1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sông Đông Êm Đềm

Chủ đề trong 'Album' bởi doctruyen, 12/12/2016.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 215

    Gió nồm ấm áp thổi đã hai ngày. Tuyết trên các cánh đồng còn lại vài đám cuối cùng đã tan nốt. Những con suối mùa xuân sủi đầy bọt trắng đã bắt đầu réo to hơn. Các khe và sông nhỏ trên đồng cỏ đã lại có nước. Đến tảng sáng ngày thứ ba thì gió lặng sương mù rất dày sà xuống đồng cỏ, những giọt nước lấp lánh như bạc trên những đám cỏ vũ mâu năm ngoái, một tấm màn khói trắng bệch không sao nhìn qua được trùm khắp các nấm kurgan, các khe núi, các thôn trấn, các đỉnh gác chuông, các ngọn tiêu huyền hình kim tự tháp mọc vươn lên trời. Mùa xuân xanh mướt đã ngự trị trên vùng đồng cỏ sông Đông mênh mông.

    Một buổi mai đầy sương mù, lần đầu tiên sau khi khỏi bệnh, Acxinhia bước ra thềm và đứng ở đấy rất lâu, ngây ngất trong không khí mùa xuân mát mẻ, ngọt ngào. Nàng cố nén cái cảm giác váng đầu, buồn nôn, ra tới cái giếng trong vườn rồi đặt chiếc thùng xuống và ngồi trên thành giếng.

    Muôn vật hiện ra khác hẳn trước mắt nàng, tất cả đều đổi mới một cách lạ lùng và đầy sức quyến rũ. Nàng long lanh cặp mắt, bồi hồi nhìn khắp chung quanh, hai tay lần lần trên những nếp của chiếc áo dài như đứa con nít. Những khoảng xa mung lung sương khói, những cây táo trong vườn lõng bõng nước tuyết tan, dãy tường bao đẫm nước và con đường sau bức tường với những vết bánh xe năm ngoái ngập nước rất sâu, Acxinhia có cảm tưởng như tất cả đều đẹp như nàng chưa từng thấy bao giờ, tất cả đều như nở hoa với những màu sắc đậm đà, mịn màng, tất cả đều như đang rực lên với nắng.

    Một mảng trời không gợn chút mây nào hiện ra qua làn sương mù làm nàng loá mắt với màu xanh lành lạnh của nó. Mùi rơm cỏ mục và mùi đất đen tan tuyết ngởi quen thuộc và dễ chịu đến nỗi Acxinhia bất giác hít một hơi rất dài có một nụ cười trên khoé miệng. Điệu hát đơn giản mộc mạc của một con sơn ca vẳng tới không biết từ chỗ nào trên cánh đồng cỏ đầy sương mù gợi lên trong lòng nàng một nỗi buồn man mác. Chính nó, chính cái tiếng chim hót trên đồng đất nước người đã làm trái tim của Acxinhia đập dồn dập và làm hai giọt nước mắt dè sẻn ứa ra trên khoé mắt nàng…

    Acxinhia cảm thấy sự sống quay trở lại với mình, trong lòng thanh thản một cách thú vị. Nàng rạo rực, chỉ muốn tay mình sờ vào tất cả mọi vật, mắt mình được nhìn ngắm tất cả. Nàng chỉ muốn chạm tay vào bụi phúc bồn tử đẫm nước biến thành màu đen, áp má vào nhánh táo phủ một lớp lông xanh xám, mịn như nhung, chỉ muốn bước qua đoạn hàng rào đổ dụi, rồi lội bì bõm trong bùn, không theo những con đường sẵn có, tới đám lúa mạch mùa đông sau cái khe núi rộng, với màu xanh thần thoại lẫn với màu của khoảng xa chìm trong sương mù…

    Acxinhia sống vài ngày trong tâm trạng chờ đợi, cứ tưởng Grigori sắp trở lại với mình đến nơi, nhưng sau nhờ có những người láng giềng sang thăm chủ nhà, nàng được biết chiến tranh còn chưa chấm dứt, rằng nhiều gã Cô- dắc đã từ Novorossisk bỏ chạy tới Krym bằng đường biển, còn những gã ở lại thì đều gia nhập Hồng quân hoặc đi làm phu mỏ.

    Đến cuối tuần, Acxinhia quyết định dứt khoát sẽ trở về nhà và chẳng bao lâu nàng đã kiếm được người bạn đường. Một buổi chiều có ông lão nhỏ bé, lưng gù gù, đi thẳng vào trong nhà mà không gõ cửa. Ông cụ lặng thinh cúi chào và bắt đầu cởi cái áo ca- pôt kiểu Anh bẩn thỉu, đã sứt chỉ, mặc lùng thùng trên người như một cái túi.

    - Cụ làm sao thế, cụ khách tốt, chẳng nói được một câu "chào cả nhà" mà lại muốn ở nhờ à? - Chủ nhà vừa hỏi vừa ngạc nhiên ngắm người khách không rời mà đến.

    Nhưng ông lão kia vẫn cởi nhanh áo ca- pôt, giũ ra ngoài ngưỡng cửa, treo rất cẩn thận lên cái móc, rồi mới vuốt chòm râu xám xén ngắn, mỉm cười và nói:

    - Bác chủ nhà quí mến ạ, xin bác hãy vì Chúa mà thứ lỗi cho tôi, nhưng cái thời buổi hiện nay đã dạy cho tôi cái lối đầu tiên cởi áo ngoài rồi sau mới xin nghỉ đêm, nếu không người ta sẽ không để cho vào nhà dâu. Bây giờ con người ta đã trở nên thô bạo, thấy khách đến nhà không vui mừng nữa rồi…

    - Nhưng chúng tôi sẽ xếp cho cụ nằm ở chỗ nào bây giờ? Cụ xem gia đình tôi đã ở chật chội như thế nầy rồi. - Chủ nhà nói, giọng đã ôn tồn hơn.

    - Chỉ cần cho tôi một chỗ chỉ bằng cái lỗ mũi là đủ rồi. Ngay ở chỗ nầy, tôi nằm còng queo bên cạnh ngưỡng cửa là ngủ được ngay.

    - Nhưng làm sao mà cụ lại đi như thế nầy hả cụ? Cụ chạy loạn à? - Vợ chủ nhà tò mò hỏi.

    - Đúng thế đấy, đúng là tôi chạy loạn. Chạy mãi, chạy mãi, chạy ra đến biển để rồi lại từ ngoài ấy lững thững trở về, chạy cũng đến cực ông cụ vui tính ngồi xổm xuống bên cạnh ngưỡng cửa trả lời.

    - Nhưng cụ là ai cơ chứ? Cụ người đâu ta? - Chủ nhà hỏi tiếp.

    Ông già lấy trong túi áo ra một cái kéo thợ may to tướng, xoay xoay nó trong tay và nói, vẫn với nụ cười luôn luôn nở trên môi:

    - Đây là giấy chứng minh về cấp bậc, quân hàm của tôi. Tôi đã mang nó từ Novorossisk để lên đường đi công tác đấy. Còn quê tôi thì xa lắm, tận trấn Vosenskaia cơ. Bây giờ tôi lại trở về đấy sau khi ra biển uống một ít nước mặn.

    - Cháu cũng là người Vosenskaia đấy, bố già ạ. - Acxinhia nói. - Nàng sung sướng đỏ cả mặt.

    - Thật không ngờ? - Ông già kêu lên. - Thế mà đến đây lại gặp được bà con đồng hương! Dù trong thời buổi thế nầy, đó cũng chẳng phải là một điều kỳ dị lắm. Ngày nay chúng ta cũng như dân Do Thái ấy: khắp gầm trời đâu cũng có. Tình hình ở Kuban là như thế nầy: cầm cái gậy đánh con chó lại choảng ngay phải một gã Cô- dắc sông Đông. Đi đâu cũng chạm trán với họ, không làm thế nào đếm cho xuể, mà những người nằm dưới ba tấc đất lại còn nhiều hơn nữa đấy. Các bà con yêu quí ạ, trong cuộc rút lui lần nầy tôi đã được nhìn thấy chẳng còn thiếu điều gì. Những sự thiếu thốn khổ cực mà nhân dân đang phải chịu đựng thì không kể sao cho hết! Hôm kia tôi đã ngồi ở ngoài ga, bên cạnh tôi có một bà quí tộc đeo kính. Qua mắt kính, bà ta cứ nhìn những con rận trên người mình. Mà chúng nó thì kéo đàn kéo lũ trên người bà ta. Thế là bà ta đưa những ngón tay rất nhỏ nhắn ra bắt rận, mặt nhăn như ăn phải một quả táo dai. Bà ta bắt đầu giết một con rận đáng thương, và mặt lại càng nhăn hơn, méo xệch đi, ý chừng vì kinh tởm! Thế mà lại có đứa nhẫn tâm, giết một con người mà mặt cũng chẳng nhăn, miệng cũng chẳng méo đi chút nào cả. Tôi đã trông thấy ngay trước mắt mình một tay hảo hán như thế chém chết ba thằng Kalmys, chém xong chùi lưỡi gươm vào cổ ngựa, lấy thuốc lá, châm hút. Rồi nó bước tới mặt tôi và hỏi: "Nầy bố già, làm gì mà bố trợn mắt lên như thế hả? Bố có muốn tôi chém béng cái đầu của bố đi không?". Tôi vội nói: "Anh nói gì vậy, anh chàng thân mến, cầu Chúa che chở cho anh! Anh chém mất đầu thì tôi làm thế nào mà nhai được bánh mì bây giờ?" Nó bèn phá lên cười rồi bỏ đi.

    - Có những kẻ giết người, một khi bàn tay đã quen với cái việc đó thì còn dễ hơn giết rận đấy. Cách mạng đã làm cho cái mạng con người bị coi rẻ rồi. - Chủ nhà nói chen vào, giọng thâm thuý.

    - Bác nói đúng đấy! - Người khách đồng ý. - Con người, nó không phải là súc vật, nên có thể quen dần với tất cả. Chẳng hạn như tôi đã hỏi cái bà ấy: "Bà là ai thế? Nhìn dung mạo thì hình như bà không xuất thân là dân thường thì phải". Bà nhìn tôi, nước mắt ròng ròng: "Tôi là vợ của thiếu tướng Gretrikhin". Tôi nghĩ bụng: "Dù mụ có chồng là thiếu tướng hay thừa tướng gì đi nữa, nhưng rận chấy của mụ cũng chẳng kém gì những con bọ trên mình một con mèo ghẻ?" Tôi bèn bảo bà ta: "Thưa bà lớn, tôi xin lỗi, nhưng nếu bà lớn cứ trị các loài côn trùng sâu bọ của bà lớn như thế nầy thì tôi e bà lớn sẽ có đủ công việc để làm đến lễ Đức Mẹ mất. Mà rồi móng tay cũng gãy hết thôi. Bà giết tất cả chúng nó một lượt có hơn không?" Có cách nào để làm như thé được?" - bà ta hỏi. Tôi nói: "Bà lớn hãy cởi áo ra, trải xuống chỗ nào cứng, rồi lăn một cái chai mà giết". Tôi thấy bà tướng nhà tôi gãi sồn sột và lẩn ra sau cái tháp nước, rồi tôi lại thấy bà ta lăn một cái chai thuỷ tinh xanh trên cái áo sơ- mi, và lăn khéo khéo là, cứ như đã lăn cái chai ấy suốt đời rồi ấy!" Tôi cứ trầm trồ nhìn bà ta mà nghĩ thầm: "Đúng là Thượng đế cái gì cũng có nhiều, người ban cả những con sâu bọ nầy cho những con người quí phái, để cho chúng nó hút cả cái thứ máu ngọt ngào của họ, đâu cứ chỉ sống bằng máu người lao động…". Thượng đế có phải là thằng ngốc Mikiska đâu 1! Người tinh thông nghiệp vụ của người lắm chứ! Lần nào mà Người rủ lòng thương con người thì Người sắp xếp mọi mặt đâu ra đấy, không thể nào nghĩ ra cách khéo hơn được nữa…

    Ông lão thợ may cứ nói chuyện thao thao. Cụ thấy hai vợ chồng chủ nhà rất chú ý nghe mình kể bèn khéo léo bảo ngầm cho họ biết rằng mình còn có thể nói thêm khá nhiều chuyện thú vị nữa, song bụng đói quá nên hai con mắt cứ nhíu lại vì buồn ngủ.

    Ăn bữa tối, ông lão vừa bước tới chỗ ngủ vừa hỏi Acxinhia:

    - Còn cô, cô bạn đồng hương, cô định ở lại đây có lâu không?

    - Cháu đang sửa soạn trở về nhà đây cụ ạ.

    - Được, thế thì cô cùng đi với tôi, như thế sẽ vui hơn.

    Acxinhia vui vẻ nhận lời ngay và sáng hôm sau hai người từ biệt vợ chồng nhà chủ, rời bỏ cái xóm Novyi Mikhailovsky khỉ ho cò gáy trên đồng cỏ.

    Đi đến ngày thứ mười hai thì hai người đến thị trấn Miliuchinskaia, rồi tới xin ngủ nhờ một ngôi nhà to lớn, coi vẻ giàu có. Sáng hôm sau người bạn đường của Acxinhia quyết định ở lại thị trấn một tuần để nghỉ ngơi và chữa hai bàn chân đã sây sướt đến chảy máu. Ông cụ không thể nào đi thêm được nữa. Nhà chủ cũng kiếm được công việc may vá cho cụ, vì thế ông già đang buồn nhớ công việc đến ngồi ngay bên cạnh chiếc cửa sổ nhỏ, lấy cái kéo ra, đeo cái kính buộc bằng sợi chỉ, và bắt đầu tháo chỉ thoăn thoắt một cái áo cũ.

    Lúc chia tay với Acxinhia, ông già hay chuyện và vui tính làm dấu phép chúc phước cho nàng và bất thần chảy nước mắt. Nhưng cụ lại lau mắt ngay để nói bằng cái giọng bông lơn thường ngày:

    - Sự bần thần cũng không phải là mẹ đẻ của mọi người, nhưng nó làm cho người ta thân thiết với nhau… Vì thế tôi thương cô quá… Nhưng thôi, chẳng còn làm thế nào được nữa, cô hãy đi một mình thôi, con gái yêu của tôi, cùng một lúc lão dẫn đường của cô đã bị khập khiễng cả hai chân rồi, phải có nơi nào đó để người ta nuôi lão bằng bánh mì đại mạch mới được… Nhưng thật ra cô đã đi với tôi khá nhiều, mà đối với bảy mươi tuổi trời của tôi thì quá nhiều là khác Nếu có dịp thì nhờ cô nói lại hộ với bà lão nhà tôi rằng ông bạn già của bà ấy vẫn còn sống, còn khoẻ, và tuy đã bị bỏ vào cối giã, bị cho vào máy nghiền, nhưng vẫn còn sống, ông ấy vừa đi đường vừa may quần áo cho những người nhân đức, chỉ ngày một ngày hai là về nhà thôi… Cô nói lại giùm với bà lão rằng ông lão ngu xuẩn đã chấm dứt cuộc rút lui, đang đánh nước mã hồi và chưa biết rõ lúc nào mới về được tới bên bếp lò…

    Acxinhia còn phải đi đường thêm vài ngày nữa. Từ thị trấn Bokovskaia, nàng ngồi lên một chiếc xe ngựa đi cùng đường về tới thôn Tatarsky. Mãi khi trời tối mịt, nàng mới bước vào cái cửa xếp mở toang của nhà mình. Nàng đưa mắt nhìn sang nhà Melekhov, và một tiếng nức nở bỗng nhiên ập lên cổ làm nàng tức thở… Trong căn bếp trống huếch trống hoác, nặc mùi những nơi không có người ở, nàng đã khóc cho hết nước mắt, những giọt nước mắt đàn bà tích lại trong bao tháng ngày. Rồi nàng ra sông Đông lấy nước, nhóm lò và ngồi vào bàn, hai tay buông thõng trên đầu gối. Vì đang mải suy nghĩ, nàng không nghe thấy tiếng cánh cửa cọt kẹt và chỉ tỉnh lại khi bà Ilinhitna vừa bước vào nhà vừa khẽ nói:

    - Thế nào, chào chị, chị láng giềng? Chị đến những nơi đồng đất nước người, đã mất tin tức lâu quá đấy…

    Acxinhia hoảng hốt nhìn bà già và đứng dậy.

    - Sao chị cứ nhìn tôi chằm chằm, chẳng nói chẳng rằng như thế? Hay lại đem về những tin chẳng lành? - Bà Ilinhitna từ từ bước tới bên cạnh cái bàn, ngồi xuống mép chiếc ghế dài, cặp mắt đầy vẻ dò hỏi không lúc nào rời khỏi khuôn mặt Acxinhia.

    - Không đâu ạ, cháu thì làm gì có tin tức… Cháu đang mải suy nghĩ mà không biết những gì, cũng không ngờ cụ sang, nên cụ vào nhà mà không nghe thấy… - Acxinhia luống cuống nói.

    - Chị gầy rộc đi, chắc hẳn trong lòng có chuyện gì…

    - Cháu bị thương hàn…

    - Thằng Grigori nhà tôi… nó hiện nay như thế nào… Chị chia tay với nó ở đâu thế? Nó có còn sống không?

    Acxinhia kể lại vắn tắt. Bà Ilinhitna lắng nghe nàng kể, không nói thêm vào câu gì. Cuối cùng bà mới hỏi:

    - Lúc để chị ở lại, nó ra đi có ốm không?

    - Không, anh ấy không ốm đâu.

    - Thế chị không được biết gì thêm về nó nữa à?

    Không ạ.

    Bà Ilinhitna thở dài nhẹ nhõm:

    - Thôi nhé, cám ơn chị đã cho tôi nghe những lời tốt lành. Thế mà ở đây, người ta cứ đồn đại trong thôn đủ mọi chuyện lung tung về nó…

    - Họ đồn những gì cơ? - Acxinhia hỏi, giọng nàng chỉ thoáng nghe rõ.

    - Toàn là nói lung tung thôi mà… Làm thế nào mà nghe được tất cả mọi người. Cả thôn chỉ có một mình ông Vanca Beskhl ov trở về thôi. Ông ấy có gặp thằng Grigori ở Ekaterinoda, thấy nó đang ốm. Còn những người khác thì tôi không tin!

    - Nhưng họ nói những gì hả cụ?

    - Chúng tôi nghe đồn rằng một gã Cô- dắc nào đó ở thôn Xinghinsky có cho biết bọn Đỏ đã chém chết thằng Grigori ở thành phố Novorossisk. Tôi bèn đi bộ đến Xinghinsky: lòng dạ của người mẹ đã làm tôi không thể nào chịu được. Tôi đã tìm thấy gã Cô- dắc ấy. Nó đã cho biết rõ. Nó nói rằng nó không trông thấy mà cũng không nghe thấy như thế. Lại có tin đồn rằng hình như nó bị bắt bỏ tù rồi chết trong đó vì thương hàn.

    Bà Ilinhitna đưa mắt nhìn xuống và nín lặng giờ lâu, nhìn hai bàn tay sần sùi và nặng nề của mình. Khuôn mặt của bà sị nặng nhưng nom rất bình thản, cặp môi mím chặt đầy vẻ nghiêm khắc, nhưng hai gò má rám nâu bất thần đỏ ửng như màu anh đào, và mí mắt bà hơi rung rung. Bà ngước nhìn Acxinhia, hai con mắt ráo hoảnh sáng rực trong cơn xúc động, và nói khàn khàn:

    - Nhưng tôi không tin! Tôi không thể nào mất đứa con trai cuối cùng được? Tôi chẳng làm gì nên tội mà bị Chúa trừng phạt… Mà tôi cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa… Sống thì chẳng còn được mấy ngày, nhưng dù không thế cũng đã chịu cực khổ hết mức rồi? Thằng Griska vẫn còn sống đấy! Trong lòng tôi chưa thấy điều gì báo trước, như vậy là nó còn sống, thằng con yêu dấu của tôi vẫn con sống.

    Acxinhia quay đi, không nói gì cả.

    Trong bếp lặng đi giờ lâu rồi một làn gió bỗng thổi mở toang cánh cửa vào phòng ngoài, bắt đầu nghe thấy tiếng nước lũ gào rú trầm trầm trong đám tiêu huyền bên kia sông và tiếng những con ngỗng trời lo lắng gọi nhau quàng quạc trên làn nước lũ.

    Acxinhia ra đóng cửa rồi quay vào đứng tựa lưng vào bếp lò.

    - Cụ đừng quá lo buồn về anh ấy, cụ ạ, - nàng nói khe khẽ. - Chẳng nhẽ một người như anh ấy mà có thể bị bệnh tật đánh quị hay sao? Anh ấy khoẻ cứ như con người bằng thép ấy. Những người như thế không chết được đâu. Suốt chặng đường, trời đại hàn rét như cắt da mà vẫn không đeo găng…

    - Thế nó có nhớ đến con nó không? - Bà Ilinhitna hỏi giọng mệt moi.

    - Anh ấy nhớ cả cụ lẫn hai cháu. Hai cháu có khoẻ không cụ?

    - Chúng nó khoẻ cả, chẳng có chuyện gì đâu. Nhưng ông Panteley Prokofievich đã mất trong khi rút lui rồi. Chỉ còn lại mấy mẹ con bà cháu chúng tôi…

    Acxinhia lặng lẽ làm dấu phép, trong lòng rất ngạc nhiên trước cái vẻ bình tĩnh của bà già khi bà cho biết tin chồng chết.

    Bà Ilinhitna chống tay xuống bàn, nặng nề đứng dậy.

    - Tôi ngồi bên nhà chị lâu quá rồi, ngoài sân chắc đã tối đen.

    - Mời cụ ngồi chơi đã.

    - Bên ấy chỉ có một mình con Dunhiaska ở nhà, tôi phải về thôi.

    Bà sửa lại chiếc khăn trên đầu, đưa mắt nhìn quanh căn bếp rồi cau mày nói:

    - Khói lùa cả trong bếp lò ra. Lúc chị ra đi, đáng là phải cho một người nào đến ở. Thôi, tạm biệt chị.

    Rồi khi đã cầm lấy nắm đấm trên cánh cửa, bà còn nói thêm nhưng không nhìn lại:

    - Chị thu dọn xong được nơi ăn chốn ở thì sang chơi bên tôi nhé. Nếu có nghe được tin tức gì về thằng Grigori thì cũng cho tôi biết với.

    Từ hôm ấy, mối quan hệ giữa nhà Melekhov và Acxinhia thay đổi hẳn. Sự lo lắng chung cho tính mạng của Grigori tựa như làm hai bên trở nên gần gũi thân thiết. Sáng hôm sau Dunhiaska trông thấy Acxinhia ở ngoài sân bèn gọi nàng rồi bước tới bên hàng rào. Cô ôm lấy cặp vai gầy của Acxinhia, mỉm nụ cười âu yếm và hồn nhiên:

    - Chao ôi, chị Acxinhia, chị gầy đi nhiều quá! Chỉ còn da bọc xương thôi.

    - Sống như thế nầy thì không gầy làm sao được. - Acxinhia mỉm cười trả lời. Trong lòng nàng không khỏi cảm thấy ghen tị khi nàng ngắm khuôn mặt hồng hào của cô gái đang nở hoa với cái sắc đẹp vừa đến thì.

    - Hôm qua mẹ em sang bên chị đấy à? - Dunhiaska hỏi, giọng cô gái không hiểu sao trở nên thầm thì.

    - Cụ có sang đấy.

    - Cả em cũng đoán rằng cụ sang bên chị. Cụ hỏi về tin tức anh Griska có phải không?

    - Đúng đấy.

    - Nhưng cụ có khóc không?

    - Không, cụ là một bà lão rất cứng cỏi.

    Dunhiaska nhìn Acxinhia một cách tin cậy rồi nói:

    - Nhưng nếu mẹ em khóc được thì vẫn hơn, dù sao khóc được thì trong lòng cũng nhẹ nhàng một đôi chút. Chị có biết không, chị Acxiutka, từ mùa đông năm nay mẹ em lạ lắm cơ, chẳng còn như trước kia nữa đâu. Khi cụ nghe tin về cha em, em cứ tưởng mẹ em sẽ đau khổ vật vã, em đã hoảng lên, nhưng chẳng thấy cụ nhỏ một giọt nước mắt nào. Cụ chỉ nói: "Cầu cho ông ấy được hưởng phúc nơi thiên đường, ông già yêu quí của tôi phải chịu khổ đến thế là hết rồi…" Và từ lúc ấy đến tối cụ chẳng nói với ai câu nào. Em xán đến nói với mẹ em chuyện nọ chuyện kia, nhưng cụ chỉ xua tay, nhất định không chịu hé răng. Hôm ấy em sợ sợ là…! Nhưng đến tối em thu dọn cho gia súc xong ở ngoài sân bước vào hỏi mẹ em: "Mẹ ơi, ta nấu gì để ăn bữa tối bây giờ?" thì lúc ấy trong lòng cụ đã nguôi nguôi, và cụ bắt đầu nói…

    Dunhiaska thở dài rồi mơ màng nhìn ra không biết nơi nào qua vai Acxinhia và hỏi thêm:

    - Anh Grigori nhà em chết rồi hay sao? Người ta đồn như thế liệu có đúng không?

    - Tôi không biết đâu, cô em yêu quí ạ.

    Dunhiaska nhìn Acxinhia như thăm dò rồi thở dài càng não ruột hơn.

