sồi, chỗ ba người Cô- dắc mới ngồi trước đây mười lăm phút. Người chủ nhà vẫn đứng ở cổng. Người đi đầu có vẻ là chỉ huy. Hắn cưỡi một con ngựa nâu sẫm, đội chiếc mũ lông kiểu Kuban, khoác một cái băng lụa đỏ rất to bên ngoài chiếc áo sơmi màu *** ngựa có thắt dây lưng quân đội.

    Hắn cho ngựa tiến tới trước cổng:

    - Chào bác chủ nhà! Mở hộ cổng ra cái…

    Bộ mặt rỗ của người lính pháo binh tái đi. Anh ta vội bỏ chiếc mũ cát két trên đầu xuống.

    - Nhưng các ông là ai cơ chứ?

    - Mở cổng ra! - Người lính đội mũ Kuban quát lên.

    Con ngựa nâu sẫm liếc hai con mắt hung hãn, nhai nhai cái hàm thiếc trong cái mõm sùi bọt, đá chân trước vào hàng rào. Người Cô- dắc ra mở cửa xép, bọn người cưỡi ngựa lần lượt tiến vào trong sân.

    Người đội mũ Kuban nhảy rất lẹ trên ngựa xuống, bước nhanh lên thềm với hai chân chữ bát. Trong khi những người kia còn đang xuống ngựa, hắn đã ngồi chĩnh chện trên thềm và đã kịp lấy hộp thuốc lá. Hắn châm thuốc hút và mời chủ nhà. Người nầy từ chối.

    - Bác không hút à?

    - Thôi cám ơn.- Bà con ở đây là người Cựu giáo à?

    - Không, Chính giáo… Nhưng các ông là ai cơ chứ? Người Cô- dắc hỏi, mắt đăm chiêu.

    - Chúng tôi ấy à? Các chiến sĩ Xích vệ của Tập đoàn quân xã hội chủ nghĩa số hai.

    Những người còn lại xuống ngựa, dắt ngựa bằng dây cương bước tới bên thềm và buộc ngựa vào lan can. Một gã thân hình cò hương, có món tóc xoã trước trán dài như bờm ngựa, bước về phía sân nhốt cừu gươm vướng cả vào chân. Làm như chính mình là chủ nhà, gã mở toang cánh cửa, khom người chui vào dưới mái nhà kho, nắm sừng lôi từ trong đó ra một con cừu thiến rất to, có cái khấu đuôi rất bự.

    - Petrichenko, lại giúp mình một tay! - Gã kêu lên giọng kim the thé.

    Một người lính nhỏ bé chạy bổ đến với cái áo ca- pôt kiểu áo ngẵn cũn. Người Cô- dắc chủ nhà vuốt râu giương mắt nhìn, chẳng nói chẳng rằng, cứ như đang đứng trong sân nhà người khác. Mãi đến khi con cừu đã bị lưỡi gươm cứa đứt họng, bốn cái chân khẳng khiu chỏng gọng lên trời, anh ta mới a hà một tiếng, bước lên thềm.

    Người lính đội mũ Kuban đi theo chủ nhà vào trong nhà. Cùng đi còn có hai gã nữa, một gã người Trung Quốc, một gã người Nga, nét mặt như dân Kamchatca - Bác chủ nhà ạ, bác đừng bực mình nhé? - Người đội mũ Kuban vừa bước qua ngưỡng cửa vừa nói to, giọng suồng sã. - Chúng tôi sẽ trả giá hậu cho.

    Hắn vỗ tay vào túi quần, cười sằng sặc từng đột rời bất thần bặt tiếng cười, nhìn chằm chằm người vợ chủ nhà. Chị ta mím môi đứng bên bếp lò, nhìn hắn bằng cặp mắt đầy kinh hoàng.

    Người lính Kuban quay về phía người Trung Quốc, đảo mắt nhìn quanh có ý nghi ngại rồi nói:

    - Nầy, cậu đi với bác, với nhà bác nầy nhé. - Hắn giơ ngón tay chỉ người chủ nhà - Cậu đi với bác ấy, để bác ấy lấy rơm cho ngựa ăn…

    - Bác để lại cho ít rơm nhá. Hiểu không? Chúng tôi sẽ trả giá hậu cho. Xích vệ không ăn cướp đâu. Thôi, đi đi bác chủ nhà, đi đi chứ? - Giọng nói của người Kuban rung lên như tiếng kim khí.

    Người dân Cô- dắc bị người Trung Quốc và người lính kia đi kèm, phải ra khỏi nhà, nhưng vừa đi vừa ngoái đầu lại. Anh ta mới bước trên thềm xuống đã nghe thấy giọng mếu máo của vợ, bèn chạy trở vào phòng ngoài, đẩy tung cửa. Cái móc nhỏ bật ngay khỏi lỗ. Gã đội mũ Kuban đang nắm lấy tay người vợ béo núng nính, phía trên khuỷu tay, cố lôi chị ta vào căn phòng trong tranh tối tranh sáng.

    Người đàn bà Cô- dắc đẩy ngực gã ra, chống cự lại. Gã định ôm ngang lưng, bế xốc chị ta lên thì vừa lúc ấy cánh cửa mở toang.

    Người Cô- dắc bước nhanh tới, lấy thân mình che cho vợ. Giọng anh ta kiên quyết và rất bình tĩnh.

    - Anh đến nhà tôi, tôi coi như khách… nhưng tại sao anh lại làm nhục đàn bà con gái nhà người ta? Anh làm trò gì thế hử? Bỏ cái trò ấy đi! Gươm dao súng ống của anh tôi không sợ đâu! Cần gì cứ lấy, muốn cướp thì cướp, nhưng không được xúc phạm đến đàn bà con gái nhà người ta! Trừ phi dẫm lên xác thằng nầy… Còn em, Nhiusca… - Anh ta quay sang nói với vợ, cánh mũi rung rung - ra ngay ngoài kia, sang bên nhà cụ Dorovey ấy. Không ở đây làm gì cả?

