1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sông Đông Êm Đềm

Chủ đề trong 'Album' bởi doctruyen, 12/12/2016.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 112

    Sau khi Miska đi rồi, mấy anh chàng Cô- dắc còn ngồi lại một lát nhưng không ai nói gì nữa. Tiếng chuông báo động vẫn dội xuống ầm ầm trên thôn xóm, mấy vuông cửa sổ nhỏ trong nhà rung cả lên.

    Kotliarov nhìn qua cửa sổ. Dưới ánh nắng ban mai, nhà kho in một cái bóng mờ mờ trên mặt đất. Sương rơi lấm tấm hoa râu trên lớp cỏ loăn xoăn như lông cừu. Ngay qua lớp kính, bầu trời vẫn hiện lên mênh mông, xanh ngắt. Kotliarov đưa mắt nhìn cái đầu rối như bòng bong đang rũ xuống của Khristonhia và nói:

    - Hay chưa biết chừng mọi việc chỉ đến đây là kết thúc. Bọn ở Migulinskaia đánh tan chi đội Xích vệ rồi không giở thêm trò gì nữa đâu?

    - Đâu có chuyện như thế… - Grigori ngọ nguậy, - đã ngồi lên lưng cọp rồi thì còn xuống sao được nữa! Thế nào, chúng ta ra họp việc làng chứ?

    Kotliarov với tay lấy chiếc mũ cát- két, hỏi để cố đánh tan mối nghi ngờ của mình:

    - Thế nào các cậu, hay đích thực chúng mình đã biến thành những thanh sắt rỉ rồi? Tuy Miska có nóng nảy, nhưng cậu ấy suy nghĩ xác đáng đấy… Cậu ấy trách chúng mình.

    Không ai trả lời anh. Ba người lặng lẽ ra bãi họp.

    Kotliarov vừa đi vừa suy nghĩ rất lung, hai con mặt cứ dán xuống chân. Anh bị dày vò đau khổ vì thấy mình đã làm trái lương tâm, đã không theo đúng con đường mà ý thức của mình đã chỉ ra. Lẽ phải thuộc về phía "Bồi" và Miska: đáng là phải ra đi ngay chứ không trù trừ như thế. Những lý lẽ mà anh cố nặn trong óc ra để tự bào chữa đều không có gì vững vàng và một giọng nói châm biếm, chín chắn từ trong đáy lòng ra đã dẫm nát ngay các lý lẽ đó như vó ngựa dẫm lên ván băng phủ trên vũng nước. Điều duy nhất mà Kotliarov quyết định như đinh đóng cột là sẽ chạy sang bên Bolsevich ngay trong trận đầu. Quyết tâm ấy đã chín muồi trong lòng anh ngay trên đường ra bãi họp, nhưng cả Grigori lẫn Khritonhia đều không được Kotliarov cho biết về điều đó, vì anh đã mơ hồ hiểu rằng hai người có những cảm xúc khác mình và ở một nơi rất sâu trong ý thức anh dè chừng về phía họ. Cả ba đều bác bỏ ý kiến của "Bồi", đều không ra đi, bằng cách viện cớ gia đình, nhưng đồng thời cả ba đều biết rằng cái lý lẽ ấy không nặng đồng cân, và không thể bào chữa cho mình được. Trong lúc nầy từng người một đều cảm thấy hổ thẹn, mỗi người theo một kiểu khác nhau, trước mặt hai người kia, như mình đã làm một việc xấu xa, đáng nhục. Ba người ngậm tăm giờ lâu. Nhưng khi tới trước cửa nhà Mokhov, Kotliarov không chịu nổi cái không khí chết lặng quá khó chịu ấy nữa, bèn nói như lên án bản thân mình và hai bạn.

    - Chẳng cần giấu giếm làm gì: ở mặt trận về còn là những thằng Bolsevich, nhưng bây giờ đã trở thành những kẻ trùm chăn rồi! Mặc ai đánh nhau thay mình thì đánh, còn mình thì cứ ở nhà với vợ

    - Tôi đã nện nhau chán rồi, bây giờ để người khác thử nếm mùi,- Grigori quay lại nói.

    - Sao thế, chúng nó… giở trò cướp bóc mà chúng mày lại phải đi theo chúng nó hay sao? Xích vệ gì mà lại như thế? Hiếp đàn bà, cướp phá của người khác. Trong chuyện nầy phải nhìn cho rõ mới được. Nếu mù quáng thì sẽ đâm đầu vào góc tường ngay.

    - Thế chính mắt cậu được nhìn thấy những chuyện như thế à, Khristonhia? - Kotliarov hỏi giọng gay gắt.

    - Thiên hạ nói như thế.

    - A… a… thiên hạ…

    - Thôi đi! Bọn mình nói ở đây chúng nó nghe được rồi đấy.

    Bãi họp như nở hoa với những nẹp quần và mũ cát- két Cô- dắc, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc mũ lông đen lổm xổm. Chỉ thấy toàn những lão già cùng những gã Cô- dắc ở tuổi ra trận hoặc trẻ hơn một chút. Những người già nhất chống gậy đứng lên hàng đầu, các bồi thẩm danh dự, các uỷ viên hội đồng nhà thờ, những người đỡ đầu các trường học, lão trùm trưởng. Ông già Melekhov đang đứng cạnh lão thông gia Miron Grigorievich. Cụ Grisaka chống chiếc gậy có rất nhiều mấu đứng trước mặt hai người trong chiếc áo lễ phục màu xám có đeo huân chương. Đứng cùng hàng với hai nhà thông gia có lão Apdeit "Vua nói phét" mặt đỏ như quả táo. Matvey Kasulin, Ackhip Bogatyrev, lão Atepin "cha cha" với chiếc mũ cát- két Cô- dắc. Xa chút nữa là những bộ mặt quen thuộc đứng sát nhau thành một hàng rào hình bán nguyệt: Egor Sinilin râu ria xồm xoàm, Yakov "Móng lừa", Andrey Kasulin, Nicolai Kosevoi, gã Borsev lêu đêu như cây sào, Anikey, Marchin Samin, tên chủ nhà máy xay lùn choằn choằn. Gromov, Yakov, Koloveydin, Merkulov, Fedot Bodosov, Ivan Tomilin, Epichan Marsaev, Dakha Korolev, gã Anchip, con trai lão Apdeit "Vua nói phét", một gã nhỏ bé mũi hếch.

    Trong khi đi ngang qua bãi, Grigori trông thấy Petro, anh chàng, đứng ở bên kia vòng người. Petro mặc một chiếc sơ- mi nhà binh có đeo hai cái dây huân chương thánh Gioóc màu da cam và đen, hắn đang pha trò với gã cụt tay Aleksey Samin. Bên trái hắn là thằng Mitka nhà Korsunov với hai con mắt xanh lè. Mitka hút nhờ lửa điếu thuốc của Prokho Zykov. Prokho trợn tròn cặp mắt bò, chúm môi giúp Mitka thổi lửa. Bọn Cô- dắc trẻ tuổi đứng túm tụm ở phía sau. Giữa vòng người có kê một chiếc bàn ngật ngưỡng, cả bốn chân bàn đều lún xuống chất đất mềm chưa khô. Viên chủ tịch Uỷ ban cách mạng thôn Naza ngồi sau chiếc bàn, bên cạnh hắn có một tên trung uý mà Grigori không quen mặt đứng tì một tay lên mặt bàn. Hắn đội một chiếc mũ màu *** ngựa có dính phù hiệu, mặc chiếc áo ngắn có đeo lon và cái quần đi ngựa hẹp ống màu kaki.

    Viên chủ tịch Uỷ ban cách mạng nói với hắn không biết những gì, vẻ mặt như ngượng ngùng. Viên trung uý hơi khom lưng, ghé cái tai vểnh rất to vào sát chòm râu của Naza, chú ý nghe. Bãi họp chìm trong một tiếng rào rào khe khẽ như tổ ong. Dân chúng Cô- dắc chuyện gẫu, pha trò với nhau, nhưng mặt ai cũng có vẻ căng thẳng.

    Một người chờ mãi không chịu được nữa đã kêu lên bằng một giọng rất trẻ:

    - Bắt đầu đi thôi! Còn chờ gì nữa? Mọi người đã đến gần đủ rồi!

    Tên sĩ quan thung dung đứng thẳng dậy, bỏ mũ cát- két xuống và bắt đầu nói một cách giản dị như trong gia đình:

    - Kính thưa các cụ bô lão và anh em Cô- dắc cựu chiến binh? Các cụ và anh em đã được nghe tin ở thôn Setrakov vừa xảy ra chuyện gì chưa?

    - Ai đấy? Dân ở đâu thế? - Khristonhia hỏi giọng ồm ồm.

    - Người trấn Vosenskaia, vùng Chernaia tên là Sondatov thì phải… - Có người trả lời.

    - Ở Setrakov, - Viên trung uý nói tiếp, - có một chi đội Xích vệ kéo đến. Quân Đức đã chiếm được Ukraina và trong khi tiến về Quân khu sông Đông đã đánh bật chúng ra khỏi đường sắt. Chúng định tràn qua khu du mục của trấn Migulinskaia. Sau khi chiếm đóng thôn, chúng bắt đầu cướp bóc bà con Cô- dắc, cưỡng dâm chị em phụ nữ Cô- dắc, bắt bớ trái phép và giở những trò khác nữa. Khi các thôn chung quanh được biết tin về những việc xảy ra, anh em Cô- dắc đã cầm vũ khí tấn công bọn ăn cướp. Chi đội của chúng đã bị tiêu diệt một nửa, còn một nửa bị bắt làm tù binh. Bà con ở Migulinskaia đã thu được một số chiến lợi phẩm rất lớn. Hai trấn Migulinskaia và Kazanskaia đã vứt bỏ gông xiềng của chính quyền Xô viết trên cổ mình. Bất kể già trẻ lớn bé, người Cô- dắc đã vùng lên bảo vệ sông Đông êm đềm. Ở Vosenskaia, Uỷ ban quân sự cách mạng đã bị tống cổ đi rồi, ataman trấn đã được bầu lên. Phần lớn các thôn đều đã như thế.

    Khi viên trung uý nói đến đây, các bô lão đã nhôn nhao nhưng họ vẫn cố giữ không nói to.

    - Đâu đâu cũng đã tổ chức đội ngũ. Bà con ta ở đây cũng cần phải tổ chức các anh em ở mặt trận về thành một chi đội để bảo vệ trấn nhà, chống một cuộc xâm nhập mới của những đám cướp dã man đó. Chúng ta phải lập lại chế độ cũ của chúng ta. Chúng ta không cần đến chính quyền của bọn đỏ, nó chỉ đem lại sự dâm loạn thối tha chứ chẳng làm gì có tự do! Chúng ta không thể nào cho phép bọn mu- gích làm nhục vợ con chị em chúng ta, phỉ báng đức tin chính giáo của chúng ta, xúc phạm đến các giáo đường thiêng liêng của chúng ta, cướp bóc gia tài điền sản của chúng ta… Có phải thế không, thưa các cụ bô lão?

    Bãi họp rung lên dưới những tiếng hô đồng thanh: "Đúng lắ... ắm!". Tên trung uý bắt đầu đọc một bản kêu gọi quay rô- nê- ô. Viên chủ tịch bỏ quên không biết tờ giấy gì bèn đứng dậy bước ra khỏi bàn. Đám người lắng nghe, không ai hé răng một lời nào. Bọn cựu chiến binh ở phía sau thẫn thờ chuyện gẫu với nhau.

    Tên sĩ quan vừa bắt đầu đọc, Grigori đã rời khỏi đám đông, từ từ đi về phía góc nhà lão cố đạo Visarion để về nhà. Miron Grigorievich nhìn thấy chàng bỏ đi, bèn hích khuỷu tay vào sườn ông Panteley Prokofievich.

    - Ông xem kìa! Cậu hai nhà ông bỏ đi rồi kìa?

    Ông Panteley Prokofievich khập khiễng bước ra khỏi đám đông, cất tiếng gọi, giọng nửa như van lơn, nửa như ra lệnh.

    - Grigori?

    Grigori không bước thêm nữa, nhưng chỉ đứng nghiêng nghiêng người mà không nhìn lại.

    - Quay lại đi con!

    - Sao lại bỏ đi! Quay lại đây! - Có những tiếng gọi vang lên cùng với những khuôn mặt quay về phía Grigori, san sát như một bức tường.

    - Trước kia đã từng là sĩ quan cơ đấy!

    - Có gì mà cũng lên cái mặt?

    - Chính thằng ấy đã đi theo chúng nó rồi đấy!

    - Nó cũng đã từng uống máu bà con Cô- dắc…

    - Đồ Đỏ!

    Grigori nghe thấy rõ tất cả những tiếng hò la đó. Chàng nghiến răng đứng nghe, có vẻ đang tự đấu tranh với chính mình, và mọi người có cảm tưởng như chàng sắp sửa bỏ đi không ngoái cổ lại nữa.

    Ông Panteley Prokofievich và Petro thở dài nhẹ nhõm khi thấy Grigori lảo đảo quay lại với đám người, nhưng mắt cứ dán xuống đất. Các bô lão vui hẳn lên lão Miron Grigorievich nhà Korsunov được bầu ngay tại chỗ làm ataman thôn một cách nhanh chóng lạ lùng. Lão bước ra giữa vòng người, những điểm tàn hương lấm tấm trên khuôn mặt trắng bệch của lão xám ngoét đi trong khi lão nhận ở tay tên ataman cũ cái "na- xê- ca", tức là cái gậy đầu bịt đồng tượng trưng cho chức quyền ataman. Từ trước đến nay lão đã từng được làm ataman bao giờ đâu. Lúc được lựa chọn, lão còn giả dạng từ chối, viện cớ trình độ văn hoá thấp mà không xứng đáng được hưởng vinh dự đó. Nhưng các bô lão đã nhao nhao kêu lên hoan nghênh lão:

    - Cứ nhận lấy cái "na- xê- ca" đi! Đừng từ chối nữa, ông Grigorievich!

    - Ông là ông chủ hộ vững nhất thôn nầy đấy.

    Nhưng chớ có đem tiền nong tài sản của thôn đi tiêu hết đấy!

    - Cẩn thận đấy, chớ có đem tiền quĩ của thôn đi uống rượu hết sạch như lão Semion đấy.

    - Chà- chà… lão nầy rồi cũng đem đi uống rượu hết cho mà xem!

    - Nhà lão còn có cái để mà bắt đền!

    - Nếu thế chúng ta sẽ lột da lão như lột da cừu!

    Việc bần bán được làm xong nhanh như chớp, nhanh một cách chưa từng thấy, cũng như các diễn biến của cái tình thế nửa chiến tranh, vì thế Miron Grigorievich đã nhận lời, không cần mọi người nài ép quá nhiều. Việc bầu ataman lần nầy khác hẳn trước kia. Xưa kia, viên ataman trấn thường triệu tập các trưởng xóm tới, bầu ra những ứng cử viên, nhưng hôm nay thì chỉ vung tay một cái: "Ai bầu cho ông Korsunov, xin mời bước sang bên phải". Tất cả đám người đều chạy ùa sang bên phải, riêng một mình gã thợ chữa giầy ủng Zinovi, vốn có tư thù với lão Korsunov, là cứ đứng nguyên chỗ cũ, như gốc cây cháy ngoài bãi cỏ hoang ven sông.

    Mồ hôi mồ kê đầm đìa. Miron Grigorievich còn chưa kịp hấp háy con mắt thì người ta đã dúi vào tay lão cái gậy ataman. Người ta réo vào tai lão từ xa và ở ngay bên tai lão:

    - Sửa soạn khao đi!

    - Cả thôn đều bầu cho ông đấy.

    - Phải đổ rượu ra ăn mừng một chầu ra trò mới được?

    - Bế tung ông ataman lên nào?

    Nhưng viên trung uý đã cắt đứt ngay những tiếng hò la để khéo léo lái cuộc họp sang giải quyết những vấn đề thực tế. Hắn nêu vấn đề bầu đội trưởng chi đội, và có lẽ ở Vosenskaia hắn đã từng nghe nói đến Grigori, nên hắn nói có ý nịnh Grigori cũng như dân trong thôn:

    - Tôi hy vọng có được một người chỉ huy là sĩ quan. Như vậy trong chiến đấu sẽ dễ dành được thắng lợi hơn, đồng thời sẽ giảm bớt được tổn thất. Nhưng trong thôn bà con đây thì không thiếu gì anh hùng. Thưa bà con tôi không dám ép bà con theo ý kiến của tôi, mà chỉ xin lấy tư cách cá nhân đề cử với bà con thiếu uý Melekhov.

    - Melekhov nào cơ chứ

    - Chúng tôi có những hai Melekhov cơ.

    - Viên sĩ quan liếc mắt nhìn qua đám người rồi nhìn chằm chằm vào Grigori đang cúi gầm mặt đứng phía sau, mỉm cười kêu lên:

    - Grigori Melekhov! Bà con trong thôn ta ý kiến ra sao?

    - Đúng đấy!

    - Xin nhận lời cho!

    - Grigori Panteleevich? Tay ấy cừ lắm đấy!

    - Bước ra giữa đi! Ra đi!

    - Các cụ bô lão muốn xem mặt anh cái?

    Bị đẩy sau lưng, Grigori đỏ mặt bước vào giữa vòng người, hai con mắt gườm gườm nhìn quanh như con thú bị vây bắt.

    - Anh hãy chỉ huy con cái chúng tôi? - Lão Matvey Kasulin chống mạnh cái gậy xuống đất và làm nhanh dấu phép. - Anh hãy chỉ huy và lãnh đạo chúng nó, để cho dưới quyền anh, chúng nó có bầy có đội như đàn ngỗng có được con đầu đàn tốt. Anh hãy che chở chúng nó như con ngỗng đầu đàn canh gác, che chở cho lũ ngỗng con khỏi bị thú dữ và con người làm hại! Anh còn có thể được thưởng bốn huân chương nữa đấy, cầu Chúa che chở cho anh?

    - Ông Panteley Prokofievich, con trai ông thật ra con trai!

    - Nó có cái đầu đáng giá ngàn vàng đấy? Nó khôn ngoan ranh ma lắm, cái ********* đẻ!

    - Nầy con quỷ thọt kia, ít nhất cũng mang một phần tư thùng ra đây?

    - Ha- ha- ha? Chúng ta sẽ uống một chầu ăn mừng?

    - Thưa các cụ bô lão? Xin yên lặng một chút! Hay là chúng ta không cần hỏi ý kiến nữa, cứ chỉ định lấy hai ba bản danh sách có được không? Nếu để tự nguyện thì mỗi người đều có thể đi cũng được mà không đi cũng được…

    - Đi ba năm?

    - Năm năm?

    - Hãy lấy tình nguyện!

    - Hãy cứ tự mày mày đi, có ai… giữ mày đâu?

    Tên trung uý đang nói không biết những gì với lão ataman thì có bốn lão già ở đầu trên thôn bước tới gần hắn. Trong bọn có một lão loắt choắt, mõm không có cái răng nào, biệt hiệu là "Cái nấm còi". Lão vốn nổi tiếng vì suốt đời chỉ thích thưa kiện. Lão đã đánh xe ra toà nhiều lần đến nỗi con ngựa cái lông trắng duy nhất trong nhà lão đã thuộc làu con đường lên đó. Lão tu rượu bí tỉ xong, nằm vật lên cái xe, kêu the thé bằng cái giọng cao như giọng con nít: "Lên toà", thế là con ngựa tự động cất bước chạy đúng đường lên trấn… "Cái nấm còi" sửa lại cái mũ nhỏ, bước tới gần viên trung uý.

    Ba lão kia đến đứng bên cạnh. Trong ba lão nầy có một lão là Gerasim Bondyrev, một nhà có của ăn của để được tất cả mọi người kính trọng. Bất chấp các đức tính cần thiết của một người mồm mép, "Cái nấm còi" kéo áo viên trung uý nói trước:

    - Bẩm quan lớn!

    - Cụ cần gì thế, thưa cụ bô lão? - Tên trung uý ân cần cúi xuống, ghé cái tai rất to, dái tai rất dầy.

    - Bẩm quan lớn, xem ra quan lớn còn chưa biết được nhiều về cái thằng cùng thôn với chúng tôi mà quan lớn vẫn chỉ định làm đội trưởng. Vì thế bô lão chúng tôi khiếu nại về quyết định ấy của quan lớn, mà chúng tôi thì có quyền làm như thế. Chúng tôi không công nhận nó?

    - Không công nhận như thế nào? Có vấn đề gì thế?

    - Vấn đề là chúng tôi làm thế nào tin được nó, khi chính nó đã tham gia Xích vệ, đã làm chỉ huy bên chúng nó, nó bị thương nên mới ở bên ấy về nhà được hai tháng nay?

    Tên trung uý đỏ mặt. Máu dồn lên làm hai tai hắn như căng mọng ra.

    - Nhưng không thể như thế được! Tôi chưa từng nghe nói như thế bao giờ… Chưa có ai nói đến tai tôi về chuyện ấy…

    - Đúng đấy, nó có đi theo bọn Bolsevich thật, - Gerasim Bonđyrev chứng thực lời "Cái nấm còi", giọng nghiêm khằc. - Chúng tôi không tín nhiệm nó đâu!

    - Phải thay nó đi mới được! Ngài có biết bọn thanh niên Cô- dắc chúng nó bảo sao không? Chúng nó bảo: "Thằng ấy sẽ phản bội chúng ta trong trận đầu cho mà xem!"

    - Thưa các cụ bô lão? - Tên trung uý kiễng chân kêu lên. Thằng cha giảo quyệt tránh bọn Cô- dắc vừa ở mặt trận về mà chỉ nói với bọn bô lão - Thưa các cụ bô lão! Chúng ta vừa chọn thiếu uý Grigori Melekhov làm người chỉ huy chi đội, nhưng làm như thế có vướng vấp gì không? Vừa đây có người cho tôi biết rằng hồi mùa đông chính anh ta còn đứng trong hàng ngũ Xích vệ. Các cụ có thể tín nhiệm anh ta, trao con cháu các cụ cho anh ta được không? Còn anh em cựu chiến binh, anh em có thể yên tâm đi theo một người chỉ huy như thế được không?

    Bọn Cô- dắc ngớ người ra, lặng đi một lát. Rồi bất thần những tiếng la thét cùng dậy lên và không làm thế nào hiểu được một lời nào trong tất cả những tiếng họ hét đó. Mãi đến khi người ta gào đã chán, tất cả lại lặng đi, lão Bogatyrev lông mày xâu róm mới bước vào giữa vòng người. Lão bỏ mũ chào tất cả mọi người rồi đưa mắt nhìn quanh:

    - Với cái đầu óc hồ đồ của tôi, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ không trao cho anh Grigori Panteleevich trách nhiệm ấy được. Quả thật anh ta có mắc cái lỗi ấy, mọi người chúng ta đều được nghe nói như thế. Thôi cứ để cho anh ta lập công chuộc tội, xứng đáng với sự tín nhiệm của mọi người, rồi khi đó hẵng hay. Anh ta vốn là một tay chiến đấu giỏi, chúng ta đều biết… Nhưng khi có sương mù thì làm thế nào trông thấy được mặt trời: hiện nay chúng ta không nhìn thấy công lao của anh ta, mắt chúng ta đều bị che phủ bởi cái việc anh ta đã đứng trong hàng ngũ bọn Bolsevich.

    - Cứ cho nó làm lính trơn? - Gã Andrey Kasulin kêu lên một cách nóng nảy. Gã còn ít tuổi.

    - Bầu Petro Melekhov lên chỉ huy vậy?

    - Cứ cho thằng Griska đi trong hàng đã!

    - Bầu nó lên thì mất mạng?

    - Nhưng thằng nầy có thiết gì đâu! Việc mẹ gì các anh vời đến thằng nầy làm cái gì? - Grigori đang đứng ở phía sau tức quá đỏ mặt vung tay nhác lại - Chính thằng nầy có tự xin làm đâu? Tôi cần đến các anh làm cái quái quỉ gì! - Rồi chàng thọc tay vào hai túi quần rất sâu, gù lưng xuống, bỏ về nhà, chân bước dài như con giang.

    Nhưng sau lưng chàng vẫn còn những tiếng la thét theo:

    - Nầy, nầy! Lên mặt vừa vừa chứ?

    - Thối như *** ấy? Đừng có hếch cái mũi quặp của mầy lên như thế!

    - Ô hô- hô!

    - Đấy cái máu Thổ Nhĩ kỳ nhà nó lại sục lên rồi!

    - Có lẽ nó sẽ không chịu im đâu. Ngoài mặt trận nó còn chẳng chịu im trước mặt bọn sĩ quan nữa là? Bây giờ, làm thế nào…

    - Quay lại đi!

    - Ha- ha- ha- ha!

    - Xích nó lại! Hà? Phì! Lêu- lêu- lêu- lêu!

    - Sao các cậu lại sợ nó như thế! Lập toà án của chúng ta đem nó ra mà xử?

    Một lúc sau mới lấy lại được trật tự. Có kẻ tranh cãi với nhau hăng quá đi đến xô đẩy nhau, có kẻ bị đánh bật cả máu mồm máu mũi, và trong đám trẻ có một thằng bất thần bị thêm một cái u dưới con mắt. Sau khi tất cả đã trở lại yên tĩnh, mọi người bắt tay vào việc bầu đội trưởng. Petro Melekhov được bầu, mặt hắn đỏ như quả bồ quân vì hãnh diện. Nhưng đến lúc nầy tên trung uý chợt vấp phải một sự trở ngại bất ngờ xuất hiện như một cái hàng rào quá cao trước mõm một con ngựa chạy đương hăng: đến lúc phải ghi tên những kẻ tình nguyện đi lính thì chẳng có ai tình nguyện. Trước tất cả những sự việc vừa xảy ra, bọn Cô- dắc ở mặt trận về đều tỏ ra rất dè dặt. Họ nghi ngại, không muốn ghi tên, mà chỉ pha trò:

    - Anikey nầy, sao cậu không lên ghi tên đi!

    Anikey lầu bầu:

    - Mình còn quá ít tuổi… Râu ria chưa có gì cả…

    - Nầy đừng bông với lơn nữa. Anh làm sao thế, muốn làm trò cho mọi người cười phải không? - Lão Kasulin quát vào tai hắn.

    Anikey xua lão đi như một con muỗi vo ve quấy rầy:

    - Bảo thằng Andrey nhà lão lên mà ghi.

    - Nó ghi tên rồi?

    - Prokho Zykov? - Trên bàn có tiếng gọi to.

    - Có tôi?

    - Anh ghi tên chứ?

    - Tôi không biết…

    - Họ ghi tên cậu rồi đấy!

    - Mitka Korsulov bước tới gần cái bàn, mặt nghiêm trang. Nó nói giọng nhát gừng!

    - Ghi tên tôi vào.

    - Nào, có còn ai muốn ghi tên nữa không? Bodovskov Fedot…

    - Ánh thế nào?

    - Thưa các cụ bô lão, tôi bệnh sa ruột! - Fedot khiêm tốn đưa cặp mắt xếch như mắt dân Kalmys nhìn xuống đất, lúng búng trả lời.

    Bọn cựu chiến binh ôm lưng nhau phá lên cười. Những tay khoẻ pha trò nhất thi nhau nói tếu:

    - Cứ mang cả vợ cậu đi… Nếu lên cơn sa ruột, nó sẽ chữa cho.

    - À - khà- khà- khà! - Bọn đứng phía sau cười lăn cười lộn, chúng ho sặc sụa, lấp loáng những hàm răng và những cặp mắt long lanh vì cười.

    Từ đầu đằng kia, một câu pha trò khác bay tạt sang như một con bạc má:

    - Bọn mình sẽ cho cậu một chân nấu bếp? Hễ súp nấu tồi chúng tớ sẽ tọng cho cậu đến khi cái bệnh sa ruột ấy chui ra đầu đăng kia mới thôi.

    - Rút lui cùng với những thằng như thế nầy thì đừng hòng chạy nhanh được.

    Bọn bô lão phát khùng, chửi rầm lên:

    - Thôi đủ rồi? Đủ rồi? Bọn chúng nó có gì mà phởn quá thế?

    - Thật hiếm được đúng lúc mà nói xằng nói bậy?

    - Nầy các anh kia, cũng phải biết xấu hổ chứ? - Một lão cố khuyên. - Còn có Chúa nữa chứ! Còn có Chúa nữa chứ! Chúa không cho phép làm như thế đâu. Ngoài kia người ta đang hy sinh tính mạng mà các anh… Còn có Chúa nữa chứ!

    - Tomilin Ivan, - Tên trung uý quay lại nhìn quanh.

    - Tôi là pháo thủ. - Tomilin trả lời.

    - Anh ghi tên chứ? Pháo thủ chúng tôi cũng cần.

    - Thế thì ghi đi… ừ- ừ!

    Dakha Korolev, Anikey cùng vài anh chàng nữa bèn đem gã pháo thủ ra làm trò cười.

    - Bọn mình sẽ lấy một gốc liễu đục cho cậu một khẩu pháo. Bí ngô sẽ là đạn pháo, còn khoai tây sẽ thay đạn ghém.

    Sáu mươi gã Cô- dắc đã bị ghi tên giữa những lời bông lơn và những tiếng cười. Khristonhia bước ra cuối cùng. Anh chàng đi tới trước cái bàn, nói rành rọt:

    - Có lẽ ghi cả tên tôi vào đi. Nhưng tôi nói trước là sẽ không đánh nhau đâu.

    - Thế thì ghi tên làm gì? - Tên trung uý hỏi giọng bực bội.

    - Thử xem như thế nào, thưa ngài sĩ quan. Tôi muốn ngó xem như thế nào cái.

    - Ghi tên hắn vào. - Tên trung uý nhún vai.

    Cuộc họp tan thì đã gần giữa trưa. Mọi người quyết định ngày mai sẽ lên đường ngay để chi viện cho dân Migulinskaia.