    - Mẹ em nhớ anh ấy đúng là nhớ ngày nhớ đêm! Cụ chỉ gọi anh ấy là: "thằng hai yêu quí của mẹ", và cụ nhất định không tin rằng anh ấy đã chết. Nhưng chị có biết không, chị Acxinhia, nếu mẹ em được biết rằng đích xác anh ấy đã mất rồi thì chính cụ cũng sẽ buồn nhớ đến chết mất. Mẹ em đã sắp đến lúc về chầu Chúa rồi, nên chỉ còn có một chỗ bấu víu để mà sống là anh Grigori thôi. Đối với hai đứa cháu, bây giờ mẹ em không hiểu sao cũng không thích chúng nó lắm nữa. Còn công việc thì cầm đến cái gì là rơi vãi cái ấy… Chị thử nghĩ mà xem, có một năm mà trong gia đình nhà em bốn người…

    Acxinhia bỗng cảm thấy thương hại, nàng vươn tay qua hàng rào, ôm lấy Dunhiaska và hôn rất mạnh vào má cô gái.

    - Chị láng giềng tốt bụng của em, chị cố làm cái gì cho mẹ em khuây khoả một chút, đừng để cụ phải đau khổ quá nhiều.

    - Nhưng làm thế nào cho cụ khuây khoả bây giờ?

    Dunhiaska đưa góc chiếc khăn tay Iên lau mắt rồi nói:

    - Chị cứ sang bên nhà em, chuyện trò với mẹ em, cụ sẽ được nhẹ nhõm trong lòng. Chị đừng lảng tránh nhà em làm gì!

    - Sẽ có lúc tôi sang, thế nào cũng sang!

    - Ngày mai có lẽ em sẽ ra đồng. Thắng bò cùng cày với chị Anikey. Nhà em định gieo, dù chỉ hai đê- xi- a- chin lúa mì. Còn chị thì chị có định gieo gì cho bên nhà không?

    - Tay tôi thì gieo với giếc gì? - Acxinhia mỉm một nụ cười không có gì là vui vẻ. - Chẳng có gì để mà gieo, mà cũng chẳng gieo làm gì. Một thân một mình thì chỉ cần ít thôi, thế nầy cũng sống qua quít được.

    - Chị có được tin gì về anh Stepan nhà chị không?

    - Chẳng có tin tức gì cả. - Acxinhia trả lời lạnh nhạt rồi bỗng nói một câu mà chính nàng cũng thấy bất ngờ: - Tôi cũng không khô héo vì hắn đâu - Lời thú nhận bất giác nói ra làm nàng luống cuống.

    Nàng cố giấu vẻ bối rối, vội nói thêm:

    - Thôi chào cô bé nhá, tôi còn phải vào thu dọn trong nhà đây.

    Dunhiaska làm như không nhận thấy vẻ lúng túng của Acxinhia, cô đưa mắt nhìn ra chỗ khác và nói:

    - Chị hãy hượm một lát đã, em còn muốn nói với chị chuyện nầy nữa, chị có thể làm giúp cho bên em được không? Ruộng đất khô nẻ cả, em chỉ lo nhà em làm không thể nào hết việc, cả thôn chỉ còn có hai tay Cô- dắc thì lại tàn phế cả hai.

    Acxinhia vui vẻ nhận lời ngay, còn Dunhiaska thì sung sướng vì đã được mãn nguyện, vội đi sửa soạn các thứ.

    Suốt ngày hôm ấy, Dunhiaska cố hết sức sửa soạn để ra đồng: được mụ vợ goá của Anikey giúp thêm, cô gái sàng lại hạt giống, sửa qua quít cái bừa, bôi dầu vào bánh xe, chỉnh lại cái máy gieo hạt. Rồi đến khi trời hoàng hôn, cô đùm vào khăn tay một ít lúa mì thật sạch đem ra nghĩa địa rắc lên mộ của Petro, Natalia và Daria, để đến sáng mai sẽ có những con chim bay tới mộ những người thân thuộc. Với tấm lòng ngây thơ mà cô vẫn còn giữ từ thời thơ ấu, Dunhiaska tin rằng tiếng chim líu lo vui tai sẽ được người chết nghe thấy và sẽ làm họ sung sướng.

    Mãi đến khi trời sắp rạng, vùng ven sông Đông mới trở lại yên tĩnh. Nước chạy lóc óc trầm trầm trong khu rừng ngập nước, rửa sạch những thân cây tiêu huyền màu xanh nhợt, lay động đều đều ngọn của những đám sồi và hoàn diệp liễu non ngập nước. Trong các hồ đầy ắp những bông lau ngả theo làn nước kêu xào xạc. Ở những chỗ nước lũ tràn ra, trong những khuỷu sông hẻo lánh, tức là những nơi mà làn nước hoàn toàn nằm chết lặng như bị ma làm phản chiếu ánh sáng lờ mờ của những đêm lắm sao, có thể thoáng nghe thấy tiếng những con ngỗng trời gọi nhau rất khẽ, tiếng những con vịt đực vùng sông Tria kêu như mơ ngủ và thỉnh thoảng mới thấy vang lên những tiếng lanh lảnh như kèn bạc của những con thiên nga di cư qua dừng lại nghỉ đêm. Đôi khi trong bóng tối có con cá quẫy mạnh lao ra chỗ rộng kiếm mồi làm nước bắn tung, những làn sóng uyển chuyển lan ra rất xa trên mặt nước lấm tấm những ánh vàng óng, rồi vẳng có tiếng một con chim bị kinh động kêu quang quác, kêu lên như để báo trước một điều gì. Sau đó bầu không khí lặng trở lại bao phủ khắp vùng ven sông Đông. Nhưng đến khi trời bình minh, khi những nhánh núl đá phấn mới điểm chút màu hồng, gió đã ập tới từ miền hạ du. Những làn gió vừa quánh vừa mạnh thổi ngược dòng. Những đợt sóng cao hàng xa- gien chồm lên trên mặt sông, nước trong rừng réo ầm ầm như điên, cây cối ngả nghiêng rên xiết. Từ lúc đó gió tiếp tục gào rú suốt ngày và mãi đến đêm khuya mới lặng đi. Thời tiết kéo dài như thế vài ngày liền.

    Một làn khói màu tím ngắt nằm lơ lửng trên đồng cỏ. Đất khô nẻ cả Cỏ chỉ mọc đến nửa chừng rồi không lên thêm được nữa, từng dải cát dài nằm lại trên các mảnh đất đã cày. Chậm thêm một giờ là đất càng bị gió thổi khô, nhưng trên các cánh đồng của thôn Tatarsky vẫn gần như không trông thấy vía một người nào. Cả thôn chỉ còn vài ông già lụ khụ ở lại. Đi rút lui đến nửa đường trở về chỉ có những gã Cô- dắc bị lạnh đến hỏng người hoặc bị bệnh tật, đến nay không còn làm ăn gì được nữa. Vì thế làm việc ngoài đồng chỉ có những người đàn bà và những thằng con trai chưa thành niên.

    Trong cái thôn không một bóng người, gió lùa bụi mù mịt, đập sầm sầm cửa chớp các ngôi nhà, giũ rơm trên mái các nhà kho. Các cụ già nói: "Năm nay chúng ta sẽ chẳng có lúa má gì đâu. Toàn bọn đàn bà ra làm việc ngoài đồng, mà ba nhà mới có một nhà gieo hạt. Ruộng đất đã hết sức sống rồi thì còn sinh sôi nảy nở thế nào được nữa…"

    Ra đồng làm việc hôm trước thì hôm sau, lúc mặt trời sắp lặn, Acxinhia xua mấy con bò mộng ra đầm uống nước. Thằng bé mười tuổi nhà Obnizov đang đứng bên bờ đê, tay dắt con ngựa yên cương sẵn sàng. Con ngựa nhay nhay môi, nước nhỏ giọt xuống từ cái mõm xám mượt như nhung của nó, song chú kỵ sĩ vừa xuống ngựa còn mải đùa: chú ném từng miếng đất sét khô xuống nước để ngắm những vòng tròn lan dần trên mặt nước.

    - Cháu sắp sửa đi đâu đấy, cháu Vanhiatca? - Acxinhia hỏi.

    - Cháu mang thức ăn cho mẹ cháu.

    - Thế trong thôn có chuyện gì không?

    - Chẳng có gì đâu. Đêm hôm qua cụ Gerasin quăng lưới đánh được một con cá chép to đến là to. Lại có bác Fedor Mennhikov đi rút lui đã về. Thằng bé kiễng chân, buộc gọn đoạn dây hàm thiếc, nắm chặt lấy một đám bờm ngựa rồi nhảy phắt lên yên, nhanh như một thằng quỉ con. Như một người chủ ngựa thận trọng, lúc mới rời khỏi bờ đầm nó còn cho con ngựa đi bước một, nhưng chỉ lát sau, nó đã quay nhìn Acxinhia một cái rồi thúc con ngựa phóng nhanh đến nỗi cái áo sơ- mi xanh da trời đã bạc màu phồng to trên lưng nó như một bọt nước khổng lồ.

    Trong khi cặp bò mộng uống nước, Acxinhia ngả lưng xống con đê một lát rồi lập tức quyết dịnh về thôn ngay. Melnikov là một gã Cô- dắc đi lính, vì thế tất nhiên hắn phải biết ít nhiều về số phận của Grigori. Sau khi đánh bò về chỗ để xe, Acxinhia bảo Dunhiaska:

    - Tôi phải tạt qua về thôn đây, nhưng sáng sớm mai sẽ lại ra.

    - Chị có việc cần à.

    - Có chút việc.

    Sáng hôm sau Acxinhia lại ra đồng. Nàng bước tới chỗ Dunhiaska vừa thắng xong hai con bò, ngọn roi vung vẩy trong tay nom rất vô tư lự, nhưng lông mày nàng cau cau, hai bên mép nhăn lại thành những nếp đầy cay đắng.

    - Mennhikov vừa về. Tôi đã đến hỏi hắn về anh Grigori. Nhưng hắn chẳng biết gì cả. - Nàng nói gọn lỏn vài câu rồi quay phắt đi, bước ra chỗ máy gieo hạt.

    Gieo hạt xong, Acxinhia bắt tay vào làm công việc nhà; nàng ra vườn trồng ít dưa hấu, trát và quét vôi lại căn nhà, tự tay lợp lại mái nhà kho bằng chỗ rơm còn lại, biết làm bao nhiêu thì cứ làm. Hết ngày nọ đến ngày kia cứ trôi qua trong công việc lao động, nhưng nỗi lo lắng cho tính mệnh của Grigori không buông tha Acxinhia giờ phút nào. Stepan thì Acxinhia chỉ nghĩ tới anh ta một cách miễn cưỡng, và không hiểu sao nàng cứ có cảm tưởng là anh ta sẽ không trở về nữa. Tuy vậy mỗi khi trong thôn có gã Cô- dắc nào trở về, câu hỏi đầu tiên của nàng vẫn là: "Bác có gặp anh Stepan nhà tôi không?" rồi sau đó mới lân la cố dò hỏi rất dè dặt về Grigori. Trong thôn ai cũng đã biết chuyện hai người đi lại với nhau. Ngay đến những mụ đàn bà thích đơm đặt nói xấu người khác cũng đã thôi không còn đem chuyện hai người ra nói nữa, song Acxinhia ngượng không muốn nói ra tình cảm của mình. Chỉ năm thì mười hoạ, khi tên lính quá ít lời không đả động gì đến Grigori, nàng mới nheo nheo mắt hỏi với vẻ lúng túng ra mặt: "Thế bác có dịp nào gặp bác Grigori Pantelevich, láng giềng nhà chúng tôi không? Bà cụ bác ấy buồn nhớ bác ấy khô héo cả người…"

    Sau khi quân đội sông Đông đầu hàng ở Novorossisk, không một gã Cô- dắc nào trong thôn được gặp Grigori hay Stepan. Mãi đến cuối tháng Sáu mới có một gã đồng đội của Stepan, người thôn Kôlundaevsky chạy sang bên kia sông Đông, ghé qua gặp Acxinhia và báo tin cho nàng biết:

    - Stepan đã bỏ đi Krym rồi, tôi nói thật với chị đấy. Chính mắt tôi đã trông thấy hắn lên tàu đấy! Hai đứa chẳng nói với nhau câu nào cả. Chen chúc thật là ghê gớm, cứ phải đạp lên đầu nhau mà qua. - Thấy hỏi về Grigori, hắn chỉ trả lời qua quít - Tôi có nhìn thấy trên bến tàu, vẫn đeo lon nhưng sau không được gặp nữa. Nhiều sĩ quan đã bị giải lên Moskva, nhưng ai mà biết được bây giờ hắn ở đâu.

    Nhưng một tuần sau bỗng thấy Prokho Zykov mò về thôn Tatarsky. Hắn bị thương nên được đưa từ nhà ga Minlerovo về bằng xe ngựa của dân công. Vừa nghe tin ấy, Acxinhia bỏ không vắt sữa con bò cái nữa. Nàng đẩy con bò con tới bên con bò mẹ, vội vã vừa đi vừa chít cái khăn lên đầu và gần như chạy tế sang sân nhà Zykov.

    "Prokho thì hắn biết đấy, thế nào hắn cũng phải biết? Nhưng nếu hắn bảo Griska không còn sống nữa thì sao? Nếu vậy thì mình sẽ như thế nào?" - Nàng vừa đi vừa nghĩ thầm, chân đi mỗi lúc một chậm lại, một tay áp lên chỗ tim đập, chỉ sợ phải nghe một tin chẳng lành Prokho đón nàng ở phòng trong. Hắn cười toe toét cố giấu ra sau lưng cánh tay cụt chỉ còn một mẩu ngắn cũn.

    - Chào cô bạn đồng sự! Cô có khoẻ không? Vẫn được trông thấy cô còn sống cơ à? Thế mà chúng tôi cứ tưởng cô đã nằm trong sáu tấm gỗ sồi ở cái xóm ấy rồi. Chao ôi, cô ốm nặng quả là ghê gớm… Nhưng lạ thật, tại sao cái chứng thương hàn ấy nó còn có thể làm cô đẹp ra như thế nầy được? Còn tôi thì cô xem, cái bọn Trắng Ba Lan đã làm người ngợm tôi như thế nầy đây, sao không tọng cho chúng nó cái gọng xe vào mồm? - Prokho giơ bên tay áo rỗng buộc thành nút của chiếc áo quân phục cổ chui màu *** ngựa. - Vợ tôi nó trông thấy cái nầy cứ chảy nước mắt ra khóc, nhưng tôi bảo nó: "Chớ có gào lên, đồ ngu, những đứa khác bị chặt béng mất đầu còn chẳng oán thán, đằng nầy chỉ bị một cái tay thì có gì là quan trọng. Bây giờ thì người ta lắp những cái tay gỗ đấy. Cái của ấy ít nhất cũng không sợ rét và cắt không chảy máu đâu". Nhưng cô nàng ạ, chỉ tai vạ một điều là tôi chưa học được cách làm mọi việc bằng một tay. Quần cũng chẳng cài được cúc, mẹ khỉ? Từ Kiev về đến nhà cúc quần cứ để hở. Thật là nhục nhã! Vì thế nếu cô thấy tôi có chỗ nào mất trật tự thì cũng lượng thứ cho nhé… Nhưng nào, cô vào đi chứ, ngồi xuống đi, cô sẽ là khách của tôi. Chúng ta hãy nói chuyện với nhau một lát trong khi con mụ nhà tôi còn đi vắng. Con mụ phản Chúa ấy, tôi đã phái nó đi kiếm rượu đấy. Chồng về bị chặt béng mất một tay và nó cũng chẳng có gì đề mừng đón. Cái bọn quỉ cái ướt đuôi tất cả những đứa vắng chồng các cô, thằng nầy thì đi guốc trong bụng!

    - Có lẽ anh hãy nói…

    - Biết rồi, tôi sẽ nói đây. Hắn ra lệnh cho tôi chuyển lời hỏi thăm đấy! - Prokho cúi đầu chào một cách rất khôi hài, nhưng lúc ngẩng đầu lên hắn ngạc nhiên rung rung hai hàng lông mày; - Lại còn cô ả nầy nữa! Tại sao cô khóc hả, thật là ngu xuẩn? Tất cả bọn đàn bà các cô đến là lắm nước mắt. Người ta bị giết các cô cũng khóc, người ta còn sống các cô cũng khóc. Thôi lau đi, lau đi, làm gì mà chảy cả nước mắt nước mũi ra như thế? Tôi bảo cho cô biết rằng hắn còn sống, vẫn khoẻ mạnh, ăn lắm vào mặt bạnh ra thế nầy nầy! Ở Novorossisk tôi đã cùng hắn đi theo Tập đoàn Hồng quân của đồng chí Budionnyi, vào sư đoàn Mười bốn. Anh chàng Grigori Pantelevich của chúng ta đã được nhận cho chỉ huy một đại đội, một đại đội kỵ binh cơ đấy. Tất nhiên tôi cũng nằm trong đơn vị của hắn, và chúng tôi đã cưỡi ngựa tiến về phía Kiev. Chà, cô nàng ạ, chúng tôi đã cho cái bọn Trắng Ba Lan ấy trông thấy ông bà ông vải. Chúng tôi tiến đến đây thì anh chàng Grigori Pantelevich nói: "Mình đã từng chém bọn Đức, đã thử lưỡi gươm của mình trên mọi kiểu quần áo, chẳng nhẽ bọn Ba Lan nầy còn có những cái sọ rắn hơn hay sao? Mình cho rằng chém chúng nó còn dễ hơn chém người Nga mình đấy, cậu thấy thế nào hử?" Hắn nói thế rồi lại nhe răng nhe lợi, nháy mắt với tôi. Từ ngày tham gia Hồng quân, anh chàng thay đổi hẳn, hắn trở nên vui vẻ, trơn lông dỏ da cứ như con ngựa thiến ấy. Hừ, mà tôi với hắn ở với nhau cũng chẳng khỏi có những chuyện lủng củng trong anh em… Một lần tôi cho con ngựa tới gần hắn và nói đùa một câu: "Đã đến lúc anh em dừng lại nghỉ rồi đấy, bẩm quan lớn đồng chí Melekhov!" Hắn trợn mắt lên với tôi và bảo: "Cậu có bỏ cái kiểu nói đùa với tôi như thế đi, nếu không sẽ chẳng hay ho gì đâu". Đến chiều không hiểu có việc gì hắn lại gọi tôi đến, và quỉ dữ lại xui tôi gọi hắn là "quan lớn"… Thế là hắn rút luôn khẩu Mauser ra? Mặt hắn tái nhợt, hắn nhe nanh ra cứ như con chó sói, đầy mõm những răng là răng, ít nhất cũng một trăm cái. Tôi đành phải tụt xuống dưới bụng con ngựa và chuồn ngay khỏi mắt hắn. Chỉ thiếu chút nữa là bị hắn cho đi đời nhà ma, cái thằng quỉ dữ ấy nó như thế đấy!

    - Nhưng anh ấy như thế nào, liệu có được về phép không? - Acxinhia lắp bắp.

    - Đừng hòng? - Prokho ngắt lời nàng. - Hắn nói rằng tôi sẽ phục vụ cho đến bao giờ đền hết các tội xưa kia mới thôi. Chuyện ấy hắn sẽ làm được cho mà xem, làm một việc ngu xuẩn thì cũng chẳng khó khăn gì đâu… Một lần hắn chỉ huy chúng tôi xông lên xung phong ở gần một cái trấn nhỏ. Ngay trước mắt tôi hắn đã chém chết liền bốn thằng thương kỵ binh của bọn kia. Cái thằng đáng nguyền rủa ấy, từ bé hắn đã quen dùng tay trái, vì thế, hắn có thể dùng cả hai tay để chém trúng bọn kia. Sau trận chiến đấu, Budionnyi đã đích thân ra trước hàng quân bắt tay hắn, khen toàn đại đội và khen riêng hắn. Cái anh chàng Pantelevich của cô, hắn đã giở những trò như thế đấy Acxinhia nghe kể như trong một giấc mộng… Mãi khi bước tới cái cổng xép của nhà Melekhov nàng mới trở lại với thực tế.

    Dunhiaska đang chắt sữa ở phòng ngoài. Cô gái hỏi nhưng không ngẩng đầu lên:

    - Chị sang lấy men ủ nước kvas có phải không? Em đã hứa mang sang mà quên khuấy đi mất. - Nhưng vừa nhìn thấy hai con mắt đầm đìa nước mát, long lanh vì sung sướng của Acxinhia, Dunhiaska đã hiểu hết, chưa cần phải nghe nói gì cả.

    Acxinhia áp khuôn mặt nóng bừng bừng vào tai Dunhiaska, thở hổn hển vì sung sướng, khẽ nói:

    - Còn sống, vẫn khoẻ mạnh… Có gửi lời hỏi thăm đấy… Vào ngay đi! Vào nói cho mẹ biết đi!

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Một nhân vật trong chuyện cổ tích Nga (ND)
  2. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 216

    Đến mùa hè, có chừng ba chục gã Cô- dắc trong số rút lui đã trở về thôn Tatarsky. Phần lớn trong số đó là những người già nua và những tên lính thuộc các khoá lớn tuổi, còn những gã Cô- dắc thanh niên và trung niên thì hầu như hoàn toàn chưa về gã nào, trừ những tên ốm yếu và bị thương. Một phần trong bọn nầy đã đi theo Hồng quân những tên khác thì nằm trong quân số các trung đoàn của Vrăngghen đang ẩn náu ở Krym chuẩn bị một đợt tiến quân khác về vùng sông Đông.

    Quá nửa số những tên rút lui đã vĩnh viễn nằm lại trên đồng đất nước người: có tên chết vì mắc bệnh thương hàn, có tên bỏ mạng trong những trận giáp lá cà cuối cùng ở vùng Kuban, một số bị bỏ rơi sau đoàn xe vận tải và chết cóng trên đồng cỏ bên kia sông Manyt, hai tên bị du kích theo Hồng quân bắt làm tù binh đến nay vẫn biệt tích… Thôn Tatarsky vắng mặt rất nhiều tên Cô- dắc. Đàn bà trong thôn sống những ngày căng thẳng và lo lắng đợi chờ. Mỗi lần ra bãi chăn nuôi chung của thôn nhận bò về, họ thường đứng lại rất lâu, đưa tay lên che mắt nhìn ra xa xem có người khách bộ hành muộn màng nào đang đi trên con đường chìm trong làn sương chiều tím ngắt không?

    Người nào về đến nhà cũng quần áo lam lũ, chấy rận như sung, gầy gò hốc hác, nhưng đã bao lâu nay được trông mòn con mắt. Hễ chủ về là trong nhà bấn tinh bấn mù, loạn lên vì sung sướng. Người ta đun nước cho thầy quyền tắm rửa cái thân hình cáu ghét đen sì. Bọn trẻ con tranh nhau săn sóc giúp đỡ bố, rình đoán từng cử chỉ của bố. Chân tay luống cuống vì sung sướng, bà chủ nhà hết ra sắp xếp bàn ăn lại chạy vào lục tung cái rương, cố kiếm cho chồng một bộ quần áo lót sạch. Nhưng thật là tai vạ, các đồ lót vẫn còn chưa vá, mà những ngón tay thì cứ run bần bật chẳng làm thế nào mà xâu được sợi chỉ vào lỗ kim… Trong giờ phút sung sướng ấy, ngay đến con chó giữ nhà cũng được phép vào trong nhà. Từ xa nó đã nhận ra chủ và vừa chạy theo về đến ngưỡng cửa vừa liếm tay chủ. Trẻ con đánh vỡ bát đũa hay đánh đổ sữa không phải đòn và nghịch ngợm như thế nào cũng không bị phạt. Chủ nhà tắm xong chưa kịp mặc quần áo thì cánh đàn bà trong thôn đã kéo đến đầy nhà. Họ đến hỏi han về số phận của những người thân thuộc, họ lo lắng và thèm khát đón nghe từng lời nói của thầy quyền. Rồi chỉ lát sau là có một người đàn bà nào đó bỏ chạy ra sân với hai bàn tay úp lên khuôn mặt đầm đìa nước mắt và đi trong ngõ mà không còn thấy đường lối gì nữa như người mù. Thế rồi từ trong một căn nhà nhỏ sẽ vẳng ra tiếng người đàn bà mới goá bụa kể lể than khóc người chết và tiếng những đứa con nít the thé khóc hoà theo. Tình hình thôn Tatarsky trong những ngày ấy là như thế: niềm vui vào với nhà nầy lại gây ra một nỗi thống khổ khôn nguôi cho nhà khác.

    Sáng hôm sau, trời vừa hửng, người chủ nhà trở dậy, râu ria nhẵn nhụi, nom trẻ hẳn ra. Anh ta đi xem khắp một lượt tình trạng nhà cửa, nhẩm tính những việc gì cần phải làm ngay. Bữa sáng vừa ăn xong, anh ta đã bắt tay vào việc. Những tiếng bào soàn soạt hay tiếng rìu đẽo vui vẻ vang ra từ một chỗ nào đó dưới hiên nhà kho, trong bóng mát, tựa như để loan tin rằng có hai bàn tay đàn ông thèm khát công việc và khéo léo đã về với nhà nầy. Còn người ở nơi hôm qua vừa được tin người chồng và người cha đã qua đời thì nhà trên sân dưới đều lặng lẽ âm thầm. Người mẹ bị đè nặng dưới nỗi đau buồn cứ nằm bẹp không nói một lời, còn mấy đứa con côi cút thì rúc vào nhau thành một đống bên cạnh, chỉ qua một đêm mà chúng đã phải trở thành người lớn.

    Hễ nghe tin có người nào trong thôn trở về là bà Ilinhitna lại hỏi:

    - Không biết bao giờ cái thằng nhà ta mới được về nhỉ? Những thằng nhà khác đã lũ lượt kéo nhau về rồi mà thằng nhà mình vẫn chẳng có tăm hơi gì cả.

    - Những tay Cô- dắc còn trẻ thì người ta không cho về đâu, sao mẹ còn chưa hiểu hả mẹ? - Dunhiaska bực mình trả lời bà.

    - Người ta không cho về là nghĩa lý thế nào? Thế thằng Tikhol Gerasimov thì sao? Nó còn kém thằng Griska một tuổi đấy.

    - Nhưng hắn lại bị thương mẹ ạ!