    Gã Kuban sửa lại cái băng đeo đạn trên áo sơ- mi, mỉm cười gượng gạo:

    - Bác làm gì mà nóng thế, bác chủ nhà? Đùa một chút cũng không được hay sao? Tôi vốn là thằng vua cù của đại đội đấy… Bác không biết à? Tôi cố ý đùa đấy thôi. Tôi định trêu cho bác gái ấy bực mình một chút, thế mà bác ấy đã làm ầm ĩ lên rồi… Nhưng bác đã lấy rơm cho chưa? Không có rơm à? Bên láng giềng có không vậy?

    Rồi gã huýt sáo, vung mạnh roi, bước ra ngoài. Chẳng mấy chốc toàn chi đội đã kéo đến thôn nầy. Tất cả khoảng tám trăm tay súng và tay gươm. Các chiến sĩ Xích vệ được sắp xếp cho nghỉ đêm ở ngoài thôn. Xem ra người chỉ huy đội không muốn cho họ vào ngủ trong thôn vì cũng chẳng tin tưởng gì những con người tứ chiếng, quân hồi vô phèng dưới quyền mình.

    Chi đội Chraxponsky thuộc Tập đoàn quân xã hội chủ nghĩa số hai bị đánh tả tơi trong những trận chiến đấu với bọn Gaiđamac và những đơn vị quân Đức tiến qua Ukraina, phải mở đường máu chạy về vùng sông Đông. Họ xuống xe lửa ở nhà ga Sevtukhopca, nhưng vì trước mặt lại có quân Đức nên phải hành quân qua khu du mục của trấn Migulinskaia với mục đích đánh xuyên lên phía Bắc tới tỉnh Voronez. Do ảnh hưởng của các phần tử côn đồ tội phạm nhan nhản trong chi đội, chi đội đã mất tinh thần, biến chất. Xích vệ tiến đếu đâu hoành hành càn bậy đến đấy. Ngày mười bảy tháng Tư họ bố trí nghỉ đêm ở gần thôn Setrakov. Tuy các cán bộ chỉ huy có đe nạt và ngăn cấm, nhưng binh sĩ vẫn kéo đàn kéo lũ mò vào trong thôn, cắt tiết cừu nhà người ta, cưỡng dâm hai người đàn bà Cô- dắc ở đầu thôn, vô cớ nổ súng trên bãi giữa thôn làm một người trong chi đội bị thương. Đến đêm các vọng tiêu đều bí tỉ (chiếc xe vận tải nào cũng có chở rượu theo). Trong khi đó ba người Cô- dắc cưỡi ngựa đã được dân chúng phái đi đem tin báo động tới các thôn lân cận.

    Ngay đêm ấy, thừa lúc tối trời, dân Cô- dắc thắng ngựa, đeo gươm súng, vội vã tổ chức những đội cựu chiến binh và bô lão, kéo đến Setrakov dưới sự chỉ huy của những tên sĩ quan sống trong các thôn, không có sĩ quan thì Chính phủ quản cũng được. Họ đến nấp trong các khe và sau ngọn gò, bao vây chi đội Xích vệ. Đêm ấy đã có những đám chừng nửa đại đội kéo đến từ Migulinskaia, Kolodetnyi, Bogomolov. Dân chúng ở thượng Tria, Napolov, Kalinov, Ayai, Kolodet cũng nổi dậy.

    Trên trời hai chòm sao Đại tiểu hùng tinh đã mờ hẳn. Trời vừa hửng, các toán Cô- dắc cưỡi ngựa đã hò hét vang trời đổ từ bốn phía tới xung phong vào chi đội Xích vệ. Một khẩu súng trường nổ loạn lên một hồi rồi cũng lắng đi. Cuộc chém giết diễn ra một cách lặng. Một giờ sau mọi việc đã được giải quyết xong xuôi: chi đội hoàn toàn bị tiêu diệt, hơn hai trăm người bị chém và bắn chết, gần năm trăm bị bắt làm tù binh. Hai đại đội pháo, mỗi đại đội bốn khẩu đội, hai mươi sáu khẩu súng máy nặng, một nghìn khẩu súng trường, một số đạn rất lớn bị lọt vào tay dân Cô- dắc.

    Chỉ một ngày sau, toàn Quân khu đã như nở hoa với lá cờ nhỏ màu đỏ của những tên liên lạc hoả tốc phi ngựa trên khắp các nẻo đường lớn nhỏ. Các trấn và các thôn đều náo động. Người ta lật đổ các Xô viết và vội vã bầu bọn ataman lên. Các đại đội của trấn Kazanskaia và trấn Vosenskaia kéo đến Migulinskaia bị muộn.

    Trong những ngày sau hai mươi tháng Tư, các trấn vùng trên của Quân khu sông Đông tuyên bố tách rời ra. Họ thành lập một quân khu riêng, đặt tên là Quân khu Đông Thượng. Vosenskaia được chọn làm trung tâm của Quân khu. Trấn nầy vốn đông dân, về diện tích và dân số chỉ thua có trấn Mikhailovskaia. Nhiều thôn cũ được vội vã ghép lại thành những trấn mới. Đã thành lập những trấn Sumilinskaia, Karginskaia, Bokovskaia. Thế là Quân khu Đông Thượng đã lôi kéo được mười hai trấn Cô- dắc và một quận thuộc Ukraina để tổ chức một đời sống tách rời trung ương. Nhập vào Quân khu Đông Thượng có những trấn dưới đây trước kia thuộc Quân khu sông Đông: Kazanskaia, Migulinskaia, Sumilinskaia, Elanskaia, Karginskaia, Bokovskaia và quân Ponomarievskaia; trước kia thuộc Quân khu Ust- Medvedisky có Ust- Khopeskaia, Kraxnovskaia, Slasevskaia, Fedor- Seerskaia. Dakha Akimovich Alferov, một viên tướng Cô- dắc người trấn Elanskaia, đã từng tốt nghiệp học viện quân sự, được nhất trí bầu làm ataman Quân khu.