    Sáng hôm sau, trong số sáu mươi gã Cô- dắc ghi tên tình nguyện, chỉ vỏn vẹn có chừng bốn mươi gã đến tập hợp trên bãi thôn. Petro đưa mắt nhìn qua bọn Cô- dắc một lượt. Hôm nay hắn mặc áo ca- pôt, đi ủng cao, nom rất diện. Nhiều người mới đính lại những chiếc lon vai mang số hiệu trung đoàn cũ, có người không đeo lon. Những cái túi đựng đồ dã chiến độn phồng cả yên ngựa. Bánh khô, đồ lót và những viên đạn giữ lại từ hồi còn ở mặt trận được buộc vào những dây đai sau yên và đựng trong túi dết. Không phải cũng có súng trường, phần lớn chỉ đeo gươm.

    Một đám đàn bà, con gái, trẻ con, người già ra bãi tụ tập đưa tiễn các thầy quyền. Petro vênh vang trên con ngựa đứng ngoài hàng quân, cho nửa đại đội tập hợp thành đội hình. Hắn nhìn một lượt những con ngựa đủ các màu lông, những chàng cưỡi ngựa, người thì mặc áo ca- pôt, người thì áo vải bạt, rồi ra lệnh lên đường. Cái chi đội nhỏ cho ngựa đi bước một lên gò, bọn Cô- dắc âm thầm ngoái nhìn lại thôn xóm, ở hàng cuối có người nổ phát súng. Lên đến đỉnh gò Petro ***g đôi găng vào tay, sửa lại hàng ria màu lúa mạch, kéo cương cho con ngựa giậm nhanh bốn chân đi ngang. Hắn đưa tay trái lên giữ chiếc mũ cát- két, mỉm cười cất tiếng hô:

    - Đại đô ô- ội theo mệnh lệnh tôi! Nước kiệu… tiến!

    Bọn Cô- dắc dướn người trên bàn đạp, vung roi cho ngựa chạy nước kiệu. Gió quật vào mặt, thổi tung đuôi ngựa, bờm ngựa. Trời đe doạ có mưa nhỏ. Mọi người bắt đầu pha trò, chuyện gẫu với nhau.

    Con ngựa cao đúng tiêu chuẩn màu huyền của Khristonhia vấp chân, chủ nó vung roi quất tới tấp và chửi rầm lên. Con ngựa cúi cong cái cổ, phóng vụt lên nước đại, vượt ra khỏi hàng quân.

    Cho tới trấn Karginskaia, tinh thần bọn Cô- dắc luôn luôn giữ được vui vẻ. Mọi người ra đi, trong lòng hoàn toàn tin tưởng rằng sẽ chẳng có chiến tranh gì cả, và việc xảy ra ở Migulinskaia chỉ là một cuộc đột nhập ngẫu nhiên của người Bolsevich vào vùng đất của dân Cô- dắc.
  2. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 113

    Trời sắp hoàng hôn thì đoàn ngựa đến Karginskaia. Trong trấn không còn có ai là cựu chiến binh nữa, họ đã đi Migulinskaia cả rồi.

    Petro cho đội quân của hắn xuống ngựa trên cái bãi nhỏ bên cạnh cửa hiệu của lão lái buôn Levotkin, rồi đi đến nhà viên ataman trấn. Một viên sĩ quan cao lớn, da ngăm ngăm, vẻ người đầy sức mạnh, ra tiếp hắn. Viên sĩ quan nầy mặc một chiếc áo sơmi vừa dài vừa rộng không đeo lon, lưng thắt một chiếc đây da kiểu Kavkaz, cái quần đi ngựa Cô- dắc có nẹp, ***g vào trong đôi bít tất len trắng. Một cái píp thõng xuống bên mép cặp môi mỏng dính. Hai con mắt màu nâu có tia nhìn cứ gườm gườm, hiêng hiếng. Hắn đứng lại trên thềm, vừa hút thuốc vừa nhìn Petro bước tới. Cái thân hình đồ sộ của hắn với bắp thịt rắn chắc như đúc bằng gang hằn rõ dưới áo sơ- mi, trên ngực và hai cánh tay, tất cả thể hiện một sức mạnh khác người.

    - Ngài là ngài ataman trấn?

    Viên sĩ quan hà một hơi khói dưới bộ ria chầy xệ, trả lời bằng giọng nam trung:

    - Vâng, tôi là ataman trấn. Không biết tôi có vinh dự hầu chuyện ai đây.

    Petro tự giới thiệu. Viên ataman bắt tay hắn và hơi nghiêng đầu:

    - Likhovidov Fedor Mitrievich.

    Fedor Likhovidov là một tên Cô- dắc thôn Guxino - Likhovidovsky, một con người hoàn toàn không thuộc loại bình thường. Hắn đã học qua trường Yunke, vừa tốt nghiệp xong là biệt tăm một thời gian dài. Vài năm sau hắn đột nhiên về thôn. Được chính quyền cấp trên cho phép, hắn tuyển mộ một đội tình nguyện gồm những tên Cô- dắc đã hết hạn lính trở về. Trong khu vực trấn Karginskaia hiện nay, hắn đã tuyển được một đại đội toàn thằng bạt mạng, trời đánh thánh vật để cùng với hắn sang Ba- tư. Hắn ở bên ấy một năm cùng với đội quân của hắn, làm cận vệ cho tên quốc vương Ba- tư. Trong những ngày cách mạng Ba- tư, hắn cùng quốc vương Ba- tư chạy trốn, mất hết quân, rồi đùng một cái lại xuất hiện ở Kargin. Hắn có đưa về một số những tên Cô- dắc cũ, ba con ngựa Ả rập thuần giống trong chuồng ngựa của tên vua Ba- tư, và cơ man nào của cải: những tấm thảm quí, những đồ trang sức hiếm lạ, những tấm lụa màu sắc hết sức lộng lẫy. Hắn chơi bời một tháng, móc trong cáỉ túi chiếc quần đi ngựa của hắn ra tiêu một số tiền vàng Ba- tư không phải là nhỏ. Hắn cưỡi mốt con ngựa tuyệt đẹp lông trắng như tuyết, chân rất thon, cổ cong như cổ con thiên nga, rong chơi qua các thôn. Hắn thường cứ ngồi trên yên ngựa, tiến qua ngưỡng cửa vào hiệu của lão Levotki, mua thứ hàng gì đó, trả tiền, rồi cứ thế ra thẳng cửa bên kia. Fedor Likhovidov xuất hiện bất ngờ như thế nào thì lại biệt tích biệt tăm cũng bất ngờ như thế. Cùng biến đi với hắn có cả thằng bạn đường nối khố là tên hầu cận Panteliuska, một thằng Cô- dắc thôn Guxinov, khiêu vũ rất giỏi. Cả mấy con ngựa cùng tất cả những gì hắn mang từ Ba- tư về cũng biến theo hắn hết.

    Nửa năm sau, Likhovidov xuất hiện ở Anbani. Từ Duracho ở bên ấy, hắn gởi về Kargin cho những kẻ quen biết những tấm bưu thiếp chụp những phong cảnh núi non xanh biếc của xứ Anbani với những cái tên rất lạ. Sau đó hắn rời sang Ý, chu du khắp miền Balkan, có mặt ở Rumani, ở Tây Âu và thiếu chút nữa thì sang tới Tây ban nha.

    Một làn khói bí mật bao trùm lên cái tên Fedor Likhovidov. Trong các thôn xóm truyền lan những lời bàn tán và những giả thuyết hết sức khác nhau về hành tung của hắn. Người ta chỉ biết rõ một điều là hắn rất gần gũi với các giới trong hoàng tộc, kết giao với những tên quan lại chóp bu ở Petrograd, có chân trong "Hội liên hiệp nhân dân Nga" 1 giữ trách nhiệm khá quan trọng trong tổ chức đó, nhưng về những nhiệm vụ mà hắn làm ở nước ngoài thì chẳng ai biết.

    Sau khi lại ở nước ngoài về, Fedor Likhovidov đến ở Penza một thời gian dài và ở ngay nhà viên tướng tỉnh trưởng. Được xem tấm ảnh của hắn, những người quen biết hắn ở Kargin cứ lắc đầu tặc lưỡi thán phục: "Ái chà chà?", "Cuộc đời của Fedor Mitrievich lên dốc đến ghê!". "Đi lại với những nhân vật như thế nầy cơ à?". Trên bức ảnh có thể thấy Likhovidov đưa tay đỡ tỉnh trưởng phu nhân bước lên chiếc xe ngựa nhẹ bốn bánh, một nụ cười trên khuôn mặt gãy mũi, đen như dân Serbi. Bản thân tỉnh trưởng đại nhân âu yếm mỉm cười với hắn như với một người thân. Gã xà ích lưng cánh phản duỗi hai bàn tay khẽ giật cương, và mấy con ngựa cắn hàm thiếc, sắp sửa phi vụt lên. Likhovidov đưa một tay lên vành chiếc mũ lông xồm một cách rất nịnh đầm, còn tay kia thì đỡ khuỷu tay tỉnh trưởng phu nhân, nhẹ nhàng như đỡ một cái tách.

    Sau vài năm mất hút, mãi đến cuối năm 1917, Likhovidov mới lại mò về Kargin, lập cơ sở ở đấy, có vẻ như muốn sinh cơ lập nghiệp lâu dài. Hắn đem về một người vợ không biết là dân Ukraina hay dân Ba Lan và một đứa con nhỏ. Hắn ở một căn nhà nhỏ bốn buồng trên quảng trường đã một mùa đông không hiểu để mưu đồ những kế hoạch bí mật gì. Suốt mùa đông (mà mùa đông năm ấy rét ra rét, chẳng có vẻ khí hậu vùng sông Đông chút nào), bao nhiêu cửa sổ nhà hắn đều mở toang làm bà con Cô- dắc đều lấy làm lạ: hắn rèn luyện sức chịu đựng cho bản thân và cho vợ con.

    Mùa xuân năm 1918, sau việc xảy ra ở gần Setrakov, hắn được bầu làm ataman. Thế là các khả năng vô hạn của Likhovidov tìm được đầy đủ đất dụng võ. Hai bàn tay sắt của hắn đã nắm chặt lấy trấn nầy, chặt đến nỗi chỉ một tuần sau, ngay bọn bô lão cũng phải lắc đầu thán phục. Hắn nghiêm khắc lên lớp bọn Cô- dắc, và sau lần hắn phát biểu tại hội nghị dân chúng toàn trấn (Likhovidov nói năng rất giỏi, ông trời đã không quên phú cho hắn cả sức khoẻ lẫn óc thông minh), bọn bô lão đã rống lên như một đàn toàn bò mộng: "Bẩm quan lớn hay lắm! Xin quan lớn cứ thế làm cho!", "Đúng lắm! "

    Tên ataman mới đã thẳng tay sử dụng quyền lực của hắn. Hôm trước ở Karginskaia vừa nhận được tin về trận chiến đấu ờ gần Setrakov thì hôm sau trong trấn có bao nhiêu cựu chiến binh đều bị điều đến. Dân ngụ cư (chiếm một phần ba dân số các điểm dân cư trong trấn) đầu tiên không muốn đi, những tên cựu chiến binh bộ kinh khác thì phản đối, nhưng khi ra hội nghị đại biểu dân chúng Likhovidov đã kiên quyết giữ vững ý kiến, vì thế bọn bô lão đã ký một bản kiến nghị yêu cầu trục xuất tất cả những người "mu- gích" không tham gia bảo vệ sông Đông. Thế là ngay hôm sau hàng chục chiếc xe chở đầy lính đã kéo về hướng Napolov và làng Cherneskaia trong tiếng accordeon và tiếng hát. Trong số dân ngụ cư chỉ có vài người lính bộ binh trẻ theo Vaxiki Storozenko (trước kia chiến đấu trong trung đoàn súng máy số 1, chạy sang hàng ngũ Xích vệ.

    Chỉ nhìn dáng điệu, tên ataman đã biết ngay Petro là một sĩ quan ngoi lên từ những cấp dưới. Hắn không rời Petro vào trong phòng mà cứ thế đứng nói, giọng có vẻ thân mật suồng sã.

    - Không, ông bạn thân mến ạ, ngài chẳng còn có việc gì mà làm ở Migulinskaia nữa đâu. Không có ngài, mọi việc cũng đã xong xuôi cả rồi: tối qua chúng tôi đã nhận được điện. Ngài hãy cho anh em trở về và chờ lệnh. Nhưng các ngài phải lắc cho bọn Cô- dắc động lên mới được! Một thôn lớn như thế mà chỉ phái đi có bốn chục chiến binh à? Những cái thằng khốn nạn ấy, ngài cứ xạc cho chúng nó một trận cẩn thận? Phải biết rằng đây chính là chuyện sống còn của chúng nó? Chúc ngài khoẻ mạnh, mọi sự tốt lành!

    Hắn quay vào trong nhà, đế đôi ủng ngắn hạng thường đập lộp cộp cái thân hình vạm vỡ của hắn di động nhẹ nhàng một cách rất bất ngờ. Petro trở về chỗ bọn Cô- dắc đang chờ trên quảng trường.

    Mọi người nhao nhao hỏi hắn:

    - Thế nào hử?

    - Ở đằng ấy tình hình như thế nào?

    - Chúng ta đi Migulin chứ?

    Petro không giấu vẻ vui mừng, hắn cười mát trả lời:

    - Đánh nước mã hồi thôi! Không có bọn mình đâu cũng đã vào đó cả rồi!

    Bọn Cô- dắc mỉm cười lốc nhốc kéo nhau về chỗ buộc ngựa bên hàng rào. Khristonhia thậm chí thở dài như vừa trút được gánh nặng trên vai. Hắn vỗ vai Tomilin và nói:

    - Thế là được về nhà rồi, cậu pháo thủ ạ!

    - Lúc nầy bọn đàn bà ở nhà đã bắt đầu nhớ anh em mình rồi đấy!

    - Chúng ta lên đường ngay thôi.

    Mọi người bàn qua loa với nhau rồi quyết định không ở lại nghỉ đêm mà lên ngựa về ngay. Thế là họ quân hồi vô phèng, kéo nhau từng đám ra khỏi trấn. Lúc ở nhà lên Karginskaia, họ còn có thái độ miễn cưỡng, ít khi chịu cho ngựa chạy nước kiệu. Nhưng trên đường về họ đã thúc ngựa bạt mạng, cho chạy chết thôi. Thỉnh thoảng lại phi nước đại một chặng. Mặt đất rắn lại vì không có mưa rên siết dưới vó ngựa. Sau những đường sống gò đằng xa, một ánh chớp xanh lè loé lên ở một chỗ nào đó bên kia sông Đông.

    Mọi người về tới thôn lúc nửa đêm. Trong khi cho ngựa chạy trên dốc xuống, Anikey giương khẩu súng áo của hắn nã một phát, một loạt đạn nổ ra như sấm báo tin anh em đã trở về. Để trả lời, những con chó trong thôn sủa lên oăng oẳng, một con ngựa không biết của anh chàng nào, đánh hơi thấy đã gần về tới nhà, run bắn lên hí một tràng dài. Mọi người tản ra mỗi người một ngả vào trong thôn.

    Lúc chia tay với Petro, Marchin Samin thở dài nhẹ nhõm:

    - Chuyện đánh đấm thế là xong rồi! May đến là may!

    Petro mỉm cười trong bóng tối, cho ngựa chạy về sân nhà.

    Ông Panteley Prokofievich ra tiếp lấy con ngựa. Ông tháo yên cho nó rồi dắt vào tầu ngựa. Hai bố con cùng đi vào trong nhà.

    - Thôi không đi đánh nữa à?

    - Vâng.

    - Chà, ơn Chúa! Chỉ mong sao suốt đời không phải nghe nói tới những chuyện ấy nữa.

    Daria đang ngủ mê mệt cũng trở dậy. Ả ra dọn bữa tối cho chồng ăn. Grigori ở nhà trong bước ra, quần áo phong phanh. Chàng vừa gãi gãi bộ ngực đầy lông đen, vừa nheo mắt một cách châm biếm vừa hỏi anh:

    - Quân ta đại thắng chứ?

    - Tao đang tiêu diệt nốt cái món súp củ cải còn lại đây.

    - Không lo, nó chẳng đi đâu mà sợ. Gì chứ món súp nầy thì nhất định chúng ta sẽ trị được nó, nhất là khi có tôi xông tới chi viện.

    Cho tới lễ Phục sinh vẫn chẳng thấy ai đả động gì đến chuyện chiến tranh. Nhưng hôm thứ bảy tuần thánh có một tên sĩ quan đặc phái từ Vosenskaia phi ngựa lới thôn. Hắn quẳng con ngựa mồ hôi đầm đìa ở cổng nhà Korsunov, chạy lên thềm, gươm đập lách cách vào ngưỡng cửa.

    - Có tin tức gì thế! - Miron Grigorievich chạy ra đón hắn ở ngưỡng cửa - Tôi cần gặp ông ataman. Có phải ông không?

    - Tôi đây.

    - Ông cho anh em Cô- dắc sửa soạn vũ trang ngay. Pochenkov đang dẫn bọn Xích vệ tiến qua làng Nagolinskaia. Mệnh lệnh đây. - Hắn lật lần lót mũ đẫm mồ hôi, lấy ra một chiếc phong bì đựng công văn.

    Cụ Grisaka cũng đeo kính ra tiếp chuyện. Mitka từ sân gia súc chạy vào. Mọi người cùng đọc bản mệnh lệnh của tên ataman quân khu. Tên sĩ quan đặc phái dựa vào dãy lan can chạm trổ, đưa tay áo lên chùi những đám bụi trên khuôn mặt dãi dầu nắng gió.

    Ngày thứ nhất lễ Phục sinh, sau khi ăn bữa chấm dứt tuần chay, bọn Cô- dắc bắt đầu rời khỏi thôn lên đường. Mệnh lệnh của tên tướng Alferov rất nghiêm. Hắn doạ ai không đi sẽ bị tước danh hiệu Cô- dắc, vì thế trong trận đi đánh Pochenkov, không chỉ có bốn mươi người như lần đầu mà có một trăm tám mươi. Trong số đó có cả những tên bô lão muốn được dịp ra tay cho quân Đỏ một trận.

    Lão Matvey Kasulin có cái mũi bị khí trời quá lạnh làm hỏng cũng lên ngựa ra đi cùng với thằng con. Lão Apdeit "Vua nói phét" nghênh ngáo trên hàng đầu với con ngựa cái hạng bét. Suốt chặng đường, lão đã mua vui cho bọn Cô- dắc bằng những câu chuyện bịa quái đản nhất. Lão Macxaev cùng vài lão già râu tóc bạc phơ khác cũng tham gia. Bọn trẻ ra đi một cách miễn cưỡng, nhưng mấy lão già lại rất hăng hái.

    Grigori Melekhov cưỡi ngựa đi hàng cuối, mũ áo mưa trùm bên ngoài mũ cát- két. Mưa rơi đều đều như được rây từ trên bầu trời u ám xuống đất. Những đám mây đen trôi trên cánh đồng xanh rờn.

    Một con đại bàng bay chập chờn rất cao, ngay bên dưới những đám mây. Nó vươn rộng đôi cánh, thỉnh thoảng mới vỗ vỗ vài cái, rồi khi bị một luồng gió cuốn đi, nó nghiêng nghiêng mình, tạt dần về hướng đông mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ, bộ lông nâu nâu ánh lên bệch bệch.

    Khắp đồng cỏ tràn ngập một màu xanh ướt át. Chỉ vài chỗ nổi bật lên những đám ngải cứu năm ngoái, những bụi hoàng thử lang đỏ tía, và trên ngọn gò thấy xám xám vài nấm kurgan xưa kia dùng làm địa điểm canh gác.

    Trong khi đi theo đoạn đường dốc xuống Karginskaia, đoàn Cô- dắc gặp một thằng bé đánh bò đi ăn rong. Nó vung cái roi, hai bàn chân không giầy vừa đi vừa tượt. Nhìn thấy đoàn người ngựa, nó đứng lại chăm chú nhìn những người cưỡi ngựa và những con ngựa buộc đuôi bùn lấm bê bết.

    - Em người đâu ta? - Ivan Tomilin hỏi nó.

    - Kargin - Thằng bé mỉm cười dưới cái áo trùm đầu, trả lời rất lanh lợi.

    - Các chú các bác Cô- dắc chỗ em đã ra đi chưa?

    - Ra đi rồi. Đi đánh đuổi bọn Xích vệ rồi. Thế các bác có thuốc lá cho cháu cuốn một điếu không? Bác có không bác?

    - Cháu xin thuốc lá à? - Grigori ghìm ngựa lại hỏi.

    Thằng bé Cô- dắc bước tới gần chàng. Cái quần đi ngựa của nó xắn lên, ướt đẫm, nẹp quần đỏ loé. Grigori thọc tay vào túi lấy túi thuốc. Nó mạnh dạn nhìn vào mắt chàng và nói bằng một giọng nam cao rất lưu loát:

    - Các bác cứ xuống dốc là thấy ngay những người bị giết đấy. Hôm qua bọn tù binh đỏ bị giải đi Vosenskaia, các bác Cô- dắc chỗ cháu đã giết sạch… Bác ạ, lúc ấy cháu đang chăn bò gần kurgan Pextranyi. Cháu đứng ở đấy, bọn tù binh bị chém như thế nào, cháu nhìn thấy rõ cả. Chao ôi, sợ chết khiếp được! Các bác ấy vừa vung gươm lên là họ gào rú, họ chạy tán loạn… Sau đó cháu có lại xem… Một người bị chém sả vai vẫn còn thở lấy thở để, quả tim đầm đìa những máu ở giữa ngực vẫn còn đập, cái gan thì xanh lè lè… Thật là khủng khiếp? - Nó nhắc lại và rất lấy làm lạ vì mấy người Cô- dắc nghe câu chuyện nó kể chẳng có vẻ khiếp sợ gì cả, hay ít nhất nó cũng kết luận như thế khi nhìn ba khuôn mặt gan lì và lạnh nhạt của Grigori, Khristonhia và Tomilin.

    Nó hút một hơi, rồi vuốt cái cổ ướt đẫm của con ngựa Grigori, nói: "Cám ơn bác!" và chạy về với mấy con bò.

    Bên cạnh đường, xác của các chiến sĩ Xích vệ bị chém chết nằm ngổn ngang trên một bờ dốc không sâu lắm được nước mưa xuân rửa sạch, bên trên chỉ được phủ bằng một lớp đất mỏng. Còn có thể nhìn thấy một bộ mặt xanh sẫm như đúc bằng thiếc, với cặp môi đầy máu đọng. Một cái chân thòi lên đen sì trong cái ống quần bông màu lam.

    - Chúng nó tởm lợm không muốn dọn dẹp chôn cất… Lũ khốn kiếp! Khristonhia lầu bầu, giọng âm thầm rồi bất thình lình hắn quất một roi cho con ngựa chạy xuống dốc, đuổi theo Grigori.

    - Thôi thế là ngay trên vùng đất sông Đông đã được thấy đổ máu rồi - Tomilin mỉm cười, một bên má giật giật.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 "Hội liên hiệp nhân dân Nga" - một tổ chức bảo hoàng tàn bạo của nước Nga thời Nga hoàng, cổ động bài Do thái, tổ chức những vụ giết hại dân Do- thái, ám sát các đối thủ chính trị của chúng, được Chính phủ Nga hoàng trợ cấp những món tiền rất lớn (Chú thích của bản tiếng Nga).
  3. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 114

    Một xạ thủ súng máy ở chỗ Buntruc là dân Cô- dắc thôn Tatarsky, tên là Maxim Griatnov. Từ ngày bị mất con ngựa trong trận chiến đấu với quân Kutepov, hắn bắt đầu rượu chè không còn chừng mực gì nữa và lao đầu vào cờ bạc. Con ngựa của Maxim có bộ lông đỏ như lông bò, sống lưng có một dải trắng như bạc. Hắn đang cưỡi thì con ngựa bị bắn chết. Hắn bèn tháo lấy bộ yên, khiểng đi bốn vec- ta. Đến khi thấy mình khó lòng sống sót trước trận tấn công hung dữ của quân Trắng, hắn đành giựt đứt cái đai ngựa rất đẹp tháo lấy bộ dây hàm thiếc, rồi tự ý rút khỏi trận chiến đấu. Về tới Rostov mới lại thấy mặt Maxim. Nhưng chẳng bao lâu hắn chơi bài tính điểm bị thua phải gán thanh gươm bằng bạc tước được trên thây một tên đại uý bị hắn chém chết, nướng thêm mấy thứ đồ thắng ngựa còn lại trong tay, rồi đến cái quần đi ngựa cùng đôi ủng bằng da hoẵng hắn cũng cho đi nốt, và cuối cùng đầu không khăn đít không khố, hắn mò tới đội súng máy của Buntruc. Buntruc lấy quần áo cho hắn mặc, lên lớp cho hắn một trận và chưa biết chừng Maxim dần dần cũng có thể hối cải. Nhưng trong trận chiến đấu vừa mở màn trên con đường tiến vào Rostov, hắn đã bị một viên đạn bắn thủng đầu. Một con mắt màu xanh da trời của Maxim rơi tuột xuống áo sơ- mi, máu tuôn ra như suối từ trong cái sọ mở hoác ra như một cái vỏ đồ hộp. Thế là trên đời nầy tựa như chưa từng bao giờ có anh chàng Cô- dắc Giratnov người trấn Vosenskaia với cái quá khứ ăn cắp ngựa và mới gần đây còn là một con sâu rượu đau khổ

    Buntruc nhìn cái thân hình của Maxim quằn quại trong cơn ngoắc ngoải rồi lau rất kỹ những chỗ máu trên nòng súng máy phọt ra từ lỗ đạn trên đầu Maxim.

    Vừa lúc đó phải rút lui ngay. Buntruc kéo khẩu súng máy đi.

    Maxim nằm lại đấy và lạnh dần trên mảnh đất nóng rực, với cái lưng đen thui phơi ra dưới nắng và cái áo sơ- mi kéo ngược lên đầu (lúc hấp hối, hắn đau quá, cứ kéo ngược cái áo lên).

    Trung đội Xích vệ gồm toàn những chàng bộ binh vừa ở mặt trận Thổ Nhĩ Kỳ về. Họ lui đến ngã tư đầu tiên thì chiếm lĩnh trận địa.

    Một anh chàng đội chiếc mũ lông cháy gần hết, hở cả trán, giúp Buntruc bố trí khẩu súng máy, những người khác dựng đại khái như một cái ụ chiến đấu chặn ngang cái ngõ.

    - Thấy chúng nó kia rồi! - Một anh chàng râu ria xồm xoàm mỉm cười nhìn đoạn đường gờ hình vòng cung rất gần sau ngọn gò.

    - Bây giờ thì chúng mình sẽ cho bọn nó ăn một trận mưa đạn!

    - Bẻ gãy đi thôi, Xamara? - Vài người gọi một chiến sĩ còn trẻ, rất vạm vỡ, đang tháo một mảnh ván trên dãy hàng rào.

    - Chúng nó kia rồi! Đang xông tới đấy! - Anh chàng đội mũ hở trán leo lên mái một kho rượu quan sát rồi kêu lên.

    Anna nằm xuống bên cạnh Buntruc. Anh em Xích vệ bố trí dầy đặc sau công sự tạm thời.

    Giữa lúc ấy, có chừng chín mười chiến sĩ Xích vệ chạy theo cái ngõ bên cạnh, tới bức tường ngôi nhà góc phố, nom cứ như những con gà gô chạy theo bờ ruộng. Một người kịp hô:

    - Chúng nó phi ngừa tới đấy! Bắn đi!

    Trong nháy mắt, chỗ ngã tư đã vắng tanh, bốn bề lặng như tờ.

    Một phút sau có một tên Cô- dắc phi ngựa tới, kéo theo cả một đám bụi mù. Hắn đội mũ cát- két buộc băng trắng, khẩu các- bin kẹp cạnh sườn. Hắn kéo ngoặt dây cương mạnh quá, làm con ngựa khuỵu hai chân sau. Buntruc kịp bắn theo một phát Nagan. Tên Cô- dắc ôm cổ ngựa, phi trở lại. Các chiến sĩ bộ binh có mặt bên cạnh khẩu súng máy có vẻ do dự. Hai người chạy dọc theo dãy hàng rào rồi nằm xuống bên cạnh một cái cổng.

    Rõ ràng là mọi người đã dao động và sắp sửa bỏ chạy đến nơi.

    Không khí chết lặng và căng thẳng đến cực độ, những cặp mắt hốt hoảng không thể hứa hẹn một tinh thần kiên định… Sau nầy Buntruc chỉ còn nhớ một điều cụ thể nhất, rõ ràng nhất là hình ảnh Anna nhảy chồm lên, khẩu súng trường cầm ngang tay, chiếc khăn trật ra sau đầu, làn tóc bay tán loạn, khuôn mặt nhợt nhạt, xúc động đến lạ hẳn đi. Anna quay mặt lại, chỉ tay về phía ngôi nhà có bọn Cô- dắc đang núp sau đó và hô lên bằng một giọng ngắc ra, nghe cũng không nhận ra được ngữa: "Theo tôi!", hô xong Anna xông lên, chân bước chập chững, chốc chốc lại vấp.

    Buntruc chồm dậy, miệng anh méo đi trong một tiếng hô không rõ tiếng gì. Anh chộp lấy khẩu súng trường của người chiến sĩ bộ binh nằm bên cạnh, chạy bổ theo Anna. Anh thở hổn hển, cảm thấy hai chân run một cách khủng khiếp, mặt xạm đi trong cố gắng ghê gớm và bất lực để gào lên, gọi Anna quay trở lại. Phía sau nghe có tiếng thở hổn hển của vài người chạy theo. Từng đường gân thớ thịt trên cơ thể anh đã cảm thấy trước một cái gì khủng khiếp, không sao cứu vãn được, một kết cục rùng rợn đang ập tới. Trong nháy mắt đó, anh đã hiểu rằng hành động của Anna là vô nghĩa lý, là mất trí, và chỉ đưa tới chỗ chết chứ không thể nào lôi kéo được người khác.