    - Nó thì thương với tật cái gì! - Bà Ilinhitna nói lại - Hôm qua tao gập nó ở gần lò rèn, hai chân nó thẳng như hai sợi dây đàn ấy. Có ai thấy những thằng bị thương như thế bao giờ đâu?

    - Hắn có bị thương đấy, nhưng bây giờ còn đang dưỡng bệnh.

    - Thế thằng Griska trước kia nó bị thương còn ít phải không? Khắp người nó những sứt cùng sẹo, chẳng nhẽ theo ý mày nó không cần được dưỡng bệnh hay sao?

    Dunhiaska cố tìm cách chứng minh cho mẹ thấy rằng bây giờ không thể nào hy vọng Grigori về nhà được, nhưng muốn thuyết phục bà Ilinhitna điều gì thì đâu phải chuyện dễ dàng.

    - Thôi câm đi đồ ngu! - Bà ra lệnh cho Dunhiaska. - Tao hiểu biết không kém gì mày đâu, mà mày còn trẻ ranh như thế đã lên mặt dạy mẹ. Tao bảo noó phải về là nhất định sẽ về. Thôi xéo đi, xéo đi, tao không thừa lời mà nói với mày nữa!

    Bà già hết sức nóng lòng mong chờ con trai và bất cứ lúc nào bà cũng nhắc tới Grigori. Thằng Misatka không vâng lời bà điều gì là bà lập tức doạ nó ngay: "Mầy cứ chờ đấy, thằng nhãi con đầu bù nầy, bố mầy về tao sẽ mách nó, rồi nó sẽ cho mầy một trận!" Khi thấy một cái xe chạy qua cửa sổ với cái thành xe vừa được thay mới, thế nào bà cũng thở dài và nói: "Cứ nhìn cái mã của chiếc xe cũng biết ngay là chủ nó có nhà. Nhưng thằng nhà mình thì lấy ai chỉ cho nó thấy đường về bây giờ?" Suốt đời bà Ilinhitna không bao giờ thích mùi khói thuốc lá và bao giờ bà cũng tống cổ những anh chàng hút thuốc ra khỏi bếp, nhưng thời gian gần đây về mặt nầy bà đã thay đổi hẳn. Nhiều lần bà đã bảo Dunhiaska: "Mày chạy đi gọi thằng Prokho một cái, để nó sang bên nầy hút điếu thuốc, nếu không ở đây cứ nồng nặc cái mùi người chết. Bao giờ thằng Griska đi lính về nhà ta mới là nơi ở của người sống, mới có mùi Cô- dắc…" Ngày nào trong khi làm thức ăn bà cũng nấu thêm chút ít và sau khi ăn xong bữa trưa bà lại đặt cái nồi gang xúp bắp cải lên lò. Thấy Dunhiaska hỏi bà nấu thêm như thế để làm gì, bà Ilinhitna ngạc nhiên trả lời: "Nhưng không làm thế thì làm thế nào? Chưa biết chừng hôm nay thầy quyền nhà ta sẽ về. Như thế nầy sẽ có những món nóng cho nó ăn ngay, nếu không đến lúc ấy còn phải hâm lại, loay hoay được cái nọ cái kia thì nó đã đói meo mất rồi…" Có lần Dunhiaska ở ngoài vườn dưa về, vào bếp thấy trên cái đinh có treo cái áo khoác cũ lưng chếp nếp và chiếc mũ cát- két vành đã bạc màu của Grigori.

    Dunhiaska nhìn mẹ có ý hỏi thì bà cụ mỉm một nụ cười buồn thảm như nhận lỗi và nói: "Dunhiaska ạ, tao lấy hai thứ nầy trong rương ra đấy. Ở ngoài sân vào nhìn thấy cũng có phần nhẹ nhõm trong lòng… Cứ tựa như nó đã về với mẹ con mình rồi"…

    Dần dần Dunhiaska cũng khó chịu vì những buổi bà Ilinhitna nói mãi không thôi về Grigori. Một hôm cô gái không nhịn được nữa đã trách mẹ:

    - Mẹ ạ, làm thế nào mẹ cứ nói mãi một chuyện mà không biết chán nhỉ? Mẹ đã làm tất cả mọi người bực mình với những câu chuyện của mẹ đấy. Lúc nào nghe mẹ nói cũng hết anh Griska lại anh Griska…

    - Nói về thằng con tao đã mang nặng đẻ đau thì làm thế nào mà tao có thể chán được? Mày hãy đẻ lấy vài đứa rồi lúc ấy sẽ biết… - Bà Ilinhitna trả lời rất khẽ.

    Sau lần ấy, bà mang cái áo khoác và chiếc mũ cát- két của Grigori từ trong bếp vào nhà trong chỗ mình ở và vài ngày liền không nhắc tới con trai nữa. Nhưng đến hôm sắp phải cắt cỏ ngoài bãi, bà bảo Dunhiaska:

    - Mày cứ bực mình vì tao nhắc tới thằng Griska, nhưng nhà ta không có nó thì sống thế nào được? Mày đã nghĩ tới điều đó chưa, con bé ngu ngốc nầy? Sắp đến lúc phải cắt cỏ đến nơi rồi mà cái cào nhà ta cũng chẳng có ai để chữa… Mày xem nhà ta chỗ nào cũng hư hỏng lung tung, mà tao với mày thì chẳng có thể dọn dẹp được gì hết. Không có chủ thì đồ đạc cũng phải khóc…

    Dunhiaska không nói gì cả. Cô hiểu rất rõ rằng công việc làm ăn hoàn toàn không làm mẹ mình phải lo lắng đến mức như thế, tất cả các chuyện ấy chỉ được dùng làm cái cớ để bà có thể nhắc tới Grigori cho nhẹ nhõm trong lòng. Rồi bà Ilinhitna lại có một đợt nhớ con trai day dứt hơn mà bà không sao có thề giấu được nữa.

    Hôm ấy bà không ăn bữa tối và khi Dunhiaska hỏi bà có khó chịu gì trong người không thì bà miễn cưỡng trả lời:

    - Tao già mất rồi… mà trái tim tao thì đang đau khổ vì thằng Griska… Đau khổ đến không còn yêu thích cái gì nứa, mắt chỉ nhìn ra chỗ sáng đã thấy đau…

    Nhưng Grigori đã không phải là người về để thu xếp công việc làm ăn trong gia đình Melekhov… Trước hôm cắt cỏ, Miska Kosevoi từ mặt trận trở về thôn. Anh nghỉ đêm ở nhà một người họ xa rồi sáng hôm sau đến nhà Melekhov. Lúc ấy bà Ilinhitna đang làm bép. Người khách gõ cửa một cách lễ phép, nhưng không thấy trả lời, bèn bước vào trong bếp. Anh ngả chiếc mũ cát- két đã tàng của chiến sĩ, mỉm cười chào bà Ilinhitna:

    - Cháu chào thím, thím Ilinhitna! Thím không ngờ cháu về à?

    - Chào anh. Nhưng anh là thế nào với tôi mà tôi ngờ với không ngờ anh về! Nhà anh có họ hàng thúc bá gì với nhà tôi đâu? - Bà Ilinhitna nhìn một cách phẫn nộ vào mặt Miska, khuôn mặt đầy căm ghét rồi trả lời thô bạo.

    Sự đón tiếp như thế không hề làm Miska bối rối. Anh nói:

    - Tuy không họ hàng thúc bá… Nhưng dù sao cũng là chỗ quen biết cũ.

    - Chỉ có thế thôi.

    - Mà cháu cũng chẳng cần gì hơn, cháu chỉ qua thăm thím một lát thôi. Cháu không đến ở lại nhà thím đâu.

    - Như thế cũng đủ tai vạ rồi. - Bà Ilinhitna nói rồi không nhìn ngó tới người khách nữa, lại lúi húi nấu nướng.

    Miska không để ý tới những lời bà nói, cứ chăm chú nhìn quanh căn bếp rồi nói:

    - Cháu sang thăm để xem nhà ta dạo nầy sinh sống như thế nào… Đã hơn năm nay không được gặp rồi.

    - Nhưng tôi cũng không nhớ anh lắm đâu. - Bà Ilinhitna làu bàu rồi giận dữ xê dịch những cái nồi gang đặt trên đống tro nóng trong lò

    Dunhiaska đang dọn dẹp ở nhà trong. Nghe tiếng Miska nói, cô tái mặt, vỗ hai tay vào nhau đánh đét một cái nhưng không nói gì cả. Cô ngồi xuống ghế dài, không động đậy, lắng nghe những lời trao đổi trong bếp. Hai bên má Dunhiaska lúc thì đỏ bừng lên, lúc thì nhợt ra đến nỗi thấy được cả những gạch trăng trắng dọc theo sống mũi thanh thanh. Cô nghe thấy Miska đi những bước rắn rỏi trong bếp, ngồi xuống chiếc ghế dựa kêu cọt kẹt dưới sức nặng của anh rồi quẹt diêm. Khói thuốc lá xông cả vào nhà trong.

    - Nghe nói ông già mất rồi có phải không thím?

    - Mất rồi.

    - Thế còn Grigori?

    Bà Ilinhitna nín lặng giờ lâu rồi trả lời một cách rõ ràng miễn cưỡng:

    - Nó đi lính cho Hồng quân. Cũng đính cái ngôi sao đỏ trên mũ như anh ấy.

    - Grigori đáng là phải đeo nó từ lâu rồi…

    - Đó là việc của nó.

    Giọng noi của Miska lộ rõ vẻ lo lắng khi anh hỏi:

    - Thế còn cô Evdokia Pantel a?

    - Nó còn đang dọn dẹp. Khách đến như anh thì quá sớm đấy. Những người đứng đắn mới sáng bảnh mắt không đến nhà người ta đâu!

    - Thế thì là người không đứng đắn vậy. Cháu nhớ quá nên mới phải đến. Việc gì còn phải chọn giờ nào nữa?

    - Ồ thôi, anh Miska, anh đừng bực mình với tôi…

    - Nhưng có gì mà cháu bực mình với thím?

    - Về chuyện ấy đấy.

    - Nhưng chuyện gì cơ chứ?

    - Về những lời vừa mới nói ấy.

    Dunhiaska nghe thấy Miska thở dài nặng nề. Cô không nhịn được nữa, bèn đứng phắt dậy, sửa lại váy, bước vào trong bếp. Miska đang ngồi bên cửa sổ hút nốt điếu thuốc, mặt vàng ệch, hốc hác đến không nhận ra được nữa. Vừa nhìn thấy Dunhiaska, cặp mắt mờ đục của anh linh hoạt hẳn lên và mặt anh hơi ửng đỏ. Anh vội vã đứng dậy, nói giọng khàn hẳn đi:

    - Ô, chào cô!

    - Chào anh… - Dunhiaska trả lời rất khẽ, chỉ hơi có thể nghe thấy.

    - Mày ra gánh nước đi. - Bà Ilinhitna liếc nhanh mắt nhìn con gái và lập tức ra lệnh.

    Miska kiên nhẫn chờ Dunhiaska trở về. Bà Ilinhitna chẳng nói chẳng rằng. Cả Miska cũng nín thinh. Cuối cùng anh lấy ngón tay bóp tắt mẩu thuốc và hỏi:

    - Có gì mà thím căm ghét cháu như thế hả thím? Cháu đi ngáng qua đường thím hay sao?

    Bà Ilinhitna quay phắt ra khỏi cái bếp lò như bị ong châm.

    - Làm thế nào mà lương tâm còn cho phép anh vác mặt tới nhà tôi nữa, anh thật là trâng tráo không biết nhục! - Bà nói. - Và anh lại còn hỏi tôi nữa à? Anh là một thằng sát nhân…

    - Cháu sát nhân cái gì?

    - Đích xác là một thằng sát nhân? Thế đứa nào đã giết thằng Petro? Không là anh thì là đứa nào?

    - Đúng cháu đấy.

    - Đấy nhé! Vậy thì sau việc đó anh là một thằng như thế nào hả? Thế mà anh còn vác mặt đến nhà tôi… ngồi chễm chệ, làm cứ như… - Bà Ilinhitna tức thở, phải lặng đi một lát, nhưng bà trấn tĩnh lại được và nói tiếp; - Tôi có phải là mẹ nó không hử? Sao mà anh còn dám giương mắt lên nhìn tôi nữa?

    Mặt Miska tái hẳn đi. Vốn là anh đã chờ nghe những lời thế nầy.

    Giọng hơi lắp bắp vì cảm động, anh nói:

    - Hai con mắt cháu không có gì phải nheo lại! Nhưng nếu thằng Petro bắt được cháu thì nó sẽ làm gì? Thím tưởng nó sẽ ôm lấy đầu cháu mà hôn phải không? Nó cũng phải giết cháu thôi. Chúng cháu đến chạm trán với nhau trên những ngọn gò ấy đâu phải là để nựng nịu vuốt ve nhau! Chính vì thế chiến tranh mới là chiến tranh đấy.

    - Thế còn cụ thông gia Korsunov của nhà nầy? Giết một ông già hiền lành an phận, như thế cũng là chiến tranh à?

    - Không chiến tranh thì còn là gì nữa? - Miska ngạc nhiên. - Tất nhiên là chiến tranh rồi! Cháu đã biết chán những thằng hiền lành an phận như thế! Cái thằng hiền lành an phận ấy chỉ ngồi lì ở nhà, hai tay giữ cho quần khỏi tụt xuống, nhưng nó còn gây ra nhiều điều tai hại hơn cả những đứa ở ngoài mặt trận đấy… Chính những thằng như lão già Grisaka đã xúi giục bọn Cô- dắc chống lại chúng cháu. Chính vì chúng nó nên mới nổ ra tất cả cuộc chiến tranh nầy đấy? Thử hỏi những đứa nào đã tung ra những lời vận động chống lại chúng cháu? Chính chúng nó, những đứa hiền lành an phận đấy. Thế mà thím lại bảo là "đồ sát nhân"… Đúng là thím đã kiếm được một thằng sát nhân lạ lùng! Xưa nay cháu không dám cắt tiết một con cừu non hay con lợn sữa, và bây giờ cháu biết rằng cháu sẽ không bao giờ cắt tiết đâu. Thường khi người khác giết, cháu cứ phải bịt tai bỏ đi chỗ nào khác thật xa để khỏi phải nghe thấy, khỏi phải trông thấy.

    - Thế còn cụ thông gia nhà nầy…

    - Thím cứ để cho cái cụ thông gia ấy ám ảnh thím mãi làm gì? - Miska ngắt lời bà, giọng bực bội. - Cái lợi mà lão đem lại cho người ta thì cũng như sữa của một con dê đực thôi, còn cái hại thì không tính được hết đâu. Cháu đã bảo lão ra khỏi nhà đi, nhưng lão không ra, đã thế thì cứ cho lão nằm yên ở đấy. Cháu căm gan tím ruột vì chúng nó, vì những con quỉ già ấy? Giống vật thì cháu không thể nào giết được, nhưng xin lỗi thím, những của bẩn thỉu như lão thông gia nhà thím hay những kẻ thù nào khác thì đến bao nhiêu cháu cũng có thể giết được! Đối với chúng nó, đối với kẻ thù, những đứa không cần để sống trên đời nầy làm gì thì bàn tay cháu cứng rắn lắm đấy!

    - Chính vì cứng rắn như thế cho nên anh mới khô quắt đi như thế nầy đấy? - Bà Ilinhitna nói bằng một giọng cay độc. - Hay là lương tâm cũng có cắn rứt.

    - Không phải thế đâu? - Miska mỉm một nụ cười hồn hậu. - Lương tâm cháu nó không cắn rứt vì cái của vứt đi như lão già ấy đâu. Con bị cái bệnh sốt rét ấy nó ******** làm tội nên mới gầy rộc đi như thế nầy, nếu không thì mẹ ạ, con sẽ đem chúng nó…

    - Tôi mẹ con gì với anh hử? - Bà Ilinhitna phát khùng lên. - Anh hãy đi kiếm con chó cái mà gọi bằng mẹ!

    - Thôi thím đừng nặng lời với cháu! - Giọng Miska khàn khàn hẳn đi, hai con mắt anh nheo lại như báo trước một điều chẳng lành. - Cháu không dám nói trước rằng tất cả những điều thím nói cháu đều nhịn được hết đâu. Nhưng thím ạ, cháu chỉ nói rõ cho thím biết là thím đừng để dạ với cháu về chuyện Petro làm gì. Chính nó đã tự tìm thấy cái mà nó đi kiếm đấy.

    - Anh là thằng gỉết người! Quân giết người! Xéo ngay khỏi nhà nầy đi, tôi không thể nhìn anh được nữa rồi! - Bà Ilinhitna nhắc đi nhắc lại giọng kiên quyết.

    Miska lại châm thuốc hút và hỏi rất bình tĩnh.

    - Thế thằng Mitka Korsunov, cũng là thông gia của nhà thím đấy nó không phải là một thằng giết người à? Và thằng Grigori nữa thì là đứa thế nào? Thằng con trai của thím, thím không đả động tới nó, nhưng nó lại là một thằng sát nhân chính cống, không hơn không kém!

    - Đừng có nói láo!

    - Cháu có nói láo bao giờ đâu. Thế theo ý thím, nó là một thằng như thế nào? Nó đã giết bao nhiêu anh em chúng cháu, chuyện ấy thím có biết không? Đúng như thế đấy! Thím ạ, nếu thím đem cái tên ấy đi gọi tất cả những thằng đã từng có mặt trong chiến tranh thì tất cả chúng cháu đều là những thằng sát nhân hết. Tất cả vấn đề chỉ là chỗ giết người để làm gì và giết ai mà thôi. - Miska nói một cách thâm thuý.

    Bà Ilinhitna không trả lời gì cả, nhưng thấy khách còn chưa muốn về bà bèn nói gay gắt:

    - Thôi đủ rồi! Tôi không có đâu thì giờ mà nói chuyện với anh, anh về nhà đi thì hơn.

    - Nhà của cháu thì cũng như hang con thỏ ấy. - Miska cười nhạt và đứng dậy.

    Dùng tất cả các thái độ và lời nói như thế để đuổi Miska khuất mắt mình thì đâu có thể được! Miska nầy đâu phải là một kẻ dễ chạnh lòng đến mức chú ý tới những lời nhục mạ của bà già đang tức điên. Anh biết rằng Dunhiaska yêu mình, và ngoài điều đó ra, kể cả bà già, anh đều chẳng coi ra gì.

    Sáng hôm sau anh lại đến nhà, chào hỏi như chưa hề có chuyện gì xảy ra, rồi đến ngồi bên cạnh cửa sổ và đưa mắt nhìn theo từng cử chỉ, cử động của Dunhiaska.

    - Anh sang thăm nhiều quá đấy… - Bà Ilinhitna nói kháy mà không trả lời câu chào của Miska.

    Mặt Dunhiaska đỏ bừng lên, cô ngước cặp mắt cháy rực nhìn mẹ, rồi lại hạ mí mắt xuống, không hé răng nửa lời. Miska cười nhạt trả lời:

    - Cháu không đến thăm thím đâu, thím Ilinhitna ạ, thím đừng nóng làm gì.

    - Tốt nhất là anh hãy quên hẳn con đường đến nhà chúng tôi đi.

    - Nếu vậy thì cháu đi đâu bây giờ? - Miska hỏi giọng nghiêm hẳn lại. Nhờ ơn thằng Mitka con trai lão thông gia nhà thím, cháu chỉ còn một thân một mình, hệt như con mắt của một thằng chột ấy. Mà bảo cháu ngồi lì trong căn nhà trống huếch trống hoác như con sói độc thì không được đâu. Thím ạ, dù thím muốn hay không muốn, cháu vẫn sẽ sang nhà thím đấy. - Anh chàng nói xong lại dạng rộng hai chân, ngồi thoải mái hơn.

    Bà Ilinhitna chăm chú nhìn Miska. Phải hạng người như thế nầy thì có lẽ không dễ dàng tống tiễn được đâu. Trong toàn bộ cái thân hình gù gù của Miska, cũng như trong cái đầu cui cúi và cặp môi mím chặt của anh đều lộ rõ cái bướng bỉnh của con bò mộng…

    Miska di rồi, bà Ilinhitna dắt hai đứa trẻ ra sân rồi bảo Dunhiaska:

    - Mày bảo nó đừng đặt chân vào nhà nầy nữa. Mày hiểu chưa?

    Dunhiaska nhìn mẹ không chớp. Trong khoảnh khắc, một cái gì đó rất là đặc biệt của dòng họ Melekhov bỗng hiện ra trong hai con mắt nheo nheo đầy vẻ tức tối của cô gái khi cô nói tựa như dằn từng tiếng:

    - Không! Anh ấy sẽ còn đến! Mẹ đừng ngăn cấm làm gì! Anh ấy sẽ còn đến đấy! - Nói xong cô không chịu được nữa, bèn kéo chiếc tạp dề lên che mặt và vùng chạy vào phòng ngoài.

    Bà Ilinhitna thở dài nặng nề, ngồi xuống bên cửa sổ. Bà nín lặng lắc lắc đầu ngồi yên rất lâu, mắt đăm đăm nhìn ra một chỗ nào đó rất xa trên đồng cỏ, nơi dải ngải cứu non sáng lên như bạc dưới nắng nằm ngăn đất với trời.

    Lúc sắp hoàng hôn, Dunhiaska cùng mẹ ra mảnh vườn rau ven sông Đông dựng lại dãy hàng rào đã đổ dụi. Hai mẹ con vẫn chưa làm lành với nhau và đều nín thinh. Miska bước tới. Anh lặng lẽ cầm lấy cái xẻng trong tay Dunhiaska rồi nói:

    - Em đào nông quá. Gió thổi một cái là dãy hàng rào nhà ta lại đổ thôi. - Và anh bắt đầu đào sâu thêm những cái hố chôn cọc, giúp Dunhiaska dựng lại hàng rào, buộc hàng rào vào những cái cọc rồi bỏ đi.

    Sáng hôm sau anh mang hai cái cào nhỏ và một cái cán chàng nạng vừa bào xong đến đặt bên thềm nhà Melekhov. Anh chào bà Ilinhitna rồi hỏi ra vẻ rất thạo việc:

    - Nhà ta có định đi cắt cỏ ngoài bãi không? Bà con đã sang bên kia sông rồi đấy.

    Bà Ilinhitna cứ ngậm tăm. Dunhiaska trả lời thay mẹ:

    - Nhà em có cái gì để sang sông đâu. Có cái thuyền thì đã để nằm dưới mái nhà kho từ mùa thu, nứt nẻ hết rồi.

    - Đáng là phải ngâm nó xuống nước từ mùa xuân mới phải, - Miska nói giọng như trách móc. - Hay ta lấy gai ken nó lại? Không có thuyền thì nhà ta sẽ chẳng làm gì được đâu.

    Dunhiaska nhìn mẹ, ngoan ngoãn và có vẻ chờ đợi. Bà Ilinhitna vẫn nín thinh nhào bột và làm như tất cả những chuyện ấy đều không có gì dính dáng đến mình.

    - Nhà ta có gai không? - Miska hỏi, với nụ cười chỉ hơi có thể nhận thấy.

    Dunhiaska chạy vào nhà kho, đem ra một ôm xơ gai.

    Sắp đến bữa trưa thì Miska chữa xong chiếc thuyền. Anh bước vào nhà bếp.

    - Chà, tôi đã kéo chiếc thuyền xuống nước rồi đấy, cứ để thấm nước cho kỹ. Ở nhà nhớ buộc nó vào một cái cọc, kẻo có đứa nào lấy đi mất. - Rồi anh lại hỏi - Còn việc đi cắt cỏ thì thế nào hả thím? Có lẽ cháu cũng giúp cho nhà ta được chứ? Hiện giờ cháu vẫn còn rỗi.

    - Anh hỏi nó ấy. - Bà Ilinhitna hất đầu về phía Dunhiaska.

    - Cháu hỏi bà chủ nhà cơ.

    - Xem ra ở đây tôi không phải là người làm chủ đâu…

    Dunhiaska khóc oà lên, chạy vào nhà trong.

    - Thế thì cháu phải giúp mới được. - Miska è è trong họng, nói cương quyết. - Đồ làm mộc nhà ta để đâu thế? Cháu muốn làm cho thím mấy cái cào to, có lẽ những cái cũ chẳng còn được tích sự gì nữa rồi.

    Anh bỏ xuống nhà kho rồi vừa huýt sáo vừa bắt đầu bào những cái răng cào. Thằng bé Misatka cứ luẩn quẩn bên cạnh anh, nó nhìn vào mắt anh một cách van lơn, rồi xin:

    - Chú Miska ơi, chú làm cho cháu một cái cào bé tí xíu nhé, nếu không chẳng có ai làm cho cháu cả. Bà không biết làm mà cô cũng không biết làm… Chỉ một mình chú biết làm thôi, chú làm khéo lắm!

    - Cái thằng cùng tên với chú nầy, rồi chú sẽ làm, thật đấy, rồi chú sẽ làm cho, nhưng cháu phải đứng xa ra một chút, kẻo lại bị vỏ bào bắn vào mắt đấy. - Miska dỗ nó. Anh vừa cười vừa ngạc nhiên nghĩ thầm: "Chà cái thằng quỉ con nầy, sao mà nó giống hệt… hệt như bố nó ấy! Cả hai con mắt lẫn lông mày, mà môi trên cũng cong lên như thế… Thật là kỳ quặc! "

    Anh đã bắt đầu lúi húi làm một cái cào nhỏ xíu cho trẻ con chơi, nhưng không làm xong được: môi anh bỗng xám ngoét đi, trên khuôn mặt vàng ệch hiện lên một vẻ vừa tức tối lại vừa yên phận chịu đựng. Anh cảm thấy ớn lạnh rùng cả vai, bèn thôi không huýt sáo nữa và bỏ con dao xuống.

    - Cháu Misatka con bố Grigori, thằng bé trùng tên với chú nầy, cháu mang ra cho chú miếng vải gai để chú nằm một lát. - Anh nhờ thằng bé.