    Về tên Alferov nầy, người ta nói rằng hắn chỉ xuất thân từ đám sĩ quan Cô- dắc gia thế đã xuống dốc mà làm nên được chính là nhờ vợ, một người đàn bà cương nghị và thông minh. Người ta nói rằng mụ đã xách tai thằng chồng vô tài bất tướng, không để hắn thở một phút nào, cho đến khi quá tam ba bận, hắn thi lần thứ tư trúng tuyển được vào học viện quân sự mới thôi.

    Trong những ngày gần đây, kể ra người ta cũng có bàn ra tán vào về tên Alferov nầy, nhưng cũng ít thôi, vì đầu óc còn đang bận suy nghĩ về việc khác.
  10. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0

    Nước lũ vừa bắt đầu rút, lớp đất bùn nâu nâu đã lộ trần trên bãi cỏ và bên cạnh những dãy hàng rào quanh các vườn rau. Trên lớp đất đó, lau vụn, những cành cây nhỏ, cỏ, lá cây năm ngoái và đủ các thứ rác rưởi bị làn nước cuốn theo tụ lại thành một đường viền. Những cây liễu trong cánh rừng ngập nước ven sông Đông hơi xanh xanh, hoa liễu rủ xuống từng chùm. Những cái lộc trên các cây tiêu huyền có vẻ sắp bung ra đến nơi. Ở sát cạnh những ngôi nhà trong thôn, những mầm liễu đỏ ngả đầu xuống làn nước vây quanh. Những cái chồi liễu vàng hoe, lồm xồm như những con vịt non chựa mọc đủ lông đã ngoi lên khỏi mặt nước để được ngả nghiêng dưới làn gió.

    Lúc trời bình minh, ngỗng trời, nhạn, vịt trời bay từng đàn đến các vườn rau kiếm mồi. Sáng sáng, những con cốc trắng kêu lanh lảnh như tiếng đồng trong những khoảng đất trũng trên đồng cỏ.

    Ngay đến giữa trưa vẫn còn có thể thấy những con mòng két ức trắng loá được sóng nước vuốt ve vỗ về trên mặt sông Đông mênh mông bị gió xới xồm lên.

    Năm ấy đến là lắm chim mùa. Những lúc vừng đông đỏ rực như rượu nho bắt đầu làm mặt nước tràn lan màu máu, những người Cô- dắc đánh lưới chèo thuyền len lỏi đến các chỗ đặt lưới, nhiều khi nhìn thấy những con thiên nga đang nghỉ ở một chỗ nào đó trên khúc sông được những khu rừng che chở. Nhưng điều làm cho bà con trong thôn cảm thấy lạ lùng nhất là cái tin Khristonhia và ông già Matvey Kasulin kể lại: hôm ấy hai người vào khu rừng cấm để kiếm mỗi người hai cây sồi nhỏ cần cho công việc trong nhà. Trong khi len lỏi qua một khoảng rừng rậm, họ đã làm cho một con dê rừng hoảng sợ nhảy chồm từ dưới khe lên cùng với một con dê con. Con dê gầy guộc có bộ lông màu vàng nâu nâu nhảy ra từ những cái khe mọc đầy cỏ tarta và mận gai. Nó đứng trên một mô đất giương mắt nhìn hai người đẵn gỗ trong vài giây, hai cặp chân thon nhọn thay nhau dẫm xuống đất có vẻ bồn chồn lo sợ, còn con dê con thì cứ đứng sát vào mẹ. Khi nghe thấy tiếng thở phào ngạc nhiên của Khristonhia, nó chạy ngay vào trong đám sồi non. Hai người dân Cô- dắc chỉ loáng thấy trong nháy mắt những cái móng xanh xám, bóng như vỏ ngao và màu lông lạc đà của cái đuôi ngắn cũn.

    - Con gì thế nhỉ? - Lão Matvey Kasulin quẳng rìu xuống hỏi.

    Với một niềm hân hoan không gì giải thích nổi, Khristonhia gầm lên, vang cả khu rừng thần bí và câm tiếng:

    - Con dê chứ còn con gì nữa? Con dê rừng, nom nó sao mà đáng yêu thế! Chúng tôi đã trông thấy những con như thế ở vùng núi Karpat rồi đấy!

    - Tội nghiệp, như thế là chiến tranh đã xua chúng nó đến vùng đồng cỏ chúng ta à?

    Khristonhia chỉ còn có thể đồng ý.

    - Đúng là như thế rồi. Nhưng bố có trông thấy con dê con không nhỉ! Mẹ khỉ. Cái con cho - o - ó đẻ, đẹp đến là đẹp! Y như một đứa con nít ấy.

    Suốt đường về, hai người cứ bàn tán mãi về con thú mà chưa từng có ai trông thấy ở Quân khu bao giờ. Cuối cùng lão Matvey có ý nghi ngờ.

    - Nầy, sao lại là con dê nhỉ?

    - Con dê thật đấy mà. Đích thị đấy, dê hẳn đi chứ lị, không dê thì còn gì nữa?

    - Mà có lẽ… Nhưng nếu là dê thì sao lại không có sừng?

    - Nhưng tại sao cụ cứ bắt nó phải có sừng?

    - Đâu phải là tôi muốn thế. Tôi hỏi là nếu nó thuộc giống dê thì tại sao hình dáng lại không đúng là dê? Anh đã trông thấy con dê nào có sừng bao giờ chưa? Đấy, có thế thôi. Hay có lẽ nó là con cừu rừng chăng?