    Mới chạy đến góc phố thì có một toán Cô- dắc phi ngựa xông thẳng tới. Chúng bắn một loạt đạn. Đạn kêu víu víu. Anna kêu lên một tiếng thảm thương như một con thỏ, rồi ngồi phịch xuống đất, hai tay vươn ra, mắt như người hoá rồ. Buntruc không nhìn thấy bọn Cô- dắc quay ngựa bỏ chạy, không nhìn thấy các chiến sĩ bộ binh trong số mười tám người lúc nãy bố trí bên cạnh khẩu súng máy bị lôi cuốn theo nhiệt tình của Anna đang xông lên truy kích. Trước mặt anh chỉ thấy có Anna, một mình Anna, chỉ thấy Anna đang giãy dụa dưới chân mình. Tuy không còn cảm thấy hai tay mình nữa, Buntruc vẫn lật được Anna nằm nghiêng, và cố bế Anna lên để đưa đến một chỗ nào đó. Anh nhìn thấy một dòng máu chảy đầm đìa ở dưới sườn trái và những miếng rách của cái áo ngắn màu lam lủng lẳng lầy nhầy quanh vết thương, biết ngay rằng đây là một vết thương do đạn đum đum 1, biết rằng Anna sắp chết và cái chết đó anh đã nhìn thấy trong hai con mắt ngầu đục của Anna.

    Có người đẩy Buntruc ra. Anna được khiêng tới một ngôi nhà gần đấy, đặt vào một chỗ mát dưới cái hiên nhà kho.

    Người chiến sĩ bộ binh đội mũ hở trán nhét những nắm bông vào vết thương, đến khi thấy những nắm bông ấy trương lên, đen sịt những máu lại vứt đi. Buntruc đã trấn tĩnh lại được, anh cởi khuy cổ cái áo trong của Anna, rồi xé một mảnh áo sơ- mi của mình, vo tròn lại ấn lên vết thương. Anh thấy máu trong vết thương sủi lên, hơi thở phì ra qua lỗ hổng, anh thấy mặt Anna trắng bệch ra, sạm lại, cặp môi thâm tím run rẩy lập bập trong cơn đau đớn. Miệng Anna thở lấy thở để, nhưng phổi vẫn bị ngạt vì hơi thở phì ra cả đằng miệng lẫn qua vết thương. Buntruc không còn ngượng gì nữa, anh xé cái áo lót của Anna, lột trần cái thân hình đầm đìa mồ hôi trước khi lọt vào tay Thần chết. Cuối cùng đại khái cũng dùng nút gạt bịt được miệng vết thương. Vài phút sau Anna tỉnh lại. Cặp mắt sâu hoắm mở ra nhìn Buntruc giữa hai cái quầng thâm đen vì máu chảy bên trong, rồi hai hàng mi lại run run nhắm lại.

    - Nước! Nóng quá! - Anna gào lên rồi vừa giãy giụa, vừa nức nở - Em muốn sống! Ilia- a- a! Anh yêu! A- a- a!

    Buntruc gắn cặp môi sưng mọng của anh lên hai cái má nóng chảy như lửa của Anna và đổ nước trong cái ca lên ngực Anna. Nước chảy vào đầy hai chỗ hõm ở xương đòn gánh, nhưng lại ráo hoảnh ngay. Ngọn lửa của cái chết đang thiêu đốt Anna. Buntruc đổ đến bao nhiêu nước, Anna vẫn vùng vẫy, trườn ra khỏi tay anh.

    - Nóng quá! Lửa đâu thế nầy?

    Sau khi đã kiệt sức, người có phần lạnh đi, Anna nói rành rọt.

    - Anh Buntruc, tại sao thế nhỉ? Chao ôi, anh thấy không, tất cả sao mà đơn giản! Anh quả là kỳ quặcl… Đơn giản một cách khủng khiếp Anh Ilia… Anh yêu của em, thể nào anh cũng nói với mẹ nhé… Anh có biết… - Anna hé mở hai con mắt nheo nheo như muốn cười rồi cố nén cả cái đau lẫn cái sợ, nói líu nhíu khó hiểu, tựa như vừa nói vừa bị nghẹn vì cái gì - Đầu tiên chỉ có cảm giác… Bị va mạnh và bị cháy bỏng… Bây giờ thì khắp người em nóng rực… Em cảm thấy em sắp chết rồi… - Anna thấy Buntruc xua tay một cách đau khổ như muốn bảo không phải thế, bèn nhăn mặt. - Thôi đi anh! Chao ôi, tức thở quá!

    Những lúc bớt đau, Anna nói luôn miệng, nói rất nhiều như cố thổ lộ cho hết những điều đè nặng trong lòng mình. Buntruc rất đỗi kinh hoàng khi thấy mặt Anna sáng bừng lên, hai bên thái dương trở nên trong bóng, vàng ệch. Anh đưa mắt nhìn xuống hai tay Anna lúc nầy đã buông thõng hai bên sườn, không còn sức sống nữa, thấy những móng tay đã biến thành màu hồng hồng xanh xanh như những quả mận chín dở.

    - Nước… Lên ngực… Nóng quá!

    Buntruc chạy bổ vào trong nhà lấy nước. Lúc quay ra thì không còn nghe thấy tiếng Anna rên khò khè dưới mái nhà kho nữa. Mặt trời đã xuống thấp chiếu lên cái miệng méo xệch trong cơn giãy chết cuối cùng, lên bàn tay còn ấm áp chặn vào vết thương, nom cứ như cái mô hình nặn bằng sáp ong chứ không phải tay thật. Buntruc từ từ ôm lấy vai Anna, nâng Anna dậy, nhìn một phút cái mũi có phần nhọn thêm ra và những điểm tàn hương nhỏ đã đen lại ở chỗ tinh mũi, cố vót vát chút ánh sáng còn ngưng đọng trong đồng tử của cặp mắt he hé dưới hai hàng lông mày đen vươn rộng một cách phóng khoáng. Đầu Anna lật ngửa ra bất lực, rũ xuống mỗi lúc một thấp trên cái cổ thon nhỏ của một người con gái với mạch máu hằn lên xanh xanh đã đập nhịp cuối cùng.

    Buntruc áp đôi môi anh lên một bên mi mắt tím quầng chưa nhắm nghiền hẳn, gọi thất thanh:

    - Em ơi? Anna ơi! - Gọi xong anh đứng dậy, quay ngoắt bỏ đi, người rướn thẳng một cách rất không tự nhiên, hai tay áp chặt vào đùi không động đậy.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Một thứ đạn cắm sâu vào mục tiẽu rồi mới nổ, khi nổ nghe có tiếng "đum đum".
  4. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 115

    Mấy ngày nay, Buntruc cứ như sống trong cơn mê của một người mắc bệnh thương hàn. Anh đi lại, làm việc nầy việc nọ, ăn, ngủ, nhưng lúc nào cũng như trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê ngây ngất, say sưa. Hai con mắt anh sưng lên, đầy vẻ điên dại, cứ nhìn cái thế giới trải rộng chung quanh mình nhưng chẳng hiểu gì cả. Gặp những người quen biết, anh không nhận ra họ nữa. Nom anh như một người đang say bí tỉ hoặc vừa thoát khỏi một trận ốm liệt giường và đã hoàn toàn kiệt sức. Sau khi Anna qua đời, các giác quan của Bôntrúc bị mất tác dụng một thời gian: anh chẳng mong muốn gì mà cũng chẳng nghĩ tới điều gì nữa.

    - Ăn đi, Buntruc! - Các đồng chí khác bảo anh ăn, thế là ngồi vào ăn, quai hàm thẫn thờ đưa đi đưa lại một cách mệt mỏi, hai con mắt nhìn đăm đăm vào một điểm.

    Mọi người theo dõi Buntruc, bàn nên đưa anh vào bệnh viện.

    - Anh ốm đấy à? - Hôm sau có một chiến sĩ súng máy hỏi anh.

    - Không.

    - Thế thì anh làm sao vậy? Nhớ Anna à?

    - Không.

    - Thôi được, chúng ta cùng hút điếu thuốc nhé. Người anh em ạ, bây giờ Anna không còn sống lại được nữa đâu. Thương nhớ chỉ hoài công.

    - Đến giờ đi ngủ người ta bảo anh:

    - Cậu đi ngủ đi. Đến giờ rồi đấy.

    Thế là Buntruc nằm vào giường.

    Anh đã sống bốn ngày liền trong cái trạng thái nhất thời chơi vơi ngoài thực tế như thế. Đến ngày thứ năm thì Krivoslykov bắt gặp anh ở ngoài phố, bèn nắm lấy tay áo anh và bảo:

    - Chà tóm được cậu đây rồi, mình đi tìm cậu mãi. - Krivoslykov chưa được biết về những chuyện xảy ra với Buntruc. Anh mỉm cười lo lắng, thân mật vỗ vai Buntruc. - Cậu làm sao thế nầy? Vừa có tí tửu phải không? Cậu đã được nghe nói về chuyện một đại đội viễn chinh sắp được phái lên các quân khu miền Bắc chưa? Còn sao nữa, một Uỷ ban năm người vừa được bầu ra. Fedor sẽ lãnh đạo. Chỉ còn hy vọng vào bà con Cô- dắc miền Bắc nữa thôi. Nếu không tất cả sẽ hỏng bét. Tình hình đang gay go lắm! Cậu sẽ đi chứ? Bọn mình đang cần một số đồng chí làm công tác cổ động. Cậu sẽ đi chứ?

    - Đi - Buntruc trả lời gọn lỏn.

    - Thế thì tốt lắm. Ngày mai chúng mình sẽ lên đường. Cậu cứ tới chỗ cụ Orlov, ông cụ sẽ dẫn đường cho chúng mình đấy.

    Vẫn trong trạng thái hồn vía lên chín từng mây, Buntruc làm các việc chuẩn bị lên đường, và hôm sau, tức là ngày mồng một tháng Năm, anh ra đi cùng với đội viễn chinh.

    Dạo nầy, chính quyền Xô viết vùng sông Đông đang lâm vào tình thế rõ ràng bị đe doạ nghiêm trọng. Các đơn vị chiếm đóng của quân Đức tiến từ Ukraina sang, các trấn và các khu miền dưới hoàn toàn bị tràn ngập dưới làn sóng bạo động phản cách mạng Popop lượn đi lượn lại trong khu vực qua mùa đông và từ đấy uy hiếp Novocherkask. Đại đội đại biểu Xô viết quân khu họp ở Rostov từ mồng mười đến mười ba tháng Tư đã bị gián đoạn đến mấy lần, vì dân Cherkask dấy loạn đang tiến về phía Rostov và đã chiếm được vùng ngoại ô. Chỉ ở miền Bắc, trong hai quân khu Khopesky và Ust- Medvedisky là còn vài căn cứ cách mạng tương đối có tinh thần, và chính các căn cứ ấy đã tự nhiên thu hút Pochenkov cùng những người đã mất niềm tin vào sự ủng hộ của dân Cô- dắc vùng dưới. Công tác động viên vào quân đội đã thất bại, vì thế theo sáng kiến của Laguchin, Pochenkov vừa được bầu làm chủ tịch Xô viết các uỷ viên nhân dân sông Đông, đã quyết định tiến về phía bắc, để động viên trên đó ba bốn trung đoàn gồm các binh sĩ Cô- dắc mới ở mặt trận về, và đưa các trung đoàn ấy đi đánh quân Đức cùng lực lượng phản cách mạng ở vùng dưới.

    Một Uỷ ban động viên đặc biệt gồm năm người do Pochenkov lãnh đạo đã được bầu ra. Ngày hai mươi chín tháng Tư đã trích công quỹ lấy mười triệu đồng vừa tiền rúp, vừa vàng, vừa giấy bạc Nicolai để dùng cho các nhu cầu của việc động viên. Một đội vũ trang đã được tổ chức vội vã để bảo vệ các hòm tiền, đội nầy chủ yếu gồm những anh em Cô- dắc trước kia thuộc đội cảnh bị địa phương Kamenskaia. Ngoài ra còn lấy thêm vài cán bộ cổ động người Cô- dắc. Ngày mồng một tháng Năm, ngay dưới làn đạn máy bay Đức, đội viễn chinh lên đường về hướng Kamenskaia.

    Các con đường đều bị tắc vì những đoàn xe chở các chi đội Xích vệ rút lui khỏi Ukraina. Quân phiến loạn Cô- dắc phá cầu cống, gây ra những vụ đổ tầu. Sáng nào trên con đường Novocherkask - Kamenskaia cũng thấy máy bay Đức xuất hiện. Những chiếc máy bay lượn vòng như những đàn diều hâu, rồi là xuống, nã vài tràng súng máy ngắn ngủi. Các chiến sĩ Xích vệ chạy tản ra khỏi các đoàn xe, nổ súng loạn lên từng hồi. Ở bất cứ ga nào, mùi than xỉ cũng hoà lẫn với cái mùi khe khé của chiến tranh và chết chóc. Những chiếc máy bay đã ngóc cổ lao lên những độ cao khó tưởng tượng, nhưng các xạ thủ vẫn ra sức bắn cho vơi các hòm kẽm đựng đạn. Nếu đi qua các đoàn tầu nhà binh thì ủng sẽ thụt đến mắt cá trong vỏ đạn. Cát bị lớp vỏ đạn phủ kín như những khe núi trong tháng Mười một dưới lớp lá sồi vàng óng. Mọi vật đều ghi dấu một sự phá hoại không còn mức độ nào nữa: Trên các sườn đồi ngổn ngang những toa xe bị đốt, bị phá vỡ đen như than. Trên các cột điện tín, dây thép đứt cuốn loằng ngoằng quanh những chiếc bình bằng sứ trắng như đường. Nhiều ngôi nhà đã bị phá huỷ, các bảng tín hiệu dọc các tuyến đường sắt đều biến đi đâu mất như sau một trận bão lớn…

    Đội viễn chinh đã len lỏi tiến theo hướng Minlerovo được năm ngày. Đến sáng ngày thứ sau, Pochenkov triệu tập các uỷ viên đến toa của anh.

    - Không còn có thể đi như thế nầy được nữa đâu! Phải bỏ tất cả đồ đạc của chúng ta lại để xuống xe hành quân thôi.

    - Cậu nói gì thế? - Laguchin ngạc nhiên kêu lên - Hành quân trên đường thì trước khi mò được tới Ust- Medvedskaia, quân Trắng đã dẫm qua xác chúng ta rồi.

    - Còn khá xa đấy, - Mrykhin ngập ngừng.

    Krivoslykov vừa đuổi kịp đội viễn chinh chưa được bao lâu. Anh chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi thu lu trong chiếc áo ca- pôt đính những chiếc quân hiệu bạc màu. Anh đang lên cơn sốt rét, uống ký ninh đến ù cả tai, đầu nóng bừng bừng, cứ gù gù cái lưng ngồi trên một túi đường, mắt mờ đi dưới lớp màng của bệnh sốt rét.

    - Krivoslykov? - Pochenkov gọi nhưng mắt vẫn không rời tấm bản đồ.

    - Cậu cần gì thế?

    - Cậu không nghe thấy chúng mình đang nói về chuyện gì à? Phải xuống tầu đi bộ thôi, nếu không bị chúng nó đuổi kịp thì sẽ mất mạng. Cậu thấy thế nào hử? Cậu được học hành nhiều hơn bọn mình, bây giờ cậu hãy nói đi.

    - Kể ra đi bộ cũng được - Krivoslykov nói thủng thẳng từng tiếng, nhưng bỗng nhiên hai hàm răng anh đập vào nhau lách cách, cứ như răng chó sói, toàn thân run bần bật trong cơn sốt rét đang phát lên đến cực độ. - Cũng được đấy nếu đồ đạc mang theo ít hơn.

    Pochenkov mở rộng tấm bản đồ bên cạnh cửa sổ. Mrykhin giữ hai góc. Dưới ngọn gió thổi từ phía trời tây u ám, tấm bản đồ đập lạch phạch rồi bay đánh soạt khỏi tay hai người.

    - Chúng ta sẽ đi như thế nào, cậu xem nhé! - Ngón tay vàng khè vì khói thuốc của Pochenkov đưa tréo qua tấm bản đồ. - Cậu có thấy tỉ lệ không? Chừng trăm rưởi vec- xta quá lắm hai trăm là cùng. Thế đấy!

    - Giải quyết như thế mà đúng đấy, mẹ khỉ! - Laguchin đồng ý.

    - Cậu thấy thế nào, Mikhail?

    Krivoslykov nhún vai có vẻ bực bội.

    - Mình không phản đối.

    - Mình sẽ ra bảo ngay anh em Cô- dắc xuống tầu. Không nên để mất thì giờ làm gì.

    Mrykhin đưa mắt nhìn mọi người một lượt có vẻ chờ đợi. Anh chàng thấy không có ai phản đối, bèn nhảy ra khỏi toa xe.

    Trong buổi sáng âm u mưa dầm rả rích đó, đoàn xe nhà binh chở đội quân viễn chinh của Pochenkov dừng lại ở một nơi cách Belaya Katliva không xa mấy. Buntruc nằm trọng toa xe của anh, áo ca- pôt trùm kín đầu. Anh em Cô- dắc nấu nước trà ngay trong toa, người nọ đem người kia ra pha trò và cùng cười khà khà.

    Vanca Bondyrov, anh chàng vua cù hay chế giễu người khác, dân trấn Migulinskaia, đang trêu bạn, một chàng súng máy.

    - Íchnát nầy, cậu là dân tỉnh nào thế nhỉ? - Vanca hỏi, giọng vốn đã khàn lại càng khê đặc vì khói thuốc lá.

    - Tambobskaia, - Ichnát vốn tính hiền lành, hắn trả lời bằng một giọng trầm rất dịu dàng.

    - Có lẽ cậu ở thôn Morsansky phải không?

    - Không, thôn Satsky.

    - À - à- à cái dân Sátsky nhà cậu toàn là những tay gan dạ ra phết: đánh nhau thì bảy mình chọi một địch cũng chẳng sợ. Có phải hồi vua Nga lên ngôi thôn cậu đã dùng dưa chuột chọc tiết bò, phải không?

    - Thôi, cậu hãy bỏ cái chuyện ấy đi!

    - À phải, mình quên khuấy đi mất, cái chuyện ấy không phải đã xảy ra ở thôn cậu đâu. Hình như ở thôn cậu bà con đã đem những cái bánh tráng xếp thành một toà nhà thờ rồi đặt lên những hạt đậu Hà Lan để đẩy cho lăn xuống dốc phải không? Có cái chuyện như thế không nhỉ?

    Vừa lúc ấy ấm trà bắt đầu sôi, vì thế Ichnat tạm thời thoát được những lời bông phèn của Bondyrev. Nhưng mọi người vừa ngồi vào ăn sáng, Vanca đã lại giở trò:

    - Ichnát nầy, hình như cậu ít ăn thịt lợn thì phải. Cậu không thích thịt lợn có phải không?

    - Không, ăn cũng chẳng sao.

    - Thế thì cho cậu cái b… lợn nầy. Ngon tuyệt đấy!

    Mọi người cười rộ. Có anh chàng bị nghẹn ho sặc sụa. Trong toa xe náo lên một lát, đế ủng đập xuống sàn tầu ầm ầm. Một phút sau mới nghe thấy cái giọng hổn hển và tức tối của Ichnát:

    - Của cậu, cậu ăn đi, đồ quỷ? Sao cậu lại đem cái con b... của cậu ra đây?

    - B… mình đâu, b… lợn đấy.

    - Cũng chỉ là của bẩn thỉu cả thôi?

    Mặt Bondyrev vẫn phớt lạnh, hắn kéo dài cái giọng khàn đặc:

    - Bẩn thỉu ấy à? Đầu óc cậu để ở đâu thế? Ngày lễ Phục sinh người ta đem nó ra phong chức thánh đấy. Nhưng cậu cứ nói thật đi, cậu sợ phạm kiêng kỵ ngày ăn chay à?

    Bondyrev có một người bạn đồng hương là một chàng Cô- dắc đẹp trai râu tóc màu hạt dẻ nhạt, đã từng được thưởng cả bốn hạng huân chương thánh Gioóc. Anh ta thấy thế bèn khuyên:

    - Thôi bỏ chuyện ấy đi, Ivan! Cậu làm như thế thì lúc choảng nhau với bọn mu- gích sẽ xúi quẩy đấy. Nó ăn b… lợn vào rồi đầu óc sẽ chỉ còn nghĩ tới chuyện đi mò như con lợn đực thôi. Nhưng cái của nầy cậu rước ở đâu về thế hử?

    Buntruc vẫn nằm, hai con mắt nhắm nghiền. Câu chuyện trao đổi giữa mọi người không lọt vào tai anh, vì anh đang sống với nỗi đau khổ vừa đổ lên đầu anh trong thời gian gần đây, nó không hề nguôi đi mà thậm chí như ngày một tăng thêm. Tuy nhắm mắt, nhưng anh vẫn thấy mung lung hiện ra một cánh đồng cỏ đầy tuyết quay lộn, với những cánh rừng nhấp nhô nâu nâu trên chân trời đằng xa. Anh cảm thấy như có luồng gió lạnh và nhìn thấy Anna bên cạnh mình với cặp mắt đen nhánh, những nét kiên định nhưng dịu dàng của cái miệng đáng yêu, những điểm tàn hương nhỏ li ti ở chỗ tinh mũi, một vết nhăn tư lự ngang trán… Buntruc không nghe thấy những lời thót ra từ miệng Anna, những lời đó rất khó nghe, khó hiểu vì bị át bởi những tiếng nói tiếng cười của những người nào đó, nhưng nhìn những cái ánh long lanh trong cặp đồng tử, nhìn hai hàng mi cong rung rung, anh đoán rằng Anna đang nói… Nhưng đây là một Anna khác hẳn mọi khi: da mặt xanh xanh vàng vàng, những dòng nước mắt đọng lại trên má, cái mũi nhọn hoắt ra và cặp môi méo đi vì đau khổ nom thật đáng sợ. Buntruc cúi xuống hôn hai con mắt đờ đẫn sâu hoắm, đen ngòm… Anh rên lên một tiếng nhưng đưa ngay tay trái lên bị chặt miệng mình để khỏi oà lên khóc. Những ngày qua không hề làm cho hình ảnh Anna phai nhoà hay mờ đục. Khuôn mặt Anna, thân hình, dáng đi cử chỉ, những sự thay đổi trong đường môi, ánh mắt và nét lông mày phóng khoáng của Anna, tất cả vẫn họp lại thành một Anna trọn vẹn và sống động. Buntruc nhớ lại những lời nói đầy tình cảm lãng mạn của Anna, nhớ lại tất cả những gì mình đã trải qua cùng với Anna.

    Thấy có lệnh xuống tàu, anh em bèn gọi Buntruc. Anh đứng dậy, thẫn thờ thu dọn đồ đạc rồi rời khỏi toa xe. Sau đó anh giúp việc dỡ hàng và vẫn thẫn thờ như thế ngồi lên chiếc xe ngựa để lại lên đường.

    Mưa lâm râm. Những đám cỏ cằn cỗi hai bên đường đều ướt đẫm. Đồng cỏ. Gió tự do hoành hành trên các đường sống đồi cũng như dưới những cái khe. Các thôn trại liên tiếp hiện ra, cái xa, cái gần.

    Những đám khói trên các đầu máy xe lửa và các khối kiến trúc chữ nhật đỏ đỏ của nhà ga đã bị để lại phía sau. Hơn bốn chục chiếc xe ngựa thuê ở Belaya Kalitva nối đuôi nhau chạy trên đường cái.

    Những con ngựa không chạy nhanh được. Lòng đường vừa đất sét vừa đất đen bị thấm nước mưa rất khó đi. Bùn bám vào các bánh xe từng đám nom như những túm bông đen. Từng đoàn thợ mỏ của khu Belokalitvensky đi phía trước và phía sau đội viễn chinh. Họ chạy về phía đông để trốn tránh bạo quyền của dân Cô- dắc, đem thêm bầu đoàn thê tử và chút đồ đạc nghèo nàn.

    Khi đội viễn chinh tiến đến gần nhà ga tránh xe Gratri, hai chi đội Xích vệ của Romanovsky và Sadelko đuổi theo kịp. Cả hai đều bị đánh thất điên bát đảo. Mặt các chiến sĩ đều đen xạm, tiều tụy vì những trận chiến đấu, những đêm không ngủ và những sự thiếu thốn. Sadelko lại gần Pochenkov. Khuôn mặt đẹp trai của anh với hàng ria tỉa theo kiểu ănglê. Cái mũi thanh thanh, nom hốc hác hẳn đi Buntruc đi qua, thấy Sadelko cau mày nói bằng một giọng vừa bực bội vừa mệt mỏi:

    - Anh nói gì với tôi vậy? Chẳng nhẽ tôi không hiểu rõ những anh em dưới quyền tôi hay sao? Tình hình nguy khốn lắm, lại còn quân Đức nữa chứ, mẹ cái bọn khốn kiếp! Thế nầy thì bao giờ mới mộ đủ quân?

    Sau câu chuyện trao đổi với Sadelko, Pochenkov trở nên nhăn nhó khổ sở và tựa như có phần hoang mang. Anh đuổi theo chiếc xe của anh, xao xuyến nói không biết những gì với Krivoslykov.

    Buntruc nhìn theo hai người thấy Krivoslykov chống khuỷu tay nhổm lên, nói liến thoắng một tràng, vừa nói vừa đưa bàn tay chém lia lịa trong không khí. Pochenkov lại vui hẳn lên, anh nhảy lên xe ngựa, khung xe kêu răng rắc dưới cái thân hình chàng pháo thủ nặng tới sáu pút. Người đánh xe ra roi quất hai con ngựa, bùn bắn vung từng nắm sang hai bên.

    - Cứ quất đi!

    Pochenkov nheo mắt kêu lên, tà áo da mở phanh đón gió.
  5. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 116

    Trong vài ngày đội viễn chinh tiến sâu vào lòng quân khu Donesky, cố tới được trấn Krasnokurskaia. Nhân dân các làng Ukraina bao giờ cũng đón tiếp họ với một thái độ niềm nở mến khách. Người ta vui lòng bán cho lương thực, rơm rạ và cho ở nhờ, nhưng hễ đả động tới chuyện thuê ngựa đi Krasnokurskaia là dân Ukraina tỏ vẻ nghi ngại, đưa tay lên gãi gáy rồi từ chối thẳng thừng.

    - Chúng tôi sẽ trả nhiều tiền, có gì mà bác làm bộ làm tịch thế? - Pochenkov hỏi một người Ukrraina.

    - Đâu có nhưng đối với tôi cuộc đời không phải không đáng một đồng xu nhỏ.

    - Cuộc đời bác mặc bác, không can gì đến chúng tôi. Cứ cho chúng tôi thuê ngựa và xe đi.

    - Không, không được đâu.

    - Sao lại không được?

    - Bác tới chỗ bọn Cô- dắc có phải không?

    - Phải, nhưng sao cơ chứ.

    - Đến đấy sẽ có thể xảy ra chuyện nọ chuyện kia. Chẳng nhẽ tôi không biết lo thân hay sao? Bị chúng nó giết mất ngựa thì tôi sẽ biết làm thế nào? Không đâu bác ạ, tôi chẳng đi đâu!

    Càng tới gần khu du mục Krasnokurskaia, Pochenkov cùng những người khác càng lo. Mọi người đã cảm thấy sự chuyển biến trong tinh thần dân chúng. Những làng đầu tiên còn đón tiếp nồng hậu, nhưng càng vào sâu, người ta càng có thái độ rõ ràng là không thân thiện và có ý đề phòng. Họ chỉ để lại lương thực một cách miễn cưỡng, tránh không trả lời những câu hỏi. Không còn thấy thanh niên trong làng tới vây quanh các xe của đội viễn chinh như những cái thắt lưng hoa nữa. Người ta đứng trong cửa sổ gườm gườm nhìn ra như quân thù quân hằn rồi vội vã quay vào trong nhà.

    - Bà con ở đây có phải là con chiến của Chúa hay không hử? - Những chàng Cô- dắc trong đội viễn chính phẫn nộ hỏi - Làm gì mà cứ nhìn người ta như loài cú vọ thế hử?

    Đến khi tới một làng thuộc quận Nagolinskaia, anh chàng Vanca Bondyrev điên tiết trước thái độ tiếp đón lạnh nhạt, đã ném mạnh cái mũ của hắn xuống đất rồi quát lên bằng một giọng khàn khàn, nhưng mắt vẫn lấm lét nhìn quanh xem có cấp trên đi qua không.

    - Các người là người hay là quỷ hử? Sao cứ câm như hến thế, mẹ các người ra? Người ta đổ máu bảo vệ quyền lợi cho các người mà các người cũng chẳng mở mắt nhìn người ta! Cái kiểu đối với nhau xưa kia nhục nhã lắm rồi? Bây giờ là đồng chí với nhau, là bình đẳng, không còn phân chia Cô- dắc và khô- khon 1 nữa đâu, không còn có gì phân biệt nữa đâu. Thôi mang gà mang trứng ra đây mau lên, chúng tôi sẽ trả tất cả bằng giấy bạc Nicolai!

    Năm sáu người Ukraina nghe Bondyrev quát lác cứ gục đầu đứng yên, như những con ngựa bị thắng vào ách cày. Chẳng ai hé răng nửa lời để hưởng ứng những câu nói sôi nổi của anh chàng.

    - Cái lũ chết tiệt, các người đã là khô- khon thì sẽ vẫn là khô- khon thôi! Đồ quỷ dữ, thôi mặc cho các người tan xương làm trăm mảnh! Dịch tả dịch hạch bắt các người đi, đồ tư sản bụng phệ? - Bondyrev nhặt cái mũ lên rồi lại ném nó xuống, lòng khinh bỉ đến cực độ làm mặt anh chàng đỏ như gấc - Ở chỗ các ngài giữa mùa đông cũng chẳng xin nổi của các người một nắm tuyết đâu!