    - Nhưng để làm gì cơ chứ? Thằng Misatka tò mò hỏi.

    - Chú sắp ốm rồi.

    - Sao vậy?

    - Chà, cháu bám dai ghê thật, đúng là một quả ké… Hừ, chú đang đến lúc phải ốm rồi, có thế thôi! Cháu mang ra đây mau lên!

    - Thế còn cái cào của cháu?

    - Chú sẽ làm sau.

    Người Miska run bắn lên. Hai hàm răng thi nhau tranh trưởng, anh nằm lên tấm vải gai mà thằng Misatka vừa mang ra, rồi anh bỏ chiếc mũ cát- két xuống, úp lên mặt.

    - Thế là chú bắt đầu ốm rồi à? - Thằng Misatka hỏi, giọng đau khổ.

    - Đúng đấy, bắt đầu ốm rồi.

    - Nhưng tại sao chú run lên như thế?

    - Cái bệnh sốt rét nó đang lắc chú đấy.

    - Nhưng tại sao răng chú lại đập vào nhau lách cách như thế?

    Chỉ bằng một con mắt ngước lên bên dưới vành mũ, Miska nhìn thằng bé hay quấy rầy trùng tên với mình, anh khẽ mỉm cười và thôi không trả lời những câu hỏi của nó nữa. Thằng Misatka hoảng sợ nhìn anh rồi chạy vào trong nhà.

    - Bà ơi bà! Chú Miska phải nằm dưới nhà kho, chú ấy run ghê quá, run ghê quá, run đến nẩy bần bật lên ấy!

    Bà Ilinhitna ra cửa sổ nhìn xem rồi bước tới bên cái bàn và đứng lặng đi rất lâu, không biết bà đang nghĩ gì.

    - Sao bà chẳng nói gì thế bà? - Thằng Misatka kéo tay áo bà nó, hỏi có vẻ sốt ruột.

    Bà Ilinhitna quay lại nhìn nó rồi quyết định:

    - Cháu yêu của bà, cháu mang cái chăn ra cho nó, cho cái thằng phản Chúa ấy nó đáp. Nó đang bị cái bệnh sốt rét nó hành đấy, có cái bệnh như thế đấy. Cháu có mang được cái chăn không? Nói xong bà lại bước tới cửa sổ, nhìn ra sân, nhưng bà vội nói thêm: - Hượm đã, hượm đã! Cháu đừng mang nữa, không cần nữa rồi.

    Dunhiaska đang lấy cái áo choàng lông cừu của cô đắp cho Miska và cúi xuống nói với anh không biết những gì.

    Sau cơn sốt rét, Miska lại chúi vào chuẩn bị việc cắt cỏ cho đến sẩm tối. Anh đã yếu đi nhiều, các cử động đều trở nên uể oải và chập chững, nhưng anh vẫn làm xong một cái cào nhỏ cho thằng Misatka.

    Đến tối, bà Ilinhitna sửa soạn bữa ăn, cho hai đứa bé ngồi vào bàn, rồi không nhìn Dunhiaska, bà nói:

    - Mầy ra gọi nó… gọi cái thằng ấy vào ăn đi.

    Miska ngồi vào bàn mà không đưa tay lên trán làm dấu phép, lưng anh gù xuống đầy vẻ mệt mỏi. Khuôn mặt vàng ệch với những vệt mồ hôi bẩn thỉu đã khô cho thấy cả một sự phờ phạc rã rời. Lúc anh đưa muỗng lên miệng thì thấy tay anh run run. Anh ăn rất ít, rất miễn cưỡng, thỉnh thoảng lại lạnh nhạt đưa mắt nhìn những người ngồi chung quanh bàn. Nhưng bà Ilinhitna ngạc nhiên nhận thấy rằng hai con mắt đờ đẫn của "tên sát nhân" bỗng trở nên ấm áp và linh hoạt khi nó nhìn thằng bé Misatka. Những tia thích thú và âu yếm bừng lên một giây trong cặp mắt ấy rồi lại tắt ngay nhưng hai bên mép vẫn còn lưu rất lâu một nét cười chỉ hơi thoáng hiện. Nhưng sau đó anh lại đưa mắt ra chỗ khác và một vẻ lạnh nhạt đờ đẫn lại phủ lên mặt anh như một cái bóng.

    Bà Ilinhitna bắt đầu nhìn kỹ Miska một cách kín đáo và mãi lúc nầy bà mới nhận thấy rằng anh gầy rộc đi ghê gớm như thế nào trong thời gian bệnh tật. Hai cái xương bả vai hình bán nguyệt lồi hẳn lên dưới cái áo quân phục cổ chui bụi bám xám xịt. Cặp vai rộng gầy quá nhọn hoắt ra, gù xuống, chỗ lộ hầu mọc đầy những sợi lông màu hung hung cứng như rễ tre nhô ra rất kỳ quặc trên cái cổ ngẳng như cổ con nít. Bà Ilinhitna càng nhìn kỹ cái thân hình gù gù và khuôn mặt vàng ệch như sáp ong của "tên sát nhân" thì trong lòng bà càng có một cảm giác ngượng ngùng bối rối cứ như bị tách làm hai. Và trong trái tim của bà Ilinhitna bỗng trỗi lên một niềm thương hại rất là bất ngờ đối với con người mà bà căm ghét, sự thương hại nhức nhối trong lòng một người mẹ nó chinh phục cả những người đàn bà cứng cỏi nhất. Không đủ sức cưỡng lại tình cảm mới mẻ ấy, bà đẩy cho Miska một cái đĩa đầy sữa và nói:

    - Thôi ăn đi, lạy Chúa tôi, ăn nhiều vào! Gầy gì mà gầy hốc gầy hác, trông thấy mà buồn nôn… Cũng đòi làm chú rể?
  3. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 217

    Trong thôn đã băt đầu có những lời dị nghị về câu chuyện giữa Miska và Dunhiaska. Có lần một mụ đàn bà gặp Dunhiaska ngoài bến sông đã hỏi cô với một vẻ chế diễu ra mặt. "Nhà cô thuê Miska làm công hay sao thế? Gần như không thấy hắn bước ra khỏi sân nhà cô nữa…"

    Trước tất cả những lời van nài của con gái, bà Ilinhitna khăng khăng một mực: "Mầy đừng có van xin gì nữa, tao không đem mầy gả cho nó đâu! Chúng mầy sẽ không có lời chúc phước của tao đâu!"

    Mãi đến khi Dunhiaska nói dứt khoát rằng cô sang ở bên nhà Miska và bắt tay vào việc thu dọn các đồ riêng, bà Ilinhitna mới thay đổi quyết định.

    - Mầy hãy nghĩ lại đi. - Bà hốt hoảng kêu lên. - Một mình tao với hai đứa trẻ thì tao sẽ làm thế nào bây giờ? Mầy muốn bà cháu tao chết cả hay sao?

    - Như mẹ biết đấy, nhưng con không muốn làm cái bung xung cho thôn xóm chê cười. - Dunhiaska khẽ nói và tiếp tục ném quần áo của mình, quần áo của một người còn con gái, trong cái rương ra.

    Cặp môi bà Ilinhitna lắp bắp rất lâu không thành tiếng, rồi bà nặng nề lê chân tới góc nhà để hình thánh:

    - Thôi được, cũng không sao, con gái của mẹ… - Bà vừa lẩm bẩm vừa lấy một bức hình thánh xuống. - Mầy đã muốn như thế thì cầu Chúa che chở cho mầy, thôi mầy…

    Dunhiaska quì xuống. Bà Ilinhitna làm dấu phép chúc phước cho con gái và nói giọng run run:

    - Mồ ma mẹ tao đã chúc phước cho tao với bức hình thánh nầy… Chao ôi, nếu bây giờ mà ****** trông thấy mày… Mầy có nhớ ****** đã nói những gì về thằng chồng chưa cưới của mầy không? Có Chúa chứng giám là tao đau khổ đến ngần nào… - Bà nói xong lặng lẽ quay đi và bỏ ra phòng ngoài.

    Miska cố khuyên cô dâu đừng làm lễ cưới ở nhà thờ, nhưng dù anh nói thế nào cô gái bướng bỉnh vẫn khăng khăng không nghe. Miska đành phải miễn cưỡng làm theo. Anh rủa thầm mọi thứ trên đời và lúc sắp sửa ra nhà thờ làm lễ, anh cứ nghĩ như mình sắp bị đem đi hành hình. Lão cố đạo Visarion len lén làm lễ cưới cho hai người trong loà nhà thờ vắng tanh. Sau khi làm xong các nghi thức, lão chúc mừng cô dâu chú rể và nói giọng răn dạy:

    - Đấy đồng chí Xô viết trẻ tuổi thử xem, cuộc đời thường như thế đấy: năm ngoái đồng chí đã tự tay đốt nhà tôi, như người ta thường nói là đem nó làm mồi cho thần lửa, nhưng hôm nay tôi lại được làm lễ cưới cho đồng chí… Tục ngữ có câu là đừng nhổ xuống giếng vì có khi còn phải dùng đến. Nhưng dù sao tôi cũng vui mừng, thực tâm lấy làm vui mừng vì đồng chí đã tỉnh ngộ và tìm được con đường tới nhà thờ của Chúa cứu thế.

    Đến thế thì Miska còn chịu làm sao được nữa. Từ lúc đặt chân vào nhà thờ, anh vốn đã lầm lì chẳng nói chẳng rằng, trong lòng rất lấy làm nhục nhã trước cái ý chí bạc nhược của mình và tự mình lại phẫn nộ với mình. Đến lúc nghe thấy thế, anh tức điên lên quắc mắt nhìn lão cố đạo thù dai, và trả lời rất khẽ để Dunhiaska khỏi nghe thấy:

    - Thật tiếc là hôm ấy mày đã bỏ thôn chạy thoát, nếu không tao đã hoả thiêu cả mày lẫn cái nhà của mày rồi, con quỉ bờm dài nầy! Mày nghe rõ chưa, hử.

    Đực người ra như hoá dại trước một đòn bất ngờ như thế, lão cố đạo cứ hấp háy con mắt nhìn Miska chằm chằm, còn Miska thì kéo tay áo cô vợ trẻ, nói giọng nghiêm khắc: "Ta đi thôi" nói xong dẫm lộp cộp đôi ủng của quân đội, bước ra cửa.

    Trong lễ cưới chẳng có gì vui vẻ nầy đã không có uống rượu mà cũng không có ca hát. Prokho Zykov làm phù rể trong đám cưới.

    Hôm sau hắn cứ nhổ nước bọt than phiền mãi với Acxinhia:

    - Chà cô nàng ạ, thế mà cũng là cưới với xin! Lúc ở nhà thờ, không biết thằng Miska đã cho lão cố đạo nghe những gì mà miệng lão già méo xệch đi! Đến bữa tiệc cưới thì cô thử xem có được những gì? Gà rán và sữa chua… Hai cái đứa quỉ quái ấy, đáng là chúng nó cũng phải đưa ra dù chỉ một giọt rượu? Phải cho Grigori Pantelevich xem người ta đã làm lễ cưới cho cô em gái yêu của hắn như thế nào thì mới thú! Cho hắn một mẻ được ôm đầu! Không, cô nàng ạ, thật chẳng còn ra thế nào nữa! Từ bây giờ thì tôi chịu không dám đến dự những đám cưới đời sống mới nầy nữa rồi. Đến dự đám cưới chó còn vui hơn, đến đấy ít nhất còn được thấy những con chó dái rứt lông nhau, còn có huyên náo ầm ĩ, chứ ở đây thì chẳng có nhậu nhẹt, cũng chẳng có đánh lộn. Cái bọn bỏ đạo ấy, chúng nó thật đáng nguyền rủa! Cô có tin được không, sau khi đi ăn đám cưới nầy, tôi đã mất hết tinh thần, suốt đêm chẳng làm thế nào mà ngủ được, nằm xuống giường mà người ngứa ngáy cứ như bị rắc một nắm bọ chó xuống dưới áo sơ- mi ấy.

    Từ ngày Miska đến ở nhà Melekhov, mọi mặt trong công việc làm ăn đều đổi khác hẳn. Chỉ một thời gian ngắn anh ta đã sửa lại dãy tường bao, cắt cỏ trên đồng cỏ chở về sân đập lúa, đánh những đống cỏ gọn gàng ngay ngắn, làm mọi công việc chuẩn bị cho việc gặt lúa, làm lại những tấm ván và những cái cánh của cái máy gặt thô sơ quét dọn sạch sẽ sân đập lúa, sửa chữa cái quạt hòm cũ, và sửa sang bộ đồ thắng ngựa, vì anh đã có ngầm ý định đem đôi bò mộng đổi lấy một con ngựa và đã nhiều lần nói với Dunhiaska: "Chúng ta phải nuôi lấy một con ngựa mới được. Đi dẫn rệu với hai ông thánh tông đồ chân toẽ ngón nầy thì cũng đến phát khóc".

    Một hôm anh ngẫu nhiên tìm thấy trong nhà kho một thùng sơn trắng và một ít sơn màu nước biển, bèn lập tức quyết định sơn lại những cánh cửa chớp cũ quá đã xám xịt. Ngôi nhà Melekhov nom như trẻ lại và nhìn ra thế giới bên ngoài với những con mắt xanh tươi Miska tỏ ra là một ông chủ cơ nghiệp siêng năng. Tuy đang ốm anh vẫn làm công việc nầy việc nọ không lúc nào ngơi tay. Dunhiaska giúp đỡ anh trong mọi việc.

    Lấy chồng chưa được mấy ngày mà Dunhiaska đẹp hẳn ra, vai và háng tựa như nở nang thêm. Có cái gì mới mẻ xuất hiện trong ánh mắt, trong dáng đi, trong cả cách sửa lại mớ tóc. Trước kia các cử chỉ của cô đều vụng về ngượng nghịu, chân tay vung vẩy loăng quăng như con nít, nhưng nay đã không còn như thế nữa.

    Dunhiaska trở nên tươi tắn, nhu mì và cứ nhìn chồng bằng cặp mắt tràn ngập yêu đương, chẳng còn nhận thấy chung quanh có gì nữa.

    - Bọn trẻ đang hưởng hạnh phúc thì có bao giờ nhìn thấy gì…!

    Nhưng bà Ilinhitna thì càng ngày càng cảm thấy sâu sắc và đau đớn hơn sự cô quạnh đang đến với mình. Bà đã trở thành một người thừa trong ngôi nhà ở đó bà đã sống gần trọn một đời người. Hai vợ chồng Dunhiaska làm việc cứ như để xây dựng cái tổ ấm riêng của mình trên nơi đất trống. Hai người chẳng xin ý kiến bà về việc gì và cũng chẳng cần được bà đồng ý khi bắt tay vào làm một việc gì.

    Không hiểu sao hai người cũng không kiếm được lời nào âu yếm để nói với bà. Chỉ khi họ ngồi vào bàn ăn họ mới trao đổi với bà vài câu không có ý nghĩa gì lắm và bà Ilinhitna lại đơn độc một thân với những ý nghĩ sầu thảm của mình. Bà không cảm thấy sung sướng trước hạnh phúc của con gái. Sự có mặt của một người lạ trong nhà làm bà khó chịu, vì vẫn như xưa, bà vẫn coi anh chàng con rể nầy là một người lạ. Ngay cuộc đời cũng đã trở thành một gánh nặng đối với bà. Chỉ một năm mà bà ta đã mất đi bao nhiêu con người gần gụi với trái tim bà, nhưng bà vẫn phải sống, lưng còng xuống dưới những đau khổ, người già xọm đi, nom rất là thảm hại. Bà đã phải chịu đựng nhiều, có thể nói là quá nhiều điều khổ cực. Bà không còn đủ sức để chống lại nữa, vì thế cứ sống với dự cảm đầy mê tín là sau khi đã từng đến thăm gia đình nhà bà nhiều lần như thế, thần chết sẽ có dịp bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà cổ của họ Melekhov. Sau khi nhẫn nhục để cho Dunhiaska đi lấy chồng, bà Ilinhitna chỉ còn hy vọng một điều là chờ được đến khi Grigori trở về, trao lại cho chàng hai đứa trẻ rồi nhắm mắt, hai tay buông xuôi. Vì đã sống một cuộc đời cực nhọc dài như thế, bà đã có được cái quyền nghỉ ngơi Những ngày hè dài đằng đẵng nối tiếp nhau mãi không thôi.

    Nắng chói chang rất nóng. Song những tia nắng như mọc gai không còn sưởi ấm bà Ilinhitna nữa. Bà thường ngồi rất lâu bên thềm, ở chỗ dải nắng nhất, hoàn toàn không động đậy mà cũng chẳng quan tâm chút gì tới mọi vật chung quanh. Còn đâu là bà chủ nhà bận rộn và siêng năng xưa kia. Bà không muốn làm việc gì nữa. Bây giờ mọi công việc đều trở nên không có ý nghĩa, không cần thiết và không có giá trị, vả lại bà cũng chẳng còn đâu sức lực để làm lụng như ngày xưa. Bà thường hay ngắm hai bàn tay rộng bè ra vì bao nhiêu năm lao động và thầm tự nói với mình: "Hai bàn tay của mình đã làm xong hết mọi việc rồi đây… Đã đến lúc phải cho nó được ngơi… Mình đã sống quá nhiều, cũng đủ rồi… Chỉ cần chờ được đến ngày thằng Grigori yêu quý trở về…"

    Riêng có một lần cái tinh thần yêu đời xưa kia đã trở lại với bà Ilinhitna, nhưng cũng chẳng được bao lâu. Prokho ở trên trấn về, tiện đường tạt qua nhà bà và từ xa hắn đã gào lên:

    - Làm tiệc khao đi, bà Ilinhitna ơi! Tôi mang thư của con trai bà về dây!

    Bà già tái mặt. Bà đã mang một ấn tượng là một bức thư thế nào cũng gắn liền với một điều bất hạnh mới. Nhưng khi Prokho đọc cho bà nghe xong bức thư ngắn ngủi thì bà sung sướng quá, mãi chẳng nói được ra lời. Một nửa bức thư gồm toàn những lời thăm hỏi gia đình, và mãi cuối mới thấy ghi thêm rằng Grigori đang cố gắng xin về nghỉ phép trước mùa thu. Những giọt nước mắt rất nhỏ chảy lăn tăn như hạt cườm trên khuôn mặt rám nâu của bà, theo những vết nhăn sâu trên má. Bà cúi đầu, đưa cánh tay áo và bàn tay sần sùi lên lau nước mắt, song những giọt nước mắt vẫn cứ tuôn ra ròng trên mặt bà, chảy xuống lấm tấm cả chiếc tạp dề, mau như những giợt mưa. Prokho không phải là không vui mừng, nhưng thật sự là hắn không thể nào chịu nổi nước mắt của đàn bà, vì thế hắn cau mày nói bằng một giọng bực tức ra mặt:

    - Chao ôi, bà cụ ơi là bà cụ, thế là cụ lại khóc rồi! Đàn bà các bà sào mà lắm cái thứ nước ấy thế… Phải vui lên chứ sao lại khóc như thế? Thôi, tôi đi đây, chào cụ nhé! Nhìn cụ thì tôi chẳng thoải mái chút nào cả.

    Bà Ilinhitna chợt nhớ ra, bèn vội giữ hắn lại:

    - Anh bạn thân mến của tôi ơi, anh đã đem lại cho tôi một tin vui như thế… Sao tôi lại có thể như thế nầy được… Anh hãy hượm một lát để tôi còn thết anh chứ… - Bà già lắp bắp nói không đầu không đũa, và lấy trong cái rương ra một chai rượu nặng để dành lâu lắm rồi.

    Prokho ngồi xuống, vuốt ria:

    - Cụ cũng uống với tôi một chén để mừng tin vui chứ? - Hắn hỏi.

    Nhưng ngay lúc đó hắn lại lo lắng nghĩ bụng: "Chà, quỉ dữ lại giật lưỡi mình rồi! Chỗ rượu nầy chỉ được một hớp, nếu mụ cùng uống với mình thì sao…"

    Bà Ilinhitna từ chối. Bà gấp bức thư rất cẩn thận, đặt lên cái ổ để các hình thánh, nhưng không biết bà nghĩ đi nghĩ lại thế nào, lại lấy nó xuống, cầm một lát trong tay rồi nhét vào bên trong áo, áp thật sát chỗ tim đập.

    Dunhiaska ở ngoài đồng về, cô đọc bức thư rất lâu rồi mỉm cười thở dài:

    - Chao ôi, anh ấy mau mau về đi thôi? Nếu không mẹ đã khác đi nhiều lắm rồi mẹ ạ.

    Như có ý ghen, bà Ilinhitna giằng lại bức thư trong tay Dunhiaska, đem giấu lại vào trong áo rồi mỉm cười, nheo cặp mằt long lanh nhìn con gái và nói:

    - Tao như thế nầy bây giờ thì chó nó trông thấy cũng không thèm sủa, thế mà thằng hái yêu quý của tao vẫn còn nhớ tới mẹ nó đấy!

    - Mầy xem nó viết thư như thế đấy! Nó lại còn lễ phép gọi tao bằng tên theo bố, là bà Ilinhitna… Nó viết là nó cung kính cúi đầu chào mẹ yêu quí và hỏi thăm hai con yêu quí, lại không quên cả mầy nữa… Nhưng tại sao mày lại nhăn nhăn nhở nhở như thế hả? Mầy ngu xuẩn lắm, Dunhiaska ạ, mầy đúng là một con bé ngu xuẩn!

    - Đúng thế đấy, mẹ ạ, nhưng con chỉ mỉm cười thôi mà cũng không được hay sao? Nhưng mẹ sắp sửa đi đâu thế?

    - Tao ra vườn rau, xới đám khoai tây.

    - Mai con sẽ tự đi xới lây, mẹ cứ ở nhà thì hơn. Lúc thì mẹ kêu ốm, lúc thì tự bới việc mà làm.

    - Không, tao đi đây… Trong lòng tao đang vui, tao muốn đi một mình. - Bà Ilinhitna thú nhận rồi chít thoăn thoắt chiếc khăn lên đầu, nhanh nhẹn như một người còn trẻ.

    Trên đường ra vườn rau, bà tạt vào nhà Acxinhia. Đầu tiên bà còn giữ ý chỉ nói những chuyện khác, rồi sau mới lấy bức thư ra.

    - Cái thằng nhà tôi vừa gửi về một bức thư nhỏ, làm mẹ nó mừng quá nó có hứa sẽ về nghỉ phép đấy. Chị láng giềng thân mến ạ, chị cầm lấy nầy, đọc đi cho tôi được nghe lần nữa với.

    Từ hôm ấy, Acxinhia nhiều lần đọc đi đọc lại bức thư. Bà Ilinhitna thường sang nhà nàng vào buổi chiều. Bà lấy ra chiếc phong bì màu vàng bọc rất cẩn thận trong một cái khăn tay rồi thở dài bảo nàng:

    - Chị Acxiutka, chị đọc lại đi, hôm nay trong lòng tôi không biết có chuyện gì ấy, tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ như hồi nó cắp sách đến trường ấy…

    Cùng với ngày tháng, những chữ viết bằng bút chì hoá học đã nhoà đi nhiều, nhiều chữ hoàn toàn không thể đọc được nữa, nhưng điều đó không gây cho Acxinhia một sự khó khăn nào cả: nàng đọc hức thư quá nhiều lần nên đã thuộc lòng. Ngay sau khi tờ giấy mỏng đã rách như xơ mướp, Acxinhia vẫn có thể kể lại bức thư từ đầu đến cuối mà không ngắc ngứ gì cả.

    Chừng hai tuần sau, bà Ilinhitna cảm thấy trong người khó chịu. Dunhiaska đang bận đập lúa mà bà thì không muốn làm cho con gái mất công mất việc, nhưng bà lại không thể tự tay nấu nướng được.

    - Hôm nay tao không dậy được đâu. Mày phải tự xoay xở thế nào thì xoay xở. - Bà già bảo con gái.

    - Nhưng mẹ đau ở đâu thế mẹ?

    Bà Ilinhitna vuốt những nếp trên chiếc áo đã làng đang mặc rồi trả lời không ngước nhìn lên:

    - Đau như dần khắp người… Hình như lục phủ ngũ tạng đều long hết cả ra. Hồi tao còn trẻ, mồ ma ****** thường cáu lên đánh tao… Hai nắm tay ông cứ như nắm tay thép ấy… Tao thường phải nằm chết lịm hàng tuần. Bây giờ cũng như thế đấy: khắp người tao đau ê ẩm, cứ như vừa ăn một trận đòn…

    - Có lẽ con bảo anh Miska đi gọi y sĩ nhé!

    - Cần gì phải gọi y sĩ, rồi tao sẽ dậy được thôi.

    Ngày hôm sau, quả nhiên là bà Ilinhitna dậy được. Bà đi đi lại lại được trong sân, nhưng đến chiều lại phải nằm. Mặt bà hơi sị ra, dưới hai con mắt có những đám da lũng nhũng như người phù thũng. Đến đêm có nhiều lần bà phải chống tay nhỏm đầu trên những cáì gối đập phồng xếp rất cao, thở hổn hển: bà cảm thấy khó thở. Nhưng rồi cơn tức thở cũng qua. Bà lại có thể nằm ngửa một cách bình thản, thậm chí có thể bước trên giường xuống. Bà sống vài ngày trong một trạng thái tựa như lặng lẽ tách biệt với bên ngoài, tâm hồn lắng xuống. Bà chỉ muốn ở một mình, vì thế khi Acxinhia sang thăm, nàng hỏi gì bà cũng chỉ trả lời rất dè sẻn và khi nàng ra về thì bà thở dài khoan khoái. Bà lấy làm sung sướng vì hai đứa trẻ hầu như suốt ngày ở ngoài sân và Dunhiaska cũng ít khi vào quấy rầy bà với mọi câu thăm hỏi. Bà không cần đến sự thương hại hay an ủi nào nữa.