    - Cu Matvey ạ, xem ra cụ lẩm cẩm mất rồi? - Khristonhia phát cáu. Cụ cứ đến nhà Melekhov mà xem. Thằng Griska nhà ấy có cái roi ngựa làm bằng chân dê rừng đấy. Cụ đã chịu chưa nào?

    Ngay hôm ấy, lão Matvey đã phải đến nhà Melekhov. Cái cán chiếc roi ngựa của Grigori đích xác được bọc rất khéo bằng da chân dê rừng. Cả cái móng nhỏ xíu ở đầu cũng còn giữ được nguyên vẹn, ngoài ra còn thấy đóng thêm một miếng đồng hình móng ngựa, làm rất tinh xảo.

    Đến tuần chay thứ sáu, hôm thứ tư, Miska Kosevoi dậy từ sáng sớm rà soát lại những cái lưới đánh cá thả ở gần khu rừng. Trời mới hửng anh đã ra khỏi nhà. Khí lạnh buổi sáng làm cho mặt đất như rúm ró dưới lớp băng mỏng, bùn cũng rắn lại. Miska mặc áo bông ngắn, đi đôi ủng ngắn mũi nhọn, ống quần đi ngựa rộng ***g vào trong đôi bít tất trắng, chiếc cát- két hất ra sau ngáy. Chiếc mái chèo dài vác trên vai, anh vừa đi vừa hít bầu không khí nặc mùi hơi nước nhạt thếch, ngây ngất vì tiết trời lạnh buốt. Anh xô thuyền ra, đứng trên thuyền đẩy mạnh mái chèo, con thuyền lập tức lướt băng đi.

    Miska soát xong rất nhanh những cái lưới. Anh nhặt hết cá trong cái lưới cuối cùng, đặt lưới, sửa lại cánh lưới rồi nhẹ nhàng cho con thuyền rời đi và quyết định hút điếu thuốc. Trời đã hơi sáng ra. Đằng đông như có ai vẩy máu lên bầu trời ảm đạm màu lá cây. Màu máu đỏ phai dần, chảy lan ra trên đường chân trời rồi như phủ thêm một lớp rỉ vàng óng. Miska nhìn theo vài con cốc trắng thẫn thờ vỗ cánh bay, châm thuốc hút. Làn khói thuốc mỏng manh tan dần, bám vào những bụi cây rồi bay tạt sang bên cạnh. Anh nhìn kỹ số cá đánh được thấy có ba con cá quả, một con cá chép chừng tám phun- tơ và một mớ cá nhỏ, bèn nghĩ bụng:

    - Phải bán bớt một phần mới được. Mụ lác Lukeska sẽ nhận ngay, mình sẽ đổi lấy lê khô. Bà cụ nhà mình sẽ đem nấu mứt hết.

    Miska vừa hút thuốc vừa cho con thuyền lướt vào bến. Có một người đang ngồi bên những dãy hàng rào, chỗ anh cho thuyền vào bờ.

    "Không biết ai thế nhỉ?" - Miska nghĩ thầm vừa lái chèo rất khéo cho thuyền tạt vào bờ.

    Người ngồi bên dãy hàng rào là "Bồi".

    Anh chàng hút một điếu thuốc to tổ bố cuộn bằng giấy báo. Hai con mắt sắc như mắt con chồn hôi long lanh một ánh âm thầm, bộ râu rễ tre xám như màu khói mọc lồm xồm hai bên má.

    - Cậu làm gì thế? - Miska hỏi to.

    Tiếng anh rền trên mặt nước như quả bóng.

    - Cậu cho thuyền lại đây.

    - Cậu định câu cá à?

    - Mình thì câu với kiếc cái gì?

    "Bồi" ho sặc sụa, khạc liền mấy bãi rồi miễn cưỡng đứng dậy.

    Chiếc áo ca- pôt không đúng khổ người lõng thõng trên vai anh như cái áo choàng không tay trùm lên một thằng bù nhìn giữ dưa. Cái mũ cát- két tuột vành che cả hai cái tai nhọn hoắt. "Bồi" mới mò về thôn chưa được bao lâu với cái thành tích "bất hảo" là Xích vệ. Khi bọn Cô- dắc hỏi anh đã ở đâu sau khi giải ngũ, "Bồi" chỉ đánh trống lảng, và lái sang những câu chuyện vô tội vạ. Nhưng với Kotliarov và Miska Kosevoi thì "Bồi" thú nhận là đã ruổi rong bốn tháng trời khắp vùng Ukraina trong một đội Xích vệ, rồi bị bọn Gaiđamac bắt làm tù binh nhưng trốn được. Sau đó anh tìm đến chỗ Xivéc, cùng với Xivéc tung hoành một thời gian chung quanh Rostov rồi cuối cùng tự mình ký cho mình tờ giấy phép về nhà chữa bệnh và bồi dưỡng sức khoẻ.

    "Bồi" bỏ chiếc mũ cát- két xuống, vuốt mái tóc cứng như lông nhím, vừa đưa mắt nhìn quanh, vừa bước tới chỗ con thuyền và nói giọng khàn khàn:

    - Tình hình hỏng bét rồi… hỏng bét cả rồi… Thôi cậu đừng câu kiếc gì nữa? Nếu không câu mãi, câu mãi, rồi cuối cùng cái gì cũng quên mất hết thôi…

    - Cậu biết được tin gì mới kể cho mình nghe với!

    Miska đưa bàn tay lầy nhầy nặc mùi cá tanh nắm lấy bàn tay nhỏ bé xương xẩu của Bồi, mỉm cười vồn vã. Từ lâu hai người đã chơi thân với nhau.

    - Hôm qua Xích vệ vừa bị chúng nó đánh tơi bời ở gần Migulinskaia. Người anh em ạ, bắt đầu gay go rồi đấy! Bị chúng nó vặt lông rồi!