    - Thôi đừng oăng oẳng lên nữa! - Những người Ukraina chỉ nói thế với anh ta rồi bỏ đi mỗi người một ngả.

    Cũng ở làng ngày, một bà già Ukraina hỏi một chàng Cô- dắc Xích vệ:

    - Có đúng là các bác sẽ cướp sạch, giết sạch mọi người có phải không?

    Chàng Cô- dắc nhà ta trả lời, mắt không chớp:

    - Đúng đấy. Nhưng không phải ai cũng giết tuốt đâu, mà chỉ giết bọn bô lão thôi.

    - Chao ôi, lạy Chúa tôi? Nhưng tại sao các bác lại phải làm như thế?

    - Chúng tôi đem họ đi nấu cháo ăn mà lỵ: thịt cừu bây giờ dai như giẻ rách ấy, chẳng đậm đà chút nào. Quẳng một lão già vào nồi là có váng mỡ nổi lên ngay…

    - Có lẽ bác chỉ nói đùa đấy thôi?

    - Nó nói láo đấy, bà cụ à? Nó đùa dai đấy? - Mrykhin nói xen vào câu chuyện.

    Nói xong anh nghiêm khắc quát cho anh chàng đùa tếu kia một trận:

    - Cậu phải biết nên nói đùa như thế nào và nói đùa với ai mới được! Với những câu nói đùa như thế cậu có thể bị Pochenkov cho ăn mấy cái bợp tai đấy! Tại sao cậu lại gây chuyện như vậy! Rồi bà cụ sẽ đi nói vung ra là chúng ta giết bọn bô lão cho mà xem.

    Pochenkov rút ngắn các thời gian nghỉ đêm và đóng quân. Trong lòng bồn chồn như lửa đốt, anh lao đầu về phía trươc. Một ngày trước khi tới khu du mục của trấn Krasnokurskaia, anh nói chuyện rất lâu với Laguchin, cho biết các ý nghĩ của anh:

    - Ivan ạ, chúng ta không nên đi xa đâu. Đến được trấn Ust- Khop là chúng ta bắt tay vào việc ngay! Chúng ta sẽ tuyên bố tuyển quân chúng ta sẽ phát cho mỗi người tiền lương là một trăm rúp, nhưng phải mang ngựa và trang bị cùng đi, không thể tiêu phí tiền của nhân dân được. Từ Ust- Khop, chúng ta sẽ tiến ngược lên, qua trấn Bukanovskaia của cậu, tới các trấn Slasevskaia, Fedorseevskaia, Kumulgenskaia, Gladunovskaia, Xkurisenskaia. Đến Mikhailovskaia thì đã có một sư rồi. Liệu chúng ta có mộ được không nhỉ?

    - Mộ thì sẽ mộ được, nếu như tất cả các mặt còn yên ổn.

    - Cậu cũng cho rằng cả trên đó đã bắt đầu có chuyện rồi hay sao?

    - Làm thế nào mà biết được? - Laguchin vuốt vuốt chòm râu thưa thớt, nói giọng the thé như than vãn - Chúng ta hơi muộn mất rồi… Fedor ạ, mình chỉ sợ chúng ta lên đó sẽ không kịp. Bọn sĩ quan đang giở cái trò của chúng nó trên đó rồi. Phải quàng lên mới được.

    - Phải quàng lên thật đấy. Nhưng cậu đừng lo sợ! - Chúng ta không có quyền sợ, - Mắt Pochenkov trở nên nghiêm khắc. - Lãnh đạo anh em đi theo mình thì sao lại có thể sợ được. Chúng ta sẽ tới kịp! Chúng ta sẽ xông qua hết! Hai tuần nữa mình sẽ choảng cả quân Trắng lẫn quân Đức cho mà xem! Quỷ dữ bắt chúng nó đi, chúng ta sẽ tống cổ chúng nó ra khỏi vùng đất sòng Đông! - Rồi anh nín lặng một lát, hút lấy hút để hết một điếu thuốc và nói lên ý nghĩ thầm kín của mình - Nếu chúng ta chậm thì sẽ chết cả chúng ta lẫn chính quyền Xô viết vùng sông Đông. Chao ôi, đừng có muộn mới được! Nếu cuộc dấy loạn của bọn sĩ quan lan tới đó trước chúng ta thì tất cả sẽ đi đứt!

    Hôm sau đội viễn chinh tiến vào địa hạt trấn Krasnokurs trước khi trời hoàng hôn. Lúc còn chưa tới thôn Alekseevsky, Pochenkov cùng với Laguchin và Krivoslykov ngồi trên một trong những chiếc xe đi đầu, bỗng thấy một đàn bò đi trên đồng cỏ.

    - Chúng ta hỏi người chăn bò đi, - Laguchin gợi ý.

    - Hai cậu đi đi, - Krivoslykov tán thành.

    Laguchin và Pochenkov nhảy trên xe xuống, đi tới chỗ đàn bò.

    Bãi chăn nuôi đã bị nắng làm cháy thui, lớp cỏ nâu bóng đã thấp lè tè lại bị vó ngựa dẫm nát, chỉ ven đường có những cây sơn giới nở hoa vàng vàng từng bụi nhỏ và lúa yến mạch dại rất to hạt rạt rào như những cái chổi lồm xồm. Pochenkov vò trong tay một nhánh hoa ngải cứu rất già, bước tới trước mặt người chăn bò.

    - Chào cụ, cụ có khoẻ không?

    - Ơn Chúa.

    - Cụ chăn bò à?

    - Vâng, tôi chăn.

    Ông lão đưa đi đưa lại cây gậy rất to, nhìn gườm gườm dưới hai hàng lông mày rậm rì bạc như nước.

    - Thế nào, công việc làm ăn của cụ như thế nào? - Pochenkov hỏi một câu lấy lệ.

    - Được Chúa cứu giúp nên cũng khá.

    - Vùng bà con ta đây có chuyện gì mới không cụ?

    - Chẳng nghe thấy có chuyện gì mới cả. Nhưng các bác là ai thế?

    - Chúng tôi là con nhà lính, bây giờ về nhà đây.

    - Các bác người đâu ta?

    - Là dân trấn Ust- Khopeskaia.

    - Cái thằng Pochenkov có đi với các bác không?

    - Có đi với chúng tôi.

    Ông lão chăn bò xem ra đã hết hồn hết vía mặt cắt không còn hột máu.

    - Có gì mà sợ thế cụ?

    - Sợ hẳn đi chứ, nhưng các bác đây hãy làm phúc làm đức… người ta bảo rằng các bác giết tất cả những người theo Chính giáo cơ mà.

    - Chỉ bậy! Kẻ nào phao đồn những tin nhảm như thế?

    - Hôm kia họp đại hội toàn thôn, ông ataman đã nói như thế đấy. Không biết ông ấy chỉ nghe đồn hay có nhận được giấy tờ chính thức cho biết rằng Pochenkov đem bọn Kalmys đi, gặp ai cũng giết sạch.

    - Vùng bà con ta đây đã bầu ataman rồi à? - Laguchin đưa nhanh mắt nhìn Pochenkov.

    Pochenkov cắn cắn một sợi cỏ trong những cái răng vàng khè.

    - Hôm nọ đã bầu ataman và đóng cửa Xô viết rồi.

    Laguchin còn định hỏi thêm một câu gì nữa, nhưng ngay gần đấy có một con bò mộng trán hói rất khoẻ nhảy một con bò cái, làm con bò cái khuỵu cả chân.

    - Gãy xương nó mất rồi, đồ chết tiệt! - Ông lão chăn bò quát lên rồi chạy vùng tới chỗ đàn bò, nhanh nhẹn một cách không ngờ đối với một người có tuổi như thế. Cụ vừa chạy vừa la - Đè gãy xương con bò cái rồi! Gãy xương nó mất rồi! Xéo ngay! Xéo ngay, con hói nầy!

    Pochenkov khoát rộng hai tay, bước về xe. Laguchin vốn là một người quen chăm lo công việc làm ăn, anh đứng lại nhìn con bò cái non lẻo khẻo như thế mà bị con bò mộng nhảy khuỵu chân xuống đất bất giác có thoáng ý nghĩ: "Nó bị nhảy gãy xương mất rồi! Hình như gãy xương mất rồi? Chà, con quỷ dữ?".

    Mãi đến khi thấy con bò cái được lôi từ bên dưới con bò mộng ra, xương sống không bị hư hại gì, anh mới quay ra xe "Chúng ta sẽ làm thế nào bây giờ? Chẳng nhẽ bên kia sông Đông cũng lại bầu bọn ataman rồi hay sao? - Anh thầm tự hỏi như thế, nhưng sự chú ý của anh lại bị đánh lạc ngay trong giây phút bởi một con bò giống rất dẹp. Con bò giống cúi cái đầu rộng bè bè, ngời ngời một con bò đen có bộ vú rất to rất nẩy. Yếm nó xệ xuống tới tận đầu gối, thân nó rất mập, rất chắc, trường và thẳng như sợi dây đàn. Bốn cái chân ngắn cũn của nó cắm chắc xuống chất đất mềm như bốn cái cột. Laguchin bất giác đứng ngắm một lát con bò giống, mắt nhìn như vuốt ve bộ lông đỏ đốm trắng của nó. Qua một mớ ý nghĩ đầy ưu tư, Laguchin thở dài, bụng bảo dạ: "Trấn mình mà có được một con như thế nầy nhỉ! Những con bò giống vùng mình nhỏ quá". Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua rất nhanh trong óc. Khi về tới xe, nhìn thấy những khuôn mặt rầu rĩ của anh em Cô- dắc, Laguchin lại đắn đo cân nhắc con đường hành quân sắp phải trải qua.

    Krivoslykov đang bị bệnh sốt rét ******** làm tội. Anh chàng mơ mộng và cũng có lúc làm thơ ấy nói với Pochenkov:

    - Chúng ta chạy trốn làn sóng phản cách mạng, cố vượt lên trước nó, nhưng nó đã tràn qua chúng ta rồi. Rõ ràng là không thể nào đuổi vượt nó được nữa. Nó ào lên nhanh quá, cứ như sóng biển chảy dồn vào chỗ trũng ấy.

    Trong số các thành viên của Uỷ ban, có lẽ chỉ một Pochenkov đã tính tới toàn bộ tính chất phức tạp của hoàn cảnh mới. Anh ngồi ngả người về phía trước, chốc chốc lại quát người đánh xe:

    - Nhanh lên!

    Trong những chiếc xe phía sau có những tiếng hát cất lên rồi lặng di. Từ phía đó những tiếng cười, tiếng kêu dội lên như sấm, át cả tiếng bánh xe.

    Các tin tức mà ông lão chăn bò cho biết đã được chứng thực. Trên đường hành quân, đội viễn chinh gặp một gã Cô- dắc cựu chiến binh đánh xe cùng với vợ tới thôn Svetnikov. Gã đeo đầy đủ cả lon lẫn quân hiệu, Pochenkov hỏi gã vài câu, rồi mặt anh càng xạm đi.

    Đoàn xe đã qua thôn Alekseevsky. Mưa lâm râm. Trời trở nên u ám. Chỉ đằng đông còn thấy một màu trời xanh nước biển trong một kẽ mây với những tia nắng chiếu chếch chếch qua đó.

    Anh em vừa từ trên gò kéo xuống Rubaskin, một làng của người Tavria, thì thấy có những người từ trong đó bỏ chạy về hướng ngược lại, có cả vài chiếc xe phi ra như bay.

    - Họ bỏ chạy. Họ sợ chúng ta… - Laguchin nhìn các anh em khác, nói có vẻ hoảng hốt.

    Pochenkov quát lên:

    - Gọi họ lại! Gọi to lên cho họ trở về, mẹ khỉ!

    Anh em Cô- dắc vừa đánh ngựa cho xe chạy nhanh hơn, vừa quay những chiếc mũ trên đầu. Có người gọi oang oang:

    - Nà- ày! Bà con chạy đâu thế? Hượm đã nào!

    Những chiếc xe của đội viễn chinh phóng vào trong làng. Gió lốc xoáy tràn trong căn phố rộng không một bóng người. Trong một cái sân có một bà già người Ukraina vừa kêu la inh ỏi, vừa ném mấy chiếc gối lên một cái xe. Người chồng nắm dây hàm thiếc con ngựa, đầu không mũ, chân không giầy ở Rubaskin, mọi người được biết rằng tay tiền trạm được Pochenkov phái đi đã bị một đội trinh sát Cô- dắc bắt rồi lôi ra sau ngọn gò. Rõ ràng là Cô- dắc không còn xa nữa. Sau một cuộc hội ý chớp nhoáng, mọi người quyết định quay ngược trở lại. Đầu tiên Pochenkov còn cố giữ ý kiến tiếp tục tiến về phía trước, nhưng sau ai cũng do dự.

    Krivoslykov chẳng nói chẳng rằng, người anh bắt đầu run bắn lên trong một cơn sốt rét.

    - Hay là chúng ta cứ tiến thêm? - Pochenkov hỏi Buntruc lúc nầy cũng có mặt trong cuộc họp.

    Buntruc thẫn thờ nhún vai. Đối với anh bây giờ thì dứt khoát đằng nào cũng thế cả, tiến cũng được, thoái cũng được, miễn là có di động, miễn là chạy trốn nỗi u sầu luôn luôn bám sát gót anh.

    Pochenkov đi đi lại lại bên cạnh chiếc xe, trình bày những cái lợi của việc tiến về hướng Ust- Medved. Những một cán bộ cổ động Cô- dắc đã ngắt lời anh một cách gay gắt.

    - Anh điên mất rồi! Anh định đưa chúng tôi đi đâu hử? Đi đến chỗ bọn phản cách mạng à? Người anh em ạ, anh đừng có đùa dai!

    - Chúng ta quay trở lại thôi! Chúng tôi không muốn chết đâu! Cái gì thế kia? Anh đã thấy chưa? - Anh ta chỉ lên ngọn gò.

    Mọi người đều nhìn về hướng đó: trên một cái kurgan nhỏ thấy hiện lên rành rọt hình ba người cưỡi ngựa.

    - Trinh sát của chúng nó đấy! - Laguchin kêu lên.

    - Lại còn đằng kia nữa!

    Một số người cưỡi ngựa khác thấp thoáng trên ngọn gò. Chúng túm tụm lại từng đám, tản ra, biến mất sau ngọn gò rồi lại xuất hiện.

    Pochenkov ra lệnh lên đường quay trở lại. Đoàn quân tiến qua thôn Alekseevsky. Rõ ràng là nhân dân ở đấy đã bị quân Cô- dắc cảnh cáo. Vừa nhìn thấy đoàn xe của đội viễn chinh tiến lại gần, họ đã bắt đầu lẩn trốn và bỏ chạy.

    Trời đã hoàng hôn. Mưa vẫn dầm dề, lạnh buốt, đến là khó chịu. Anh em ướt như chuột lột, họ đi bên cạnh những chiếc xe, người run cầm cập, súng luôn luôn sẵn sàng. Con đường vòng tránh một dốc núi dài, trườn xuống một vùng đất trũng, chạy theo cái khe một đoạn rồi lại leo ngoằn ngoèo lên gò. Những đội trinh sát Cô- dắc khi ẩn khi hiện trên đường sống gò. Đội viễn chinh hết sức căng thẳng, mà của đáng tội tinh thần anh em không thế cũng đã căng thẳng rồi.

    Khi tới gần một cái khe cắt ngang vùng đất trũng, Pochenkov nhảy trên xe xuống, ra lệnh gọn lỏn cho anh em: "Sẵn sàng chiến đấu!"

    Anh mở chốt an toàn khẩu súng trường kỵ binh, đi bên cạnh xe. Dưới khe có một cái đập, nước mưa xuân bị giữ lại nom xanh ngắt. Đất bùn gần làn nước lỗ chỗ những vết chân của đàn gia súc ra đấy uống nước. Cái đập đã có chỗ lở, trên đó mọc đầy cỏ dại và thỏ ti. Bên dưới, chỗ sát mặt nước, thấy lơ thơ những khóm hương bồ tiều tụy, mưa rơi ràn rạt trên những đám lá bàng tử nhọn hoắt.

    Pochenkov trù tính sẽ gặp quân Cô- dắc mai phục ở chỗ nầy, nhưng bộ phận trinh sát được phái đi sục sạo phía trước chẳng phát hiện thấy gì cả.

    - Fedor ạ, bây giờ cậu không cần phải phòng bị làm gì. - Krivoslykov gọi Pochenkov về đến chiếc xe khẽ nói. - Chúng nó không tấn công bây giờ đâu. Đến đêm mới giở trò cho mà xem.

    - Mình cũng nghĩ như thế đấy.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Tên người Cô- dắc dùng để gọi dân Ukraina đến ở vùng nầy một cách khinh bỉ (ND).
  6. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 117

    Về phía tây, mây đen kéo đến mù mịt. Trời đã tối. Chớp nhoáng nhoàng ở một nơi rất xa, rất xa trên dải đất ven sông Đông, loé lên những vầng sáng màu da cam rung rung như cánh một con chim bị bắn chưa chết hẳn. Phía đó còn lờ mờ chút ráng chiều, nhưng lại bị dải mây che mất một phần. Như một cái tách đựng tịch mịch đầy đến miệng, đồng cỏ còn giấu trong những nếp khe chút ánh sáng u uất sót lại của ngày vừa qua. Trong buổi chiều tà nầy có một cái gì nhắc nhở tiết trời mùa thu. Cả những ngọn cỏ chưa nở hoa cũng đã toả ra một mùi không sao hình dung được của sự thối rữa.

    Pochenkov vừa đi vừa hít hít những mùi thoang thoảng hốt sức đa dạng của cỏ hoa. Chốc chốc anh dừng chân để miết đế ủng, gạt những đám bùn bám vào, rồi lại đứng thẳng lên, nặng nề và mệt mỏi lê cái thân hình hộ pháp trong chiếc áo da ấm mở phanh kêu loạt soạt Mọi người tới được thôn Kalusnhikov quận Poliakovo- Nagoliskaia thì đêm đã khuya. Anh em Cô- dắc trong đội bỏ mặc những chiếc xe, tản ra vào nghỉ đêm trong các nhà. Pochenkov lo lắng ra lệnh đặt những vọng tiêu, nhưng các chiến Cô- dắc chỉ tập hợp một cách miễn cưỡng. Ba người cưỡng lệnh không đi.

    - Tổ chức toà án đồng chí đem chúng nó ra xử! Không chấp hành mệnh lệnh chiến đấu thì xử bắn? - Krivoslykov nổi nóng lên.

    Sau cả một ngày canh cánh. Pochenkov cũng đâm ra bực bội, anh khoát tay đau khổ:

    - Trên đường hành quân chúng nó cũng mất tinh thần rồi. Không tổ chức phòng ngự được nữa đâu. Chúng ta sẽ nguy mất. Misatca ạ.

    Laguchin xoay hết cách nầy đến cách khác mới tập hợp được vài người, phải đi tuần bên ngoài thôn:

    - Các cậu chớ có ngủ nhé! Nếu không sẽ bị chúng nó cho vào rọ đấy!- Pochenkov đi kiểm tra một lượt các nhà và dặn các chiến sĩ gần gụi nhất với anh.

    Suốt đêm anh cứ gục đầu xuống hai tay ngồi bên bàn, hơi thở khò khè nghe rất nặng nề. Lúc trời sắp hửng, anh vừa gục cái đầu to tướng xuống mặt bàn, thiếp đi một lát thì Rober Fradenbrude đã từ nhà bên sang đánh thức anh. Mọi người bắt đầu sửa soạn lên đường trời đã rạng. Pochenkov bước từ trong nhà ra. Vợ người chủ nhà đã vắt sữa xong, chị trở vào đến phòng ngoài thì gặp Pochenkov.

    - Trên đồi có những người cưỡi ngựa. - Chị nói một cách dửng dưng.

    - Ở đâu thế?

    - Bên ngoài thôn ấy.

    Pochenkov nhảy ra ngoài sân: trên ngọn đồi, sau đám mây trắng đeo lững lờ phía trên cái thôn và dải rừng liễu, hiện ra nhiều đội Cô- dắc. Chúng nó di động khi thì nước kiệu, khi thì nước đại nhỏ, bao vây cái thôn, vòng vây mỗi lúc một chặt.

    Chẳng mấy chốc các chiến sĩ Cô- dắc trong chi đội đã kéo đến chỗ cái xe đỗ trong sân nhà Pochenkov ở.

    Vasili Mironikov, anh chàng lực lưỡng có cái bờm tóc trước trán, người trấn Migulinskaia bước vào, gọi Pochenkov ra một chỗ và cúi đầu nói:

    - Có chuyện như thế nầy, đồng chí Pochenkov ạ… Vừa nãy có mấy thằng đại diện của chúng nó tới đây. - Anh ta khoát tay chỉ về phía ngọn đồi. - Bảo truyền đạt với đồng chí rằng chúng ta phải hạ vũ khí lập tức đầu hàng ngay. Nếu không chúng sẽ tấn công.

    - Mày? Đồ chó đẻ! Mày mở mồm ra nói với tao cái gì thế hử?

    Pochenkov nắm lấy cổ áo ca- pôt của Mironikov rồi lại đẩy mạnh anh ta ra và chạy tới chỗ cái xe, nắm lấy nòng khẩu súng trường, quát các chiến sĩ Cô- dắc bằng một giọng khàn khàn thô bạo:

    - Đầu hàng à? Còn có thể có chuyện gì mà nói với bọn phản cách mạng? Chúng ta sẽ chiến đấu chống lại chúng nó? Theo tôi! Tản khai!

    Mọi người ở trong sân lốc nhốc ùa ra lề thôn. Pochenkov vừa hổn hển chạy tới mấy ngôi nhà cuối thôn thì một trong năm uỷ viên là Mrykhin đuổi kịp anh.

    - Thật là nhục, Pochenkov! Chúng ta đánh nhau với cả anh em nhà để làm đổ máu nhau hay sao? Thôi đi! Bàn bạc thoả thuận với nhau thì xong thôi!

    Chỉ thấy có một phần không đáng kể trong đội theo mình, cái đầu óc tỉnh táo của Pochenkov đã giúp anh tính tới thất bại không thể tránh khỏi nếu hai bên đánh nhau. Anh lặng lẽ tháo quy- lát khẩu súng trường, quẳng đi rồi uể oải hất chiếc mũ cát- két.

    - Thôi không bố trí nữa, anh em ạ! Quay trở lại, về thôn…

    Mọi người quay trở lại. Toàn đội tập hợp trong ba ngôi nhà sát vách. Chẳng mấy chốc đã thấy bọn Cô- dắc xuất hiện trong thôn.

    Một đội chừng bốn mươi tên cười ngựa tiến từ trên ngọn đồi xuống.

    Theo lời mời của bọn bô lão ở Milinchinskaia, Pochenkov ra ngoài thôn để đàm phán về các điều kiện đầu hàng. Chủ lực của địch vẫn vây kín thôn, không rời vị trí. Buntruc đuổi kịp Pochenkov ở ngõ dành cho gia súc ra đồng, anh giữ Pochenkov lại:

    - Chúng ta đầu hàng à?

    - Sức chỉ đủ bẻ cái cọng rơm… Thế nào? Cậu định làm như thế nào?

    - Anh muốn chết phải không? - Buntruc run bắn lên.

    Rồi không thèm để ý đến bọn bô lão cùng đi với Pochenkov, Buntruc quát lên bằng một giọng khàn khàn, thất thanh:

    - Bảo chúng nó rằng chúng ta không trao vũ khí đâu! - Nói xong anh quay ngoắt đi và vừa vung khẩu súng Nagan nắm chắc trong tay, vừa trở về.

    Về đến chỗ anh em, Buntruc cố thuyết phục các chiến sĩ Cô- dắc chiến đấu phá vòng vây xông ra đường sắt, nhưng tinh thần phần lớn rõ ràng chỉ muốn giảng hoà. Người thì quay đi chỗ khác, người thì trả lời rõ ràng với anh bằng một giọng hằn học.

    - Nầy Anhica, anh muốn đánh thì đi mà đánh, còn chúng tôi thì quyết không đánh nhau với chính anh em mình đâu!

    - Dù không còn có vũ khí, chúng ta vẫn tin được ở họ. - Giữa những ngày lễ Phục sinh thiêng liêng như thế nầy mà chúng ta còn đổ máu hay sao?

    Buntruc quay về chiếc xe của anh đổ bên một căn nhà thóc, trải chiếc áo ca- pôt xuống gầm xe, nằm xuống nhưng tay vẫn nắm chắc cái cán gạch khía của khẩu Nagan. Đầu tiên anh đã nghĩ tới chuyện bỏ chạy, nhưng anh vốn ghét cái lối bỏ đi lén lút, cái thói đào ngũ, vì thế anh thầm gạt bỏ ý định đó, và chờ Pochenkov trở về.

    Chừng ba giờ sau Pochenkov trở về. Một đám rất đông những tên Cô- dắc lạ mặt cùng vào thôn với anh, một số cưỡi ngựa, một số cầm dây cương dắt ngựa theo, số còn lại đi chân không có ngựa. Chúng vây quanh Pochenkov và tên thượng uý Spiridonov, trước kia ở cùng một đại đội pháo với Pochenkov, nay chỉ huy đội hỗn hợp vây bắt đội viễn chinh của Pochenkov. Pochenkov ngẩng cao đầu, rồi cố giữ cho thẳng, nom cứ như một người quá chén. Spiridonov mỉm nụ cười giảo quyệt, nói không biết câu gì với Pochenkov. Sau lưng hắn có tên Cô- dắc cưỡi ngựa ôm trước ngực một lá cờ trắng rất lớn, cán bào qua quít.

    Bọn Cô- dắc mới đến đứng đầy trong các căn phố và các ngôi nhà có đoàn xe của đội viễn chinh đỗ. Lập tức có những tiếng người nhao nhao như vỡ chợ. Nhiều tên mới đến trước kia ở cùng đơn vị, với những anh em Cô- dắc trong đội Pochenkov. Vang lên những tiếng gọi nhau vui vẻ, tiếng cười ròn rã.

    - Chà, anh bạn đồng học. May mắn thế nào lại gặp nhau ở đây?

    - Ơ hay quá, hay quá, Prokho đấy à?

    - Ơn Chúa.

    - Chỉ thiếu chút nữa là mình với cậu lại choảng nhau. Cậu còn nhớ chúng mình cùng truy kích quân Áo ở gần Lvov thế nào không nhỉ?

    - Nầy ông bạn đỡ đầu Danilo! Ông bạn đỡ đầu ạ! Chúa phục sinh rồi!

    - Đúng là sống lại rồi! - Có những tiếng hôn nhau chùn chụt: hai anh chàng Cô- dắc vuốt râu vuốt ria, vỗ vai nhau bồm bộp rồi cùng nhìn nhau mà cười.

    Ngay cạnh đấy lại là một câu chuyện khác:

    - Chúng mình đã không kịp ăn "rê- vây- ông".

    - Nhưng các cậu là Bolsevich thì "rê- vây- ông", "rê- vây- bà" cái gì.

    - Có sao đâu, Bolsevich thì Bolsevich, nhưng chúng tớ vẫn tin Chúa.

    - Xì, chỉ nói láo!

    - Thế cậu có đeo thánh giá không?

    - Thánh giá đây chứ đâu? - Thế là một anh chàng Xích vệ lực lưỡng, mặt to bè bè, chẩu môi mở cúc cổ chiếc áo quân phục cổ chui, moi trong bộ ngực đồng đen lông lá lồm xồm ra một cây thánh giá bằng đồng đã rỉ xanh.

    Bọn bô lão cầm rìu cầm nạng trong các đội vây bắt "tên phiến loạn Pochenkov" ngạc nhiên đưa mắt nhìn nhau:

    - Nhưng sao chúng tôi lại nghe nói các anh bỏ đạo Chúa cả rồi?

    - Hình như các anh đã bán linh hồn cho quỉ dữ Xa- tăng rồi cơ mà!

    - Lại có tin các anh cướp phá các nhà thờ, giết hết các cha cố…

    - Nói láo tuốt? Anh chàng Xích vệ mặt to như cái mẹt quả quyết cãi lại - Chúng nó nhồi sọ cho bà con những chuyện tầm bậy đấy.

    - Trước khi rời khỏi Rostov tôi còn đến nhà thờ dự lễ ban thánh thể cơ mà!

    - Bác làm ơn nói thật rõ cho chúng tôi nghe nào! Một lão già nhỏ bé, hom hem vui vẻ vỗ tay đen đét. Lão cầm một ngọn giáo cưa đôi cho vừa tay.

    Ngoài phố và trong các nhà, câu chuyện mỗi lúc một ồn ào sôi nổi. Nhưng nửa giờ sau có vài tên Cô- dắc, trong số đó có một tên quản người trấn Bokovskaia, lách qua đám người đang đứng ộn lại thành một khối, bước ra phố.

    - Những ai thuộc chi đội Pochenkov chuẩn bị tập hợp điểm danh! - Chúng hô to.

    Tên thượng uý Spiridonov, sơ- mi màu *** ngựa, lon màu *** ngựa, bỏ chiếc mũ cát- két đính cái quân hiệu bạc trắng như miếng đường quay mặt ra bốn phía hô lên:

    - Tất cả những ai thuộc chi đội Pochenkov sang bên trái tôi, đứng cạnh hàng rào! Những người khác đều đứng sang bên phải. Chúng tôi là những đồng đội cũ của anh em ngoài mặt trận, chúng tôi đã cùng với các đại biểu của anh em quyết định rằng anh em phải trao tất cả vũ khí cho chúng tôi vì dân chúng sẽ sợ nếu anh em còn có vũ khí trong tay. Anh em hãy xếp súng trường và các thứ vũ khí khác lên các xe của anh em, chúng ta cùng bảo vệ số vũ khí đó. Chúng tôi sẽ đưa chi đội của anh em đến trấn Krasnokurskaia và tại đấy anh em sẽ tới Xô viết nhận lại toàn bộ vũ khí.