    Đã đến lúc bà cảm thấy hết sức cần phải được yên tĩnh một mình để hồi tưởng lại rất nhlều chuyện trong đời. Vì thế bà thường nằm hàng giờ không động đậy, mắt mở he hé, chỉ những ngón tay sưng phù vẫn lần lần theo các nếp chăn, và toàn bộ cuộc đời bà đã diễn lại trước mắt bà trong những giờ phút ấy.

    Kể cũng lạ vì cuộc đơi ấy có vẻ hết sức ngắn ngủi, vô vị và trong đó có biết bao điều nặng nề, đau khổ, tưởng như làm người ta không muốn nhớ lại nữa. Không hiểu sao trong các hồi ức và ý nghĩ của bà, bà cứ luôn hướng về Grigori. Có thể là từ khi chiến tranh bùng nổ đến giờ, bao nhiêu năm liền không bao giờ bà bớt lo lắng cho số phận của chàng và bây giờ, tất cả những cái gì còn làm cho bà gắn bó với cuộc đời đều chỉ còn là chàng. Hoặc cũng có thể là cùnơ với thời gian, nỗi buồn nhó thằng con cả và chồng đã bớt gay gắt, đã nguôi dần. Nhưng về họ, về những người đã khuất thì bà nhớ tới họ ít hơn và tựa như chỉ nhìn thấy họ qua một tấm màn sương màu xám.

    Bà chỉ nhớ lại thời kỳ con gái và thời kỳ lấy chồng một cách miễn cưỡng. Điều đơn giản là tất cả các chuyện ấy chỉ là những điều không cần thiết, đã lùi xa về quá khứ và chẳng đem lại được niềm vui hay sự khuây khoả nào. Và những khi quay về quá khứ trong những hồi ức cuối cùng, bà vẫn tỏ ra là một người nghiêm khắc và trong sạch. Nhưng thường là "thằng hai yêu dấu" cứ bất thần hiện lên trong óc bà một cách hết sức rành rọt, gần như sờ thấy được. Và hễ nghĩ tới Grigori là bà lập tức bắt đầu nghe thấy tiếng tim mình đập dồn dập. Sau đó một cơn tức thở lại ập tới, mặt bà đen sẫm lại, và bà nằm bất tỉnh giờ lâu, nhưng vừa bắt đầu thở được là bà lại nhớ ngay tới chàng. Dù sao bà cũng không thể nào quên thằng con trai cuối cùng của bà…

    Một hôm bà Ilinhitna nằm ở nhà trong. Vầng mặt trời giữa trưa chiếu chói lọi bên ngoài cửa sổ. Trên đường chân trời phía nam, những đám mây trắng bị gió dựng đứng trang nghiêm trôi trên nền trời xanh loá mắt. Chỉ có tiếng kêu đơn điệu, như ru ngủ của những con dế ảnh hưởng tới bầu không khí yên lặng trầm trệ. Ngoài kia, ngay bên dưới cửa sổ vẫn còn lại một dải cỏ chưa bị nắng thui cháy vì nằm nép vào nền nhà: những đám tân lê gần héo rũ mọc lẫn với yến đại mạch dại và nga quan. Chính đó là nơi những con dế đã tìm được chỗ trú chân và đang kêu ran. Trong khi lắng nghe tiếng dế kêu không ngớt, bà Ilinhitna bất giác ngửi thấy mùi cỏ bị hun nóng thoảng đưa vào phòng trong và trong khoảnh khắc, như một ảo ảnh, bà thấy hiện ra trước mắt một cánh đồng cỏ tháng Tám nóng bỏng dưới ánh mặt trời, một khoảng rạ lúa mì vàng óng, bầu trời xanh lam sáng rực sau tấm màn sương màu xám lơ…

    Bà nhìn tháy rất rành rọt một đôi bò ăn cỏ trên một nẻo đất mọc đầy ngải cứu, một chiếc xe bò có căng mui, bà nghe thấy những tiếng dế kêu lanh lảnh, ngửi thấy mùi ngải cứu đắng đắng lợ lợ… Bà nhìn thấy cả mình trẻ đẹp, cao lớn, đẹp… Kìa chính bà đang vội vã chạy về chỗ xe đỗ. Dưới chân bà những cuống rạ lạo xạo đâm cả vào hai bắp chân không. Làn gió nóng hổi thổi khô trên lưng bà chiếc áo sơ- mi đẫm mồ hôi ***g vào trong váy, làm cổ bà rát như phải bỏng. Mặt bà đỏ bừng bừng, máu dồn lên làm trong tai như có tiếng chuông rung. Bà cong hai tay, đỡ cặp vú trĩu nặng, mọng sữa, và khi nghe thấy tiếng trẻ khóc nức nở, bà rảo bước hơn, vừa đi vừa cởi khuy cổ áo.

    Cặp môi bị gió thổi khô nẻ của bà run run qua một nét cười khi bà bước tới cái nôi mắc dưới gầm xe, bế ra một thằng Griska ngăm ngăm đen, nhỏ xíu. Bà dùng răng cắn giữ sợi dây đẫm mồ hôi của cây thánh giá đeo tuỳ thân, vội vã cho nó bú ngay và khẽ nựng nó qua hàm răng nghiến chặt: "Con yêu quý của mẹ, thằng bé nhỏ nhoi của mẹ! Con đẹp con xinh của mẹ! Mẹ của con suýt làm con chết đói mất rồi!" Vẫn còn khóc ấm ức, thằng Griska vừa bú vừa cắn nụ hoa rất đau bằng mấy cái răng nhỏ xíu. Bố thằng Griska đứng ngay bên cạnh rửa lại cái hái, trẻ trai, với hàng ria đen. Qua hai hàng mi hạ thấp, bà nhìn thấy nét cười và hai khoảng lông trắng xanh xanh của cặp mắt giễu cợt… Bà thở chẳng ra hơi vì trời quá nóng, mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, làm hai bên má buồn buồn, rồi ánh sáng tối dần, tối dần trước mắt bà…

    Bà bừng tỉnh, đưa tay sờ sờ trên khuôn mặt đầm đìa nước mắt rồi cứ thế nằm rất lâu, khổ sở vì một cơn tức thở hết sức nặng nề và thỉnh thoảng lại thiếp đi không còn biết gì nữa.

    Sau khi trời tối, lúc vợ chồng Dunhiaska đã đi ngủ, bà thu hết sức lực còn lại, nhỏm dậy, lần ra sân. Acxinhia phải đi tìm con bò cái lạc đàn mãi đến đêm khuya. Khi về đến nhà, nàng trông thấy bà Ilinhitna từ từ lê bước, lảo đảo đi qua sân đập lúa. "Bà lão đang ốm như thế mà sao còn mò ra đây thế nầy?" - Acxinhia ngạc nhiên nghĩ thầm rồi rón rén bước tới dãy hàng rào ngăn nhà mình với sân đập lúa của nhà Melekhov. Trăng tròn vành vạnh. Một làn gió hiu hiu thổi từ đồng cỏ vào. Cây rơm in một cái bóng rất sẫm lên mảnh sân trần trụi đã trà phẳng bằng đá lăn. Bà Ilinhitna vịn vào dãy hàng rào, đứng nhìn ra đồng cỏ, nơi đống củi mà những người cắt cỏ đốt lên đang nhấp nhánh như một ngôi sao xa lắc không sao với tới được.

    Acxinhia nhìn thấy rất rõ khuôn mặt sị nặng của bà Ilinhitna bị ánh trăng xanh biếc rọi sáng và món tóc bạc xoã xuống chiếc khăn san đen mà các bà già thường chít.

    Bà Ilinhitna nhìn rất lâu ra khoảng xanh thẫm của cánh đồng cỏ chìm trong bóng đêm, rồi bà gọi khe khẽ, tựa như có Grigori đang đứng ngay ở đấy, bên cạnh bà:

    - Griska? Con yêu của mẹ! - Bà lặng đi một lát rồi lại nói giọng khàn khàn rất thấp, đổi khác hẳn - Giọt máu yêu dấu của mẹ!

    Acxinhia run bắn người lên, nàng bị xâm chiếm bởi một cảm giác buồn nôn và kinh sợ không sao giải thích được, phải rời ngay dãy hàng rào, bỏ vào trong nhà.

    Đêm hôm ấy bà Ilinhitna biết rằng mình sắp chết đến nơi và thần chết đã mò tới đầu giường của mình rồi. Đến khi trời rạng, bà lấy chiếc áo sơ- mi của Grigori trong cái rương, cuộn lại, nhét xuống dưới cái gối. Bà sắp sẵn cả cái áo liệm mà bà sẽ phải mặc sau khi thở hơi cuối cùng.

    Sáng hôm sau, Dunhiaska vào thăm mẹ như thường lệ. Bà Ilinhitna lấy dưới cái gối ra chiếc áo sơ- mi của Grigori đã cuộn lại rất cẩn thận rồi lặng lẽ đưa cho Dunhiaska.

    - Cái gì thế mẹ? Dunhiaska ngạc nhiên hỏi.

    - Cái áo của thằng Griska. Đưa cho chồng mày, bảo nó lấy mà mặc, cái nó đang mặc đã cũ quá, thấm mồ hôi đến mục ra rồi còn gì - Bà Ilinhitna nói thều thào, chỉ hơi có thề nghe thấy.

    Dunhiaska nhìn thấy trên nắp cái rương có cái váy đen, chiếc áo sơ- mi và đôi ủng ngắn bằng vải của mẹ, tất cả những thứ mà người ta thường mặc cho người chết để đưa tiễn họ đi chặng đường xa thẳm, cô tái mặt.

    - Mẹ làm sao thế, mẹ yêu của con, mẹ đã sửa soạn áo liệm rồi sao? Mẹ hãy vì Chúa cứu thế mà cất nó đi! Cầu Chúa che chở cho mẹ, mẹ nghĩ tới cái chết sớm quá đấy.

    - Không, tao đã đến lúc rồi… - Bà Ilinhitna khẽ nói, - Đã đến lượt tao rồi… Hai đứa trẻ, mày hãy trông nom săn sóc chúng nó, trong lúc thằng Griska còn chưa về… Còn nó thì xem ra tao không chờ đến khi nó về được đâu… Chao ôi, không chờ được nữa rồi!

    Để Dunhiaska khỏi trông thấy những giọt nước mắt của mình, bà Ilinhitna quay mặt vào trong tường và đưa chiếc khăn tay lên che mặt.

    Ba ngày sau bà qua đời. Những người bạn cùng tuổi của bà tắm rửa cho bà, khâm liệm cho bà và đặt bà lên chiếc bàn ở nhà trong.

    Đến tối Acxinhia sang chia tay với người quá cố. Khuôn mặt bà già nhỏ bé vừa qua đời nom nghiêm khắc và như đẹp ra. Nhìn khuôn mặt ấy, Acxinhia nhận ra rất khó khăn dung mạo của bà Ilinhitna kiêu hãnh và dũng cảm trước kia. Trong khi ghé môi vào vừng trán vàng ệch và lạnh băng của người chết, Acxinhia nhìn thấy món tóc bạc quật cường mà nàng thường trông thấy tuột ra dưới chiếc khăn bịt đầu màu trắng và một vành tai tròn tròn nho nhỏ, hoàn toàn như tai một người còn trẻ.

    Được Dunhiaska ưng thuận, Acxinhia đem hai đứa trẻ sang ở với mình. Hai đứa còn lầm lì vì khiếp hãi sau cái chết mới đây của bà chúng nó. Acxinhia cho hai đứa trẻ ăn và đặt nằm cùng với mình.

    Acxinhia có một cảm giác rất lạ lùng mỗi khi ôm hai đứa bé đã nằm nép vào hai bên người mình, hai đứa con của người mà nàng yêu dấu. Nàng thủ thỉ kể cho chúng nó nghe những chuyện cổ tích mà nàng đã được nghe kể từ thời thơ ấu, chỉ cốt làm cái gì giúp nó khuây khoả, đỡ nghĩ tới người bà đã mất. Giọng véo von, nàng khe khẽ kể nốt câu chuyện cổ tích về thằng bé mồ côi Vanhiuska đáng thương:

    Thiên nga, thiên nga,

    Mau xòe cánh trắng

    Về đây đón ta,

    Về nơi yêu dấu.

    Về nơi quê nhà.

    Nhưng nàng chưa kịp kể xong câu chuyện thì đã nghe thấy tiếng thở thanh thản, đều đặn của hai đứa trẻ. Thằng Misatka rúc mặt vào vai nàng, nằm sát mép giường. Acxinhia nhẹ nhàng động vai sửa lại cho đầu nó khỏi bị ngật ra và bất thần cảm thấy tim mình đây nhay nhứt không thể nào nguôi, đến nỗi cổ họng như tắc lại. Nàng khóc một cách đau khổ và cay đắng, những tiếng nức nở làm nàng rung lên, nhưng ngay đến việc lau nước mắt nàng cũng không làm được: hai đứa con của Grigori đang ngủ trên tay nàng mà nàng lại không muốn làm chúng nó thức giấc.
  4. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 218

    Sau khi bà Ilinhitna mất đi, Miska trở thành người chủ duy nhất và nắm toàn quyền trong nhà. Đáng ra thì anh càng phải tỏ ra năng nổ hơn trong việc bắt tay vào tổ chức lại và mở rộng thêm công việc làm ăn, nhưng sự thật đâu có như thế: Miska làm việc ngày càng kém phần hào hứng, ngày càng hay vắng nhà và tối tối lại ngồi rất khuya trên thềm hút thuốc, đầu óc quẩn quanh với những ý nghĩ riêng của mình. Dunhiaska không thể không nhận thấy những sự thay đổi của chồng. Cô đã nhiều lần ngạc nhiên thấy Miska bất thình lình vô duyên vô cớ ném rùi ném bào đấy, bỏ ra chỗ khác để ngồi nghỉ. Thật khác hẳn cái lối làm việc hoàn toàn quên mình trước kia. Cả ở ngoài đồng, hôm hai người đi gieo lúa hắc mạch mùa đông cũng thế vừa đi được hai luống, Miska đã cho cặp bò đứng lại, rồi cuốn điếu thuốc, ngồi ì ra hút rất lâu trên mảnh đất vừa cày với cái trán nhăn lại.

    Vốn đã thừa hưởng của bố cái đầu óc rất thực tế, Dunhiaska lo lắng nghĩ thầm: "Anh chàng nầy chẳng làm được cái gì cho lâu la một chút… Một là ốm hai là đổ lười ra đấy thôi. Lấy một anh chồng như thế nầy thì mình cũng đến mang vạ vào thân! Nom thật chẳng khác đi ở thuê cho người khác: hút thuốc nửa ngày, gãi ngứa nửa ngày, thế thì còn lúc nào mà làm việc nữa… Nhưng mình cũng phải nhẹ nhàng tỉ tê mà nói cho anh chàng khỏi cáu, nếu không về sau mà còn tiếp tục chăm lo công việc theo kiểu như thế nầy thì lấy xẻng xúc cũng không đổ hết khó khăn trong nhà đi được đâu…"

    Vì thế có lần Dunhiaska đã hỏi rất dè dặt:

    - Dạo nầy nom anh cứ như làm sao ấy, anh Miska ạ, hay lại bị con ma bệnh nó hành?

    - Làm gì có chuyện ốm với đau? Ở đây không ốm cũng đã buồn nôn rồi. - Miska trả lời giọng tức tối rồi lại thúc hai con bò đi theo cái máy gieo hạt.

    Dunhiaska thấy truy hỏi thêm nữa thì cũng không tiện, vả lại nói đến cùng thì phần việc của người đàn bà đâu phải là lên lớp cho chồng. Vì thế câu chuyện chỉ đến đấy là chấm dứt.

    Mọi ý đoán già đoán non của Dunhiaska đều không đúng hết. Nguyên nhân duy nhất trở ngại không cho Miska có thề năng nổ làm ăn như xưa là ý nghĩ mỗi ngày một ăn sâu trong đầu óc anh, cho rằng mình đã về an cư lạc nghiệp ở nơi quê nhà quá sớm: "Mình bắt tay vào công việc làm ăn hơi sớm một chút, mình đã quá vội vàng…" - Miska bực mình nghĩ như thế mỗi khi đọc những tin mặt trận đăng trên tờ báo của khu hoặc chiều chiều nghe những chiến sĩ Hồng quân Cô- dắc kể chuyện. Nhưng tinh thần dân chúng trong thôn mới là điều anh đặc biệt lo lắng. Trong đám nầy, một số kẻ đã công nhiên nói rằng chỉ đến mùa đông là Chính quyền Xô viết sẽ đi đời nhà ma vì Vrăngghen đã xông ra khỏi Tavria và cùng với Marno 1 tiến quân gần tới Rostov, đồng minh đã cho một lực lượng lính thuỷ đánh bộ rất lớn đổ bộ lên Novorossisk… Trong thôn đầy rẫy những tin đồn, tin nọ vô lý hơn tin kia. Những gã Cô- dắc ở trại tập trung hay ở hầm mỏ trở về, được ăn uống ở nhà qua một mùa hè đều béo tốt đẫy đà. Chúng sống tách biệt hẳn thành một nhóm riêng, đêm đêm tụ tập rượu chè, bàn tán riêng với nhau không biết những chuyện gì, nhưng mỗi khi gặp Miska, chúng lại làm bộ mặt thản nhiên hỏi: "Miska à, anh thường đọc báo, anh hãy kể xem ở ngoài ấy đã sắp chấm dứt với Vrăngghen chưa? Cái tin quân đồng minh lại kéo đến giở trò với chúng ta là thật hay là bậy thế?"

    Một hôm chủ nhật Prokho Zykov đến chơi vào buổi chiều. Miska vừa ở ngoài đồng về đang đứng bên thềm nhà lau rửa. Dunhiaska đổ nước trong cái bình vào tay chồng, mỉm cười nhìn cái cổ gầy ngẳng bị nắng thiêu cháy đen của anh. Chào hỏi xong, Prokho ngồi xuống bậc thềm thấp nhất, hỏi:

    - Nhà ta có nhận được tin gì của anh Grigori Pantelevich không?

    - Không, - Dunhiaska trả lời, - chẳng có thư từ gì cả.

    - Thế anh mong Grigori về lắm à? - Miska lau mặt lau tay, nhìn vào mắt Prokho hỏi nhưng không cười.

    Prokho thở dài, sửa lại bên tay rộng của chiếc áo sơ- mi.

    - Tất nhiên rồi. Hai chúng tôi đã cùng ở với nhau suốt thời gian đi lính.

    - Và còn định lại cùng đi với nhau nữa chứ?

    - Đi đâu cơ?

    - Đi lính chứ còn gì?

    - Tôi và anh ấy sống đời lính đã quá đủ rồi.

    - Thế mà tôi cứ tưởng anh đang nóng lòng chờ Grigori về để lại đi lính tiếp. - Miska nói thêm và vẫn không cười - Để lại chiến đấu chống Chính quyền Xô viết.

    - Chà, Miska, anh chỉ nói lung tung, - Prokho giận dữ nói.

    - Sao lại lung tung? Mọi tin đồn mà người ta đang rỉ tai nhau trong thôn tôi đều được nghe hết rồi.

    - Chẳng nhẽ lôi cũng có nói chuyện ấy hay sao? Anh nghe được ở đâu thế?

    - Không phải là anh, mà là những thằng cùng một giuộc như anh và Grigori nói, những thằng vẫn còn đang chờ "quân mình" ấy mà.

    - Tôi thì không chờ cái "quân mình" ấy đâu, đối với tôi tất cả đều như nhau cả thôi.

    - Cái ti tệ chính là ở chỗ anh cho rằng tất cả đều như nhau. Thôi chúng ta vào trong nhà đi, anh đừng có giận, tôi nói đùa đấy thôi.

    Prokho miễn cưỡng đứng dậy, rời khỏi bực thềm, rồi sau khi bước qua ngưỡng cửa phòng ngoài hắn nói:

    - Người anh em ạ, những câu nói đùa của anh không có gì vui tai lắm đâu. Các chuyện cũ thì nên quên nó đi. Về các chuyện cũ ấy tôi đã thanh toán xong xuôi tất cả rồi.

    - Không phải tất cả các chuyện cũ đều có thể quên được đâu, - Miska vừa ngồi vào bàn vừa nói bằng một giọng lạnh lùng. - Mời anh ngồi vào cùng ăn tối với chúng tôi.

    - Cám ơn. Tất nhiên không việc gì cũng có thể quên hết được. Như cánh tay mà tôi bị mất đây nầy. Nếu quên được nó đi thì cũng sướng đấy, nhưng nó nào có cho người ta quên nó, cứ bắt từng giây từng phút phải nhớ đến nó.

    Dunhiaska bày thức ăn lên bàn, hỏi nhưng không nhìn chồng:

    - Sao vậy, thế theo ý anh, người nào đã từng theo bọn Trắng thì suốt dời sẽ không được tha thứ về chuyện ấy hay sao?

    - Nhưng em thì em nghĩ thế nào?

    - Em nghĩ rằng, như người ta thường nói, kẻ nào nhớ thù cũ, kẻ ấy đui hai con mắt.

    - Phải, có thể là Kinh Thánh có viết như thế, - Miska nói lạnh như tiền. - Nhưng theo ý anh, con người bao giờ cũng phải chịu trách nhiệm về những việc mà mình đã làm.

    - Chính quyền không nói gì như thế cả. - Dunhiaska khẽ nói.

    Vì đang có mặt người ngoài nên Dunhiaska không muốn lời qua tiếng lại với chồng, nhưng trong thâm tâm cô rất giận Miska vì cô cho rằng Miska đã đùa không đúng chỗ với Prokho và đã nói toạc móng heo cho thấy thái độ thù ghét anh mình.

    - Với em thì chính quyền không nói gì cả, vì chính quyền chẳng có chuyện gì để nói với em, nhưng về các việc đi lính cho bọn Trắng thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật Xô viết.

    - Như vậy thì cả tôi cũng phải chịu trách nhiệm hay sao? - Prokho hỏi gặng thêm.

    - Cái phận của anh là phận con bò: ăn xong rồi lại về chuồng. Lính cần vụ thì trong chuyện nầy chãng ai hỏi tới đâu, nhưng Grigori về nhà thì sẽ phải hỏi. Chúng tôi sẽ hỏi Grigori về cuộc phiến loạn.

    - Thế nào, chính anh sẽ hỏi phải không? - Dunhiaska trợn mắt, đặt cái bát to đựng sữa xuống bàn.

    - Cả anh cũng sẽ hỏi. - Miska thản nhiên trả lời.

    - Những chuyện nầy không phải là việc của anh… Không có anh cũng sẽ tìm ra đủ người để hỏi rồi. Trong khi tham gia Hồng quân anh ấy đã lấy công chuộc tội…

    Giọng Đunhíasca run lên. Cô ngồi vào bàn, những ngón tay vuốt vuốt đường viền của chiếc tạp dề. Tựa như không nhận thấy vẻ xao xuyến của vợ. Miska vẫn nói tiếp với cái vẻ thản nhiên trước đó:

    - Anh cũng muốn hỏi cho rõ. Còn cái chuyến được coi là chuộc tội hay không thì còn phải chờ xem… Còn phải nhìn cho rõ là công trạng đã lập được như thế nào, Grigori đã làm đổ máu anh em bên nầy không phải là ít. Còn phải đo xem đã làm đổ máu bên nào nhiều hơn…

    Đây là chuyện xích mích đầu tiên kể từ ngày Miska bắt đầu chia sẻ cuộc sống với Dunhiaska. Không khí trong bếp chết lặng rất là khó chịu. Miska cứ lầm lì ăn sữa, chốc chốc lại đưa khăn tay lên chùi môi. Prokho vừa hút thuốc vừa nhìn Dunhiaska. Sau đó hắn chuyển sang nói về công việc làm ăn, và còn ngồi nán lại thêm nửa giờ. Trước lúc ra về hắn hỏi:

    - Kirin Gromov về rồi đấy. Đã biết tin chưa?

    - Chưa. Hắn ở đâu mò về thế?

    - Ở bên bọn Đỏ về. Nó cũng đã ở Tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất.

    - Hắn đã di lính cho Mamontov phải không?

    - Đúng thế đấy.

    - Nó đã làm một thằng đánh đấm rất ngang tàng. - Miska cười nhạt.

    - Làm gì có chuyện ấy! Nhưng về khoa ăn cướp thì nó là bậc nhất. Hai cái tay của nó làm việc ấy lẹn lắm.

    - Thiên hạ kể rằng nó chém tù binh không chùn tay thì phải. Nó đã giết người chỉ vì một đôi bốt- tin của lính. Giết người chỉ để có đôi giày mà đi.

    - Cũng có nghe nói như thế đấy, - Prokho xác nhận.

    - Đối với một thằng như thế cũng nên tha thứ chứ? - Giọng Miska ngọt như mía lùi. - Thượng đế bảo chúng ta phải tha thứ cho kẻ thù, có phải thế không?

    - Nhưng nói thế nào bây giờ… Anh định làm gì với nó mới được chứ?

    - Hừ, tôi sẽ tóm lấy cổ nó… - Miska nheo mắt. - Tôi sẽ tóm cổ nó cho sau đó linh hồn nó sẽ được về chầu Chúa! Mà nó cũng không thể thoát khỏi cái số phận ấy đâu. Ở Vosenskaia đã có Uỷ ban Treka sông Đông rồi, Uỷ ban ấy sẽ tỏ thái độ âu yếm với nó.

    Prokho mỉm cười nói:

    - Kể cũng đúng thế thật: một thằng gù thì xuống mồ cũng chẳng rướn thẳng lưng lên được. Ở Hồng quân về nó đã mang theo nhiều của cướp bóc. Vợ nó kheo với vợ tôi rằng nó mang về cho mụ ấy chiếc áo bành tô của đàn bà, cơ man nào áo dài và đủ các thứ khác. Nó đã ở lữ đoàn Maxlak và từ đó về nhà. Đích thị nó đã đào ngũ, về rồi mà còn mang theo cả súng ống.