    - Đội Xích vệ nào? Từ đâu đến Migulinskaia?

    - Họ đang kéo qua trấn, bọn Cô- dắc cho họ một trận không còn mảnh giáp… Tù binh bị giải lốc nhốc về Kargin! Ở đấy toà án quân sự dã chiến đã đang tuyên án lung tung. Hôm nay thôn ta có bắt lính đấy. Cậu xem, từ sáng chuông đã gióng inh ỏi rồi.

    Miska buộc thuyền, dốc chỗ cá vào cái túi thường đựng thóc cho ngựa ăn, rồi bước những bước rất dài, mái chèo đưa đi đưa lại theo nhịp bước chân. "Bồi" khép tà áo ca- pôt, vung mạnh hai tay, cố chạy lon ton vượt lên trước Miska, y như một con ngựa non.

    - Cậu Kotliarov cho mình biết đấy. Cậu ấy vừa thay phiên cho mình xong. Nhà máy xay chạy ầm ầm suốt đêm, rối tinh rối mù. Thật đấy Kotliarov đã được nghe chính lão chủ nói như thế. Có một thằng sĩ quan nào đó vừa đi ngựa từ Vosenskaia đến gặp lão Sergey Platonovich.

    - Làm thế nào bây giờ? - Một vẻ bối rối thoáng hiện trên mặt Miska, khuôn mặt mất vẻ hồng hào nhưng đã trở nên rắn rỏi qua mấy năm chiến tranh. Anh liếc nhìn "Bồi" rồi hỏi lại - Làm thế nào bây giờ đây?

    - Phải bỏ thôn mà đi ít lâu thôi.

    - Đi đâu?

    - Đi Kamenskaia - Nhưng ở đấy cũng là bọn Cô- dắc - Đi về phía bên tả một chút.

    - Đi đâu?

    - Đi Oblivy!

    - Làm thế nào mà đi được?

    - Nếu muốn đi thì sẽ đi được! Còn nếu không muốn thì cứ ở lại, mặc mẹ cậu! - "Bồi" bất thần phát khùng lên. - Hết "đi thế nào" lại "đi đâu" mình làm thế quái nào biết được? Quay đầu tứ phía thì sẽ tự tìm ra chỗ mà chui! Mũi đâu mà không biết đánh hơi?

    - Cậu đừng có điên khùng lên như thế? Cậu cũng biết đấy, cưỡi con ngựa cuồng thì đi đâu được? Còn Kotliarov thì anh ấy bảo sao?

    - Thằng Kotliarov của cậu thì còn phải lay cho nó chuyển mới được - Cậu đừng làm ầm lên như thế… Người đàn bà kia đang nhìn đấy.

    Hai người lo lắng liếc nhìn người đàn bà còn trẻ, con dâu lão Apdeit "Vua nói phét" đang đuổi những con bò từ trong sân gia súc ra. Khi đến ngã tư thứ nhất, Miska quay trở lại.

    - Cậu đi đâu thế? - "Bồi" ngạc nhiên hỏi.

    Miska không quay đầu lại, chỉ khẽ nói.

    - Mình nhấc mấy cái lưới lên đã.

    - Nhấc lên làm gì?

    - Dù sao cũng không để mất được.

    - Thế là chúng mình chuồn cả à? - "Bồi" sung sướng nói.

    Miska vung mái chèo, nói từ xa:

    - Cậu tới nhà Kotliarov đi, mình đem những cái lưới về nhà rồi sẽ đến đấy ngay.

    Kotliarov đã kịp báo tin cho mấy chàng Cô- dắc gần gụi nhất biết. Thằng con trai anh đã chạy sang nhà Melekhov kéo Grigori sang.

    Khristonhia như tự đánh hơi thấy việc chẳng lành, không cần ai gọi cũng đến. Chẳng mấy chốc Miska đã trở về, cuộc bàn bạc bắt đầu.

    Mọi người hấp tấp cướp lời nhau cùng nói một lúc, trong lòng thấp thỏm chờ tiếng chuông báo động.

    - Lập tức chuồn ngay thôi! Phải khăn gói lên đường ngay hôm nay mới được? - "Bồi" nóng nảy nói sôi nổi.

    - Nhưng cậu cũng phải nói cho mình biết rõ vì sao chúng mình phải đi mới được chứ? - Khristonhia hỏi.

    - Lại còn vì sao nữa? Chúng nó sắp bắt lính đến nơi rồi, cậu muốn bị tóm cổ đi hay sao?

    - Mình sẽ không đi lính, có thế thôi.

    - Chúng nó sẽ lôi cổ cậu đi!

    - Đâu có bắt ngay được. Mình không phải là con bò non cho chúng nó xỏ mũi lôi đi đâu!

    Kotliarov vừa đuổi được chị vợ mắt lác xệch ra khỏi nhà, anh lầu bầu giọng bực bội:

    - Bắt thì chúng nó sẽ bắt đấy… "Bồi" nói đúng đấy. Chỉ có điều là đi đâu bây giờ? Vấn đề gay go là ở chỗ đó.

    - Mình cũng đã bảo cậu ấy rồi! - Miska Kosevoi thở dài.

    - Nhưng các cậu làm sao thế? Chẳng nhẽ mình cần phải chuồn đi hơn tất cả các cậu hay sao? Mình sẽ đi một mình thôi! Không cần phải đánh hơi thăm dò thăm giếc nữa! Hết "như thế nào" lại "tại làm sao"… Các cậu sẽ bị chúng nó hành hạ cho một trận, rồi còn bị tống vào tù về tội theo Bolsevich nữa là khác! Các cậu tưởng chuyện đùa đấy phỏng? Các cậu thấy đấy, thời buổi đang như thế nầy… ở đây tất cả đều hỏng mẹ nó rồi còn gì!