    Cả một niềm xao xuyến phẫn nộ bắt đầu sục sôi trong lòng các anh em Cô- dắc Xích vệ. Rồi có những tiếng la thét vang lên trong sân. Korotov, một chiến sĩ người trấn Kumsa kêu lên:

    - Chúng ta không đầu hàng!

    Những tiếng ầm ầm như giông bão dậy lên khắp dãy phố, trong các sân nhà chật ních những người.

    Bọn Cô- dắc mới đến chạy ùa sang phải, ở giữa phố chỉ còn lại từng tốp rời rạc các chiến sĩ phờ phạc rã rời của đội quân Pochenkov. Với chiếc áo ca- pôt khoác trên vai, Krivoslykov hớt hải nhìn quanh như con thú bị vây bắt. Môi Laguchin xệch ngang một bên. Mọi người xôn xao, đầy lo lắng và nghi ngại.

    Buntruc kiên quyết không chịu trao vũ khí. Anh cầm ngang cây súng trường, bước nhanh đến trước mặt:

    - Chúng ta sẽ không nộp vũ khí! Anh nghe rõ không?

    - Bây giờ thì muộn mất rồi…- Pochenkov khẽ nói, hai tay anh nắm chặt bản danh sách đơn vị cứ giật giật.

    Bản danh sách ấy được chuyển sang tay tên Spiridonov. Hắn đọc qua một lượt rồi hỏi:

    - Ở đây có một trăm hai mươi tám người… Số còn lại ở đâu?

    - Ở lại trên đường.

    - À ra vậy… Thôi được. Anh ra lệnh cho họ hạ vũ khí đi.

    Pochenkov là người đầu tiên tháo dây súng, rồi vừa trao cả khẩu Naga lẫn bao súng, vừa nói lúng búng:

    - Bỏ gươm và súng lên xe.

    Mọi người bắt đầu bị tước vũ khí. Các chiến sĩ Xích vệ thân thờ bỏ vũ khí. Có người ném súng ngắn qua hàng rào, có người chạy tản vào các sân nhà, tìm chỗ giấu.

    - Chúng tôi sẽ khám tất cả những ai không chịu trao vũ khí!

    Spiridonov quát lên. Hắn sung sướng ngoác miệng ra cười, Một bộ phận Xích vệ do Buntruc lãnh đạo không chịu trao súng, bọn địch phải dùng vũ lực mới tước được.

    Một chiến sĩ Xích vệ phi ngựa ra ngoài thôn cùng với chiếc bàn đế khẩu súng máy làm tất cả hoảng lên một mẻ. Thừa lúc nhốn nháo, vài người lẩn trốn. Nhưng Spiridonov lập tức thành lập một đội áp giải, vây quanh tất cả những người còn ở lại với Pochenkov, lục soát và định điểm danh. Anh em tù binh miễn cưỡng trả lời, một số kêu rầm lên.

    - Kiểm tra làm cái gì, tất cả có mặt ở đây rồi!

    - Hãy giải chúng tôi đến Krasnokurskaia đi!

    - Các đồng chí! Chấm dứt cái chuyện nầy đi thôi!

    Sau khi đã niêm phong các hòm tiền và cử một đội hộ tống thật mạnh áp tải đi Karginskaia. Spiridonov bắt anh em tù binh tập hợp thành hàng, rồi ra lệnh, cả giọng nói lẫn cách xưng hô đều thay đổi ngay:

    - Thành hàng hai! Bên trái… quay! Hàng bên trái đi trước, đi đều bước! Chúng mày câm cái mồm!

    Những lời ta thán bắt đầu truyền lan trong các hàng Xích vệ. Họ từ từ cất bước, kẻ trước người sau, chẳng mấy chốc hàng ngũ đã rối loạn và mọi người bắt đầu đi túm tụm từng đám.

    Lúc bị dồn vào cái thế phải khuyên anh em trao vũ khí, có lẽ Pochenkov vẫn còn đặt hy vọng vào một kết cục tốt đẹp. Nhưng đoàn tù binh vừa bị dồn ra khỏi thôn, bọn Cô- dắc áp giải họ đã bắt đầu cho ngựa dồn hích những người đi ngoài cùng. Buntruc đi ở bên trái. Một lão già Cô- dắc có bộ râu đỏ như lửa và cái vòng tay cũ đen xỉn vô duyên vô cớ quất cho anh một roi, đầu roi in hằn một con lươn bên má Buntruc. Buntruc nắm chặt hai tay quay lại, nhưng một ngọn roi thứ hai quất mạnh gấp bội đã bắt anh phải lẩn sâu vào giữa đám người. Anh bất giác làm như thế do sự thúc đẩy của một thứ linh tính tự vệ như của loài thú vật. Bị lèn như nêm giữa những thân hình của các đồng chí đi chen chúc xung quanh, lần đầu tiên từ ngày Anna qua đời, môi anh rúm ró trong một nụ cười mỉa mai đầy bực bội, và anh cứ thầm lấy làm lạ trước cái lòng tham sống mãnh liệt và dai như đỉa trong tất cả mọi người.

    Anh em tù binh bắt đầu bị đánh túi bụi. Trước những kẻ thù tay không còn tấc sắt, bọn bô lão càng trở nên man rợ. Chúng thúc ngựa xông tới dồn ép họ, chúng cúi rạp người trên yên, đánh họ bằng roi ngựa và bằng sống gươm người nào bị đánh cũng tự nhiên chui lẩn vào giữa đám, vì thế mọi người xô đẩy nhanh, kêu la ầm ĩ.

    Một chiếc sĩ Xích vệ cao lớn, hùng dũng, người vùng hạ du, vùng hai tay nắm tay quát lên:

    - Chúng mày muốn giết thì cứ giết ngay đi! Sao lại làm nhục người ta như thế?

    - Lời chúng mày hứa đâu cả rồi? - Krivoslykov gầm lên.

    Bọn bô lão dần dần bớt làm dữ. Khi một người tù binh hỏi: "Các anh giải chúng tôi đi đâu bây giờ?", một gã cựu chiến binh còn trẻ đi áp giải có lẽ thương hại các chiến sĩ Bolsevich, khẽ trả lời:

    - Mệnh lệnh là đến thôn Ponomariev. Anh em đừng sợ? Chúng tôi sẽ không làm điều gì tồi tệ với anh em đâu.

    Đoàn người đã bị dồn tới thôn Ponomariev.

    Spiridonov cùng hai tên Cô- dắc đứng ở cửa một hiệu tạp hoá nhỏ. Hắn cho từng người vào, người nào hắn cũng hỏi:

    - Họ tên? Quê quán? - Hắn ghi những câu trả lời lên một cuốn sổ dã chiến nhem nhuốc.

    Đến lượt Buntruc.

    - Họ? - Spiridonov đặt mũi bút chì xuống tờ giấy, đưa nhanh mắt nhìn người chiến sĩ Xích vệ có bộ mặt âm thầm và vầng trán rất rộng. Nhưng hắn thấy anh ta chúm môi sắp sửa nhổ một bãi nước bọt bèn né hẳn sang bên cạnh và quát lên - Vào đi, quân khốn kiếp!

    - Mày sẽ chết không tên tuổi!

    Noi gương Buntruc, anh chàng Íchnat người Tambob cũng không trả lời. Một người thứ ba cũng muốn chết ẩn danh, cứ lừng lững bước qua ngưỡng cửa.

    Spiridonov tự tay khoá cửa rồi đặt gác.

    Trong khi bọn Cô- dắc đem các đồ đạc, thức ăn và vũ khí lấy được trên các xe của đội viễn chinh chia nhau ngay bên cạnh cửa hiệu tạp hoá, trong một ngôi nhà bên cạnh họp toà án quân sự dã chiến tổ chức quàng quấy gồm đại diện của cái thôn tham gia vây bắt Pochenkov.

    Chánh án là Vasili Popop, một tên đại uý Cô- dắc vạm vỡ, lông mày vàng khè, quê ở trấn Bokovskaia. Hắn ngồi sau một chiếc bàn, dưới tấm gương treo đầy những chiếc khăn mặt, hai khuỷu tay dang rộng, mũ cát- két hất ra sau cái gáy phẳng dẹt. Hắn đưa cặp mắt dâm đãng, vừa hồn hậu lại vừa nghiêm nhìn khắp mặt bọn Cô- dắc thẩm phán có ý thăm dò. Chúng bắt đầu nghị tội.

    - Thưa các cụ bô lão, chúng ta xử chúng nó như thế nào đây? - Popop nhắc lại câu hỏi:

    Rồi hắn cúi xuống thì thào không biết nói gì với tên thượng uý Xênhin ngồi bên. Tên nầy gật đầu đồng ý. Đồng tử hai con mắt của Popop co hẹp lại, những ánh vui vẻ bên khoé mắt biến ngay đâu mất, và hai con mắt khác hiện ra sau hai hàng mi thưa với những ánh long lanh, lạnh lẽo và khắc nghiệt.

    - Đối với những thằng phản bội quê hương xứ sở, cướp phá nhà của chúng ta, giết hại dân Cô- dắc chúng ta, chúng ta sẽ xử chúng nó như thế nào?

    Fevralov, một lão già cựu giáo người trấn Miliuchinskaia nhảy chồm lên như một chiếc lò xo.

    - Xử bắn! Bắn hết! - Lão lắc đầu lia lịa như bị ma làm, đưa cặp mắt cuồng tín lác xệch nhìn tất cả mọi người, lão nuốt nước bọt đánh ực rồi gào lên - Chúng nó, những thằng bán Chúa ấy thì không thể nào thương hại được? Trong đám chúng nó có những thằng Do- thái đấy! Phải giết! Phải giết!… Phải đóng đanh câu rút chúng nó! Phải ném chúng nó vào lửa!

    Chòm râu thưa nhưng thô cứng của lão rung lên, bộ tóc bạc lấm tấm đỏ xù lên. Lão ngồi xuống rồi mà vẫn còn thở hổn hển, mặt đỏ như gạch, nước bọt sủi đầy mép.

    - Xử chúng nó phát vãng. Như thế có được không? - Diachenko một thẩm phán ngập ngừng đề nghị.

    - Xử bắn!

    - Tử hình!

    - Tôi tán thành ý kiến đó?

    - Đem tất cả ra hành quyết trước nhân dân!

    - Cỏ dại phải nhổ cho sạch đồng!

    - Giết chúng nó đi!

    - Xử bắn, tất nhiên rồi! Có gì phải nói thêm nữa! - Spiridonov nói giọng tức tối.

    Cứ sau mỗi tiếng kêu như thế, hai bên mép tên đại uý Popop lại trở nên thô bạo thêm, lại mất thêm cái vẻ hồn hậu lúc đầu của một con người sống phè phỡn, thoả mãn vì bản thân mình và vì những người chung quanh. Hai cái mép đó trễ xuống, hằn cứng lại thành những nét tàn nhẫn.

    - Xử bắn! Ghi vào! Hắn vừa ra lệnh cho tên thư ký vừa nhìn qua vai tên nầy.

    - Thế còn hai thằng Pochenkov và Krivoslykov đối với những đứa thù địch như thế chỉ xử bắn thôi à? Đối với chúng nó như thế nhẹ quá đấy? - Một lão Cô- dắc đã nhiều tuổi nhưng người còn chắc nịch, tức tối gào lên. Lão ngồi bên cửa sổ và cứ luôn tay vặn cao thêm cái bấc đèn lúc nào cũng doạ tắt.

    - Chúng nó là hai thằng đầu sỏ thì treo cổ! - Popop trả lời gọn lỏn rồi nhắc lại với tên thư ký - Viết đi: "Bản phán quyết. Chúng tôi, những người ký tên dưới đây…"

    Tên thư ký, cũng là Popop, vốn có họ xa với tên đại uý. Hắn cúi cái đầu có bộ tóc trắng nhợt chải mượt, đưa ngòi bút viết loạt soạt.

    - Có lẽ không đủ dầu đâu… - Một tên thở dài có ý lo ngại Ngọn đèn chập chờn, bấc đèn bốc khói mù mịt. Trong bầu không khí chết lặng, vo vo có một tiếng con ruồi bị vướng vào đám mạng nhện trên trần nhà, ngoài ra chỉ có tiếng thở khò khè nặng nề của một tên thẩm phám.

    BẢN PHÁN QUYẾT

    Ngày 27 tháng Tư (mồng 10 tháng Năm) năm 1918, các vị thẩm phán được bầu ra của các trấn Karginovskaia, Bokovskaia và Krasnokurskaia.

    (Thôn): Đại diện

    - Vaxilevsky: Marsaev Stepan.

    - Bokovsky: Krugilin Nicolai.

    - Fomin Kumov: Fedor.

    - Thượng Yablonovsky: Kurchin Aleksan.

    - Hạ Dulensky: Xinhép Lev.

    - Ilinsky: Volotkov Semion.

    - Konkovsky: Popop Mikhail.

    - Thượng Dulensky: Rodin Yakov.

    - Savoschianov: Florov Alex.

    Trấn Miliuchinskaia: Fevralev Maxim.

    Thôn Ponomariev: Diachenko Ivan.

    - Elanchiev: Krivô Nicolai

    - Malakhov: Emelianov Luca

    - Novo- Demchevgeni: Konovalov Matvey

    - Popop: Popop Mikhail

    - Astakhov: Segonkov Vasili

    - Orlov: Trekunov Fedor

    - Klimo- Fedorovsky: Trucarin Fedor

    do V.S. Popop làm chánh án

    PHÁN QUYẾT NHƯ SAU:

    1. Tất cả những tên cướp bóc và lừa dối nhân dân lao động có tên trong bản danh sách dưới đây, tổng cộng tám mươi tên, đều bị tuyên án tử hình, với hình thức xử bắn, nhưng trong số đó có hai tên Pochenkov và Krivoslykov là đầu sỏ trong đám nầy thì án tử hình được chấp hành bằng hình thức treo cổ.

    2. Tên Cô- dắc Anton Kalitvenchev người thôn Mikhailovsky được tha bổng vì chứng cớ không đầy đủ.

    3. Đối với những tên Konstantin Melnikov, Gavrila Melnikov, Vasili Melnikov, Arsenov và Versunin bỏ trốn khỏi đội Pochenkov và bị bắt ở trấn Krasnokurskaia đều tuyên án theo điểm một của bản phán quyết nầy (tử hình).

    4. Bản án sẽ được chấp hành ngày mai 28 tháng Tư ( 11 tháng Năm) hồi sáu giờ sáng.

    5. Chỉ định thượng uý Xênhin đảm nhiệm việc canh gác các phạm nhân. 11 giờ tối nay mỗi thôn phải cử hai người Cô- dắc vũ trang bằng súng trường tới chịu quyền điều khiển của thượng uý Xênhin. Các vị thẩm phán sẽ chịu trách nhiệm nếu điểm nầy không được chấp hành. Đội canh gác của các thôn chịu trách nhiệm chấp hành bản án. Mỗi thôn cử đến pháp trường năm người Cô- dắc.

    Đã ký tên vào nguyên bản:

    Chánh án toà án quân sự

    V.S. Popop

    Thư ký A.F. Popop.

    DANH SÁCH

    Các tên trong đội Pochenkov bị toà án quân sự dã chiến tuyên án tử hình ngày 27 tháng Tư theo lịch cũ năm 1918.

    1. Fedor Pochenkov, trấn Ust- Khopeskaia - treo cổ

    2. Krivoslykov, trấn Elanskaia Mikhail - treo cổ

    3. Avram Kakurin, trấn Kazanskaia - xử bắn

    4. Ivan Laguchin, trấn Bukanovskaia - xử bắn

    5. Aleksey Ivan Orlov, thành phố Nizegrod - xử bắn

    6. Efilm Mikhail Barchen, trấn Nizegrodskaia - xử bắn

    7. Grigori Fechisov, trấn Ust- Bukhtrianskaia - xử bắn

    8. Gavrin Tkachev, trấn Migulinskaia - xử bắn

    9. Pavel Agafonov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    10. Kalinin, trấn Luganskaia - xử bắn

    11. Konstatin Mrykhin, trấn Migulinskaia - xử bắn

    12. Andrey Konovalov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    13. Konstatin Kirsta, thành phố Poltava - xử bắn

    14. Pavel Potnakov, trấn Cotovskaia - xử bắn

    15. Ivan Bondyrev, trấn Migulinskaia - xử bắn

    16. Timofey Kolychev, trấn Migulinskaia - xử bắn

    17. Alexandr Bubnov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn

    18. Dimitri Volodarov, trấn Filim Trenb - xử bắn

    19. Georgi Karpasin, trấn Chernysevskaia - xử bắn

    20. Ilia Kalmykov, trấn Filim- Trenb - xử bắn

    21. Xvey Rybnikov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    22. Polikav Gurov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    23. Ichnat Demliakov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    24. Ivan Krachev, trấn Migulinskaia - xử bắn

    25. Nikifo Frolovsky, trấn Rostov - xử bắn

    26. Alexandr Gonovalov, trấn Rostov - xử bắn

    27. Petr Vichilanchev, trấn Migulinskaia - xử bắn

    28. Ivan Zotov, trấn Kirkaia - xử bắn

    29. Evdokim Babkin, trấn Migulinskaia - xử bắn

    30 Petr Svinchev, trấn Mikhailovskaia - xử bắn

    31. Inariôn Chelobittrikov, trấn Dobrinskaia - xử bắn

    32. Klimenchi Dronov, trấn Kazanskaia - xử bắn

    33. Ivan Avilov, trấn Lovlinskaia - xử bắn

    34. Matvey Sarmatov, trấn Kazanskaia - xử bắn

    35. Georgi Pupkov, trấn Hạ Cumôliaskaia - xử bắn

    36. Mikhail Fevralev, trấn Chernovskaia - xử bắn

    37. Vasili Panteleymonov, thành phố Kherson - xử bắn

    38. Porfori Liubukhin, trấn Kazanskaia - xử bắn

    39. Dimitri Samov, trấn Kletkaia - xử bắn

    40. Xafon Saronov, trấn Filonovskaia - xử bắn

    41. Ivan Gubarép, trấn Migulinskaia - xử bắn

    42. Fedor Abacumov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    43. Kutma Gorskov, trấn Luganskaia - xử bắn

    44. Ivan Itvarin, trấn Gundorovskaia - xử bắn

    45. Miron Kalinovchev, trấn Gundorovskaia - xử bắn

    46. Ivan Faraphorov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn

    47. Sergey Gorbunov, trấn Cotopskaia - xử bắn

    48. Petr Alaev, trấn Hạ Trirskaia - xử bắn

    49. Prokovi Orlov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    50. Nikita Sein, trấn Luganskaia - xử bắn

    51. Alexandr Laxcusky, trấn Thợ cả ở RPTX - xử bắn

    52. Mikhaiin Poliakov, trấn Rostov - xử bắn

    53. Dimitri Rogachev, trấn Radorskaia - xử bắn

    54. Rober Frasenbrud, trấn Rostov - xử bắn

    55. Ivan Xilend, trấn Rostov - xử bắn

    56. Konstatin Efilmôp, thành phố Xamara - xử bắn

    57. Mikhail Obchinnikov, trấn Chernysevskaia - xử bắn

    57 Ivan Picalov, thành phố Xamara - xử bắn

    59. Mikhail Koretkov, trấn Lovlinskaia - xử bắn

    60. Ivan Corotkov, trấn Kumsaskaia - xử bắn

    61. Piot Biriukov, trấn Rostov - xử bắn

    62. Ivan Cabakov, trấn Khu mới Radorskaia - xử bắn

    63. Tikhol Molivinov, trấn Lukovskaia - xử bắn

    64. Andrey Svechev, trấn Migulinskaia - xử bắn

    65. Stepan Anhikin, trấn Migulinskaia - xử bắn

    66. Kutma Dutkin, trấn Kremenskaia - xử bắn

    67. Petrt Kabanov,, trấn Baklanovskaia - xử bắn

    68. Sergey Selivanov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn

    69. Archen Ivanchenko, trấn Rostov - xử bắn

    70. Nicôlai Konovalov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    71. Dimitri Konovalov, trấn Mikhailovskaia - xử bắn

    72. Fios Luxikov, trấn Krasnokurskaia - xử bắn

    73. Vasili Mironikov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    74. Ivan Volokhov, trấn Migulinskaia - xử bắn

    75. Lakov Gordeev, trấn Migulinskaia - xử bắn

    Trong bọn có ba tên không cung khai họ tên quê quán.

    Sau khi sao lại xong bản danh sách những người bị kết án, tên thư ký đánh hai cái dấu chấm rất xa nhau vào cuối bản phán quyết rồi nhét cây bút vào tay tên ngồi gần nhất:

    - Ký vào.

    Lão Konovalov nằm rạp xuống tờ giấy với một nụ cười như nhận lỗi Lão mặc một chiếc áo đại lễ phục cổ đứng bằng dạ Đức màu xám với hai cái ve áo đỏ lòm. Những ngón tay thô kệch, cồm cộm những chai, đen như hắc ín của lão không sao cong lại được, cứ trùng trục bóp chặt lấy cây bút học sinh bị gặm nham nhở.

    - Tôi phải cái chữ nghĩa kém quá… - Lão vừa nói vừa ráng hết sức viết nguệch ngoạc một chữ "K" đầu họ.

    Sau lão đến lượt Rodin. Lão nầy cũng nhận lấy cây bút một cách thiếu tin tưởng, mặt mày nhăn nhó, mồ hôi mồ kê đầm đìa vì bao nhiêu gân sức đều dồn ra cả. Một tên nữa ngoáy ngoáy mãi cái bút trước khi ký, hắn ký nhăng cuội lấy một chữ rồi mới rút cái lưỡi thè lè ra ngoài từ lúc bắt đầu cầm bút. Popop ký loáng một nét xong cái họ của hắn, chữ ký rất phóng khoáng, rồi đứng dậy, rút khăn tay lau khuôn mặt ướt đẫm.

    - Phải có bản danh sách kèm theo bản phán quyết, - Hắn vừa nói vừa ngáp.

    - Ở thế giới bên kia Kaledin sẽ cảm ơn chúng ta, - Xênhin vừa nhìn tên thư ký thấm tờ giấy đẫm mực bên bức tường quét vôi trắng vừa mỉm cười một nụ cười rất trẻ.

    Không một tên nào trả lời câu pha trò đó. Mọi người âm thầm bước ra khỏi ngôi nhà.

    - Lạy Chúa tôi… - Một người vừa bước ra vừa thở dài trong căn phòng ngoài tối om.
  7. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 118

    Đêm ấy, dưới những ngôi sao vàng nhợt lấm tấm khắp trời như màu sữa, mọi người gần như không sao ngủ được trong cái cửa hiệu nhỏ bé chật ních những người. Những lời trao đổi chỉ ngắn ngủi, không thể nào kéo lại được. Ai nấy đều như nghẹt thở vì bầu không khí ngột ngạt và những nỗi lo lắng canh cánh.

    Từ tối đã có một đồng chí Xích vệ xin ra sân:

    - Mở hộ cửa, đồng chí ơi! Tôi cần phải ra ngoài, phải ra ngoài để đi giải!

    Chân không, đầu tóc rối như bòng bong, chiếc áo sơ- mi lót bằng vải thô tuột ra ngoài chiếc quần đi ngựa, anh ta áp khuôn mặt đen sạm vào lỗ khoá, nhắc lại:

    - Mở hộ ra đi, đồng chí ơi!

    - Con sói độc là đồng chí của mày. - Cuối cùng có một thằng gác trả lời!

    - Mở hộ cái, người anh em! - Người hỏi xin bèn đổi cách xưng hô.

    Tên gác đặt khẩu súng trường xuống, lắng nghe trong bóng tối tiếng vỗ cánh ràn rạt của những con vịt trời bay đi ăn đêm. Nó hút hết điếu thuốc rồi ghé miệng vào lỗ khoá:

    - Cứ bĩnh ra quần cũng được, ông bạn thân mến ạ. Một đêm cũng chẳng bục được quần đâu, rồi sáng mai người ta sẽ mở cửa mời cậu lên thiên đàng với cái quần ẩm ấy.

    - Chúng ta nguy mất rồi! - Anh Xích vệ rời khỏi chỗ cửa phòng, nói một cách tuyệt vọng.

    Mọi người ngồi kề vai nhau. Pochenkov ngồi trong một góc phòng dốc tất cả các túi ra, rồi vừa lầu bầu chửi một thôi một hồi, vừa xé vụn một đồng giấy bạc. Xong xuôi với chuyện số tiền còn lại anh cởi giầy tất rồi đặt tay lên vai Krivoslykov nằm bên cạnh và nói:

    - Hai năm rõ mười là bọn mình đã bị chúng nó lừa rồi. Chúng nó đã đánh lừa mình, mẹ chúng nó chứ? Bực thật, Mikhail ạ! Hồi còn nhỏ, mình thường xách khẩu súng cổ lỗ của ông cụ nhà mình sang bên kia sông Đông đi săn. Vào trong rừng thì cứ như chui dưới một cái lều vải xanh rờn ấy… Ra đến chỗ dòng sông uốn khúc là sẽ thấy những con vịt trời sà xuống. Lần nào không bắt kịp là mình tức đến phát khóc lên được. Và lần nầy mình lại cảm thấy tức cũng như thế: mình đã lỡ mất cơ hội. Nếu bọn mình ra khỏi Rostov sớm hơn được ba ngày thì đã không đến nỗi vác xác đến đây chịu chết. Tất cả bọn phản cách mạng đã bị chúng ta đánh cho thất điên bát đảo rồi!

    Krivoslykov ngồi trong bóng tối nhe răng cười một cách đau khổ va nói:

    - Quỷ dữ bắt chúng nó đi, cứ mặc cho chúng nó giết. Bây giờ chết thì cũng chẳng có gì đáng sợ… Mình chỉ sợ một điều là sang đến thế giới bên kia, chúng mình không còn nhận ra nhau nữa Fedor ạ, sang đến thế giới bên kia, mình với cậu gặp nhau sẽ như người dưng nước lã… Thật là khủng khiếp!

    - Thôi đi! Pochenkov bực bội nói to rồi đặt cả hai bàn tay vừa to vừa nặng lên vai người bạn nằm bên - Vấn đề đâu phải ở chỗ đó.

    Laguchin kể cho một đồng chí nào đó nghe về thôn anh, về chuyện ông nội anh thường gọi đùa anh là "Cái nêm" vì đầu anh dài và chính ông cụ đã có lần dùng roi ngựa đánh anh về tội ăn cắp dưa của người khác.

    Đêm ấy, mọi người nói với nhau toàn những chuyện phiến đoạn, không đầu không đũa.

    Buntruc ngồi ngay gần cánh cửa, anh hé môi hít lấy ít để từng chút gió lọt qua kẽ cửa. Trong khi hồi tưởng lại những chuyện đã qua, anh thoáng nghĩ đến mẹ, rồi như bị một mũi kim nóng bỏng châm vào tim, anh cố xua ngay những ý nghĩ về bà cụ để chuyển sang những hồi ức về Anna, về những ngày gần đây… Các hồi ức ấy đã làm anh nhẹ nhõm hẳn đi, trong lòng tràn ngập một hạnh phúc lâng lâng. Những ý nghĩ về cái chết không làm anh sợ hãi chút nào.

    Không như những người khác, mỗi khi nghĩ rằng tính mạng của mình sắp bị kẻ khác cướp đi, anh không hề cảm thấy một cơn run bất giác chạy rân rân suốt dọc xương sống, không hề thấy một sự đau khổ day dứt nào. Anh sẵn sàng tiếp nhận cái chết, như sắp sửa về tới một nơi nghỉ ngơi chẳng có gì là vui thú sau một chặng đường đầy đắng cay và vất vả, khi mà cái mệt mỏi đã choán hết tất cả, khi toàn thân đau như rần, cho nên không còn gì có thể làm cho mình xao xuyến nữa.

    Ngay gần bên Buntruc, anh em bàn tán về đàn bà, về tình yêu, về những niềm vui lớn nhỏ vương vấn trong tâm khảm từng người, câu chuyện khi vui khi buồn.

    Người ta kể về gia đình, về bố mẹ, về những người thân thuộc. Người ta bàn tán về chuyện năm nay lúa tốt: những con quạ đen có thể lẩn vào trong những đám lúa mạch mà không bị trông thấy.

    Người ta than phiền là không có vodka và mất tự do, người ta chửi Pochenkov. Song hàng ngàn cái cánh đen ngòm của giấc ngủ đã trùm lên tất cả. Bị ******** làm tội cả về thể xác lẫn tinh thần, mọi người thiếp dần đi, ngủ ngồi cũng có, ngủ nằm cũng có, ngủ đứng cũng có.

    Mãi đến lúc trời sắp rạng mới có một người không biết mê hay tỉnh oà lên khóc, tiếng khóc nghe sao mà ghê rợn, đúng là tiếng khóc của những con người thô lỗ đã lớn tuổi, đã quên mất cái vị mặn của nước mắt từ thời thơ ấu. Ngay lập tức nhiều người cũng kêu lên xua tan bầu không khí yên lặng mơ màng:

    - Có câm đi không, đồ khốn kiếp!

    - Thật là đàn bà!

    - Tao vặn hết răng bây giờ, câm ngay!

    - Làm bố trẻ con rồi mà còn chảy nước mắt!

    - Anh em còn đang ngủ mà nó… chẳng biết xấu nữa?

    Anh chàng vừa khóc hỉ mũi, sụt sịt thêm vài tiếng rồi nín bặt.

    Tất cả lại hoàn toàn chết lặng. Góc nào cũng lốm đốm những ánh thuốc lá, nhưng chẳng ai nói gì nữa. Nồng nặc mùi mồ hôi đàn ông, mùi những thân hình đầy sức khoẻ chen chúc nhau, và cái mũi nhạt thếch nhưng ngây ngất của cả một đêm sương.