    - Những vũ khí gì? - Miska tò mò hỏi.

    - Vũ khí gì thì cũng dễ hiểu thôi: một khẩu carbin cưa bớt nòng, phải, một khẩu Nagan và còn những thứ gì nữa ấy.

    - Nó đã lên Xô viết đăng ký chưa? Anh có biết không?

    Prokho khoát tay, phá lên cười.

    - ***g dây thòng lọng cũng chẳng lôi được nó lên đấy đâu? Như tôi thấy thì nó sắp chuồn rồi đấy. Chỉ ngày một ngày hai là chuồn khỏi nhà thôi. Nhìn chung mọi mặt thì cái thằng Kirin ấy mới chỉ là đứa còn nghĩ đến chuyện đánh đấm, thế mà anh lại lo về tôi. Không đâu, người anh em ạ, tôi đã đánh đấm hết cái phần của tôi rồi, cái trò ấy tôi đã chán ngấy rồi.

    Không mấy chốc Prokho đã ra về. Rồi chỉ một lát sau, Miska cũng ra sân. Dunhiaska cho hai đứa bé ăn xong, vừa sắp sửa lên giường nằm thì Miska bước vào. Hai tay anh cầm không biết cái gì bọc trong một bao tải.

    - Ma dẫn lối, quỉ đưa đường anh đi đâu thế? - Dunhiaska hỏi bằng một giọng chẳng có gì là âu yếm.

    - Đi mang của hồi môn của anh về đây. - Miska mỉm cười không chút ác ý.

    Anh lấy ra khẩu súng trường gói rất cẩn thận, cái bao đạn căng phồng, khẩu súng ngắn và hai quả lựu đạn. Anh bày tất cả các thứ ấy lên chiếc ghế dài rồi đổ rất cẩn thận dầu tây vào một cái đĩa.

    - Anh đem những thứ nầy ở đâu về thế? - Dunhiaska động đậy lông mày chỉ số vũ khí.

    - Của anh đấy, mang từ mặt trận về.

    - Thế vừa qua anh đã chôn ở đâu?

    - Chôn đâu thì chôn, nhưng vẫn giữ được không suy suyển gì cả.

    - Té ra anh giữ bí mật như thế đấy. Chẳng hé răng nửa lời. Đối với vợ mà anh cũng giấu à?

    Miska làm bộ mặt vô tâm, mỉm cười và nói giọng rõ ràng muốn làm lành:

    - Nhưng em cần biết cái chuyện ấy làm gì, em Dunhiaska yêu quí? Cái nầy đâu phải là việc của đàn bà? Thứ của cải nầy cứ để cho nó nằm đây, cô nàng ạ, có nó trong nhà không thừa đâu.

    - Nhưng tại sao anh lại lôi nó vào trong nhà? Anh cũng đã trở thành một người biết luật pháp, cái gì anh cũng biết cơ mà… Thế làm việc nầy thì anh sẽ không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật hay sao?

    Nét mặt Miska nghiêm hẳn lại, anh nói:

    - Em đúng là một con ngốc. Khi thằng Kirin đem vũ khí về nhà thì đó là một việc có hại cho chính quyền Xô viết. Nhưng khi anh đem vũ khí về thì ngoài cái lợi cho chính quyền Xô viết sẽ chẳng có cái gì khác. Em đã hiểu chưa? Nếu vậy anh sẽ có thể phải chịu trách nhiệm với ai hử? Em nói lung tung có trời biết những gì, thôi nằm xuống, ngủ đi!

    Anh đã rút ra một kết luận mà anh cho là duy nhất đúng đắn: nếu những thằng Trắng còn sống sót trở về có mang theo vũ khí thì anh phải tỉnh táo đề phòng. Anh lau chùi cẩn thận khẩu súng trường và khẩu Nagan rồi sáng hôm sau, trời vừa hửng anh đã đi bộ lên Vosenskaia.

    Dunhiaska vừa xếp những thức ăn đường vào cái túi dết cho chồng vừa kêu lên bằng một giọng vừa tức lối vừa chua xót:

    - Tất cả mọi việc anh đều giả ngô giả ngọng với em, chẳng nói năng gì cả? Ít nhất anh cũng bảo cho biết là đi có lâu không và đi việc gì chứ? Sống như thế nầy thì còn ra quỉ quái gì nữa? Sắp sửa đi rồi mà cạy răng chẳng nửa lời? Anh là chồng em hay là một kẻ ăn đậu ở ghẹ hử?

    - Anh đi Vosenskaia, lên gặp một Uỷ ban, còn phải nói cho em biết thêm những gì nữa nào? Lúc nào anh về em sẽ biết rõ tất cả.

    Miska đưa tay đỡ cái túi dết, ra sông Đông, leo lên cái thuyền rồi chèo nhanh sang bờ bên kia.

    Ở Vosenskaia, sau khi khám sức khoẻ ở Uỷ ban y vụ, người bác sĩ nói vắn tắt cho Miska biết:

    - Đồng chí thân mến ạ, đồng chí không có đủ điều kiện để phục vụ trong hàng ngũ Hồng quân đâu. Bệnh sốt rét đã phá hoại sức khoẻ của đồng chí quá nhiều. Phải chữa cho khỏi mới được nếu không sẽ phiền đấy. Những người như đồng chí Hồng quân không cần đến đâu!

    - Thế thì cần đến những người như thế nào? Tôi đã phục vụ trong quân đội hai năm, bây giờ trở thành một người vô dụng rồi hay sao?

    - Cần trước hết là những người khoẻ mạnh. Đồng chí cứ lấy lại sức khoẻ rồi quân đội sẽ cần đến. Đồng chí nhận lấy đơn thuốc rồi ra hiệu thuốc mà lĩnh ký ninh.

    - À à à ra vậy, tôi hiểu tất cả rồi. - Miska mặc áo quân phục mà cứ như ***g cái cổ ngựa vào một con ngựa bất kham, mãi chẳng làm thế nào chui đầu ra khỏi cổ áo và ra đến ngoài phố anh mới cài xong khuy quần rồi đi thẳng tới Đảng bộ khu.

    Miska trở về thôn Tatarsky với cái chức chủ tịch Uỷ ban quân sự cách mạng thôn. Anh vội vã hỏi han vợ vài câu rồi nói:

    - Nào, bây giờ chúng ta sẽ xem?

    - Anh đang nói về chuyện gì thế? - Dunhiaska ngạc nhiên hỏi.

    - Vẫn cái chuyện ấy đấy.

    - Chuyện gì cơ chứ?

    - Người ta chỉ định anh làm chủ tịch. Em đã hiểu chưa?

    Dunhiaska đau khổ vỗ tay đánh đét. Cô còn muốn nói thêm không biết những gì, song Miska không nghe vợ nói nữa. Anh ra trước gương, sửa lại dây da trên chiếc áo quân phục đã bạc màu rồi đi tới trụ sở Xô viết thôn.

    Ngay từ mùa đông, lão già Mikheev đã là chủ tịch Uỷ ban cách mạng. Mắt thì thong manh, tai lại điếc, vì thế lão rất khổ vì các nhiệm vụ trao cho phải làm, và khi được Miska cho biết rằng anh đến để kế chân lão thì lão mừng rơn:

    - Con chim ưng yêu quí của tôi ơi, đáy là công văn giấy tờ, đây là con triện của thôn, anh hãy vì Chúa cứu thế mà nhận lấy đi. - Lão nói với một vẻ sung sướng không có chút gì vờ vĩnh, làm dấu phép rồi xoa tay. - Lão đã gần tám chục tuổi trời, từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa từng làm việc quan bao giờ, thế mà nay đầu bạc răng long lại phải ra làm… Đây chính là công việc của những con người trẻ trai các anh chứ đâu có phải là phần của lão! Nhìn chẳng thấy mà nghe cũng chẳng rõ ràng gì cả… Đã đến lúc chỉ còn có thể ở nhà cầu Chúa mà người ta lại gọi ra làm chủ tịch…

    Miska đọc lướt qua các chỉ thị và mệnh lệnh mà Uỷ ban cách mạng trấn gửi xuống rồi hỏi:

    - Thư ký đâu?

    - Gì hả?

    - Chà mẹ khỉ, tôi hỏi thư ký đâu?

    - Thư ký ấy à? Nó đi gieo đại mạch rồi. Thằng trời đánh ấy, mỗi tuần nó chỉ tạt vào đây một lần thôi. Có khi trên trấn gửi xuống những giấy tờ cần phải đọc, nhưng lùa chó đi lùng cũng chẳng thấy nó đâu. Vì thế có những công văn quan trọng nằm lì đấy, vài ngày liền chẳng có ai đọc. Mà lão thì ít chữ nghĩa quá, chao ôi, ít quá lắm! Hì hà hì hục mới ký được một chữ, mà đọc thì hoàn toàn không thể nào đọc được, quá lắm hà hơi đóng được cái dấu…

    Miska giương cao hàng lông mày nhìn qua căn phòng đã bị lấy hết đồ đạc của ủỵ ban cách mạng, trong đó những vật trang trí duy nhất là vài tờ tranh áp phích cũ kỹ, đầy những vết chân ruồi.

    Quá sung sướng vì được về vườn một cách bất ngờ như thế, lão già thậm chí định liều pha trò một câu; lão vừa trao cho Miska con dấu bọc trong một miếng giẻ vừa nói:

    - Toàn bộ tài sản của thôn có thế nầy thôi, tiền thì chẳng có món nào cả, còn cái gậy ataman thì dưới chính quyền Xô viết không nên có nữa rồi. Nhưng anh muốn, tôi cũng có thể cho anh cái nạng cổ lỗ nầy. - Lão nói xong cười nhe cả hai hàng lợi mất hết răng và chìa cho Miska cái gậy bằng gỗ bạch lạp với chỗ tay cầm nhẵn thín.

    Nhưng Miska không còn lòng dạ nào mà đùa. Anh dưa mắt nhìn lần nữa căn phòng xấu xí thảm hại của Uỷ ban cách mạng của mình, rồi cau mày thở dài nói:

    - Bố già ạ, chúng ta hãy coi là tôi đã tiếp nhận xong công tác của bố. Bây giờ cút mẹ bố khỏi nơi nầy đi. - Nói xong anh đưa mắt ra cửa một cách đầy ý nghĩa.

    Sau đó anh tới chỗ cái bàn ngồi một mình rất lâu, hai khuỷu tay dang rộng, hai hàm răng nghiến chặt, quai hàm dưới đưa ra phía trước. Lạy Chúa tôi, mình thật là một ********* đẻ, suốt thời gian qua cứ chúi mũi xuống đất, không ngẩng đầu lên mà cũng chẳng thật sự lắng nghe xem chung quanh đang có những chuyện gì xảy ra… Vẫn còn hết sức tức tối với chính mình cũng như với mọi điều xung quanh, Miska đứng dậy, rời khỏi cái bàn, sửa lại áo quân phục, rồi vừa nói vừa nhìn căn phòng trống huếch trống hoác, hai hàm răng vẫn nghiến chặt:

    - Nầy các ông bạn thân mến, tôi sẽ cho các ông bạn được thấy Chính quyền Xô viết là như thế nào?

    Anh ***g cái xích vào móc cửa, đóng chặt cửa và đi qua bãi thôn về nhà. Về đến gần nhà thờ thì gặp một thằng chưa thành niên, con nhà Obnhizov. Anh hất đầu chào nó một cách lấy lệ rồi lại đi thẳng, nhưng bỗng nhiên anh chợt nghĩ ra, bèn quay lại gọi nó:

    - Nầy, Andriuska? Hượm một lát đã, cậu lại đây cái?

    Thằng bé nhút nhát có cặp lông mày trắng phếch lặng lẽ bước lại gần anh. Miska chìa tay bắt tay nó như một người lớn rồi hỏi:

    - Cậu đi đâu đấy? Sang bên kia sông à? Ư ừ, như thế tức là đichơi à? Đi có việc à? Bây giờ mình muốn hỏi cậu chuyện nầy nhé: hình như cậu đã tốt nghiệp trường cao đẳng tiểu học rồi thì phải? Tốt nghiệp rồi à? Thế thì tốt lắm. Thế cậu có biết làm các công việc bàn giấy không?

    - Công việc bàn giấy gì cơ?

    - Chà, cũng thường thôi. Ở đây có mọi thứ công văn đến, công văn đi, cậu có hiểu không?

    - Nhưng đồng chí nói về chuyện gì thế, đồng chí Kosevoi?

    - Chà, về những thứ giấy má thường thấy ấy mà. Cậu có biết những chuyện ấy không? Phải, thường có những công văn phải gửi đi mà cũng có những công việc linh tinh khác nữa. - Miska ngoáy ngoáy ngón tay không dứt khoát rồi không chờ trả lời, anh nói cương quyết - Nếu cậu chưa biết thì sau nầy học sẽ biết. Bây giờ tôi làm chủ tịch Uỷ ban cách mạng thôn, còn cậu là một thanh niên có chữ nghĩa thì tôi chỉ định làm thư ký. Cậu sẽ đến trụ sở của Uỷ ban cách mạng, coi giữ các công văn giấy tờ, còn để cả trên bàn, tôi sẽ về ngay. Cậu hiểu chưa?

    - Đồng chí Kosevoi!

    Miska khoát tay, nói một cách nóng nảy:

    - Tôi sẽ nói chuyện với cậu sau, cậu hãy tới làm việc đi. - Nói xong anh từ từ đi những bước đều đều dọc theo đường phố.

    Về đến nhà, anh mặc một chiếc quần đi ngựa mới, bỏ khẩu Nagan vào túi rồi ra trước gương sửa lại chiếc mũ cát- két và nói với vợ:

    - Anh tạt qua đằng nầy có chút việc. Nếu có ai hỏi chủ tịch đi đâu thì em cứ bảo là sẽ về ngay.

    Chức vụ chủ tịch cũng có những sự bắt buộc, gò bó của nó. Miska đi từ tốn và oai vệ. Dáng đi của anh khác ngày thường nhiều quá, làm cho có bà con trong thôn gặp anh phải đứng lại mỉm cười nhìn theo. Vừa trông thấy Miska, Prokho Zykov đã cung kính lùi ra sát hàng rào một cách hài hước và nói:

    - Anh đang có việc gì đấy, Miska? Ngày thường mà cũng diện tất cả các đồ đẹp vào và đi cứ như duyệt binh ấy… Hay lại di dạm vợ lần nữa?

    - Đại khái như thế đấy. - Miska mím môi một cách đầy ý nghĩa rồi trả lời.

    Khi đến gần cổng nhà Gromov, anh không dừng bước mà vừa thọc tay vào túi lấy thuốc, vừa ngắm nghía rất cẩn thận cái sân trước rộng thênh thang, các căn nhà nhỏ đựng rải rác trong sân và những khung cửa sổ của nhà trên.

    Mẹ của Kirin Gromov vừa bước trong phòng ngoài ra. Mụ ưỡn người khiêng khệ nệ một cái chậu đựng bí ngô băm nhỏ cho lợn ăn.

    Miska chào mụ một cách lễ phép rồi đứng lại bên thềm.

    - Kirin có nhà không thím?

    - Có nhà, có nhà đấy, anh vào chơi. - Bà già vừa lánh sang bên vừa nói.

    Miska bước vào căn phòng ngoài tối om, anh sờ tay tìm quả đấm cửa trong bóng tối nhá nhem.

    Chính Kirin ra mở cửa phòng trong cho anh rồi lùi lại một bước. Hắn tươi cười, mặt mày nhẵn nhụi và có phần đã chuếnh choáng. Hắn nhìn loáng qua Miska, ánh mắt có ý thăm dò rồi nói rất thoải mái:

    - Lại thêm một thầy quyền đây rồi? Anh vào đi, Miska, mời anh ngồi xuống đây, anh sẽ là khách của tôi! Ở đây chúng tôi đang nhậu nhẹt, cũng mới chút xíu thôi…

    - Đón tiếp niềm nở mà lại có cả rượu ngon. - Miska vừa bắt tay chủ nhà vừa đưa mắt nhìn một lượt những người khách ngồi quanh bàn.

    Rõ ràng là anh đã đến không đúng lúc. Một gã Cô- dắc vai rộng mà Miska không quen ngồi chàng hãng ở góc dành cho khách quý. Gã đưa nhanh mắt nhìn Kirin ra ý hỏi rồi đẩy cái cốc ra. Gã Arvatkin Semion có họ xa với Miska ngồi ở đầu bàn đàng kia. Vừa trông thấy Miska, gã cau mày đưa mắt ra chỗ khác.

    Chủ nhà mời Miska ngồi vào bàn.

    - Anh mời tôi cũng cám ơn, nhưng…

    - Không, ngồi xuống đã nào, anh đừng làm tôi giận, anh hãy uống với chúng tôi.

    Miska ngồi vào bàn. Anh tiếp lấy cốc rượu trong tay chủ nhà, gật đầu:

    - Mừng anh đã về nhà, anh Kirin Ivanovich?

    - Xin cám ơn. Còn anh thì anh ở quân đội về đã lâu chưa?

    - Cũng lâu rồi. Đã kịp sắp xếp xong nơi ăn chốn ở.

    - Nghe nói vừa sắp xếp xong xuôi nơi ăn chốn ở lại vừa cưới được vợ có phải không? Nhưng sao anh lại nề hà thế? Cạn chén đi nào?

    - Tôi không muốn uống. Tôi đến tìm anh vì có việc.

    - Thế thì không được đâu! Anh đừng có đùa? Hôm nay tôi không nói chuyện công việc. Hôm nay tôi chỉ nhậu nhẹt vui chơi với bạn bè thôi. Nếu anh đến vì công việc thì ngày mai hẵng đến.

    Miska đứng dậy bước ra khỏi bàn ăn, thản nhiên mỉm cười nói:

    - Việc cũng chẳng có gì đâu, nhưng không thể chờ đợi được. Thôi chúng ta hãy ra ngoài một phút.

    Kirin vuốt hàng ria đen xoắn lại rất cẩn thận, nín lặng một lát rồi đứng dậy.

    - Hay anh nói ngay đây có được không? Việc gì chúng ta lại gây trở ngại cho cuộc vui?

    - Không, chúng ta ra ngoài đi. - Miska nói giọng rất tử lế nhưng vẫn cố nài cho kỳ được.

    - Thì cậu cứ ra với hắn đi nào, có gì mà phải mặc cả mặc lẽ như thế? - Gã Cô- dắc vai rộng mà Miska không quen nói.

    Kirin miễn cưỡng bước vào bếp. Hắn khẽ rỉ tai mụ vợ đang loay hoay bên cạnh bếp lò:

    - Ra ngoài kia một lát đã, Katerina? - Rồi hắn vừa ngồi xuống chiếc ghế dài, vừa hỏi khô khan - Có việc gì thế nào?

    - Anh về nhà mấy ngày rồi?

    - Cái gì chứ?

    - Tôi hỏi anh đã ở nhà mấy ngày rồi?

    - Có lẽ đến hôm nay là ngày thứ lư.

    - Thế đã đến Uỷ ban cách mạng chưa?

    - Còn chưa đến.

    - Thế anh có định lên hội đồng quân sự Vosenskaia không?

    - Tại sao anh cứ truy hết chuyện nọ đến chuyện kia như thế? Anh đến có việc gì thì cứ nói ngay vào việc đi.

    - Tôi đang nói về công việc đấy.

    - Nếu thế thì cút mẹ anh đi! Anh là cái thớ gì mà tôi phải báo cáo với anh?

    - Tôi là chủ tịch Uỷ ban cách mạng. Anh hãy đưa xem giấy tờ chứng nhận của đơn vị.

    - À ra vâ- â- ậy! - Kirin kéo dài giọng nói rồi nhìn thẳng vào tròng con mắt của Miska bằng cặp mắt sắc ngọt đã hết say. Vô- ô- ốn dĩ là anh muốn như thế đấy!

    - Đúng thế đấy. Cho xem giấy chứng nhận.

    - Ngay hôm nay tôi sẽ tới Xô viết và sẽ mang lên.

    - Cho xem ngay bây giờ?

    - Không biết tôi đã cất nó vào chỗ nào rồi.

    - Tìm đi.

    - Không, tôi không tìm ngay bây giờ đâu. Thôi, anh về nhà đi, Miska, về đi để tránh chuyện ầm ĩ.

    - Giữa tôi với anh thì chuyện ầm ĩ cũng chóng vánh thôi… - Miska thọc tay vào túi bên phải. - Mặc áo vào.

    - Thôi đi, Miska! Tốt nhất là anh chớ có động vào tôi.

    - Đi đi đã bảo kìa?

    - Đi đâu?

    Lên Uỷ ban cách mạng.

    - Tôi thấy không muốn đi thế nào ấy… - Kirin tái mặt nhưng vẫn mỉm cười, nói giọng nhạo báng.

    Miska nghiêng người sang trái, rút khẩu Nagan trong túi ra, lên cò:

    - Anh có đi hay không hử? - Miska khẽ hỏi.

    Kirin lặng lẽ bước vào nhà trong, nhưng Miska ngáng đường hắn, đưa mắt chỉ cái cửa thông ra phòng ngoài.

    - Anh em ạ! - Kirin vờ làm vẻ thản nhiên nói to - Bây giờ thì đại loại như mình bị bắt rồi? Không có mình các cậu cứ uống hết vodka.

    Cánh cửa phòng trong mở toang ra. Arvatkin đã bước qua ngưỡng cửa, nhưng hắn trông thấy khẩu Nagan chĩa vào mình, vội nhảy lui ra sau khung cửa.

    - Đi! - Miska ra lệnh cho Kirin.

    Kirin ngật ngưỡng bước ra cửa, thẫn thờ nắm lấy quả đấm cửa, nhưng bất thình lình hắn nhảy vọt qua phòng ngoài, đóng cánh cửa bên ngoài đánh rầm, và lao từ trên thềm xuống. Trong lúc hắn khôm người chạy qua sân ra vườn. Miska nã theo hắn hai phát súng nhưng đều không trúng. Anh vòng tay trái, tỳ nòng súng lên khuỷu tay, hai chân dạng rộng và nhắm cẩn thận. Sau phát thứ ba, hình như Kirin vấp chân một cái, nhưng hắn lại đứng thẳng dậy và nhẹ nhàng nhảy qua hàng rào. Miska chạy từ trên thềm xuống. Từ trong nhà có tiếng súng trường bắn đuổi theo anh, khô khan, ngắt quãng. Ngay trước mặt Miska, một phát đạn bắn tung đám đất sét trên bức tường quét vôi trắng của nhà kho và kêu đánh đẹt một cái, rắc những mảnh đá vụn xam xám xuống mặt đất.

    Kirin chạy rất nhanh, rất nhẹ nhàng. Cái thân hình khom khom của hắn lướt loang loáng giữa những gốc táo xanh rờn nom như những túp lều. Miska nhảy vọt qua hàng rào rồi nằm lăn xuống. Anh nổ theo tên đang chạy hai phát nữa rồi quay mặt lại nhìn vào trong nhà. Cái cửa bên ngoài đã mở toang. Người mẹ của gã Kirin đứng trên thềm khum tay che mắt nhìn theo ra vườn. "Đáng là phải bắn nó ngay tại chỗ, không cần nói năng gì cả!" - ý nghĩ ấy cứ ám ảnh mãi trong đầu óc Miska. Anh còn nằm thêm vài phút dưới chân hàng rào, chốc chốc lại đưa mắt nhìn vào trong nhà, bàn tay cứ đưa đều đều như một cái máy để cọ những chỗ bùn bám bết trên đầu gối. Rồi anh đứng dậy, nặng nề leo qua hàng rào và chúc mũi khẩu Nagan xuống, đi về nhà.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 (1824 - 1934). Một tên vô Chính phủ đứng đầu những bầy thổ phỉ kulak ở Ukraina (ND).
  5. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 219

    Cùng với Kirin Gromov, cả Arvatkin lẫn gã Cô- dắc lạ mặt mà Miska trông thấy hôm đến nhà Gromov cũng mất tăm theo. Đêm hôm ấy, trong thôn lại biến đi thêm hãi gã Cô- dắc nữa. Một nhóm nhỏ thuộc Uỷ ban Treka sông Đông đã từ Vosenskaia đi ngựa tới thôn Tatarsky. Họ bắt bốn tên Cô- dắc bỏ đơn vị về không có giấy tờ và giải đi Vosenskaia, đưa vào đại đội trừng giới.

    Miska ngồi suốt ngày ở Uỷ ban cách mạng, mãi đến hoàng hôn mới về nhà. Anh đặt khẩu súng trường lắp sẵn đạn bên cạnh giường, nhét khẩu súng Nagan xuống gối, nằm xuống ngủ mà quần áo cũng chẳng cởi. Đến ngày thứ ba sau chuyện xảy ra với Kirin, anh bảo Dunhiaska:

    - Chúng ta ra phòng ngoài mà ngủ.

    - Để làm gì cơ chứ? - Dunhiaska ngạc nhiên hỏi.

    - Chúng nó có thể bắn qua cửa sổ đấy. Giường lại kê ngay bên cạnh cửa sổ.

    Dunhiaska lặng thinh chuyển cái giường ra phòng ngoài, nhưng đến tối cô hỏi:

    - Sao thế, chẳng nhẽ chúng ta cứ sống như những con thỏ thế nầy à? Rồi mùa đông vẫn còn chui rúc ở phòng ngoài hay sao?

    - Còn chán mới đến mùa đông, nhưng tạm thời đành phải sống như thế nầy thôi.

    - Nhưng "tạm thời" là đến bao giờ cơ?

    - Cho đến khi anh bắn chết thằng Kirin.

    - Như vậy là nó sẽ giơ trán ra cho anh bắn à?

    - Sẽ có lúc nó giơ ra thôi. - Miska trả lời như đinh đóng cột.