    Grigori cứ tập trung tinh thần xoay xoay trong tay một cái đinh rỉ vặn trên tường xuống, một cơn điên tiết đang âm ỉ trong lòng chàng. Chàng lạnh lùng ngắt lời "Bồi":

    - Cậu đừng có vội! Chuyện của cậu không giống chúng mình: chẳng cần nhìn trước, cũng chẳng cần ngó sau, cuốn gói là đi được ngay. Còn bọn mình thì phải suy nghĩ cho chín mới được. Mình còn có vợ và hai đứa con nhỏ… Thuốc súng mình ngửi không phải chỉ như cậu? - Hai con mắt đen láy của Grigori bỗng nhiên nháy nháy, hung dữ hẳn lên. Chàng nhe những cái nanh sát sin sít như một con thú dữ, quát lên - Cậu có thể muốn nói gì cũng được. Vì trước là thằng "Bồi" thì sau cũng vẫn chỉ là thằng "Bồi" mà thôi! Trên vai cậu ngoài cái áo khoác còn có gì nữa đâu…

    - Cậu làm gì mà mở mồm quát tháo như vậy hử? Lại giở cái thói sĩ quan ra có phải không? Đừng có thét lác như thế? Thằng nầy thì nhổ vào mặt cho! - "Bồi" cũng quát lên.

    Trong cơn phẫn nộ, khuôn mặt lồm xồm lông nhím của "Bồi" nhợt hẳn đi, hai con mắt ti hí và hung hãn của anh long lanh sắc ngọt một cách man rợ, ngay đến đám tóc xám như khói trên đầu cũng tựa như động đậy.

    Grigori đã đổ lên đầu "Bồi" toàn bộ niềm tức tối vì sự yên tĩnh của mình bị phá rối, vì niềm xao xuyến mà chàng cảm thấy khi nghe thấy Kotliarov nói rằng các chi đội Xích vệ đã đột nhập vào Quân khu. Những tiếng "Bồi" quát trả đã làm anh chàng hoàn toàn mất tự chủ. Chàng nhảy chồm lên như vừa bị đánh đau, bước tới sát trước mặt "Bồi" lúc nầy đang ngọ nguậy trên chiếc ghế đẩu, và phải vất vả lắm mới giữ nổi bàn tay ngứa ngáy chỉ muốn đánh đấm.

    - Câm đi, đồ sâu bọ! Đồ bẩn thỉu tồi tệ! Mày chỉ là một mẩu người! Mày ra lệnh cho ai hử? Xéo ngay, câm ngay! Xéo ngay cho chỗ nầy khỏi vì mày mà thối hoăng lên? Liệu hồn đừng có léo nhéo nữa, nếu không tao cho về với ông bà ông vải bây giờ…

    - Thôi đi, Grigori? Sao lại làm như thế? - Miska gạt nắm tay của Grigori ra khỏi cái mũi nhăn nhúm của "Bồi".

    - Những cái thói Cô- dắc cũ rích ấy phải vứt bỏ di… Thế mà không biết ngượng à? Đáng xấu hổ lắm, Melekhov ạ! Xấu quá lắm?

    "Bồi" đứng dậy, anh húng hắng ho một cách khó chịu, đi ra cửa.

    Nhưng vừa đến ngưỡng cửa thì anh chàng không nhịn được nữa, lại quay mặt vào, nhìn thấy nụ cười tức tối của Grigori bèn chọc luôn cho một câu:

    - Thế mà cũng tham gia Xích vệ. Đồ hiến binh! Những thằng như thế nầy chúng ta đã từng cho ăn kẹo đạn rồi!

    Cả Grigori cũng không nhịn được nữa. Chàng xô "Bồi" ra phòng ngoài, đá vào gót đôi ủng bộ binh mòn vẹt của "Bồi" và doạ bằng một giọng không báo trước một điều gì tốt lành:

    - Cút ngay! Tao bẻ gãy cẳng bao giờ!

    - Sao lại làm như thế? Sao lại thế, đến là trẻ con.

    Kotliarov lắc đầu tỏ ý không đồng tình, anh liếc nhìn Grigori một cách khó chịu.

    Miska cắn môi không nói gì cả, có lẽ anh chàng cố ghìm một lời gay gắt chỉ muốn bật ra.

    - Nhưng tại sao nó cứ can thiệp vào việc của người khác? Tại sao nó lại sừng sộ như thế? - Grigori không phải là không cảm thấy ngượng nhưng vẫn cố bào chữa.

    Khristonhia nhìn chàng có vẻ đồng tình. Grigori bắt gặp cặp mắt đó, mỉm một nụ cười giản dị, ngây thơ như con nít:

    - Thiếu chút nữa thì mình cho nó một trận bò lê bò càng! Ở ngoài ấy chỉ thiếu chút nữa… tát cho một cái là đổ máu mồm máu mũi.

    - Nào, các cậu thấy thế nào? Cũng cần phải làm gì chứ?

    Trước câu hỏi và con mắt nhìn chằm chằm của Miska, Kotliarov miễn cưỡng trả lời.

    - Còn sao nữa, Miska? Grigori cậu ấy nói cũng có phần đúng: làm thế nào mà dứt ra để chuồn ngay đi được? Bọn mình còn có gia đình… Mà cậu cũng chờ đã! - Nhận thấy Miska có cử chỉ nóng nảy, anh vội nói - Nhưng có thể cũng chẳng có chuyện gì đâu… làm thế nào mà biết trước được? Chúng nó đánh tan được một chi đội ở gần Setrakov, nhưng các chi đội khác đâu có chui đầu vào cả… Chúng ta hãy chờ ít bữa đã. Cũng nói thêm là mình còn vợ con, quần áo rách tươm cả rồi, bột bánh cũng hết sạch… làm thế nào mà thu xếp để bỏ đi được? Để vợ con ở lại sinh sống bằng gì bây giờ?