    Gà trong thôn đã gáy sáng. Có những tiếng chân bước và tiếng sắt đập vào nhau xoang xoảng.

    - Ai? - Một tên gác khẽ hỏi:

    Từ xa có tiếng húng hắng ho rồi một giọng rất trẻ vui vẻ trả lời:

    - Anh em mình đây. Bọn mình đi đào hố chôn bọn đồng đảng của Pochenkov đây.

    Trong hiệu tạp hoá lập tức nhốn nháo hẳn lên…
  8. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 119

    Đội Cô- dắc thôn Tatarsky dưới quyền chỉ huy của tên thiếu uý Petro Melekhov đến thôn Ponomariev ngày mười một tháng năm lúc trời vừa rạng.

    Bọn Cô- dắc vùng sông Tria đang lăng xăng chạy tới chạy lui trong thôn. Chúng dắt ngựa đi uống nước, kéo đàn kéo lũ ra đầu thôn. Petro cho chi đội của hắn đứng lại giữa thôn, ra lệnh xuống ngựa. Vài gã Cô- dắc bước tới trước mặt hắn.

    - Các bạn đồng hương từ đâu đến đấy? - Một gã hỏi.

    - Từ thôn Tatarsky.

    - Các cậu đã muộn mất một chút… Không có các cậu bọn mình cũng tóm cổ được thằng Pochenkov rồi.

    - Thế chúng nó đâu cả rồi? Đã giải đi chưa?

    - Còn kia kìa! - Gã Cô- dắc khoát tay chỉ cái mái thoai thoải của hiệu tạp hoá, phá lên cười - Lốc nhốc một lũ như đàn gà trong chuồng ấy.

    Khristonhia, Grigori Melekhov và vài người nữa bước tới.

    - Nhưng bây giờ sẽ giải chúng nó đi đâu? - Khristonhia hỏi…

    - Cho về với ông bà ông vải.

    - Sao lại thế… Cậu nói bậy nói bạ cái gì thế? - Grigori nắm lấy tà áo ca- pôt của gã Cô- dắc.

    - Bẩm quan lớn, ngài còn nói bậy nói bạ cừ hơn tôi nhiều! - Gã Cô- dắc trả lời ngạo nghễ rồi khẽ giật áo khỏi những ngón tay nắm rất chắc của Grigori. - Xem đấy, người ta đã sửa soạn phương tiện giao thông cho chúng nó rồi đấy. - Gã giơ tay chỉ cái giá treo cổ dựng giữa hai cây liễu khẳng khiu.

    - Cho ngựa phân tán vào các nhà! - Petro ra lệnh.

    Mây đen che kín bầu trời. Mưa rơi thưa thớt rất vang. Đàn ông đàn bà Cô- dắc lũ lượt kéo nhau ra đầu thôn. Dân chúng Ponomariev đã được báo tin là đến sáu giờ sẽ chấp hành án tử hình. Họ vui vẻ đến nơi như để xem một trò vui hiếm có. Đàn bà con gái Cô- dắc đều quần lành áo tốt như ngày hội, nhiều người còn đưa cả con đi. Đám người vây quanh bãi chăn công cộng, họ chen chúc quanh cái giá treo cổ và cái hố dài, sâu chừng một ác- sin. Bọn trẻ con dẫm loạn trên cái ụ đất sét ẩm chừng một ác- sin. Bọn trẻ con dẫm loạn trên cái ụ đất sét ẩm đắp ở một bên hố. Bọn đàn ông đứng túm tụm một chỗ, bàn tán sôi nổi về cuộc hành quyết sắp diễn ra. Bọn đàn bà xì xào một cách chua xót.

    Tên đại uý Popop bước tới. Hắn ngủ đã đẫy giấc, mặt mày nghiêm nghị, điếu thuốc nhai nhai trong miệng cho thấy những cái răng thô chắc. Hắn ra lệnh cho bọn Cô- dắc trong đội canh gác giọng khàn khàn:

    - Đuổi hết dân chúng ra khỏi cái hố! Bác Spiridorov giải tốp thứ nhất ra! Hắn xem đồng hồ lùi sang một bên nhìn đám dân chúng bị bọn canh gác dồn đuổi, lùi khỏi chỗ hành hình, cuối cùng vây lấp pháp trường thành một hình bán nguyệt sặc sỡ.

    Spiridonov cùng một nhóm Cô- dắc đi nhanh đến tiệm tạp hoá. Đến giữa đường hắn gặp Petro Melekhov.

    - Thôn ngài có ai tình nguyện không?

    - Tình nguyện làm gì cơ chứ?

    - Chấp hành bản án.

    - Không có và không thể có đâu? - Petro trả lời gay gắt và đi vòng qua chỗ Spiridonov đứng ngáng đường.

    Nhưng vẫn có những kẻ tình nguyện: Mitka Korsunov vuốt những sợi tóc mượt xoã xuống dưới cái lưỡi chai mũ cát- két, ngật ngưỡng bước tới trước mặt Petro. Hắn nheo hai con mắt long lanh, xanh như lá lau và nói;

    - Tôi sẽ bắn. Sao lại bảo "không". Tôi nhận lời, - nói đến đây hắn đưa mắt nhìn xuống, mỉm cười - Nhưng cho tôi đạn. Tôi chỉ còn một kẹp thôi.

    Tự nguyện xung vào đội xử bắn có nó, gã Andrey Kasulin với bộ mặt nhọt nhạt hết sức hung hãn và gã Fedot Bodovskov mặt như dân Kalmys.

    Những tiếng thì thầm và xôn xao cố ghìm nén lan ra trong đám người rất đông đứng xen vai thích cánh khi tốp thứ nhất những người bị kết án bắt đầu rời khỏi tiệm tạp hoá.

    Pochenkov đi đầu, chân không, với chiếc quần đi ngựa bằng dạ đen rộng thùng thình và cái áo da ngắn mở phanh. Anh đặt hai bàn chân vừa to vừa trắng xuống bùn một cách vững vàng, chợt trượt chân một cái, bèn hơi giơ tay trái ra để lấy lại thăng bằng.

    Krivoslykov lê bước khó khăn bên cạnh Pochenkov, mặt nhợt nhạt như xác chết. Hai con mắt anh long lanh ráo hoảnh, miệng giật giật một cách đau khổ. Anh hất hất vai để sửa lại chiếc áo ca- pôt khoác trên lưng, có vẻ như đang lên một cơn lạnh khủng khiếp. Không hiểu sao hai người không bị lột áo ngoài trong khi các anh em khác chỉ còn có áo lót. Buntruc bước thình thịch, Laguchin chạy lon ton bên cạnh anh. Cả hai đều đi chân không. Chiếc quần lót của Laguchin bị rách hở một bắp chân với làn da vàng ệch, lông mọc lơ thơ. Anh vừa đi vừa ngượng nghịu xốc bên ống quần rách, môi run lập bập.

    Buntruc ngó qua đầu mấy tên áp giải, nhìn về phía trời xa mây xám mịt mùng. Hai con mắt tỉnh táo và lạnh lùng của anh hấp háy một cách căng thẳng như chờ đợi điều gì, anh luồn bàn tay to bè bè vào cổ chiếc sơ- mi mở phanh, gãi bộ ngực lông lá rậm rì, mặt có vẻ như đang chờ cái gì rất thú vị nhưng không thể nào thực hiện được…

    Một số người còn giữ được trên nét mặt một vẻ tựa như phớt lạnh. Orlov người chiến sĩ Bolsevich râu tóc bạc phơ hiên ngang nhổ xuống chân bọn Cô- dắc. Song cũng có hai ba người cho thấy tất cả nỗi đau buồn âm ỉ trong con mắt và một sự kinh hoàng không bờ bến trên những khuôn mặt méo xệch, làm những tên áp giải cũng phải quay đi không dám nhìn mỗi khi bắt gặp con mắt của họ.

    Đoàn người đi khá nhanh. Krivoslykov chốc chốc lại trượt chân, Pochenkov phải đỡ anh. Họ đi mỗi lúc một gần tới đám đông.

    Những chiếc khăn bịt đầu trắng trắng hiện lên lốm đốm giữa cả một cái biển những mũ cát- két xanh xanh đỏ đỏ. Pochenkov gườm gườm nhìn đám người, vặc một câu hết sức tục tĩu, nhưng bỗng nhiên anh bắt gặp cặp mắt Laguchin liếc nhìn mình bèn hỏi:

    - Cậu nhìn gì thế?

    - Có mấy hôm nay mà tóc cậu bạc phơ… Bọn chó má chúng nó đã cắn xé cậu xơ xác như thế nầy rồi…

    - Tất nhiên tóc phải bạc ra chứ còn gì nữa, - Pochenkov thở một cách nặng nề, anh lau mồ hôi trên vừng trán hẹp, nhắc lại. - Gặp chuyện thú vị thế nầy thì tóc phải bạc ra chớ còn gì nữa. Con chó sói mất tự do, lông nó còn trắng ra, huống chi mình lại là con người.

    Hai người không nói thêm gì nữa. Đã tiến tới sát đám đông. Ở bên phải, anh em đã nhìn thấy màu đất sét vàng vàng của cái rãnh đào làm huyệt. Spiridonov ra lệnh:

    - Đứng lại!

    Pochenkov tiến ngay thêm một bước, đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn một lượt mấy hàng đầu của đám dân chúng: phần lớn là những kẻ râu bạc phơ hoặc đã hoa râm. Bọn cựu chiến binh đứng lui cả về phía sau: lương tâm chúng cũng có cắn rứt. Hai hàng ria chảy xễ của Pochenkov rung rung, anh nói giọng âm thầm nhưng rõ ràng:

    - Thưa các cụ bô lão! Xin các cụ cho phép tôi và Krivoslykov được xem anh em đồng chí của chúng tôi tiếp nhận cái chết như thế nào, rồi sẽ treo cổ hai chúng tôi lên sau cũng được. Trong lúc nầy chúng tôi muốn nhìn thấy anh em đồng chí của mình lần cuối cùng và khuyến khích nâng đỡ những người tinh thần yếu đuối.

    Tất cả lặng đi, nghe thấy cả tiếng những giọt mưa rơi xuống những chiếc mũ cát- két.

    Tên đại uý Popop đứng phía sau mỉm cười, nhe hai hàm răng vàng khè vì khói thuốc lá. Hắn không phản đối. Bọn bô lão hò hét loạn lên:

    - Chúng tôi cho phép!

    - Cho hai đứa sống thêm vài phút!

    - Lôi chúng nó ra khỏi cái hố!

    Krivoslykov và Pochenkov bước tới chỗ đám người, bọn bô lão lánh ra, dành một lối đi nhỏ trước mặt hai người. Hai người đứng lại ở một chỗ không xa lắm và bị lèn như nêm giữa những con người đứng quanh từ phía với hàng trăm cặp mắt nhìn chằm chằm đầy vẻ thăm dò. Hai người nhìn bọn Cô- dắc lúng túng bắt anh em Xích vệ đứng quay lưng vào cái hố. Pochenkov nhìn thấy rất rõ.

    Krivoslykov cứ phải kiễng chân vươn cái cổ ngẳng chưa cạo râu ra nhìn.

    Buntruc đứng ở cuối hàng bên trái. Anh gù gù lưng, thở nặng nề, mắt dán xuống đất, mãi chẳng thấy ngửng đầu lên. Bên cạnh Buntruc, Laguchin khom người cố kéo vạt áo sơ- mi xuống che chỗ quần rách. Người thứ ba là anh chàng Ichnát người trấn Tambobskaia, rồi đến Vanca Bondyrev thay đổi đến không nhận ra được nữa vì có vẻ như già đi ít nhất hai mươi tuổi. Pochenkov đăm đăm nhìn người thứ năm: anh nhận ra rất khó khăn Matvey Sarcmatov, chàng Cô- dắc trấn Kazanskaia đã cùng anh chia xẻ mọi nỗi buồn từ hồi ở Kamenskaia. Thêm hai người nữa bước tới miệng hố rồi quay lưng lại Petro Luxikov cười một cách rất khiêu khích, rất ngang ngược, thét lên chửi những lời rất tục tĩu và giơ nắm tay bẩn thỉu lên đe đám dân chúng lúc nầy đã lặng đi. Koretkov thì cứ ngậm tăm. Người cuối cùng thì bọn kia phải xốc tay lôi đi. Anh ta ưỡn người ra, hai bàn chân không có sức sống thõng xuống kéo trên mặt đất, hai tay bám chắc lấy những tên Cô- dắc đang lôi mình đi, anh ta lắc đi lắc lại khuôn mặt đầm đìa nước mắt, vừa cố giằng ra, vừa kêu lên khàn khàn:

    - Tha cho tôi, anh em ơi! Tha cho tôi, hãy vì Chúa mà tha cho tôi!

    - Anh em ơi! Anh em thân mến ơi? Anh em làm gì thế nầy? Tôi đã được thưởng bốn huân chương trong trận chiến tranh chống Đức!

    - Tôi còn mấy đứa con nhỏ? Lạy chúa tôi, tôi làm gì nên tội? Lạy Chúa tôi, sao mà anh em lại thế?

    Một gã Cô- dắc cao lớn trước kia ở trung đoàn Atamansky đưa đầu gối huých vào ngực anh ta, đẩy anh ta tới miệng hố. Mãi lúc nầy Pochenkov mới nhận ra người vừa giằng nhau với bọn kia và bất giác thất kinh: đó là một trong những chiến sĩ Xích vệ gan dạ nhất, người trấn Migulinskaia, tuyên thệ vào lính năm 1910, đã được thưởng huân chương thánh Gioóc cả bốn hạng. Bọn kia xốc anh ta đứng lên, nhưng anh ta lại ngã lăn ra, bò lết dưới chân bọn Cô- dắc, và vừa áp cặp môi khô nẻ vào những chiếc ủng của chúng, những chiec ủng đá vào mặt mình, vừa khẩn khoản van lơn bằng một giọng khàn khàn nghe đến là khủng khiếp:

    - Anh em đừng giết tôi! Hãy rủ lòng thương lấy tôi! Tôi còn ba đứa, còn ba đứa con nhỏ… một đứa con gái nhỏ… Các anh em ruột thịt của tôi ơi!

    Anh ta ôm lấy đầu gối tên lính trung đoàn Atamansky, những tên nầy vùng ra, nhảy lui lại rồi vung chân đá cái đế ủng đóng cá sắt vào tai anh ta. Như từ trong một cái ống, máu ở tai bên kia toé ra, chảy lênh láng xuống cái cổ áo trắng.

    - Lôi nó đứng dậy! Spiridonov điên tiết quát lên.

    Cuối cùng bọn Cô- dắc cũng đại khái lôi được anh dậy, đỡ cho đứng thẳng rồi bỏ chạy ra chỗ khác. Trong hàng trước mặt, những tên tình nguyện làm đao phủ đã giương súng sẵn sàng. Đám dân chúng ồ lên một tiếng rồi nín lặng. Có người đàn bà rú lên một tiếng rùng rợn…

    Buntruc còn muốn nhìn lại gần nữa màn mây mù xám xịt trên trời và mảnh đất sáu thảm trên đó anh đã rong ruổi hai mươi chín năm ròng. Nhưng anh vừa ngửng đầu lên thì thấy cách mình năm mươi bước có một hàng những tên Cô- dắc đứng sát nhau và một thằng to lớn có hai con mắt xanh lè nheo nheo và món tóc xoã dưới lưỡi chai xuống vừng trán hẹp trắng, đang ngả người về phía trước, mím chặt môi, nhằm vào anh, vào Buntruc, vào đúng ngực. Trước khi phát súng nổ, một tiếng rú kéo dài xé mang tai Buntruc. Anh kịp quay đầu nhìn thấy một người đàn bà còn trẻ, mặt đầy tàn hương, nhảy ra khỏi đám người để vùng chạy về thôn, một tay áp chặt đứa con vào ngực, còn tay kia bịt mắt nó.

    Sau khi loạt súng nổ loạn xạ, khi tám người đứng trên miệng hố đã ngã vật xuống, những tên vừa nổ súng chạy tới bên cái hố.

    Mitka Korsunov nhìn thấy người chiến sĩ Xích vệ vừa bị hắn bắn còn cố vùng lên, tự cắn vào vai mình, bèn bồi thêm cho anh ta một phát và khẽ bảo Andrey Kasulin:

    - Cậu xem cái thằng quỷ sứ nầy, nó cắn vào vai nó đến chảy máu và chết như một con sói, không một tiếng kêu.

    Thêm mười người bị kết án nữa bị báng súng thúc vào lưng phải đi tới miệng hố…

    Sau loạt súng thứ hai bọn đàn bà đều kêu thét lên, len ra khỏi đám đông, xô nhau dắt con bỏ chạy. Có cả những tên đàn ông cũng bắt đầu bỏ về. Cái cảnh giết chóc đáng kinh tởm ấy, tiếng kêu rên của những người ngắc ngoải, tiếng la thét của những người chờ chết, tất cả cái cảnh tượng thê thảm và gớm ghiếc ấy đã làm cho người ta không thể nào ở lại được nữa. Những kẻ còn nán lại chỉ là những tên cựu chiến binh đã chứng kiến quá nhiều chết chóc cùng những tên bô lão hung hăng điên cuồng nhất.

    Những nhóm chiến sĩ Xích vệ khác bị dẫn tới, chân không, quần áo ngoài bị lột hết. Bọn đao phủ tình nguyện cũng được thay thế.

    Những loạt súng nổ lên ầm ầm, những phát súng lẻ đì đẹt khô khan.

    Những người chưa chết bị bắn thêm cho chết hẳn. Trong giờ nghỉ, đống xác chết đầu tiên được đổ đất lấp quàng quấy.

    Pochenkov và Krivoslykov đi đến chỗ những người đang chờ lượt, định tìm lời khuyến khích, những lời nói không còn ý nghĩa như ngày thường nữa rồi. Trong giây phút nầy, khi mà chỉ một phút nữa tính mạng của họ sẽ bị đứt đoạn như cái lá gãy cuống trên cây, thì con người chịu quyền chi phối của những cái gì khác.

    Grigori Melekhov đang len qua đám người bắt đầu tan tác, định về thôn thì bất ngờ chạm trán với Pochenkov. Hai người mặt giáp mặt. Pochenkov lùi một bước, nheo mắt hỏi:

    - Cả cậu cũng ở đây à, Melekhov?

    Grigori đứng lại, mặt tái xám đi.

    - Có ở đây! Như anh thấy đấy…

    - Tôi thấy… - Pochenkov nhếch mép cười, nhìn thẳng vào bộ mặt nhợt nhạt của Grigori với cả một lòng căm hờn bất thần nổ bùng ra.

    - Sao thế, bắn vào anh em mình à? Thay lòng đổi dạ rồi à? Té ra cậu là con người như thế đấy… Pochenkov tiến sát tới trước mặt Grigori, khẽ nói - Làm cho cả bên nầy lẫn bên kia à? Chà, cái thằng!

    Grigori nắm lấy tay áo Pochenkov, vừa thở hổn hển vừa hỏi:

    - Anh còn nhớ trận đấu ở gần Glubokaia không? Có còn nhớ cuộc bắn giết bọn sĩ quan không… Họ đã bị giết chính là theo lệnh của anh. Có đúng không? Bây giờ thì phải chịu lấy hậu quả! Thôi đừng đau khổ làm gì! Thế là không còn giở được trò gì nữa nhé, ông chủ tịch Uỷ ban quân sự cách mạng sông Đông ạ! Đồ khốn kiếp, mày đã đem người Cô- dắc bán rẻ cho bọn Do thái! Đã hiểu chưa? Còn muốn nói gì nữa không?

    Grigori như hoá điên hoá ngộ, Khristonhia ôm lấy chàng lôi ra chỗ khác.

    - Đi lấy ngựa thôi. Đi đi! Mình với cậu chẳng ở đây làm gì nữa.

    Lạy Chúa tôi, cũng là con người, sao lại làm như thế…

    Hai người đã bỏ đi, nhưng chợt nghe thấy tiếng Pochenkov nói, bèn đứng lại. Đứng giữa những tên cựu chiến binh và bô lão vây kín chung quanh, Pochenkov thốt lên sang sảng, giọng đầy nhiệt tình:

    - Các người tăm tối… các người mù quáng! Các người mù cả rồi! Bọn sĩ quan đã lừa dối các người, chúng nó đã bắt các người giết hại anh em ruột thịt của mình? Các người tưởng rằng giết được chúng tôi là mọi việc đều chấm dứt phải không? Không đâu! Hôm nay các người chiếm được phần thắng, nhưng chỉ ngày mai người ta sẽ đem các người ra xử bắn thôi! Chính quyền Xô viết sẽ được thành lập trên khắp nước Nga. Các người hãy nhớ lấy lời tôi nói! Các người đang làm đổ máu đồng bào mình một cách vô ích! Các người thật là một bọn ngu xuẩn~

    - Đối với những thằng như chúng mày thì chúng tao phải làm như thế mới được? - Một lão già nhảy chồm lên.

    - Nầy ông bô ơi, bắn sao được tất cả mọi người? - Pochenkov mỉm cười - Không thể treo cổ được hết nhân dân Nga đâu. Liệu liệu mà giữ lấy cái đầu! Sau nầy các người hối lại thì đã quá muộn!

    - Mày chớ có doạ chúng tao?

    - Tôi không doạ đâu. Tôi chỉ vạch cho các người thấy con đường phải đi thôi.

    - Nầy Pochenkov, chính anh mới là thằng mù! Moskva đã làm cho hai con mắt anh mù mất rồi.

    Không chờ nghe hết những lời qua tiếng lại, Grigori gần như chạy tế về cái sân buộc con ngựa đang cuống lên vì nghe thấy những tiếng súng nổ. Grigori và Khristonhia, buộc chặt đai bụng ngựa, cho phi nước đại ra khỏi thôn, vượt qua ngọn gò, không ngoái đầu lại nữa.

    Trong khi đó ở Ponomariev, khói đạn vẫn cứ tuôn ra theo từng phát súng: những người Cô- dắc ở Vosenskaia, Karginskaia, Bokovskaia, Krasnokurskaia, Miliuchinskaia bắn giết những người Cô- dắc ở Kazanskaia, Migulinskaia, Radorcskaia, Kumsakaia, Baklanovskaia.

    Cái hố đã đầy đến miệng. Bọn Cô- dắc lấp đất lên rồi lấy chân giậm. Hai tên sĩ quan đeo mặt nạ đen nắm lấy Pochenkov và Krivoslykov, đẩy đến trước cái giá treo cổ.

    Pochenkov dũng cảm và kiêu hãnh ngửng cao đầu, bước lên chiếc ghế đẩu, cởi khuy áo sơ- mi, phanh cái cổ ngăm ngăm to đần đẫn, rồi tự tay ***g cái vòng thòng lọng có bôi xà phòng vào cổ, không một bắp thịt nào trên người anh run. Krivoslykov bị chúng kéo đi, một tên sĩ quan đỡ anh leo lên chiếc ghế đẩu, và anh cũng tự tay ***g cái vòng thòng lọng.

    - Xin cho phép tôi nói một lời trước khi chết! - Pochenkov đề nghị.

    - Cứ nói đi!

    - Xin mời! - Bọn cựu chiến binh kêu lên.

    Pochenkov khoát tay chỉ đám người đã thưa nhiều:

    - Các người hãy trông, những người muốn ở lại xem chúng tôi chết còn được bao nhiêu? Lương tâm cắn rứt mà! Chúng tôi đã vì nhân dân lao động, vì quyền lợi của nhân dân lao động mà chiến đấu với bè lũ tướng tá chó má, không ngại hy sinh tính mạng, thế mà bây giờ sắp phải chết dưới bàn tay các người đây! Nhưng chúng tôi không nguyền rủa các người! Các người là những kẻ bị lừa dối một cách cay đắng? Cho đến khi chính quyền cách mạng được thiết lập, các người sẽ thấy rõ chân lý ở về bên nào. Các người đã đem những con người ưu tú nhất cả vùng sông Đông vùi dưới cái hố nầy…

    Những tiếng lao xao mỗi lúc một to, những lời Pochenkov nói không rõ nữa. Một tên sĩ quan lợi dụng tình thế đó đạp một cái rất lẹ chiếc ghế đẩu dưới chân Pochenkov bắn ra. Cả cái thân hình hộ pháp nặng như đá của anh ngả nghiêng rồi rơi thõng xuống, nhưng hai chân văn còn chạm đất. Cái vòng thòng lọng thít vào cổ làm Pochenkov tức thở, bắt anh phải dướn người lên. Anh ấn mười ngón chân to tướng của hai bàn chân không giầy không tất lên lớp đất ẩm đã bị dẫm nát, cố kiễng lên để hít lấy chút không khí, rồi đưa cặp mắt lồi hẳn ra ngoài nhìn đám người đứng im thin thít, khẽ nói:

    - Chúng nó còn chưa học được cách treo cổ người ta… Nầy Spiridop, nếu tao treo cổ mầy, thì chân mầy không chạm tới đất đâu.

    Rớt rãi chảy ra đầm đìa từ miệng Pochenkov. Hai tên sĩ quan đeo mặt nạ và mấy gã Cô- dắc đứng gần đấy bấn cả lên, hì hục mãi mới nâng được cái thân hình nặng chịch và đã hoàn toàn kiệt sức của Pochenkov lên chiếc ghế đẩu.

    Krivoslykov cũng không được chúng để cho nói hết lời: chiếc ghế đẩu văng ra khỏi chân anh, đập vào một cái xẻng không biết có tên nào ném lại đấy. Cái thân hình khô đứt, không chút mỡ thừa của anh đung đưa rất lâu, hết co rúm lại như con tôm, đầu gối chạm vào cằm, lại duỗi thẳng ra trong cơn giãy chết. Trong lúc Krivoslykov còn co giật, cái lưỡi đen sịt thè lè sang một bên mép còn ngọ nguậy thì chiếc ghế dưới chân Pochenkov lại bị đá bật ra lần thứ hai. Cái thân hình nặng nề của anh lại rơi thõng xuống, đường chỉ trên vai bục ra, và đầu ngón chân anh lại chạm đất. Đám Cô- dắc đồng thanh khẽ kêu lên. Một số vừa làm dấn phép vừa bỏ đi. Tất cả số còn lại đều bối rối hoảng hốt đến nỗi cứ đứng đực ra một lát như bị mạ ám, và cứ nhìn bộ mặt xạm lại như màu gang của Pochenkov với một tâm trạng không phải không khiếp hãi.

    Có người chợt nghĩ ra một cách là lấy xẻng bới, bèn vội vã xúc đi những cục đất dưới chân Pochenkov, và sau mỗi nhát xẻng, người anh chàng thõng xuống thẳng hơn, cổ anh càng vươn ra dài hơn, và cái đầu có bộ tóc hơi xoăn của anh càng ngật ra sau lưng. Sợi chão khó nhọc lắm mới chịu nổi cái trọng lượng sáu pút. Cái giá kêu răng rắc, hơi đưa đi đưa lại và theo nhịp lắc đều đặn của cái giá, Pochenkov từ từ quay ra tứ phía, tựa như muốn giơ cho bọn sát nhân xem bộ mặt tím đen và bộ ngực đầm đìa những dòng nước dãi và nước mắt nóng hổi của mình.
  9. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 120

    Mãi đến thứ hai Miska Kosevoi và "Bồi" mới ra khỏi trấn Karginskaia. Sương mù sủi ngầu trên đồng cỏ, cuộn lên trong các khe núi, luồn xuống các vùng đất trũng, phủ kín những chỗ nhô ra từ các vách dốc đứng. Những nấm kurgan hiện lên mờ mờ sau làn sương mù. Cun cút kêu ríu rít trong đám cỏ non. Mặt trăng bập bềnh trôi trên bầu trời cao ngất như đoá hoa sen đã nở hết trong một cái đầm mọc đầy cỏ lác và bàng tử.

    Hai người đi đến khi trời rạng. Chòm sao Đại tiểu hùng tinh đã mờ đi. Sương bắt đầu rơi. Đã gần tới thôn Hạ Yablonovsky. Nhưng giữa lúc ấy, khi chỉ còn cách cái thôn nầy ba vec- xta, bọn Cô- dắc đã đuổi kịp hai người trên đường xuống đồi. Sáu tên cưỡi ngựa đã lần theo vết chân, đuổi theo. Miska và "Bồi" đã chạy lao sang bên cạnh đường nhưng cỏ quá thấp, trăng lại sáng… Thế là hai người bị chúng tóm được và giải trở về. Cả đám đi chừng một trăm xa- gien chẳng nói chẳng rằng. Sau đó đùng lên một phát súng… "Bồi" loạng choạng, đi mỗi lúc một nghiêng sang một bên, như con ngựa sợ cái bóng của nó. Rồi "Bồi" không ngả mà chỉ như nằm xuống một cách vụng về, mặt rúc vào một đám ngải cứu xanh xanh xám xám.

    Miska đi thêm chừng năm phút, không còn cảm thấy cơ thể mình nữa, hai tai ù lên, như có tiếng chuông, chân bước trên mặt đất khô mà cứ như thụt xuống bùn. Cuối cùng Miska hỏi:

    - Sao chưa bắn đi, lũ chó đẻ? Còn làm khổ người ta gì nữa?

    - Đi đi đi đi. Nhưng im cái mồm! - Một Cô- dắc nói giọng nhẹ nhàng. - Thằng mu- gích đã bị khử rồi, nhưng cậu thì chúng tớ thương. Trong cuộc chiến tranh chống Đức cậu ở trung đoàn Mười hai à?

    - Phải. Mười hai.

    - Cậu sẽ lại về trung đoàn Mười hai thôi. Cậu còn trẻ. Mới lầm lỡ một chút, chưa tai vạ gì lắm. Bọn mình sẽ chữa cho!