    Song những điều anh dự tính không được thực hiện. Kirin Gromov đã cùng hai thằng bạn nó lẩn trốn ở nơi nào đó bên kia sông Đông. Vừa nghe tin quân của Marno đang tràn gần đến nơi, hắn đã sang bờ bên phải, mò đến thị trấn Krasnokurskaia vì có tin đồn những chi đội tiên phong của Marno đã tiến tới đó. Một đêm hắn lần về thôn, ngẫu nhiên gặp Prokho Zykov ngoài phố, bèn bảo Prokho nói lại với Miska rằng, Kirin cung kính gửi lời chào Miska và xin Miska hãy chờ có khách đến chơi. Sáng hôm sau Prokho kể cho Miska nghe về cuộc gặp mặt và câu chuyện nói với Kirin.

    - Không sao, nó cứ vác mặt về đây. Chuồn được một lần, nhưng lần sau đừng hòng mà thoát. Nó đã cho tôi một bài học là những thằng anh em với nó cần được đối xử như thế nào, và về chuyện ấy thì tôi cám ơn. - Miska nghe kể lại xong bèn nói.

    Marno quả thật đã xuất hiện trong địa phận khu Đông Thượng. Trong một trận chiến đấu ngắn ngủi ở gần thôn Kolkov, hắn đã đánh tan một tiểu đoàn bộ binh được điều từ Vosenskaia đến đánh chặn hắn, nhưng hắn đã không tiến tới trung tâm của khu mà lại đi về hướng nhà ga Minlerovo, vượt qua đoạn đường sắt ở phía Bắc Minlerovo rồi di chuyển theo hướng Starobensk. Các phần tử Cô- dắc Bạch vệ hung hăng nhất đã đến nhập bọn với Marno, song phần lớn vẫn còn nằm ở nhà chờ xem tình hình sẽ ra sao.

    Miska vẫn vừa sống vừa canh cánh đề phòng như trước, anh luôn luôn phải theo dõi tất cả các việc xảy ra trong thôn. Trong khi đó đời sống ở thôn Tatarsky chẳng tốt đẹp chút nào. Dân Cô- dắc ra sức chửi rủa Chính quyền Xô viết về tất cả những sự thiếu thốn mà họ phải chịu đựng. Hầu như chẳng có gì bán trong các cửa hàng nhỏ xíu của hợp tác xã cung tiêu thống nhất vừa thành lập. Xà phòng, đường, muối, dầu tây, diêm, thuốc lá hạng tồi, dầu bôi bánh xe, tất cả các mặt hàng tối cần thiết đều không có bán. Trên các giá hàng trống hoác chỉ thấy linh tinh vài bao thuốc lá Axmolov đắt tiền và vài thứ đồ sắt bày hàng tháng mà chẳng có ma nào mua.

    Để thay dầu tây, đêm đêm người ta phải đổ mỡ bò hoặc mỡ lợn rán chảy vào đĩa mà đốt làm đèn. Thuốc lá nhà trồng lấy đã thay thế loại thuốc lá hạng tồi thường bán. Vì thiếu diêm cho nên đá lửa và những cái bật lửa mà thợ rèn làm quấy quá đã trở nên rất thịnh hành.

    Để mồi thêm nhạy, người ta phải canh tro hướng dương trong nước sôi nhưng vì làm chưa quen cho nên vẫn rất khó đánh lửa. Nhiều lần buổi tối Miska ở Uỷ ban cách mạng về đã thấy những gã hút thuốc đứng quây lấy nhau trong ngõ để cùng đập đá đánh lửa. Họ khẽ chửi những câu rất tục tĩu và nói ác: "Chính quyền Xô viết cho xin ít lửa đây!". Cuối cùng rồi cũng có một tia lửa toé ra trong tay một anh chàng nào đó làm nắm mồi khô cháy lên, thế là tất cả châu vào thổi to đóm lửa âm ỉ. Họ châm thuốc hút rồi lặng lẽ ngồi xổm, trao đổi tin tức. Đến giấy cuốn thuốc lá cũng không có. Người ta lấy đi tất cả các cuốn sổ khai sinh trong gian gác của nhà thờ, nhưng khi đã đem hút thuốc hết rồi thì nhà nào có bao nhiêu giấy má sách vở cũng lấy cuốn thuốc lá hết. Ngay đến những quyển sách giáo khoa cũ của trẻ con, cũng như những cuốn Kinh Thánh của các cụ già cũng bị lấy ra dùng.

    Prokho Zykov lui tới ngôi nhà cổ của Melekhov khá nhiều lần để xin Miska giấy cuốn thuốc lá. Hắn nói một cách ảo não.

    - Nắp cái rương của vợ tôi trước kia được dán bằng những tờ báo cũ, tôi đã bóc hết để hút thuốc. Có quyển Tân ước, một cuốn sách thiêng liêng như thế, cũng đem hút hết. Cả Cựu ước cũng hút hết. Các ông thánh viết các thứ "nước" ấy ít quá đấy. Vợ tôi có một quyển gia phả ghi tất tần tật những người trong họ cả người sống lẫn người chết, thế mà cũng đem thui nốt. Chẳng nhẽ bây giờ tôi lại phải hút thuốc bằng lá bắp cải, hay chẳng hạn phơi lá ngưu bàng để dùng thay giấy hay sao? Không, Miska ạ, anh muốn thế nào thì muốn, thế nào cũng phải cho tôi một tờ báo mới được. Tôi mà không được hút thuốc thì không thể nào chịu nổi đâu. Hồi trên mặt trận đánh nhau với Đức đã có lần tôi đem phần bánh mì của mình đổi lấy một dúm thuốc lá hạng bét đấy.

    ° ° °

    Mùa thu năm ấy cuộc sống ở thôn Tatarsky thật chẳng vui chút nào… Các bánh xe bò không được bôi mỡ rít rất to trong khi chạy. Vì không có nhựa chưng, các đồ thắng ngựa và giày ủng đều khô nứt. Nhưng buồn nhất là không có muối. Dân trong thôn Tatarsky phải đem những con cừu béo lên Vosenskaia mới đổi được năm phun- tơ muối và khi về nhà họ vừa đi vừa chửi rủa Chính quyền Xô viết và tình trạng hoảng loạn. Cái chất muối chết tiệt ấy đã gây cho Miska rất nhiều chuyện đau đầu… Một lần có vài lão già kéo nhau lên trụ sở Xô viết. Họ chào chủ tịch một cách đàng hoàng rồi bỏ mũ và ngồi xuống những chiếc ghế dài.

    - Muối không có, thưa ngài chủ tịch. - Một lão nói.

    - Bây gỉờ không còn có ngài nghiếc gì nữa đâu. - Miska sửa lại.

    - Xin đồng chí thứ lỗi cho, đó cũng là do cái thói quen cũ… Không có các "ngài" thì còn sống được, chứ không có muối thì không thể nào sống được đâu.

    - Thế các cụ muốn gì, thưa các cụ?

    - Thưa đồng chí chủ tịch, đồng chí hãy chạy chọt để người ta đưa muối về đây. Chúng tôi không thể đánh bò đi đến sông Manyt để lấy về được đâu - Tôi đã báo cáo lên khu về việc nầy rồi. Trên ấy đã có biết. Có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ chở đến thôi.

    - Chờ được mạ thì má đã sưng 1 - Một lão già nhìn xuống đất nói.

    Miska nổi nóng, đứng phắt dậy sau cái bàn. Mặt đỏ bừng bừng vì tức giận, anh lộn tất cả các túi mặt trong ra mặt ngoài.

    - Tôi chẳng có hạt muối nào cả. Các cụ đã thấy chưa? Tôi không có muối mang theo mà cũng không mút được ngón tay ra muối cho các cụ đâu? Các cụ đã rõ chưa, thưa các cụ?

    - Cái muối ấy không hiểu nó biến đi đâu mất cả? - Lão Trumakov độc nhỡn long nhìn một lượt tất cả mọi người bằng con mắt duy nhất đầy vẻ ngạc nhiên, nín lặng một lát rồi hỏi. - Xưa kia, dưới chính quyền cũ ấy, có ai thèm nói đến nó bao giờ đâu, chỗ nào cũng chất thành gò thành đống, thế mà bây giờ một dúm cũng không kiếm được ra.

    - Trong việc nầy chính quyền của chúng tôi không phải chịu trách nhiệm gì đâu. - Miska nói bằng một giọng đã bình tĩnh. - Chỉ một chính quyền có tội trong việc nầy là cái chính quyền Kadet cũ của các cụ thôi! Chính nó đã gây ra tình trạng rối loạn tan hoang nầy, đến nỗi ngay muối cũng không thể có gì mà chở! Bao nhiêu đường sắt đều bị phá hoại hết, các toa xe cũng thế…

    Miska kể rất lâu cho bọn bô lão nghe chuyện quân Trắng phá hoại các tài sản quốc gia, làm nổ các nhà máy, đốt các kho tàng trong khi rút lui. Có những điều anh đã được chính mắt trông thấy trong thời kỳ chiến tranh, có những điều anh được nghe kể lại, còn thì đều là do anh cảm hứng bịa ra với mục đích duy nhất là giảm bớt tâm trạng bất mãn đối với Chính quyền Xô viết yêu dấu của mình. Để ngăn chặn những lời chê trách đối với chính quyền nầy, anh đã bịa đặt một cách vô hại, đã tìm đủ mọi cách để thuyết phục, trong khi đó anh nghĩ thầm: "Mình nói thêm cho cái bọn khốn nạn ấy ít nhiều thì cũng chẳng tai hại gì lắm. Dù sao chúng nó cũng đã là những thằng khốn nạn rồi, mình làm như thế thì chúng nó cũng không bị giảm mất giá trị chút nào mà chúng ta lại có lợi…"

    - Các cụ tưởng cái bọn tư sản ấy, chúng nó là những thằng yên phận chịu chết đấy phải không? Chúng nó đâu phải là những thằng ngu xuẩn! Chúng nó đã tập trung toàn bộ số đường và muối dự trữ trong toàn nước Nga, hàng ngàn vạn pút chở trước đi Krym, và từ đó lại bốc xếp lên những chiếc tàu biển đem đi các nước khác bán. - Miska nói, hai con mắt anh long lanh.

    - Chẳng nhẽ dầu ma- dút chúng nó cũng đem hết đi rồi hay sao? - Lão chột Trumakov hỏi ra ý không tin.

    - Thế bố tưởng chúng nó để lại cho bố đấy phải không bố già? Cũng như toàn thể nhân dân lao động, bố chẳng cần thiết gì đối với chúng nó đâu. Cả đến dầu ma- dút chúng nó cũng sẽ kiếm được người mua để mà bán? Nếu có thể được, thì bất kỳ cái gì chúng nó cũng đã mang theo hết để nhân dân ở đây chết đói.

    - Việc ấy thì tất nhiên là như thế rồi! - Một lão già đồng ý. - Cái bọn nhà giàu ấy, tất cả chúng nó đều là những thằng ăn bẩn. Từ xưa tới nay, ai chẳng biết rằng con người ta càng giàu thì lại càng tham. Ở Vosenskaia có một thằng lái buôn, hồi rút lui lần đầu, nó đem tất cả của cải chất lên những chiếc xe tải, cho đến cái kim sợi chỉ cũng không để lại. Hồng quân đã tiến tới gần lắm rồi mà nó vẫn chưa cho xe chạy ra khỏi cổng, cứ chạy khắp nhà trong cái áo choàng bằng lông, lấy kìm nhổ những cái đinh trên tường. Nó nói: "Tôi không muốn để lại cho chúng nó, cho cái quân đáng nguyền rủa ấy một cái đinh nào cả!" Vì thế cái chuyện chúng nó mang cả dầu ma- dút đi theo thì cũng dễ hiểu thôi.

    - Như vậy là chúng ta vẫn không có muối à? - Đến cuối cuộc trao đổi lão già Marsaev nói giọng ôn tồn.

    - Muối của chúng ta thì không bao lâu nữa anh em công nhân sẽ đào được mỏ mới. Nhưng lạm thời có thể đem xe tải đến vùng sông Manyt mà kiếm cũng được. - Miska khuyên một cách dè dặt.

    - Bà con không muốn đi đến đấy chút nào cả. Ở đằng ấy, bọn Kalmys hoành hành dữ lắm, chúng nó không cho lấy muối ở các hồ, bò cũng sẽ bị chúng cướp mất thôi. Một người quen của tôi ở đằng ấy về chỉ còn giữ được độc một cái roi. Một đêm từ phía Velikonhiagietskaia có ba thằng Kalmys đem vũ khí phóng ngựa tới chúng nó đánh những con bò đi rồi chỉ vào họng anh ta mà bảo: "Câm cái mồm, đồ chó, nếu không mày sẽ chết mất xác…" Như vậy thì cứ thử mò đến đấy mà xem. Cũng đành phải chờ thôi. - Lão Trumakov thở dài.

    Đối với bọn bô lão thì đại khái Miska cũng có thể nói cho qua chuyện, nhưng khi anh về đến nhà, một cuộc đối khẩu lớn đã nổ ra giữa Miska và Dunhiaska cũng lại vì cái chuyện muối ấy. Nói chung là trong quan hệ giữa hai người đã có một cái gì không êm thấm lắm…

    Tình hình nầy đã nảy sinh từ cái ngày đáng ghi nhớ, hôm Miska nói chuyện về Grigori trước mặt Prokho, song chuyện bất hoà nhỏ ấy đã không được quên đi. Một hôm trong khi đi ăn bữa tối Miska nói:

    - Bà chủ nhà ơi, xúp bắp cải của bà quên không cho muối đấy. Có phải vì nấu nhạt còn thêm được muối, nấu mặn rồi dội xuống lưng hay không?

    - Dưới cái chính quyền nầy thì không thể có chuyện cho muối quá tay đâu. Anh có biết nhà ta còn được bao nhiêu muối không?

    - Bao nhiêu?

    - Hai vốc.

    - Thế thì gay đấy. - Miska thở dài.

    - Những người biết tính toán thì từ mùa hạ họ đã tới vùng sông Manyt để kiếm muối, mà anh thì chẳng có được lúc nào để nghĩ tới chuyện ấy. - Dunhiaska nói có vẻ trách móc.

    - Nhưng anh đi bằng cái gì bây giờ? Mới lấy nhau năm đầu đã thắng em vào cái xe thì cũng không tiện, mà hai con bò mộng thì chỉ ăn hại…

    - Anh nên để lúc khác hãy nói đùa! Bao giờ phải ăn nhạt thì lúc ấy tha hồ mà đùa?

    - Nhưng có gì mà em trách mắng anh như thế? Nói cho đúng thì anh kiếm đâu ra muối để đem về cho em được? Cái bọn đàn bà các em toàn như thế cả… Nếu người ta ợ ra muối thì anh cũng ợ ra cho các em ngay. Nhưng nếu không còn cách nào để có muối nữa thì bảo anh làm thế nào bây giờ?

    - Các nhà khác người ta đã thắng bò đánh xe đi sông Manyt. Bây giờ họ có cả muối lẫn mọi thứ khác, còn nhà mình thì chỉ được ăn nhạt và ăn chua…

    - Chúng mình vẫn sống qua quít được thôi, Dunhiaska ạ. Không bao lâu nữa họ cũng phải chở muối đến. Nước ta thiếu gì cái thứ ấy?

    - Anh và họ thì cái gì cũng nhiều.

    - Họ là ai hử?

    - Là bọn Đỏ ấy.

    - Còn em là người như thế nào?

    - Anh thấy là người như thế nào thì là người như thế. Toàn là những điều nói nhăng nói cuội. "Rồi cái gì chúng ta cũng sẽ có nhiều, tất cả mọi người rồi sẽ sống bình đẳng và giàu có…" Đấy, cái giàu có của anh đây nầy, xúp bắp cải cũng chẳng lấy đâu ra muối mà cho vào?

    Miska hốt hoảng nhìn vợ, anh tái mặt đi:

    - Em làm sao thế, Dunhiaska? Em nói gì vậy? Chẳng nhẽ có thể nói năng như thế được hay sao?

    Nhưng Dunhiaska đã điên tiết lên rồi: phẫn nộ và tức tối làm mặt cô tái nhợt đi. Cô nói tiếp giọng như gào lên:

    - Sống cứ như thế nầy thì cũng được hay sao? Làm gì mà anh trợn trừng trợn trạo lên như thế hử? Ông chủ tịch, ông có biết rằng vì không có muối người ta đã sưng răng sưng lợi lên rồi hay không? Ông có biết người ta đang phải ăn gì thay muối không? Người ta đi đào đất mặn, người ta tới phía sau nấm kurgan Netraev lấy đất ở đấy rồi cho cái đất ấy vào xúp bắp cải… ông đã nghe nói đến chuyện ấy chưa?

    - Hượm đã, đừng làm rầm lên, nghe thấy rồi… Và còn những gì nữa?

    Dunhiaska vỗ tay đánh đét một cái.

    - "Còn những gì nữa" và sẽ còn đi tới đâu nữa?

    - Chẳng nhẽ không cần tìm cách cố gắng chịu đựng cho qua lúc nầy hay sao?

    - Hừ, anh đi mà chịu đựng?

    - Tôi thì tôi sẽ chịu đựng, còn như cô… Còn như cô thì toàn bộ cái tông giống Melekhov nhà cô đã được phơi bày ra hết rồi đấy…

    - Cái tông cái giống ấy làm sao?

    - *********, cái tông giống ấy nó như thế đấy? - Miska nói giọng khàn hằn đi rồi đứng lên, rời khỏi bàn ăn. Anh cứ dán mắt xuống đất không ngước lên nhìn vợ, và môi anh run run khi anh nói tiếp - Nếu em còn nói như vừa nãy lần nữa, anh sẽ không ở với em nữa đâu, em phải biết rõ như thế? Những lời em nói là giọng điệu của kẻ thù…

    Dunhiaska vẫn còn muốn cãi lại thêm gì nữa, nhưng Miska đã lườm cô một cái rồi giơ bàn tay nắm chặt:

    - Thôi im đi! - Anh trầm giọng xuống nói.

    Không chút sợ hãi, Dunhiaska nhìn chồng với một vẻ tò mò không giấu giếm, và chỉ lát sau cô đã nói bằng một giọng bình thản và vui vẻ:

    - Thôi được rồi, có quái gì đâu mà phải phí lời… Không cỏ muối chúng ta cũng vẫn sống được? - Dunhiaska nín lặng một lát rồi nói thêm với nụ cười nhè nhẹ mà Miska rất yêu - Thôi đừng bực mình nữa anh Miska ạ! Nếu đối với bọn đàn bà chúng em mà chuyện gì cũng bực mình thì không thể nào có đủ lòng dạ mà bực mình hết được đâu. Đầu óc hồ đồ thì nói ra thiếu gì những chuyện lung tung… Anh uống nước mứt hoa quả hay đề em mang sữa chua ra cho anh?

    Tuy còn trẻ nhưng Dunhiaska đã rất khôn ngoan nhờ có được nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Cô biết rõ rằng những khi điều qua tiếng lại thì lúc nào có thể làm già, còn lúc nào thì phải đấu dịu và chịu thua…

    ° ° °

    Chừng hai tuần sau khi xảy ra chuyện trên đây. Grigori có thư gửi về. Chàng cho biết rằng mình đã bị thương trên mặt trận chống Vrăngghen và sau khi lấy lại sức khoẻ, rất có thể chàng sẽ giải ngũ.

    Dunhiaska cho chồng biết những điều viết trong thư rồi hỏi một cách dè dặt:

    - Anh Miska ạ, anh ấy sẽ về bên nhà và chỗ ăn ở của chúng ta sẽ như thế nào?

    - Chúng mình sẽ dọn về bên nhà anh. Để Grigori ở đây một mình. Tài sản thì chia.

    - Cũng không cùng sống vớí nhau được thật. Xem ra thì thế nào anh ấy cũng đưa chị Acxinhia về.

    - Dù có thể ở chung, anh cũng không thể nào sống dưới cùng một mái nhà với ông anh của em được. - Miska nói dứt khoát, giọng gay gắt.

    Dunhiaska ngạc nhiên giương cao hai hàng lông mày.

    - Vì sao thế, anh Miska?

    - Chính em cũng biết rồi đấy.

    - Đó là vì anh ấy đi lính cho bọn Trắng phải không?

    - Đúng đấy, đúng như thế đấy.

    - Anh không thích anh ấy… Trước kia hai anh là bạn với nhau cơ mà?

    - Hắn là cái quái gì với anh mà anh thích hắn? Xưa kia cũng có là bạn đấy, nhưng tình bạn giữa hai bên đã không còn nữa rồi.

    Dunhiaska ngồi vào cái guồng quay sợi. Vòng xe kêu vo vo đều đều. Sợi chỉ trên bó sợi bị đứt. Dunhiaska đưa tay gỡ cái vành bánh xe, vừa se chỉ vừa hỏi nhưng không nhìn chồng.

    - Anh ấy về thì sẽ bị như thế nào về cái chuyện đã đi theo bọn Cô- dắc?

    - Sẽ bị đem ra xét xử. Ra toà.

    - Như anh ấy thì có thể bị kết án như thế nào?

    - Chà, cái chuyện ấy thì anh không biết được, anh không phải là quan toà.

    - Người ta có thể kết án xử bắn không?

    Miska đưa mắt nhìn lên giường, chỗ thằng Misatka và con Poliuska đang ngủ, lắng nghe tiếng thở đều đều của hai đứa trẻ rồi hạ thấp giọng trả lời:

    - Có thể đấy.

    Dunhiaska không hỏi thêm nữa. Sáng hôm sau, cô vắt sữa bò xong rồi sang nhà Acxinhia:

    - Anh Grigori sắp về rồi, em sang nói cho chị mừng.

    Acxinhia nín lặng đặt cái nồi gang đầy nước lên đống than đỏ vun ở miệng bếp lò, áp hai bàn tay lên ngực. Dunhiaska nhìn khuôn mặt đỏ ửng của Acxinhia và hỏi:

    - Song chị đừng vội mừng. Nhà em nói rằng anh ấy không tránh khỏi bị đưa ra toà đâu. Còn cái chuyện kết án như thế nào thì có trời biết.

    Hai con mắt đẫm nước mắt và sáng ngời của Acxinhia thoáng có vẻ sợ hãi trong một giây:

    - Vì sao thế? - Nàng hỏi giọng ngắt ra nhưng vẫn không làm thế nào xua hết nụ cười đọng lại quá lâu trên môi.

    - Vì cuộc bạo động. Vì tất cả mọi chuyện.

    - Nói láo đấy! Anh ấy sẽ không bị đưa ra toà đâu. Cái anh chàng Miska nhà cô nó chẳng biết gì cả mà cũng làm ra bộ hiểu biết.

    - May ra cũng không bị đưa ra toà đâu. - Dunhiaska lặng đi một lát rồi cố nén tiếng thở dài nói - Chồng em căm thù anh trai em… Chuyện ấy làm em đau lòng quá, mà lại không nói ra được? Em thương anh trai em một cách ghê gớm? Anh ấy lại mới bị thương… Cuộc đời anh ấy thật là trắc trở.

    - Chỉ cần anh ấy được về thôi: chị và anh ấy sẽ đem hai cháu đi lẩn tránh ở nơi nào đó. - Acxinhia nói sôi nổi.

    Rồi không hiểu sao nàng tháo chiếc khăn bịt đầu ra và lại chít vào, sau đó cứ xê dịch bát đĩa trên chiếc ghế dài từ chỗ nọ sang chỗ kia một cách hoàn toàn vô duyên cớ, mãi không làm thế nào nén được niềm xúc động mạnh mẽ tràn ngập trong lòng mình.

    Đunhiasca thấy hai tay Acxinhia run bần bật khi nàng ngồi xuống ghế dài, vuốt những nếp vải của chiếc tạp dề cũ nát phủ trên đầu gối.

    Có cái gì lên cổ họng Dunhiaska. Cô chỉ muốn được khóc một mình.

    - Mẹ đã không chờ được đến khi anh ấy về. - Cô khẽ nói. - Thôi em về đây. Còn phải nhóm lò.

    Ra đến phòng ngoài, Acxinhia vội vã hôn cổ Dunhiaska một cách ngượng nghịu rồi nắm lấy tay Dunhiaska đưa lên hôn.

    - Chị có mừng không? - Dunhiaska thở hổn hển hỏi rất khẽ.

    - Có có, chỉ chút xíu thôi… - Acxinhia trả lời và cố dùng câu pha trò và nụ cười run run trên môi để giấu những giọt nước mắt đang trào ra.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Nguyên văn: Chờ được mặt trời mọc thì sương đã ăn vào mắt rồi. (ND)
  6. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 220

    Vì là một sĩ quan Hồng quân nên khi đến nhà ga Minlerovo, Grigori đã được dành cho một chiếc xe tải của dân công. Trên đường về nhà, mỗi khi đến một làng của dân ngụ cư Ukraina, chàng lại thay ngựa một lần và chỉ sau một ngày một đêm đã tới địa giới khu Đông Thượng. Chủ tịch Uỷ ban cách mạng của thôn Cô- dắc đầu tiên là một chiến sĩ Hồng quân còn trẻ mới phục viên chưa bao lâu. Anh ta nói:

    - Thưa đồng chí chỉ huy, đồng chí sẽ phải đi xe bò thôi. Cả thôn chúng tôi chỉ còn độc một con ngựa, mà nó cũng chỉ chạy được ba cẳng. Có bao nhiêu ngựa đều đã để lại ở vùng Kuban trong khi rút lui rồi.

    - Nhưng đại khái có thề dùng nó đưa tôi về đến nơi được không? - Grigori hỏi rồi gõ gõ ngón tay xuống bàn, nhìn một cách thăm dò cặp mắt vui vẻ của người chủ tịch hoạt bát.