    Miska tức giận rung rung hai hàng lông mày, nhưng mắt cứ dán xuống cái nền đất:

    - Anh không muốn đi à?

    - Mình muốn chờ xem sao đã. Lúc nào đi cũng còn kịp, chẳng sợ muộn đâu… Ý anh như thế nào, anh Grigori Pancheleevich, và cậu nữa, Khristonhia?

    - Có lẽ như thế… Nán lại ít lâu đã.

    Bất ngờ được cả Kotliarov lẫn Khristonhia đều ủng hộ, Grigori phấn khởi hẳn lên:

    - Phải, tất nhiên tôi muốn nói cũng là như thế. Chính vì thế mà tôi đã cãi nhau với cậu "Bồi" đấy. Chuyện nầy đâu có giống như kéo nhau đi chặt cây, có phải không? Đâu phải chỉ loáng cái là mọi mặt đều sẵn sàng? Cần phải cân nhắc, đắn đo, tôi muốn nói…

    Coong- coong- coong- coong! Những tiếng chuông đổ tù trên gác chuông nhà thờ xuống tràn ngập bãi thôn cùng các phố, các ngõ, ngân vang rất lâu trên làn nước lũ nâu nâu, trên các mũi đá phấn chưa khô, truyền đến khu rừng thì tan vụt ra từng mảnh trước khi lặn hẳn. Rồi lại tiếp luôn một đợt nữa, nhưng lần nầy dồn dập, nghe mà nôn nao xao xuyến; coong - coong - coong - coong!

    - Ấy đấy chúng nó gọi tập hợp rồi đấy? - Khristonhia nháy mắt liền mấy cái. - Mình sẽ ra ngay lấy cái thuyền. Men theo bờ bên nầy chuồn thẳng vào rừng. Thế là không còn trông thấy mình đâu nữa?

    - Nào, bây giờ thế nào đây? - Miska đứng dậy, vẻ nặng nề như một ông già.

    - Chúng mình chưa đi ngay được, - Grigori trả lời thay cho tất cả.

    Lông mày của Miska lại rung rung lần nữa. Anh đưa tay lên gạt khỏi trán cái bờm tóc vàng óng rất nặng gồm rất nhiều món loăn xoăn đan vào nhau.

    - Thôi tạm biệt… Xem ra con đường của chúng ta đã chia hai ngả rồi!

    Kotliarov mỉm cười như xin lỗi:

    - Miska ạ, cậu còn trẻ, còn sôi nổi nóng nảy… Cậu tưởng chúng mình sẽ không còn đi với nhau nữa à? Còn cùng đi với nhau chứ? Phải biết hy vọng mới được!

    Miska từ biệt rồi bỏ đi… Anh đi qua sân sang sân đập lúa nhà bên cạnh. "Bồi" đang ngồi co ro bên cái rãnh. Tựa như đã biết trước rằng thế nào Miska cũng ra đây. "Bồi" vừa đứng dậy đón Miska vừa hỏi:

    - Thế nào!

    - Họ từ chối không đi.

    - Mình đã biết trước rồi mà. Mấy thằng nhát như cáy… Còn thằng Grigori… thằng bạn của cậu ấy, nó chỉ là một thằng đốn mạt! Nó có yêu ai bao giờ đâu. Nó làm nhục mình, thằng khốn kiếp! Nó lấy làm hãnh diện vì khoẻ hơn mình. Mình không có khẩu súng "nục" nếu không đã bắn chết mẹ… - Giọng "Bồi" thều thào như người ốm.

    Miska đi bên cạnh liếc nhìn bộ râu tua tủa như lông nhím của "Bồi" bụng bảo dạ: "Nó có thể giết thật đấy, cái con chồn hôi nầy?".

    Hai người đi rảo bước, mỗi tiếng chuông lại quất lên họ như một ngọn roi.

    - Tạt qua nhà mình lấy ít thức ăn rồi chuồn thôi? Chúng mình sẽ đi bộ, mình để con ngựa lại. Cậu sẽ không mang gì đi chứ?

    - Bao nhiêu gia tài điền sản đều trên người mình cả rồi. - "Bồi" xệch mép. - Cung điện chẳng có, điền sản thì không… còn được nửa tháng tiền lương lại chưa lĩnh. Thôi để cho cái lão bụng phệ Sergey Plantonich nó vớ bở. Thằng cha thấy mình không đến thanh toán tiền công có lẽ sướng rung cả rốn.

    Nhà thờ đã ngừng gióng chuông. Không còn một tiếng động nào làm vẩn bầu không khí mơ màng, ngái ngủ của buổi sáng. Vài con gà mái bới tung một đống tro ở bên đường, dăm con bò non tản ra ăn cỏ bên dãy hàng rào. Miska quay đầu lại: bọn đàn ông Cô- dắc đang hối hả ra bãi họp việc làng. Vài người bước ra khỏi nhà, vừa đi vừa cài khuy áo vét- tông hoặc áo quân phục. Một người phi ngựa qua bãi họp. Dân chúng đứng túm tụm bên cạnh trường học, khăn tay và váy đàn bà trắng loá, những cái lưng của bọn đàn ông đứng sát vào nhau thành một đám đen ngòm.

    Một người đàn bà quẩy đôi thùng không qua đường được ngay 1 bèn nói giọng bực bội:

    - Có đi đi không, tôi lại vượt qua trước bây giờ?

    Miska chào, người ấy long lanh cặp mắt tươi cười dưới hai hàng lông mày rất dài và hỏi:

    - Đàn ông đàn ang ra họp việc làng cả rồi mà bây giờ hai anh mới ở đâu về thế? Sao anh không ra ngoài ấy, anh Mikhail!

    - Ở nhà có chút việc.