    Ba ngày sau toà án quân sự dã chiến trấn Karginskaia đã "chữa" cho Miska thật. Hồi ấy toà án chỉ có hai hình thức trừng phạt là xử bắn và đánh bằng roi. Đối với những người bị tuyên án bắn thì ban đêm bọn Cô- dắc lôi họ ra ngoài trấn, tới sau nấm kurgan Pertranuri, còn những người được coi là còn có hy vọng cải tạo thì chúng trừng trị bằng cách lấy roi quật trước công chúng trên bãi họp.

    Hôm chủ nhật ấy, từ lúc sáng sớm, dân chúng vừa thấy một chiếc ghế dài được kê ra giữa bãi là họ bắt đầu đổ tới. Không những trên bãi đông nghịt mà người ta còn đứng đầy các quầy hàng, trên những tấm ván kê bên các nhà kho, trên nóc các ngôi nhà và các cửa hiệu.

    Kẻ đầu tiên bị đánh đòn là Alexandrov, con trai lão cố đạo ở Grachevskaia. Anh chàng nổi tiếng là một tay Bolsevich rất hăng, luận tội đáng bị xử bắn, nhưng bố lại là một lão cố đạo tốt, được mọi người kính trọng, vì thế toà án chỉ quyết định đánh thằng con hai chục roi thôi. Người ta lột quần Alexandrov, rồi đặt anh chàng không quần không khố như thế nằm sấp trên chiếc ghế dài, hai tay bị trói bên dưới chiếc ghế. Một gã Cô- dắc ngồi lên chân Alexandrov, hai gã nữa cầm hai bó nhánh liễu đứng hai bên. Bị đánh xong, Alexandrov phủ bụi bẩn trên người, kéo quần lên vái tứ phương, rồi mừng rơn vì thấy mình không bị đem xử bắn lại cúi đầu chào lấy chào để và cám ơn:

    - Xin cám ơn các cụ bô lão?

    - Mặc quần lại cho cẩn thận đi! - Một người trả lời.

    Tiếng cười rộ lên khắp cái bãi họp, đến nỗi mấy anh chàng bị bắt ngồi ngay gần đấy, trong một nhà kho, cũng phải cười.

    Chiều theo lời tuyên án. Miska bị nện hai mươi roi. Nhưng cái đau vì bị làm nhục còn rát hơn cái đau vì ăn roi nhiều. Nhân dân cả trấn, già trẻ lớn bé đều giương mắt nhìn mình. Miska xốc chiếc quần đi ngựa, thiếu chút nữa thì oà lên khóc. Anh bảo gã Cô- dắc vừa đánh mình:

    - Thật chẳng còn ra thể thống gì nữa.

    - Nhưng sao vậy?

    - Đầu làm đít chịu. Nhục nhã suốt một đời.

    - Không sao, cái nhục không phải là khó, nó không làm cay mắt đâu - Gã Cô- dắc kia an ủi Miska rồi như muốn làm vui lòng người bị trừng phạt, gã nói thêm - Kể ra cậu cũng là một thằng cứng rắn đấy chứ: đã hai lần mình quật thẳng tay, định bắt cậu phải kêu lên… Nhưng sao mình cũng thấy rằng một thằng thế nầy thì không thể nào bắt nó kêu được. Hôm nọ bọn mình quật một thằng, con ông cụ bĩnh cả ra quần. Cái thằng đến là yếu bụng yếu dạ.

    Ngay hôm sau, chiếu theo lời tuyên án, Miska bị tống ra mặt trận.

    Sau đó hai ngày, xác "Bồi" mới được chôn cất. Hai gã Cô- dắc bị tên ataman phái đi đào một cái huyệt nông hoen hoẻn rồi thõng chân xuống huyệt ngồi nghỉ, hút thuốc rất lâu.

    - Đất chỗ nầy rắn khiếp, - một gã nói.

    - Rắn như thép ấy! Xưa nay có cày bao giờ đâu, lâu ngày lại càng rắn.

    - Phải… cái thằng nầy được một chỗ thật là đắc địa, ngay trên đỉnh… Gió ***g lộng, khô ráo, quang đãng… Chắc hẳn cũng lâu mới rữa đấy.

    "Bồi" nằm áp mặt xuống lớp cỏ. Hai gã đưa mắt nhìn anh rồi đứng dậy:

    - Lột ủng nó chứ?

    - Còn sao nữa, đôi ủng của nó còn tốt đấy.

    Hai gã đặt "Bồi" xuống huyệt theo đúng ghi thức của đạo Thiên chúa: đầu quay về hướng tây, rồi lấp chất đất đen chắc quánh lên.

    - Dẫm thêm cho chặt nhé? - Gã còn trẻ thấy đắp đã được ngang huyệt bèn hỏi - Chẳng cần, thế nầy cũng được rồi, - Gã kia thở dài. - Khi nào các thiên sứ thổi kèn báo ngày phán xét cuối cùng, nó sẽ đứng dậy nhanh hơn.

    Nửa tháng sau cỏ sa tiền và ngải cứu non đã mọc trên nấm mồ nhỏ xíu. Yến mạch dại đã kết bông trên đó, sơn giới cũng nở những đám hoa vàng xum xuê ngay bên cạnh. Cỏ sông Đông rủ những đám lá mung lung như khói thuốc lá. Bạc hà, đại tái và châu quả toả hương thơm phức. Chẳng bao lâu từ cái thôn gần đấy có một ông cụ đến bới một cái hố trên đầu ngôi mộ, trồng một cái cột bằng gỗ sồi mới bào và đặt lên đó một cái bàn thờ nhỏ có mái. Bên dưới cái mái che hình tam giác thấy hiện ra trong bóng tối nét mặt hiền hậu đầy đau khổ của Đức mẹ và trên thành gỗ của cái mái có dòng chữ đen kẻ không trau chuốt lắm bằng chữ Slavơ:

    Năm loạn lạc con người đồi trụy,

    Anh em nhà chớ xử án nhau.

    Ông cụ không còn nữa nhưng cái miếu nhỏ vẫn còn lại trên đồng cỏ. Cái vẻ đau thương của nó mãi mãi còn đập vào mắt những người đi bộ hay cưỡi ngựa qua, gây trong lòng họ một nỗi buồn man mác.

    Và sau đó, đến tháng Năm, có mấy con gà nước đến đánh nhau bên cái miếu, dẫm phẳng một khoảng ngải cứu xanh lơ, làm nát cả đám cỏ mao rất dày đang chín bông: chúng đánh nhau để tranh nhau con mái, vì quyền sống, vì ái tình, vì sự sinh con đẻ cái. Nhưng chỉ ít lâu sau, cũng gần cái miếu ấy, dưới một nấm đất, dưới một bụi ngải cứu già lờm xờm, một con gà nước cái đẻ chín quả trứng màu xanh lốm đốm, đẻ xong nó đem cả hơi ấm của mình ra ấp và xoè đôi cánh bóng nhoáng bảo vệ chín quả trứng ấy.
  10. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 122

    Từng đoàn tàu sơn đỏ xuất phát từ vùng sông Đông chạy xuyên qua Ukraina, chở về Đức bột mì, trứng, bơ, bò. Những tên lính Đức đứng ở đầu các toa xe với những chiếc mũ nồi, những chiếc áo quân phục ngắn màu xanh xám, lưỡi lê cắm sẵn trên đầu súng. Những đôi ủng da màu vàng rất tốt của quân Đức, với những cái đế đóng cá sắt, đầm phẳng những con đường của vùng sông Đông.

    Bọn kỵ binh Bavaria dắt ngựa ra sông Đông uống nước… Trong khi đó ở vùng giáp ranh với Ukraina, những gã thanh niên Cô- dắc vừa được huấn luyện ở Pécxianovca, gần Novocherkask, bị gọi ra lính để đánh nhau với bè lũ Petliura 1 Gần một nửa Trung đoàn Cô- dắc sông Đông số 12 vừa được tổ chức lại đã nằm lại ở gần Starobensk để dành giật cho Quân khu một mẫu đất thừa trên lãnh thổ Ukraina.

    Trên miền Bắc, trấn Ust- Medvedskaia luôn luôn bị truyền từ tay nọ sang tay kia, chi đội Hồng quân Cô- dắc tràn tới từ các thôn của các trấn Gladunovskaia, Novo- Alexandrovskaia, Kumyngienskaia Xcurisenskaia cùng những trấn khác vừa đánh chiếm được nó thì một tiếng đồng hồ sau họ đã bị chi đội du kích Bạch vệ của tên sĩ quan Alekseev đánh bật ra, và trên các phố đã thấp thoáng những chiếc áo ca- pốt của bọn học sinh trung học, học sinh trường thực nghiệp và trường thầy dòng là thành phần cốt cán của chi đội Bạch vệ nầy.

    Quân Cô- dắc Đông Thượng tiến dần từng chặng về phía Bắc, từ trấn nọ qua trấn kia, Hồng quân rút lui về phía địa giới tỉnh Saratov, bỏ lại gần toàn bộ khu Khopesky. Đến cuối mùa hạ, quân đội vùng sông Đông, gồm những tên Cô- dắc đủ các lứa tuổi, chỉ cần cầm nổi cây súng, đã tiến tới các địa giới. Được tổ chức lại trên đường tiến quân, được bổ sung thêm bằng những tên sĩ quan được điều từ Novocherkask, nom nó đại khái đã có vẻ một quân đội thật sự: các đội dân quân ít người do các trấn điều đi được biên chế hỗn hợp với nhau; các trung đoàn chính qui cũ được khôi phục lại với những tên quan binh cũ còn sống sót sau chiến tranh chống Đức; các trung đoàn được ghép lại thành sư đoàn; trong các ban chỉ huy, những tên đại tá già kinh nghiệm đã thay thế bọn thiếu uý, các cấp thủ trưởng cũng dần dần được thay đổi.

    Đến cuối mùa hạ, các đơn vị chiến đấu thành lập với các đại đội Cô- dắc của mấy trăm Migulinskaia, Meskovskaia, Kazanskaia và Sumilinskaia, đã theo lệnh tên thiếu tướng Alferov vượt địa giới vùng sông Đông, rồi sau khi chiếm Doneskskoie, làng đầu tiên thuộc địa phận tỉnh Voronezskaia, chúng bao vây huyện lỵ Bogutra.

    Đã bốn ngày liền, đại đội Cô- dắc thôn Tatarsky dưới quyền chỉ huy của Petro Melekhov vượt qua thôn và trấn để tiến về phía Bắc của khu Ust- Medvedisky. Ở một nơi nào đó bên phải họ, Hồng quân vội vã rút lui ra đường sắt, không chịu nghênh chiến một lần nào. Suốt thời gian đó, bọn Cô- dắc thôn Tatarsky không hề thấy bóng vía địch đâu cả. Các chặng hành quân cũng không dài. Tuy không ước hẹn gì với nhau, nhưng Petro cùng các gã Cô- dắc khác đều quyết định rằng không tội vạ gì mà vội vã đâm đầu đi tìm cái chết vì thế mỗi ngày họ chỉ để lại sau lưng ba chục vec- xta là cùng.

    Đến ngày thứ năm thì họ tiến vào địa hạt trấn Kumyngienskaia. Họ vượt sông Khop ở thôn Didunkov. Muỗi nhắt rùng rùng bay lơ lửng trên đồng cỏ như một tấm màn the, tiếng vo vo rất thanh rung lên trong tai mỗi lúc một to. Hàng triệu triệu con muỗi lúc nhúc lượn tròn một cách mù quáng, chui cả vào tai vào mắt người và ngựa. Những con ngựa tức tối, chốc chốc lại hắt hơi, còn bọn Cô- dắc thì vung tay loạn xạ để xua muỗi, thuốc lá nhà trồng tha hồ đem ra mà hun khói.

    - Đùa kiểu gì mà lạ, con muỗi khốn kiếp nầy! - Khristonhia đưa tay áo lên chùi nước mắt kêu lên.

    - Sao thế, bị nó lọt vào mắt à? - Grigori mỉm cười hỏi.

    - Đốt cả vào mắt. Chưa biết chừng muỗi độc đấy, con quỉ dữ!

    Khristonhia giương cái mí mắt đỏ rực, đưa một ngón tay sần sùi lên sờ vào trong con mắt, rồi hắn chẩu môi, dụi mãi mu bàn tay lên mắt.

    Grigori cho ngựa đi bên cạnh Khristonhia. Từ hôm lên đường hai người vẫn cùng đi với nhau. Nhập bọn với họ có thêm Anikey. Thời gian gần đây anh chàng nầy đẫy ra, vì thế nom càng giống đàn bà.

    Quân số không được đủ một đại đội. Tên quản Latysev đến lấy vợ ở thôn Tatarsky làm đội phó cho Petro. Grigori chỉ huy một trung đội. Những gã trong trung đội của chàng gần như toàn là dân nửa dưới thôn: Khristonhia, Anikey, Fedot Bodovskov, Marchin Samin, Ivan Tomilin, gã Borsev lêu đêu như cây sào và gã Dakha Korolev nặng nề phục phịch như con gấu, Prokho Zykov, gã Merkulov nòi Digan, Epifan Marsaev, Egor Sinilin và chừng mười lăm gã thanh niên cùng tuổi tác.

    Trung đội trưởng trung đội hai là Nicolai Kosevoi, trung đội ba do Yakov Koloveydin chỉ huy, còn trung đội bốn thì trung đội trưởng là Mitka Korsunov. Sau vụ hành quyết Pochenkov, Mitka đã được tên tướng Alferov đề bạt ngay lên cấp thượng sĩ.

    Đại đội cho ngựa chạy một nước kiệu đặc biệt dừng trên đồng cỏ. Con đường lượn vòng những cái đầm lầy nước, trườn xuống một cái khe nhỏ mọc đầy lau sậy non và liễu rồi bò ngoằn ngoèo trên đồng cỏ.

    Trong mấy hàng cuối, Yakov "Móng lừa" cười khề khề bằng một giọng trầm. Andrinsca Kasulin hoà theo bằng giọng nam cao. Thằng cha nầy cũng đã kiếm được cái lon hạ sĩ nhờ có máu của những người bạn chiến đấu của Pochenkov.

    Petro Melekhov cho ngựa chạy bên cạnh hàng quân cùng với Latysev. Hai gã khẽ nói với nhau không biết những gì. Latysev nghịch nghịch cái dây ngù mới của thanh gươm. Petro đưa tay trái ra vuốt lông và gãi gãi khoảng giữa hai tai con ngựa. Một nụ cười nở trên khuôn mặt phúng phính của Latysev, dưới hàng ria thưa thớt nhe ra mấy cái răng ám khói thuốc lá, nửa vàng nửa đen, chân răng sứt nham nhở.

    Con ngựa cái khoang thọt cẳng nhỏ loắt choắt của gã Anchipnhip Apdeevich, con trai lão "Vua nói khoác" lon ton chạy sau cùng. Gã đã được anh em Cô- dắc tặng cho cái biệt hiệu là Anchip Brekhovich, nghĩa là "Anchip con trai lão nói khoác".

    Một gã nào đó trong đám Cô- dắc kể chuyện. Có những gã phá rối hàng ngũ, cho ngựa leo lên đi hàng năm, những gã khác chăm chú ngắm vùng đất xa lạ, với cánh đồng cỏ lỗ chỗ ao đầm như một bộ mặt rỗ, dãy tiêu huyền và dương liễu mọc xanh rờn như một bức rào.

    Cứ nhìn cách trang bị cũng có thể thấy rằng đội Cô- dắc đang tiến hành một cuộc trường chinh: các túi yên đựng quá nhiều đều phồng to các túi thồ đầy ắp, và người nào cũng lo buộc áo ca- pôt vào đai yên. Ngay đến các đồ thắng cũng có thể giúp cho việc nhận xét: mỗi cái dây da nhỏ đều còn mang vết chỉ, mọi thứ đều được khâu lại, buộc lại, sửa chữa lại. Một tháng trước đây mọi người còn tin tưởng rằng sẽ không có chiến tranh, nhưng hiện nay ai nấy đề buồn rầu chịu đựng ý nghĩ là không sao tránh khỏi đổ máu nữa. "Hôm nay còn giữ được cái thân xác, nhưng có lẽ ngày mai bị quạ đen rỉa thây ở nơi đồng không mông quạnh nầy", - anh chàng nào cũng nghĩ như thế.

    Mọi người đã qua thôn Krepchy. Những căn nhà lợp lau thưa thớt thấp thoáng ở bên phải, Anikey lấy trong túi quần ra một miếng bánh khô, cắn một nửa, những cái răng cửa nhỏ như răng chuột nhe ra đầy vẻ háu ăn, cắn xong lại đưa quai hàm nhai rất nhanh như con thỏ.

    Khristonhia liếc nhìn hắn.

    - Cậu đói lắm à?

    - Không đói thì ăn làm gì? Vợ mình làm cho đấy.

    - Nhưng cậu nhai khỏe thật? Có lẽ cái bụng của cậu cũng chẳng kém gì bụng con lợn đực thiến. - Rồi hắn quay sang nhìn Grigori và nói giọng bực bội than vãn - Cái thằng quỉ sứ nầy nó ăn như thần trùng, đến là khó coi? Không biết nó chứa chỗ nào cho hết mà tọng vào lắm thế? Mấy hôm nay, mình chỉ nhìn nó ăn mà sờ sợ thế nào ấy. Kể ra người ngợm nó cũng chẳng to lớn gì, thế mà ngốn ngấu quá cái thùng không đáy.

    - Mình ăn của mình chứ có ăn của ai đâu, vì thế phải ra sức mà ăn. Buổi tối vừa ăn thịt cừu, thế mà sáng hôm sau đã lại thèm rồi. Chúng mình thì thanh bông hoa quả, thứ gì cũng có thể chén được. Hễ đưa được lên miệng, ăn vào là đều có ích cả.

    Thấy Khristonhia nhổ bãi nước bọt có vẻ bực bội, Anikey nháy mắt với Grigori và hất hàm về phía Khristonhia, cười khà khà:

    - Anh Petro Panteleev nầy, anh định cho nghỉ đêm ở đâu thế? Anh xem, những con ngựa nom đã mệt lử cả rồi! - Tomilin kêu lên.

    Merkulov cũng hùa theo Tomilin:

    - Đến lúc dừng lại nghỉ đêm rồi đấy. Mặt trời sắp lặn rồi.

    Petro vung cái roi ngựa.

    - Chúng ta sẽ nghỉ đêm ở Kliutri. Còn có thể kéo đến Kumynga cũng chưa biết chừng.

    Merkulov tủm tỉm cười sau bộ râu đen loăn xoăn, khẽ bảo Tomilin:

    - *********, nó muốn tâng công với lão Alferov đấy? Vội vội vã vã.

    Có gã đã tinh nghịch trong khi tỉa râu hộ Merkulov, đem cắt ngắn hẳn đi, làm cho cả bộ râu xồm chỉ còn nhỏ xíu, rồi lại xén nhọn thành hình một cái nệm xiên xẹo. Nom anh chàng lạ hẳn đi, đến là buồn cười, nhờ đó anh em đã có một chuyện để lúc nào cũng có thể đem ra pha trò. Tomilin không nhịn được nữa bèn nói:

    - Còn cậu thì không muốn thăng quan tiến chức đấy phỏng?

    - Mình làm gì để thăng quan tiến chức?

    - Chẳng phải cậu đã tỉa râu theo kiểu những ông tướng rồi đấy sao? Có lẽ cậu nghĩ rằng cứ tỉa râu theo kiểu một ông tướng là người ta sẽ đem ngay một sư đoàn trao cho cậu phải không? Thế mà là không muốn gì à?

    - Đồ ngu, đồ quỉ sứ! Người ta nói chuyện đứng đắn với nó mà nó chỉ tếu.

    Mọi người tiến vào thôn Kliutri giữa tiếng cười, tiếng nói.

    Andriusca Kasulin được phái đi trước để kiếm chỗ ở đã chờ đón đại đội ở căn nhà đầu thôn.

    - Trung đội tôi theo tôi? Trung đội một ở ba cái nhà kia, trung đội hai ở bên trái, trung đội bốn ở cái nhà có cái giếng và tiếp liền bốn cái nữa. Petro tới bên hắn:

    - Cậu có nghe thấy phong phanh gì không? Có đi hỏi han thăm dò không?

    - Vùng nầy không có hơi hướng gì của chúng nó đâu. Nhưng người anh em ạ, ở đây mật ong nhiều ghê lắm. Có một mụ già nuôi tới ba trăm tổ. Đến đêm thế nào cũng phải phá một tổ mới được!

    Thôi thôi, đừng có giở trò? Nếu không tôi cho một trận đấy! - Petro cau mày giơ roi đánh ngựa.

    Mọi người về chỗ nghỉ. Những con ngựa được sắp xếp chăm nom. Trời đã tối. Các chủ nhà dọn bữa tối cho bọn Cô- dắc ăn. Trong sân các ngôi nhà, bọn Cô- dắc đinh lính và những gã trong thôn ngồi trên những đống củi liễu đỏ đẵn từ năm ngoái, tán hươu tán vượn chuyện nầy chuyện nọ rồi chia tay nhau đi ngủ.

    Sáng hôm sau đại đội lại tiến ra khỏi thôn. Đến khi hành quân gần tới Kumyngienskaia thì có một tên liên lạc đuổi kịp đại đội.

    Petro mở cái phong bì đựng công văn, đọc rất lâu, người ngật ngưỡng trên yên, bàn tay giơ ra cầm tờ giấy rất vất vả, cứ như đỡ một vật gì rất nặng. Grigori cho ngựa tới gần.

    - Mệnh lệnh à?

    - Phải!

    - Họ viết gì thế?

    - Có việc đây! Họ ra lệnh bàn giao đại đội. Tất cả những thằng ra lính cùng một năm với tao bị gọi đi Kazanskaia, họ đang thành lập Trung đoàn Hai mươi tám. Cả những thằng pháo binh và súng máy cũng thế.

    - Thế số còn lại thì đi đâu?

    - Đã có viết trong nầy đây: "Đến Argenovskaia chịu quyền chỉ huy của trung đoàn trưởng Trung đoàn Hai mươi hai. Hoả tốc chuyển quân". Mày xem đấy! "Hoả tốc"!

    Latysev cho ngựa chạy tới, tiếp lấy bản mệnh lệnh trong tay Petro. Hắn cong xếch hai hàng lông mày, vừa đọc vừa động đậy cặp môi dầy cứng đờ.

    - Tiến! - Petro hô to.

    Đại đội lại đi tiếp ngựa đi bước một. Bọn Cô- dắc thỉnh thoảng ngoái đầu lại, chăm chú nhìn Petro, chờ xem hắn có nói gì không.

    Đến Kumyngienskaia thì Petro công bố bản mệnh lệnh. Những tên Cô- dắc nhiều tuổi quân hối hả sửa soạn quay trở về. Mọi người quyết định sẽ nghỉ lại trong trấn một ngày rồi sáng sớm hôm sau nữa sẽ chia tay nhau mỗi toán đi một ngả. Petro tới chỗ Grigori ở. Suốt ngày hôm ấy, hắn đã cố tìm kiếm một dịp nói chuyện với thằng em.

    - Ta ra chỗ thao trường một lát đi.

    Grigori lặng lẽ bước ra cổng. Mitka Kosevoi đã chạy theo hai anh em, nhưng Petro lạnh lùng bảo nó:

    - Thôi cậu đi chỗ khác đi, Mitka. Anh em mình có câu chuyện muốn nói với nhau.

    - Cũng được thôi, - Mitka mỉm cười ra vẻ thông cảm và đứng lại.

    Grigori liếc nhìn Petro, thấy hắn có vẻ muốn nói với mình một chuyện quan trọng. Chàng đã đoán ra ý định của anh, nhưng muốn đánh trống lảng, bèn vờ nói bằng một giọng vui vẻ:

    - Thật là kỳ quặc: mới ra khỏi nhà một trăm vec- xta mà dân chúng đã khác hẳn. Lời ăn tiếng nói cũng khác vùng ta, nhà cửa cũng dựng theo một kiểu khác, y như ở chỗ bọn theo giáo phái Polipon ấy. Anh xem, bên trên cổng nhà nào cũng có một cái mái nhỏ ghép bằng ván, cứ như ở các miếu thờ ấy. Vùng ta làm gì có như thế? Và kia nữa, - chàng chỉ một ngôi nhà giàu có ở gần đấy, - ngay đến cái ụ đất đắp chung quanh nhà cũng có ốp ván: có phải để cho gỗ khỏi mục hay không?

    - Thôi cái chuyện ấy đi. - Petro cau mày. - Đâu phải là mày muốn nói những chuyện ấy… Nhưng hượm đã, chúng mình vào hàng rào đi. Người ta nhìn đấy.

    Vài người dân Cô- dắc, vừa đàn ông vừa đàn bà, đi từ chỗ thao trường tới, tò mò nhìn hai anh em. Một cụ già mặc chiếc áo sơ- mi màu lam không thắt dây lưng đứng lại hỏi, cái mũ cát- két Cô- dắc đội trên đầu quá cũ nên vành mũ đã bạc thành màu hồng.

    - Ngày mai các bác còn nghỉ lại chứ?

    - Vâng, chúng cháu muốn nghỉ lại một ngày.

    - Thế đã có lúa yến mạch cho ngựa chưa?

    - Cũng đã có chút ít, - Petro trả lời.

    - Nếu không thì cứ tạt vào nhà tôi, tôi có thể đong cho hai ba mê- ra.

    - Lạy Chúa tôi, cám ơn cụ!

    - Lạy Chúa tôi… Bác cứ lại. Nhà tôi kia, có cái mái tôn màu xanh lá cây ấy.

    - Anh muốn nói chuyện gì bây giờ? - Grigori sốt ruột cau mày hỏi.

    - Đủ mọi chuyện. - Petro mỉm một nụ cười đau khổ như kẻ có lỗi hắn nhay nhay món ria màu lúa mạch nhét vào một bên mép. - Grisatca ạ, thời buổi như thế nầy thì anh em mình chưa biết chừng không còn được trông thấy nhau nữa đâu…

    Nụ cười thảm hại của Petro và cái tên gọi "Grisatca" còn lại từ một thời xa xưa lắm, từ hồi còn thơ ấu, đã làm tan biến trong nháy mắt lòng căm ghét mà không hiểu sao từ nãy Grigori cứ cảm thấy đối với anh. Petro âu yếm nhì thằng em, vẫn nụ cười gượng gạo trên môi. Nhưng hắn đã động môi xoá hết nét cười, nghiêm nét mặt và nói:

    - Mày xem, cái bọn chó đẻ ấy, chúng nó chia rẽ dân chúng có ghê không! Cứ như vừa có một lưỡi cày kéo qua, đằng sau lưỡi cày ấy là một phần đất ngả sang bên nầy, một phần đất ngả sang bên kia. Một cuộc sống ma quái, thời thế đến là khủng khiếp? Người nầy không còn đoán được ra tâm tư của người khác nữa… Như mầy đây, Petro bỗng lái ngoặt câu chuyện, - mầy là em ruột của tao, nhưng tao chẳng làm thế nào hiểu được mày, thật thế đấy? Tao cảm thấy rằng mầy cứ tựa như dần dần rời xa tao… Tao nói có đúng không? - Hắn hỏi xong lại tự trả lời - Thật thế đấy. Mầy cứ sục ngầu lên… Tao chỉ sợ mầy sẽ chạy sang bọn Đỏ mất thôi… Grisatca, đến bây giờ mầy vẫn còn chưa tìm được cho mình con đường đi.

    - Thế anh tìm ra rồi à? - Grigori vừa hỏi vừa nhìn vừng mặt trời đang lặn sau dòng sông Khop mà chàng không trông thấy, sau dãy núi đá phấn, nhìn ráng chiều cháy bừng bừng và những đám mây trôi từ phía đó lại nom như những đám bông cháy đen, tìm ra rồi. Tao đã đi theo đúng luống cày của tao. Mầy sẽ không đẩy được tao ra khỏi luống cày ấy đâu! Grisatca ạ, tao sẽ không ngả nghiêng nghiêng ngả như mày đâu.

    - Thật thế ư? - Grigori cố nặn ra được một nụ cười bực bội.

    - Tao sẽ không nghiêng ngả đâu! - Petro tức tối xoắn ngược hàng ria, hai con mắt hấp háy giờ lâu như chói nắng. - Tao thì có bị ***g cái vòng thòng lọng vào cỗ cũng không ai lôi được sang với bọn Đỏ đâu. Người Cô- dắc chống lại chúng nó, tao cũng chống lại chúng nó. Tao không muốn làm trái lại, và sẽ không làm trái lại đâu! Tao không có gì phải sang với chúng nó, tao với chúng nó không đi cùng đường!

    - Thôi không nói chuyện ấy nữa. - Grigori đề nghị, giọng mệt mỏi.

    Chàng bỏ đi trước về chỗ ở của chàng, chân cố bước thật vững vàng, hai cái vai gù gù hơi động đậy.

    Về đến cổng, Petro chậm bước lại hỏi:

    - Mầy thử bảo cho tao biết… Nói đi, Grisatca, mầy có chạy sang với chúng nó không?

    - Chưa chắc… Còn chưa biết được.

    Grigori trả lời thẫn thờ và miễn cưỡng. Petro thở dài, nhưng thôi không hỏi nữa. Hắn bỏ đi, vẻ mặt xao xuyến, nom tiều tụy hẳn đi.

    Cả hắn lẫn Grigori đều đã nhìn thấy hết sức rõ rằng: những con đường trước kia nối liền hai người nay đã mọc đầy những bụi rậm không thể nào len qua được, các bụi rậm ấy là những điều thể nghiệm trong đời, và người nầy không còn có thể đi vào trái tim của người kia nữa. Thật cứ như bên trên một cái khe có một con đường trườn ngoằn ngoèo theo sườn dốc, con đường rất phẳng phiu vì đã có những móng chân dê dẫm trụi hết cỏ, nhưng bỗng nhiên đến một chỗ ngoặt nào đó, con đường ấy đâm thẳng xuống đáy khe, như bị cắt đứt và từ đấy không còn thấy có lối đi nào nữa, những bụi ngưu bàng dựng lên như một bức tường, nom bạc bẽo với khách như cái ngõ cụt.