    Hai người đã về gần tới ngõ nhà Miska. Đã có thể nhìn thấy cái mái căn nhà nhỏ xíu của Miska, cái tổ bạch đầu ông bị gió lay lắt lẻo trên cái tổ có buộc một nhánh anh đào khô. Trên đỉnh ngọn gò, cái cối xay quay thẫn thờ, mảnh vải buồm trên một cái cánh bị gió xé rách đập phần phật, tấm tôn trên cái mái nhọn, cũng kêu lạch phạch.

    Mặt trời không chói, nhưng rất ấm. Một làn gió nhẹ mát rượi thổi từ ngoài sông vào. Ngay đầu ngõ là nhà Arkhiv Bogatyrev, một lão già to lớn, theo Cựu giáo, trước kia có đi lính trong một đại đội pháo ngự lâm. Vài người đàn bà đang trát bùn đất sét và quét vôi ngôi nhà tròn rất to để sửa soạn cho lễ Phục sinh. Một người đang nhào bùn với phân bò. Chị chàng sắn váy rất cao, vừa dẫm bùn vừa đi vòng tròn, cặp chân đầy đặn trắng hếu nhấc lên đặt xuống rất khó khăn, trên bắp chân có hai cái vòng đỏ hỏn, đó là vết nịt hằn. Dưới cái váy nhấc cao bằng những đầu ngón tay, hay cái nịt rất to được kéo lên quá đầu gối, ăn hẳn vào trong thịt.

    Cô ả vốn là một tay rất làm đỏm, mặt trời còn rất thấp mà đã lấy chiếc khăn bịt đầu chùm kín mặt. Hai người kia là con dâu nhà Arkhiv và đều còn trẻ. Cả hai đứng trên hai cái thang quét vôi phần dưới cái mái lợp lau rất đẹp. Tay áo sắn lên đến khuýu, hai cô ả đưa đi đưa lại hai cái chổi làm bằng sơ vỏ cây bồ đề, vôi bắn lấm tấm cả hai khuôn mặt che kín đến mắt. Cả ba cùng hát rất nhịp nhàng, rất ăn giọng. Maria, người con dâu cả, đã goá chồng, vẫn công khai đến với Miska Kosevoi. Mặt Maria đầy tàn hương, nhưng người rất dễ coi, giọng hát thì trầm và mạnh gần như giọng đàn ông, toàn thôn đều khét tiếng. Maria cất tiếng hát:

    Trên đời nầy còn ai đau khổ…

    Hai ả kia hát hoà theo, cả ba giọng quyện vào nhau uyển chuyển thành một lời than vãn ngây thơ, đầy đau khổ của một người đàn bà:

    Hơn chồng em ngoài bãi sa trường

    Tay lắp đạn vào nòng đại bác.

    Mà trong lòng canh cánh nhớ thưong…

    Miska và "Bồi" đi sát dãy hàng rào lắng nghe tiếng hát chốc chốc lại pha lẫn với tiếng ngựa hí vang ngoài đồng cỏ vọng vào:

    Bỗng một hôm phong thư đóng dấu.

    Báo tin chàng đã hy sinh.

    Ôi chúng giết anh yêu, anh quý,

    Bên bụi cây còn lại mình anh…

    Maria quay lại nhìn Miska đi qua, cặp mắt xám long lanh một ánh ấm áp dưới chiếc khăn bịt đầu, nụ cười làm bừng sáng cả khuôn mặt lấm tấm những điểm vôi trắng. Maria cất một giọng trầm thắm thiết, phát từ trong ức ra:

    Gió thổi rối cả làn tóc đẹp,

    Làn tóc xoăn, làn tóc nâu nâu

    Nhưng cặp mắt nhỏ màu hạt dẻ

    Bị quạ đen mổ mất còn đâu…

    Miska mỉm cười âu yếm với Maria. Anh chàng bao giờ cũng như thế đối với phụ nữ. Rồi anh bảo ả Pelageya lấy chồng ở rể đang nhào đất:

    - Xắn cao lên một chút, kẻo cách cái hàng rào nhòm thấy thế nào được?

    Pelageya nheo mắt trả lời:

    - Muốn nhòm thì thế nầy cũng nhòm được rồi.

    Maria nghiêng nghiêng người trên cái thang, đưa mắt nhìn quanh rồi kéo dài giọng hỏi:

    - Đi đâu thế, anh yêu của em?

    - Đi kiếm con cá.

    - Thôi đừng đi xa làm gì, vào nhà kho hú hí với nhau nốt buổi sáng đi.

    - Đồ mất dạy, bố chồng cô đang đứng kia kìa!

    Maria tặc lười một cái, phá lên cười, rồi vẩy cái chổi đẫm nước vôi xuống Miska, làm cái áo vét và chiếc mũ cát- két của anh đều lốm đốm trắng.

    - Nầy để "Bồi" lại cho chúng em mượn cái, ít nhất cũng giúp được việc thu dọn nhà cửa? - Ả con dâu út nhe hai hàm răng trắng như đường ra mời, gọi với theo.

    Maria khẽ nói không biết câu gì rồi cả ba cùng cười như nắc nẻ.

    - Con chó cái, cái của lẳng lơ đĩ thoã! - "Bồi" cau mày rảo bước hơn, nhưng Miska mỉm một nụ cười thẩn thờ, âu yếm, nói chữa lại.

    Không lẳng lơ đĩ thoã đâu, yêu đời đấy thôi. Mình ra đi cũng để lại một người yêu. "Tạm biệt em yêu, tha thứ cho anh!". - Miska vừa đọc lại một lời bài ca vừa bước ra cửa hàng rào nhà mình.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Theo phong tục Cô- dắc, đàn ông sẽ gặp chuyện xúi quẩy nếu bị đàn bà đi cắt ngang đường trước mặt mình (ND)

Chia sẻ trang này