    Hôm sau Petro đem một nửa đại đội quay về Vosenskaia. Số Cô- dắc còn trẻ thì tiến về hướng Argenovskaia dưới quyền chỉ huy của Grigori.

    Từ sáng mặt trời đã thiêu đốt không thương tiếc. Đồng cỏ sôi lên dưới một làn sương mù màu nâu. Phía sau, những nhánh núi tím ngắt của dãy núi ven sông Khop đã chuyển thành màu xanh da trời, bãi cát trải dài như làn nước màu vàng nghệ. Dưới những chàng kỵ sĩ ngồi trên yên, những con ngựa đẫm mồ hôi lảo đảo đi bước một.

    Nắng làm cho da mặt bọn Cô- dắc xạm lại, mất hết vẻ hồng hào. Các giá yên, bàn đạp, các bộ phận bằng kim khí trên dây hàm thiếc đều nóng bỏng, tay không dám động vào nữa. Vào đến trong rừng cũng chẳng cảm thấy mát mẻ chút nào, vì hơi nước ngột ngạt không tản đi đâu được mùi nước mưa xông lên nồng nặc.

    Một nỗi buồn u uất xâm chiếm tâm hồn Grigori. Suốt ngày chàng ngồi lắc lư trên yên với những ý nghĩ không đầu không đũa về tương lai. Những lời Petro nói vẳng lại trong óc chàng như một chuỗi hạt thuỷ tinh, làm chàng cảm thấy day dứt đau khổ. Mùi ngải cứù hắc hắc và ngây ngất như đốt cặp môi Grigori. Con đường bị hun đến bốc khói. Đồng cỏ vàng vàng nâu nâu nằm sóng soài dưới nắng. Những làn gió hanh mò mẫm khắp đồng cỏ, uốn rạp những lớp cỏ rối bết, thốc lầm cát bụi.

    Lúc trời sắp hoàng hôn có lớp mây mù trong suốt che phủ mặt trời. Bầu trời bệch màu đi, xám lại. Phía Tây thấy hiện lên những đám mây nặng chịch. Những đám mây đó đứng sừng sững, đuôi mây thõng xuống, chạm tới đường chân trời mong manh như dệt bằng một thứ sợi mịn. Rồi gió lùa mây lừng lững trôi tới, đầy vẻ hăm doạ, kéo lê những cái đuôi nâu nâu rất thấp như khiêu khích, còn đỉnh đám mây thì tròn lại, trắng ra như đường.

    Đội quân vượt sông Kumynga lần thứ hai, rồi lại chui xuống cái mái tròn của một khu rừng tiêu huyền. Lá cây lăn lộn dưới những làn gió, lật mặt trái lên, xanh xanh bạc bạc mịn như sữa, với những tiếng xào xạc trầm trầm rất êm tai. Ở một nơi nào đó bên kia sông Khop, một trận mưa đá rơi xuống chếch chếch từ dưới cái vạt trắng loá của một đám mây và quất mạnh xuống mặt đất. Một dải cầu vồng lao cái dây lưng ngũ sắc của nó bó ngang tất cả các tia mưa.

    Đội quân ngủ đêm trong một thôn nhỏ, rất hẻo lánh. Grigori thu xếp chăm nom cho con ngựa xong, bèn ra chỗ nuôi ong. Chủ nhà là một ông lão Cô- dắc tóc xoăn đã rất già. Ông cụ gỡ mấy con ong bám vào chòm râu ông rồi nói với Grigori giọng lo lắng:

    - Tổ ong nầy tôi mới mua hôm kia đấy. Mang về đến đây thì không hiểu sao bao nhiêu ong non đều chết ráo. Bác xem, ong chúng nó đang lôi những con chết ra đấy. - Ông lão dừng lại bên một cái tổ ong làm bằng khúc gỗ đục rỗng, chỉ vào một cái cửa, trong đó vô số những con ong lớn đang lôi xác những con ong non ra ngoài rồi mang đi với những tiếng vo vo trầm trầm.

    Người chủ nhà nheo cặp mắt hung hung đỏ nhìn có vẻ tiếc rẻ và chép miệng một cách đau khổ. Người ấy cứ đi đi lại lại, vụt cái chỗ nầy, vụt cái chỗ kia, hai tay đưa đi đưa lại một cách vụng về. Thân hình ông lão thô kệch nhưng lại quá hiếu động, các cử động thì hấp tấp giật giật, làm người khác cảm thấy bị truyền sang cho mình một tâm trạng lo lắng. Người ấy có vẻ thừa bên cạnh cái tổ ong, trong đó tập thể khổng lồ nhưng trật tự và hoà hợp của những con ong đang từ tốn làm một công việc khôn ngoan. Grigori nhìn ông lão với cảm giác hơi khó chịu. Cái cảm giác ấy đã tự nhiên nẩy sinh trong lòng chàng vì ông già Cô- dắc vai rộng nầy cứ bất thình lình động chân động tay và nói bằng một giọng đã nhanh lại rin rít.

    - Năm nay mật ong thu hoạch khá lắm. Bách lý hương ra nhiều hoa, mật làm bằng nhụy bách lý hương đấy. Nuôi khung thì tốt hơn nuôi hòm. Tôi nuôi đấy…

    Grigori uống nước trà với thứ mật ong đặc sệt như keo. Mật ong toả ra mùi thơm ngọt ngọt của bách lý hương, hoa chua me, và các thứ hoa khác trên đồng cỏ. Con gái chủ nhà, một ả vợ lính vắng chồng dong dỏng cao, đẹp gái, ra rót nước trà. Chồng của chị đã ra đi theo Hồng quân, vì thế người chủ nhà có thái độ rất xum xoe, quỵ lụy ông ta không nhận thấy rằng con gái ông cứ mím chặt cặp môi nhợt nhạt, mỏng dính, chốc chốc lại đưa nhanh mắt nhìn Grigori qua hàng mi. Lúc ả vươn tay với lấy ấm trà, Grigori nhìn thấy một đám lông loăn xoăn, đen như nhựa chưng dưới nách ả, và nhiều lần chàng bắt gặp cặp mắt, cặp mắt tò mò của ả nhìn như sờ nắn mình, thậm chí còn có cảm tưởng như lúc con mắt hai ngươi bắt gặp nhau, gò má người thiếu phụ Cô- dắc ửng lên, và bên mép thoáng hiện một nét cười kín đáo.

    - Tôi sẽ dọn giường cho ngài ở phòng trong. - Grigori uống trà xong, ả vừa ôm gối và đệm đi qua, vừa nói với chàng, cặp mắt thèm khát trắng trợn như muốn đốt cho chàng cháy bùng lên. Ả đập đập cái gối và líu nhíu nói rất nhanh như không có chủ tâm gì. - Tôi xuống nằm dưới nhà kho… Trong nhà bức quá, lại bị rệp cắn…

    Vừa nghe thấy người chủ nhà bắt đầu gáy, Grigori đã tháo ủng, chỉ đi bít tất xuống ngay nhà kho với ả. Ả tránh ra, nhường cho chàng một chỗ bên cạnh mình trên chiếc xe bò tháo phần trước, rồi vừa kéo cái áo chòng lông cừu đắp lên mình, vừa đưa chân cọ vào Grigori rồi lại nằm yên. Môi ả khô cứng, nặc mùi hành và một vị tươi mát kỳ lạ. Grigori gối đầu lên cánh tay mảnh khảnh và rám nắng của ả, hú hí với ả đến khi trời hửng. Suốt đêm ả ghì chặt Grigori vào lòng, vuốt ve chàng không biết chán và vừa cười, vừa cắn đùa vào môi chàng đến chảy máu, để lại trên cổ, trên ngực, trên vai chàng dấu vết tím bầm của những cái hôn cắn da cắn thịt, của những cái răng nhỏ và nhọn như răng thú. Sau khi gà gáy đợt ba, Grigori sắp sửa trở vào phòng trong để ngủ nốt, nhưng ả giữ chàng lại.

    - Buông ra nào, em yêu của anh, buông ra nào, của quí của anh? - Grigori mỉm cười sau hàng ria đen chảy xệ, nhẹ nhàng tìm cách vùng ra cố khuyên.

    - Nằm lại chút nữa anh… cứ nằm lại đi!

    - Nhưng người ta nhìn thấy mất! Xem kìa, trời sắp rạng rồi?

    - Không sao, mặc người ta!

    - Thế còn cha em?

    - Cha em biết rồi.

    Làm thế nào biết được? - Grigori ngạc nhiên rung rung hai hàng lông mày.

    - Biết hẳn đi chứ…

    - Nói gì mà lạ! Làm thế nào biết được!

    - Anh biết không, cha em, hôm qua cha em đã bảo em rằng nếu ông sĩ quan gạ gẫm thì cứ nằm với người ta, van xin người ta, kẻo lại vì thằng Gerasin hạng bét, mà bị lấy mất ngựa hoặc còn chuyện gì nữa chửa biết chừng. Chồng em, gã Gerasin ấy, nó đi theo quân Đỏ mà…

    - À à à ra vậy! - Grigori mỉm cười châm biếm, nhưng trong thâm tâm thật ra chàng đã phật ý.

    Tuy vậy ả đã đánh tan ngay cái cảm giác khó chịu ấy. Ả âu yếm sờ vào con chuột trên cánh tay Grigori rồi rùng mình:

    - Chồng em, cái gã mà em không yêu nữa ấy, hắn chẳng được như anh đâu…

    - Thế hắn làm sao? - Grigori vừa tò mò hỏi thêm, vừa đưa cặp mắt đã tỉnh hẳn nhìn lên khoảng đỉnh trời đang nhợt nhạt dần.

    - Hắn chỉ là một của vứt đi… lẻo khẻo lèo khèo… - Ả nằm sát vào Grigori một cách tin cậy, giọng ả ấm ức như muốn khóc, nhưng lại không có nước mắt. - Em ăn ở với hắn mà chẳng được hưởng chút ngọt bùi nào… Về chuyện đi lại với đàn bà, hắn chẳng được tích sự gì cả…

    Một tâm hồn mới gặp, ngây thơ như con nít, đã tự cởi mở một cách đơn giản với Grigori, đơn giản như một đoá hoa xinh xinh nở ra sau khi đã uống chán sương đêm. Điều đó làm chàng ngây ngất trong lòng bất giác thấy thương thương. Grigori nhắm cặp mắt mệt mỏi, âu yếm vuốt ve bộ tóc tả tơi của người đàn bà ngẫu nhiên chung chăn gối với mình.

    Ánh trăng sắp lặn rỉ xuống qua kẽ mái lau của hàng hiên. Một vì sao sa rời bỏ bầu trời vụt rơi xuống đường chân trời, để lại một vết lân tinh ngưng đọng trong nháy mắt trên màn trời xám như rắc tro.

    Trong đầm có con vịt cái quàng quạc cất tiếng gọi, con vịt đực âu yếm trả lời, giọng khàn khàn.

    Grigori quay vào phòng trong, chàng nhẹ nhõm cảm thấy cái thể xác vừa bị dốc cạn của mình còn rung lên một cách khoái trá. Rồi chàng thiếp đi, trên môi còn lưu cái vị mặn mặn của cặp môi người đàn bà. Chàng trân trọng gìn giữ trong ký ức thân hình người đàn bà Cô- dắc khao khát vuốt ve yêu đương cùng mùi hương của cái thân hình ấy, mùi hương hỗn hợp của mật ong làm bằng nhụy bách lý hương của mồ hôi và hơi ấm.

    Hai giờ sau bọn Cô- dắc đánh thức chàng dậy. Prokho Zykov thắng ngựa và dắt ra cổng cho chàng. Grigori từ giã người chủ nhà, nhìn lại một cách cứng cỏi cặp mắt âm thầm đầy vẻ thù địch của ông lão và gật đầu chào người con gái ông cụ đang bước qua sân vào trong nhà với một nét cười luyến tiếc và cay đắng ẩn hiện hai bên mép cặp môi mỏng nhợt nhạt. Grigori vừa cho ngựa đi dọc theo cái ngõ, vừa quay đầu nhìn lại. Cái ngõ ôm vòng lấy căn nhà chàng vừa nghỉ đêm như một cánh cung. Chàng thấy người đàn bà đêm qua sưởi ấm cho chàng vẫn quay đầu nhìn theo mình qua dãy hàng rào, một bàn tay nhỏ nhắn ngăm ngăm đưa lên che mắt. Grigori cảm thấy một niềm nhớ tiếc nhoi nhói trong lòng mình. Chàng quay đầu lại, cố nhớ lại nét mặt của ả, thân hình của ả, toàn bộ đáng dấp của ả, nhưng chẳng hình dung được gì. Chàng chỉ nhìn thấy đầu người đàn bà Cô- dắc từ từ quay nhìn theo mình. Một đoá hoa hướng dương theo dõi con đường di động xoay vòng chậm rãi của mặt trời cũng quay đầu như thế.

    Miska Kosevoi đã bị giải từ trấn Vosenskaia ra mặt trận như một tên phạm nhân. Nhưng khi đến trấn Fedorseevskaia, viên ataman trấn nầy đến giữ anh lại một ngày rồi cho người áp giải trở về trấn Vosenskaia.

    - Tại sao các ông lại trả tôi trở về! - Miska hỏi tên thư ký của trấn.

    - Có nhận được chỉ thị gửi tới từ Vosenskaia, - tên kia miễn cưỡng trả lời.

    Vốn là đại biểu trong đại hội thôn, bà mẹ của Miska đã quì sụp xuống van lạy bọn bô lão, và bọn nầy đã nhân danh tập thể viết một bản kiến nghị xin cho Miska Kosevoi được chỉ định làm coi ngựa, vì anh là người lao động duy nhất để nuôi sống cả gia đình. Miron Grigorievich thân chinh mang bản kiến nghị lên gặp tên ataman trấn và đã xin được cho Miska.

    Trong nhà công sở trấn. Miska đứng cứng người trước mặt tên ataman. Thằng cha quát tháo một thôi một hồi rồi hạ giọng kết luận một cách tức tối:

    - Chúng ta không thể tin cậy những thằng Bolsevich, không thể trao cho chúng việc bảo vệ sông Đông? Bây giờ cho mầy về sở chăn nuôi, làm coi ngựa, rồi sau sẽ hay. Đồ chó đẻ, đối với tao thì liệu cái thần hồn? Tao cũng thương con mẹ mầy, nếu không thì… Thôi xéo đi!

    Miska đã có thể đi qua những dãy phố nóng như rang mà không còn bị áp giải. Sợi dây đeo chiếc ca- pôt cuộn tròn trên lưng như cắt vào vai. Sau chặng đường một trăm năm mươi vec- xta, hai chân anh đau như dần không còn muốn tuân theo ý muốn của anh nữa. Cố gắng lắm mới lê được về tới thôn trước khi đêm xuống. Nhưng ngay hôm sau anh đã lại phải lên đường tới trại chăn nuôi. Mẹ anh khóc như mưa, vuốt ve anh, và anh đã ra đi mang theo trong ký ức hình ảnh khuôn mặt già sọm của mẹ cùng những món tóc bạc mà anh nhận thấy lần đầu trên đầu bà.

    Ở phía nam trấn Karginskaia có một khoảng đồng cỏ hoang, ngàn đời nay chưa từng có ai cày bừa trồng trọt. Khu bãi nầy dài hai mươi tám vec- xta, rộng sáu vec- xta. Khoảng đất rộng hàng mấy ngàn đê- xi- a- chin nầy vốn được dành cho việc chăn nuôi ngựa công của trấn, vì thế mới có cái trên là "sở chăn nuôi". Hàng năm cứ đến ngày lễ thánh Egor 2 những người coi ngựa ở Vosenskaia lại đuổi những con ngựa giống ở các chuồng ngựa ra trại chăn nuôi. Người ta đã dùng tiền công quỹ của trấn dựng ở giữa sở những tầu ngựa lộ thiên dùng cho mùa hạ, mỗi tầu đủ nuôi mười tám con ngựa giống.

    Cạnh đấy có ngôi nhà bằng ván ghép dùng cho bọn chăn ngựa, giám thị và y sĩ thú y. Những người Cô- dắc ở khu du mục Vosenskaia đem những con ngựa cái đến đấy. Khi nhận ngựa cái, viên y sĩ và bọn giám thị kiểm tra rất kỹ để con nào cũng cao ít nhất hai ác- sin 3 và đủ bốn tuổi trở lên. Những con khoẻ mạnh được phân thành từng đàn, mỗi đàn bốn chục con. Mỗi con ngựa giống đưa đàn của nó ra đồng cỏ và theo dõi rất sát những con ngựa cái trong đàn.

    Miska ra đi với con ngựa cái duy nhất trong nhà. Lúc tiễn con đi, bà mẹ kéo tạp dề lên lai nước mắt và nói:

    - May ra thì con ngựa cái nhà ta lấy được giống… Con phải trông nom nó, đừng bắt nó chạy quá mệt. Nếu có được thêm con ngựa nữa thì may quá!

    Đến giữa trưa, Miska nhìn qua làn mây mù tràn ngập trên vùng đất trũng, thấy những cái mái tôn của đám nhà ở, dãy hàng rào và cái mái bằng ván ép của chuồng ngựa đã xám xịt vì nắng gió. Anh thúc cho con ngựa rảo bước. Lên đến đường sống đồi thì thấy rõ ràng các khu nhà và làn cỏ trăng trắng như sữa đang lượn sóng phía sau. Xa xa, về đằng đông có một đàn ngựa chạy ra cái đầm, nom như những điểm màa hạt dẻ sẫm. Bên cạnh đàn ngựa có gã coi ngựa ngồi trên yên cho ngựa chạy nước kiệu, nom chẳng khác gì một thằng người đồ chơi đính trên con ngựa đồ chơi.

    Vào đến trong sân, Miska xuống ngựa, buộc dây cương bên thềm, bước vào trong nhà. Anh gặp một gã chăn ngựa lùn lùn, mặt đầy tàn hương, trong dãy hành lang rất rộng.

    - Hỏi ai thế? - gã vừa nhìn soát Miska từ chân lên đầu, vừa hỏi bằng một giọng chẳng có gì là thân thiện.

    - Tôi cần gặp ông giám thị.

    - Strukov ấy à? Không có nhà đâu, ra ngoài rồi. Nhưng phó giám thị Xadanov có nhà đấy. Cửa thứ hai bên trái… Nhưng có việc gì thế? Ở đâu đến?

    - Đến chỗ các cậu làm coi ngựa đây.

    - Bạ thằng nào cũng tống đến được…

    Gã lầu bầu bước ra cửa, cái dây thòng lọng vắt qua vai kéo lệt sệt trên sàn nhà. Sau khi đã mở cửa, gã coi ngựa vung roi nói bằng một giọng đã ôn tồn hơn, nhưng vẫn không quay mặt lại:

    - Người anh em ạ, công việc ở chỗ bọn mình cực nhọc lắm đấy. Có khi hai ngày hai đêm liền không được xuống ngựa đâu.

    Miska nhìn theo cái lưng gù gù không thể dướn thẳng lên được nữa và cặp chân vòng kiềng rất cong của gã. Trong khoảng sáng của khung cửa, mỗi nét trên cái thân hình thô xấu méo mó của gã đều nổi bật lên. Hai chân cong ra như cái bánh xe của gã coi ngựa làm Miska cảm thấy vui vui. "Có lẽ thằng cha nầy đã cười bốn chục năm liền trên một cái bánh xe", - anh nghĩ bụng và vừa cười thầm, vừa đưa mắt tìm quả đấm cửa.

    Xadanov tiếp nhận chàng coi ngựa với một vẻ oai vệ lạnh nhạt.

    Chẳng mấy chốc chính viên giám thị cũng ở đầu mò về. Viên giám thị nầy là một gã Cô- dắc cao lớn lực lưỡng, trước kia đã đóng quân ở trung đoàn Atamansky, tên hắn là Aphanxi Strukov. Hắn ra lệnh ghi Miska vào sổ được lĩnh lương ăn và quần áo xong, bèn cùng anh bước ra khoảng thềm nhà nóng bỏng dưới ánh nắng trắng loá:

    - Mầy có biết huấn luyện những con ngựa chưa thuần không? Đã làm quen công việc nầy chưa?

    - Việc nầy tôi chưa được làm bao giờ. - Miska thành khẩn thú nhận và thấy ngay rằng khuôn mặt của tên giám thị đang đờ đẫn dưới khí trời oi bức bỗng trở nên linh hoạt và thoáng có vẻ không vừa ý.

    Hắn ưỡn hai cái xương bả vai rất khoẻ, gãi cái lưng đẫm mồ hôi rồi thần thờ nhìn vào chỗ giữa hai con mắt Miska.

    - Mầy có biết ném dây thòng lọng không?

    - Tôi ném được.

    - Thế có thương yêu ngựa không?

    - Có thương yêu.

    - Chúng nó cũng như con người ấy, chỉ có điều không biết nói thôi. Mầy phải thương chúng nó, - hắn ra lệnh như thế rồi vô duyên cô cớ nổi giận đùng đùng, quát rầm lên - Mầy phải thương yêu chúng nó, nếu không sẽ ăn [bad word] bò ngay!

    Trong giây phút bộ mặt hắn nom như vừa lanh lợi vừa thông minh, nhưng lập tức cái vẻ lanh lợi ấy đã biến đâu mất, và mỗi nét mặt lại mang một lớp vỏ cứng trên đó chỉ còn thấy đần độn và lạnh nhạt.

    - Mầy lấy vợ chưa?

    - Chưa ạ!

    - Đồ ngu? Lấy vợ đi có hơn không? - Tên giám thị vui vẻ nói thêm.

    Hắn nín lặng một lát như chờ đợi điều gì, chốc chốc lại đưa mắt nhìn bộ ngực mở phanh của cánh đồng cỏ, rồi vừa ngáp dài vừa đi vào trong nhà, Miska coi ngựa hơn một tháng mà chẳng thấy hắn hé răng một lời nào nữa.

    Trong trại chăn nuôi tất cả có năm mươi nhăm con ngựa giống. Mỗi gã coi ngựa phải trông nom hai ba đàn. Miska được trao cho một đàn lớn, đầu đàn là một con ngựa giống già rất khỏe tên là Bakha, ngoài ra còn một đàn nữa nhỏ hơn, có chừng hai mươi con ngựa cái theo một con ngựa giống tên là Banannui. Tên giám thị cho gọi Sodratov Ilia, một trong những gã coi ngựa tháo vát và gan góc nhất, rồi ra lệnh cho gã:

    - Đây là thằng coi ngựa mới Kosevoi Miska, quê ở thôn Tatarsky. Mày chỉ cho nó hai đàn của con Banannui và con Bakha, cho nó một cái dây thòng lọng. Nó sẽ ở cùng chỗ với chúng mầy. Có gì chỉ bảo cho nó. Thôi đi đi.

    Sondatov lặng thinh hút thuốc lá rồi gật đầu ra hiệu cho Miska:

    - Ta đi thôi.

    Ra đến thềm, hắn đưa mắt chỉ con ngựa cái của Miska đang đứng rũ dưới nắng và hỏi:

    - Của cậu đấy à?

    - Phải, của mình.

    - Có mang chưa?

    - Chưa!

    - Cho nó lấy giống con Bakha ấy. Ở chỗ bọn mình chỉ có con Bakha là của trại ngựa giống Hoàng gia thôi, lai giống ăng- lê đấy, nó hăng ra hăng! Nào, lên ngựa.

    Hai người cho ngựa chạy bên nhau. Hai con ngựa chạy vướng chân trong cỏ đến đầu gối. Khu nhà ở và các tầu ngựa đã lui lại rất xa phía sau. Phía trước, cánh đồng cỏ nằm lặng, trang nghiêm dưới một màn khói rất dịu màu lam. Trên đỉnh đầu, mặt trời hiện lên mệt mỏi sau một dải những đám mây trắng như đá mắt mèo. Trời nóng quá cỏ toả ra một làn hương thơm đặc quánh. Bên phải, dải đầm Girov tươi cười trải dài, trắng như ngọc trai, sau một khoảng đất trũng mung lung sương khói. Ba bề bốn bên, tầm mắt đưa đến đâu cũng chỉ thấy một vùng mênh mông xanh rờn dưới những làn sương mù rung rinh. Cánh đồng cỏ nguyên thuỷ nằm đờ đẫn dưới khí trời oi bức của buổi giữa trưa, và ở đường chân trời có một cái kurgan xám xám ưỡn bộ ngực mênh mông của nó, nom có vẻ không sao đi tới được như trong thần thoại.

    Cỏ rậm và xanh sẫm từ ngọn tới gốc, đầu những lá cỏ sáng loáng lên dưới nắng như rỉ đồng. Cỏ vũ mâu chưa già mọc lờm xờm, lẫn với những đám thường xuân loăn xoăn. Cỏ nga quan khao khát vươn những bông nặng hạt đón ánh mặt trời. Chỗ chỗ lại có những khoảng mã tiền lùn choằn choằn bạ đâu mọc đấy, nhưng rễ bám rất chắc.

    Năm thì mười hoạ mới thấy mọc xen vài nhánh thử vĩ, rồi vũ mâu lại lan tràn như nước vỡ bờ, bên trong có lẫn đủ mọi thứ hoa: yến mạch đại, hoàng sơn giới, đại tái, trần cát, giống cỏ thô bạo, thích sống cô độc, mọc lên ở đâu là chen lấn tất cả các thứ cỏ khác.

    Hai chàng Cô- dắc lặng lẽ cho ngựa chạy, Miska cảm thấy trong lòng thanh thản và sẵn sàng chịu đựng, một cảm giác mà anh đã mất từ lâu Đồng cỏ đã có sức ghìm nén anh với bầu không khí tịch mịch trang nghiêm như một nhà hiền triết. Người bạn đường của anh thì chỉ luôn luôn ngủ gà ngủ gật trên yên, đầu gục xuống bờm ngựa, hai bàn tay đầy tàn hương đặt trên mũi yên như trước khi nhận chiếc bánh thánh.

    Một con gà nước bay vụt lên dưới vó ngựa và lao tới chỗ khe mát với bộ lông trắng phát ra những tia sáng dưới nắng. Một làn gió hiu hiu thổi tới từ miền Nam, uốn rạp ngọn cỏ. Có lẽ sáng nay làn gió nầy đã làm gợn sóng mặt biền Azov.

    Nửa giờ sau hai người đến chỗ đàn ngựa ăn cỏ ở gần đầm Oxinovyi. Sodratov tỉnh dậy, vươn vai trên yên và nói một cách lười nhác:

    - Đàn ngựa của lão Lomakhin Panteliuska đấy. Nhưng không hiểu sao chẳng thấy bóng vía lão đâu cả.

    - Con ngựa giống tên là gì thế? - Miska vừa hỏi vừa trầm trồ ngắm con ngựa lông hồng nhạt, giống Donesk, có cái lưng rất dài.

    - Fraze. Nó ác lắm đấy, cái con khốn kiếp! Xem nó giương mắt nhìn chúng ta kia kìa? Nó làm đầu đàn đến là giỏi?

    Con ngựa giống rẽ sang hướng khác. Đàn ngựa cái lốc nhốc chạy theo nó.

    Miska tiếp nhận hai đàn ngựa được trao cho anh rồi đặt hành lý của mình vào một chiếc lều dã chiến. Trước khi anh đến đây đã có ba người sống trong cái lều nầy: Sondatov, Lomakhin và một người được thuê đến coi ngựa tên là Turoverov, một gã không còn trẻ nữa, suốt ngày chẳng nói chẳng rằng. Trong bọn, Sondatov có vẻ đứng đầu. Hắn sẵn lòng dạy cho Miska biết các công việc phải làm và ngay hôm sau đã nói cho anh nghe về tính nết và các thói quen của những con ngựa giống. Hắn mỉm cười hóm hỉnh, khuyên Miska:

    - Theo qui định thì cậu phải làm công việc với con ngựa của cậu đấy. Nhưng nếu quần hết ngày nầy sang ngày khác nó cũng mệt đến mất xác thôi. Cậu cứ thả nó vào trong đàn, thắng yên vào một con khác, nhưng phải thay luôn ngựa cưỡi mới được.

    Rồi ngay trước mắt Miska, hắn xua một con ngựa cái ra khỏi đàn và vừa cho ngựa phi vừa lăng cái vòng thòng lọng vào cổ con ngựa cái động tác rất thành thạo, rất chính xác, rồi hắn lấy bộ yên của Miska thắng lên lưng con ngựa run như cầy sấy, hai chân sau cứ khuỵu xuống.

    - Cậu cưỡi nó đi. Đúng là con quỉ sứ nầy còn chưa thuần! Nhưng cưỡi lên đi chứ! - Hắn giận dữ quát lên đưa tay phải kéo mạnh dây cương, còn tay trái bóp vào chỗ dưới cái mũi nở phồng của con ngựa. - Đối với chúng nó cậu phải nhẹ nhàng một chút. Cậu phải làm thế nào để có thể đứng trong tàu quát tháo một con ngựa giống: "Đứng sang một bên!" thế là nó đứng sát ngay vào một bên cái khung của nó, nhưng chớ có lấy chuyện ấy làm trò đùa! Con Bakha thì đối với nó phải đặc biệt cẩn thận, chớ lại gần, nó đá đấy, - Hắn vừa nói vừa khom người trên bàn đạp, âu yếm sờ vào cái vú thẳng căng, đen mịn như xa- tanh của con ngựa cái đang dẫm hết chân nọ đến chân kia.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 (1879 - 1926) Tên đầu sỏ phản cách mạng ở Ukraina hồi nội chiến. Sau khi thất bại, hắn bỏ chạy sang Ba Lan rồi sang Paris (ND).

    2 Một ngày lễ tôn giáo của người Nga vào tháng sáu lịch cũ (ND).

    3 Một ác- sin bằng 0,71m (ND).

Chia sẻ trang này