    - Đồng chí không về được tới nơi đâu. Dùng nó thì sẽ phải đi hàng tuần mà vẫn chưa tới? Nhưng đồng chí đừng lo, những con bò mộng ở chỗ chúng tôi rất tốt, chân rất khoẻ, vả lại đằng nào chúng tôi cũng phải cho một chiếc xe chở dây điện thoại đi Vosenskaia. Sau lần chiến tranh vừa qua, dây điện thoại chất ộn cả ở đây. Như vậy đồng chí sẽ không cần phải thay xe, nó sẽ đưa thẳng đồng chí về đến nhà. - Người chủ tịch nheo con mắt bên trái rồi nháy mắt một cách ranh mãnh và nói thêm - Chúng tôi sẽ đành cho đồng chí một đôi bò mộng tốt nhất và một cô ả goá trẻ măng sẽ đánh xe… - Ở đây chúng tôi có một con yêu quái hại người như thế đấy, nằm mơ cũng không thấy được một tay dễ nhìn hơn đâu? Cùng đi với ả thì về đến nhà lúc nào đồng chí cũng không biết đâu. Chính tôi cũng đã đi bộ đội vì thế tôi cũng biết tất cả các nhu cầu về mặt quân sự…

    Grigori nín lặng cân nhắc: chờ một chuyến xe ngựa về cùng đường là chuyện ngớ ngẩn, mà đi bộ thì đường còn xa. Thôi đành đồng ý ngồi xe bò vậy.

    Một giờ sau, xe đã được đánh tới. Những cái bánh của chiếc xe bò cũ kỹ kêu ken két. Vài mẩu gỗ lởm chởm nhô lên thay cho ván hậu, rơm chất cẩu thả rủ xuống lõng thõng từng đám. "Tàn binh bại tướng" - Grigori nghĩ thầm trong khi nhìn chiếc xe quá tàng một cách gớm ghiếc. Ả đánh xe vung vẩy cái roi đi bên cạnh cặp bò mộng. Quả thật ả cũng rất đẹp, người rất cân đối. Kể ra cặp vú to lù lù không cân xứng với người cũng có phần ảnh hưởng tới hình dáng toàn thân và một vết sẹo tréo trên cái cằm tròn trặn có làm cho khuôn mặt hồng hào ngăm ngăm đen còn rất trẻ mang một vẻ tầm thường khó coi và tựa như già đi. Chỗ linh mũi đầy những điểm tàn hương lấn tăn vàng óng như hạt kê.

    Ả sửa lại khăn bịt đầu, nheo nheo mắt chăm chú nhìn Grigori và hỏi:

    - Tôi sẽ đưa bác đi có phải không?

    Đang ngồi trên bục thềm, Grigori đứng dậy, khép tà áo ca- pốt.

    - Đúng tôi đây. Thế chị đã chất dây điện thoại lên xe chưa?

    - Nhưng tôi là con khốn kiếp phải chất hầu cho họ đấy phải không? - Người đàn bà Cô- dắc kêu lên, giọng lanh lảnh. - Chẳng ngày nào không phải đánh xe, không phải làm quần quật! Đối với họ tôi là như thế hay sao? Mặc cho họ tự tay chất đống dây nầy lên, nếu không gái nầy sẽ đi xe không.

    Ả vừa những cuộn dây điện thoại lên xe vừa cãi nhau với anh chàng chủ tịch rất to tiếng nhưng không có vẻ gì tức tối, và chốc chốc lại hiếng hiếng con mắt nhìn Grigori như thăm dò. Còn anh chàng chủ tịch thì từ đầu đến cuối chỉ cười khì khì và cứ nhìn ả goá trẻ đẹp bằng cặp mắt trầm trồ thán phục không giấu giếm. Có lúc anh ta còn nháy mắt với Grigori như muốn nói: "Đàn bà thôn chúng tôi như thế đấy? Thế mà lúc nãy đồng chí còn chưa tin?"

    Ra khỏi thôn, cánh đồng cỏ mùa thu nâu nâu bệch bệch trải ra xa lắc Từ những khoảng đất cày, một dải khói xanh xám bốc lên, chập chờn qua con đường. Vài người đi cày đang đốt những bụi hoàng thử lang khô quắt và nhữag đám cỏ trường si nở hết hoa, đầy xơ để lấy than dùng thay muối. Mùi khói gợi lên trong đầu óc Grigori những hồi ức ảo não: xưa kia mỗi khi thu sang cả chàng Grigori nầy, cũng thường đi cày trên những cánh đồng cỏ hẻo lánh, ban đêm nhìn lên bầu trời đen kịt lấp lánh ánh sao, lắng nghe tiếng những đàn ngỗng trời bay trên cao tít hối hả gọi nhau… Chàng khắc khoải trằn trọc trên đống rơm, liếc sang bên nhìn ả đánh xe.

    - Cô bao nhiêu tuổi thế, cô nàng?

    - Gần sáu mươi - Ả kia đỏng đảnh trả lời và chỉ cười bằng hai con mắt.

    - Không, tôi không hỏi đùa đâu.

    - Hai mươi mốt.

    - Mà đã ở goá à?

    - Ở goá.

    - Thế bây giờ chồng cô ở đâu?

    - Bị giết rồi.

    - Đã lâu chưa?

    - Hơn một năm rồi.

    - Trong khi bạo động, có phải không?

    - Sau cuộc bạo động, hồi sắp sang thu.

    - Chà, thế bây giờ cô sống như thế nào?

    - Vẫn sống qua quít.

    - Có buồn không?

    Ả nhìn Grigori chăm chú rồi kéo chiếc khăn che miệng giấu nụ cười. Giọng ả bỗng trầm hẳn xuống, và trong đó thoáng có một nét gì mới mới khi ả trả lời:

    - Làm việc nầy việc nọ thì chẳng còn lúc nào mà buồn.

    - Không có chồng thì có buồn không?

    - Tôi ở với mẹ chồng, công việc trong nhà nhiều lắm.

    - Nhưng không có chồng thì làm thế nào mà chịu được.

    Ả quay nhìn Grigori. Hai gò má ngăm ngăm ửng đỏ, vài tia màu hung hung bừng lên trong cặp mắt rồi lại tắt ngấm.

    - Bác hỏi như thế là hỏi chuyện gì?

    - Hỏi cái chuyện ấy đấy.

    Ả kéo cái khăn khỏi miệng, kéo dài giọng trả lời:

    - Chà, chuyện ấy thì không thiếu đâu! Trên đời nầy thiếu gì người tốt - Rồi ả nín lặng một lát và lại nói tiếp - Hồi chồng tôi còn sống, tôi cũng chưa kịp nếm đủ mùi vị cuộc đời của một chị chàng có chồng. Chúng tôi ăn ở vẻn vẹn với nhau được một tháng, thế là hắn bị bắt ra lính. Không có hắn tôi vẫn có cách sống qua quít. Bây giờ đã dễ chịu hơn một chút, bọn Cô- dắc trẻ trai đã kéo về thôn, nếu không cũng gay go đấy. Vắt, con hói nầy! Vắt! Tình hình là như thế đấy thầy quyền ạ? Cuộc đời của lôi là như thế đấy?

    Grigori không nói gì nữa. Có lẽ chàng không phải là một anh chàng đáng nên chuyện gẫu với cái giọng chớt nhả như thế nầy. Và chàng bỗng cảm thấy tiếc vì đã nói những lời như vừa nãy.

    Cặp bò béo tốt, rất to, vẫn đi với cái bước dẫn rượu đều đặn như cũ. Một con bị gãy mất cái sừng bên phải, cái khác mọc lên thay lại vẹo tréo xuống trán. Grigori chống khuỷu tay, dim mắt nằm soài trên xe. Chàng bắt đầu nhớ lại những con bò mộng mà mình đã từng dắt đi theo trong công việc từ thời thơ ấu và cả sau nầy, khi chàng đã trưởng thành. Tất cả những con bò ấy đều khác nhau về màu lông, dáng vóc, tính nết, và cả đến bộ sừng của mỗi con đều có những đường nét riêng biệt. Trước kia có một hồi trong sân nhà Melekhov cũng nuôi một con bò mộng mang cặp sừng méo mó, xiên xẹo như thế nầy. Con bò ấy vừa ác lại vừa láu cá. Bao giờ nó cũng long hai mắt chi chít những tia máu nhìn nghiêng nghiêng, cố tìm cách đá hậu khi có người từ phía sau đi tới. Những ngày bận việc đồng áng đến đêm hễ được thả ăn cỏ rong thế nào nó cũng thừa cơ chuồn về nhà, hoặc tệ hại hơn nữa, nó còn trốn vào rừng hoặc vào những cái khe thật xa. Grigori thường phải cưỡi ngựa hàng ngày ròng để lùng sục ngang dọc trên đồng cỏ và đến khi đã chắc mẩm không còn bao giờ tìm thấy con bò lạc được nữa, người ta lại bất thình lình với được nó ở một chỗ nào đó ngay dưới lòng một cái khe nhỏ, trong bụi mận gai rậm rạp không sao chui qua được hay dưới bóng cây táo dai cổ thụ cành đâm ngang dọc. Con quỉ dữ một sừng ấy làm rất thành thạo cái trò tháo chão. Ban đêm nó thường dùng sừng hất bật cái chốt cửa của sân gia súc, chuồn ra ngoài tự do, bơi qua sông Đông và lang thang trên dải cỏ ven sông. Hồi ấy nó đã gây cho Grigori bao nhiêu chuyện phiền não và bực bội…

    - Con bò gãy sừng kia, nó có lành không? - Grigori hỏi.

    - Lành. Nhưng làm sao chứ?

    - Tôi chỉ hỏi thế thôi.

    - Nếu chẳng còn gì mà nói thêm thì chỉ hai tiếng "thế thôi" cũng đủ tốt rồi. - Ả đánh xe cười nhạo nói.

    Grigori lại nín lặng. Chàng cảm thấy thú vị vì được nghĩ tới quá khứ tới cuộc sống hoà bình, tới công ăn việc làm, tới tất cả những gì không dính dáng chút nào tới chiến tranh, vì chàng đã chán ghét đến cùng cực cuộc chiến tranh kéo dài bảy năm nay. Và chỉ hơi nghĩ tới nó, tới một sự việc nhỏ nào có dính dáng tới thời gian đi lính của mình là chàng lại cảm thấy trong lòng bực bội nhức nhối và ngứa ngáy buồn nôn.

    Chàng đã thôi không đánh nhau nữa rồi. Đối với chàng, như thế là quá đủ. Bây giờ chàng về nhà để được vĩnh viễn bắt tay vào làm ăn, để được sống với hai con, với Acxinhia. Ngay từ hồi còn ở ngoài ấy, ở ngoài mặt trận, chàng đã dứt khoát định bụng sẽ đưa Acxinhia về nhà mình để nàng dạy dỗ hai đứa con của mình và luôn luôn sống bên cạnh mình. Việc nầy cũng cần phải giải quyết cho xong, và càng nhanh càng tốt.

    Grigori khoái trá mơ đến lúc mình về nhà được cời chiếc áo ca- pốt và ủng quân đội, đi đôi ủng ngắn rộng thoải mái vào chân, và theo phong tục Cô- dắc ***g hai ống quần rộng thùng thình vào đôi bít tất len trắng rồi khoác chiếc áo choàng bằng dạ thô nhà dệt lấy ra ngoài chiếc áo bông ngắn ấm áp, ra đồng làm việc. Thú vị biết bao khi được đặt hai tay lên cán cày, đi theo cái cày trên luống đất ẩm ướt, phồng mũi hít lấy hít để mùi chất đất vừa bị quật lên ẩm ẩm nhạt nhạt, mùi cỏ bị lưỡi cày cắt đứt hắc hắc thơm thơm. Ở đồng đất nước ngoài, đất cũng như cỏ đều mang những mùi khác. Hồi còn ở Ba Lan, ở Ukraina và Krym, đã nhiều lần chàng vò những túm ngải cứu xanh xám trong lòng bàn tay, đưa lên mũi ngửi và buồn rầu nghĩ thầm: "Không, không phải, loại khác ở nhà…"

    Trong khi đó ả đánh xe cũng buồn. Ả cũng thèm nói chuyện. Ả thôi không thúc hai con bò nữa mà ngồi cho thoải mái hơn, rồi nghịch nghịch cái roi da, vừa lén nhìn Grigori rất lâu. Ả ngắm khuôn mặt trầm tư và cặp mắt lim dim của chàng, bụng bảo dạ: "Tuy tóc bạc, nhưng hắn chưa già lắm đâu. Mà cái thằng cha cũng kỳ quặc thế nào ấy. Mắt lúc nào cũng lim dim, hắn lim dim mắt làm gì thế nhỉ? Nom hắn mệt mỏi rã rời, cứ như phải kéo cả một cái xe tải…Mà người ngợm cũng khá đấy chứ. Chỉ phải nhiều tóc bạc, ria cũng gần bạc trắng. Mặt mũi kể cũng được. Nhưng hắn nghĩ gì thế nhỉ? Đầu tiên hình như cũng có vẻ muốn bông lơn, nhưng lại rồi nín thinh, chỉ hỏi một câu gì về con bò. Hay là hắn không có chuyện gì để nói? Hay chưa biết chừng hắn là một thằng nhút nhát? Không phải đâu: Hai con mắt hắn cứng cỏi lắm. Không, hắn là một tay Cô- dắc rất bảnh, phải cái kỳ quặc thế nào ấy. Nhưng được, mày cứ việc ngậm tăm, con quỉ gù nầy? Mày tưởng tao cần mày lắm đấy phỏng? Cả tao cũng có thể ngậm tăm được! Mày về với vợ cũng chẳng được yên lành đâu! Thôi được, mày cứ giả câm như thế cho khoẻ người?"

    Rồi ả ngả lưng vào thành xe, khẽ cất tiếng hát.

    Grigori ngẩng đầu lên nhìn mặt trời. Vẫn còn khá sớm. Bụi phi liêm năm ngoái âm thầm đứng gác bên lề đường in xuống đất một cái bóng dài chừng nửa bước. Chắc hẳn còn chưa quá hai giờ trưa.

    Đồng cỏ nằm chết lặng như bị ma làm. Mặt trời toả hơi nóng một cách dè sẻn. Một làn gió hiu hiu thổi rung rinh lớp cỏ cháy đỏ nhưng không thành tiếng. Bốn bề không nghe thấy một tiếng chim hót hay một tiếng chuột trũi rít. Trên bầu trời xanh nhạt lạnh lẽo cũng không thấy bóng một con diều hâu hay đại bàng nào lượn vòng. Chỉ một lần có một cái bóng xám xám lướt qua mặt đường. Grigori chưa kịp ngẩng đầu lên đã nghe thấy tiếng một cặp cánh lớn vẫy nặng nề: một con gà nước to màu xám tro bay qua với đám lông bên trong cánh trắng loá dưới nắng rồi hạ cánh bên cạnh nấm kurgan đằng xa, nơi một vùng đất trũng không được mặt trời rọi tới đang chìm lẫn với khoảng mù xa màu tím sẫm. Xưa kia thường mãi cuối thu Grigori mới thấy có cái cảnh trầm lặng âm thầm và rầu rĩ như thế nầy trên đồng cỏ. Những khi đó chàng có cảm tưởng như mình nghe thấy một đám tuỳ phong phiêu bị gió cuốn theo đang ràn rạt lăn trên lớp cỏ khô bay qua đồng cỏ rất xa, rất xa về phía trước mặt. Con đường như dài vô tận. Nó trườn ngoằn ngoèo theo một sườn đồi, xuống cái khe rồi lại leo lên tới đường sống của ngọn gò khác. Và dù tầm mắt được chuyển tới đâu cũng vẫn chỉ thấy cánh đồng cỏ trầm lặng mấp mô gò đống.

    Grigori thích thú ngắm một bụi phong đen mọc trên sườn dốc của một cái khe nhỏ. Với lớp lá bị sương muối đầu mùa đốt cháy rực, cụm phong sáng lên màu đỏ tía ám khói, tựa như có lớp tro phủ trên những hòn than của đống củi sắp tàn.

    - Tên bác là gì hả bác? - Ả đánh xe vừa hỏi vừa chạm ngọn roi vào vai Grigori.

    Chàng rùng mình, quay mặt nhìn ả. Ả đưa mắt ra chỗ khác.

    - Grigori. Thế còn cô, cô tên là gì?

    - Tên tôi là "Mỗ" 1 Ngồi yên mãi chán ngấy rồi! Tôi đã ngậm tăm nửa ngày, mồm miệng khô không khốc rồi. Nhưng lại sao bác không vui như thế, bác Griska?

    - Tại sao tôi lại phải vui?

    - Bác đang trên đường về nhà thì phải vui mới đúng.

    - Những năm tháng để cho tôi vui được đã qua hết rồi.

    - Té ra vớ được một ông già. Nhưng tại sao bác còn trẻ mà đầu tóc đã bạc trắng cả thế?

    - Cô thật là cái gì cũng muốn biết… Có lẽ nhờ một cuộc sống sung sướng nên mới bạc đầu đấy.

    - Bác đã có vợ chưa, bác Griska?

    - Có rồi. Còn cô nữa, cô "Mỗ" ạ, cô cũng phải mau mau lấy chồng đi mới được.

    - Tại sao lại mau mau?

    - Cô có vẻ vui chơi nhiều quá đấy…

    - Chẳng nhẽ như thế không tốt hay sao?

    - Cũng có khi không tốt đâu. Tôi biết có một chị chàng cũng hay vui chơi như cô, cũng ở goá, nhưng vui mãi, vui chơi mãi, rồi cuối cùng rụng mất cả mũi…

    - Chao ôi, lạy Chúa tôi, sao lại khủng khiếp đến thế? - Ả vờ hoảng sợ một cách hài hước, kêu lên, rồi lại nói thêm ra vẻ rất thạo đời - Cái trò của bọn đàn bà goá chúng tôi là như thế đấy: nếu sợ chó sói thì đừng mò vào rừng.

    Grigori đưa mắt nhìn ả. Ả nghiến hai hàm răng trắng nhỏ như răng chuột, cười không thành tiếng. Cái môi trên hơn hớt của ả run run, mắt ả long lanh tinh quái dưới hai hàng mi hạ thấp. Grigori bất giác mỉm cười đặt tay lên một bên đầu gối tròn tròn ấm ấm của ả.

    - Cô "Mỗ" ạ, tội nghiệp cho cô, cuộc đời của cô thật khổ sở, đắng cay! - Chàng nói giọng thương hại. - Mới hai chục tuổi đầu mà đã bị cuộc đời dày vò đến thế nầy…

    Trong nháy mắt, tâm trạng vui vẻ vừa nãy của ả không còn dấu vết gì nữa. Ả nghiêm khắc hất tay chàng ra, cau mày và đỏ mặt lên đến nôi các điểm tàn hương lấm tấm ở chỗ tinh mũi biến đâu mất cả.

    - Anh về nhà mà thương vợ anh, chứ tôi thì không cần có anh cũng đã đủ người thương rồi?

    - Nhưng cô đừng bực mình, hượm đã nào?

    - Thôi cút mẹ anh đi!

    - Tôi nói như thế vì ái ngại cho cô đấy thôi.

    - Anh mang cái ái ngại của anh mà cút đi đâu thì cút… - Ả văng tục một cách quen thuộc và thành thạo như đàn ông, hai con mắt sầm lại long lên.

    Grigori giương cao hai hàng lông mày, luống cuống è è trong họng:

    - Cô nói tục thật ghê gớm, không chê vào đâu được! Đúng là một con ngựa bất kham?

    - Còn anh là một thằng thế nào? Một ông thánh mặc cái áo ca- pốt rận bám như sung, cái thớ của anh chỉ như thế thôi? Tôi biết chán cái hạng anh rồi? Đi lấy chồng đi rồi lại còn thế nầy thế nọ, nhưng anh trở nên ngoan đạo thế nầy đã lâu chưa?

    - Không, cũng chưa được bao lâu, - Grigori bật cười và nói.

    - Thế tại sao anh lại đem các điều lệnh qui tắc thuyết cho tôi nghe? Tôi đã có mẹ chồng làm việc ấy rồi.

    - Thôi, cô ghê gớm đến thế cũng đủ rồi, làm gì mà cáu rầm lên như thế, đàn bà gì mà ngớ ngẩn? Chỉ thuận miệng nói thôi mà? - Grigori làm lành. - Cô xem kìa, chúng ta mải nói chuyện, để bò đi cả ra ngoài lề đường rồi.

    Grigori nằm lại trên xe cho thoải mái, chàng đưa nhanh mắt nhìn ả goá vui nhộn, thấy trong khoé mắt ả long lanh vài giọt nước mắt: "Thật chẳng hiểu ra sao nữa? Mà cái bọn đàn bà nầy, bao giờ họ cũng như thế cả…" - Chàng nghĩ thầm và bỗng cảm thấy trong lòng có phần ngượng ngùng bực bội.

    Chẳng mấy chốc chàng đã nằm ngửa ra, kéo vạt áo ca- pốt lên che mặt, ngủ thiếp đi và mãi khi trời hoàng hôn mới thức giấc. Trên trời đã lấp loáng vài ngôi sao chiều nhợt nhạt. Mùi cỏ khô xông lên tươi mát và khoan khoái.

    - Phải cho bò ăn mới được. - Ả goá nói.

    - Được thôi, cho xe dừng lại đi.

    Grigori tự tay tháo đôi bò mộng, lấy trong túi dết ra một hộp thịt, một miếng bánh mì rồi đi bẻ và tìm về một bó cỏ dại khô. Chàng nhóm một đống lửa ở gần cái xe:

    - Thôi ngồi xuống ăn tối đi, cô "Mỗ", cô bực mình như thế đủ rồi đấy.

    Ả ngồi xuống bên đống lửa, lặng lẽ dốc trong một cái túi dết ra một miếng bánh mì và một miếng mỡ chài để lâu quá đã vàng như rỉ. Trong khi ăn tối, hai người nói với nhau rất ít nhưng rất ôn tồn.

    Sau đó ả leo lên xe nằm còn Grigori thì bỏ thêm vài tảng phân bò khô lên dống lửa cho khỏi tắt rồi nằm xuống ở gần lửa như trong khi hành quân. Chàng gối đầu lên cái túi dết, đăm đăm nhìn lên bầu trời lấp lánh ánh sao, đầu óc rối bời với những ý nghĩ không đầu không đũa về con, về Acxinhia rồi thiu thiu dần. Bỗng một giọng đàn bà ngọt ngào làm chàng tỉnh lại:

    - Ngủ rồi đấy à, thầy quyền? Đã ngủ chưa thế?

    Grigori ngẩng đầu. Người bạn cùng đường của chàng đang chống khuỷu tay, nhô hẳn người ra ngoài chiếc xe. Cái ánh chợp chờn của đống lửa sắp tàn chiếu từ bên dưới làm mặt ả hồng lên tươi tắn, hai hàm răng cũng như cái viền đăng ten của chiếc khăn trùm đầu đều trắng loá. Cứ như giữa hai người chưa hề có điều qua tiếng lại, ả lại mỉm cười, rung rung hai hàng lông mày và nói:

    - Tôi chỉ sợ anh nằm dưới ấy sẽ bị cóng. Đất lạnh lắm đấy. Nếu rét quá thì lên trên nầy với tôi. Cái áo choàng lông của tôi ấ- ấ- ấm ấm là! Anh leo lên trên nầy chứ?

    Grigori ngẫm nghĩ một lát rồi thở dài trả lời:

    - Thôi cám ơn cô nàng, tôi không muốn lên đâu. Nếu một hai năm trước thì… Có lẽ nằm ngay bên lửa tôi sẽ không bị cóng đâu.

    Ả kia cũng thở dài và nói:

    - Không sao, tuỳ anh thôi. - Ả nói xong kéo cái choàng lông lên trùm đầu.

    Một lát sau, Grigori đứng dậy thu dọn các thứ của mình. Chàng quyết định đi bộ để trước khi trời rạng đã về tới thôn Tatarsky. Không thể tưởng tượng rằng một người chỉ huy như chàng mà ban ngày ban mặt lại cưỡi xe bò về nhà. Về như thế thì sẽ gây ra bao nhiêu điều chê cười, nói ra nói vào…

    Chàng đánh thức ả đánh xe:

    - Tôi đi bộ đây. Cô có sợ nằm lại một mình trên đồng cỏ không?

    - Không, tôi đâu phải là một con nhát gan, mà chỗ nầy cũng gần thôn xóm. Nhưng còn anh thì sao, không nhịn được nữa à?

    - Cô đoán đúng đấy. Thôi vĩnh biệt cô "Mỗ", có điều gì không phải cũng đừng để lòng để dạ?

    Grigori ra đường cái và kéo cao cổ áo ca- pốt. Một bông tuyết đầu mùa nhỏ xíu rơi xuống mi mắt chàng. Trời chuyển gió bấc và trong hơi gió lạnh buốt, Grigori đã ngửi thấy mùi tuyết quen thuộc và thân thương.

    ° ° °

    Đến tối thì Miska trở về sau chuyến đi lên trấn. Dunhiaska nhìn qua cửa sổ thấy chồng bước vào cổng bèn nhanh nhẹn hất chiếc khăn san trùm đầu xuống vai, bước ra sân.

    - Sáng nay anh Griska về rồi đấy. - Dunhiaska nói ở cổng xép và nhìn chồng, dầy vẻ lo lắng và chờ đợi.

    - Chúc mừng niềm vui của em. - Miska trả lời, giọng dè dặt và hơi có vẻ châm biếm.

    Anh nghiến chặt hai hàm răng, bước vào trong bếp. Vài viên tròn tròn lên lên xuống xuống bên dưới gò má. Con Poliuska đang ngồi nép trên đầu gối Grigori. Cô nó đã ân cần cho nó diện một cá áo dài sạch. Grigori đặt rất cẩn thận con bé xuống sàn rồi bước tới trước mặt em rể và mỉm cười chìa ra một bàn tay vừa to vừa đen. Chàng đã định ôm hôn Miska nhưng thấy hai con mắt Miska không tươi cười mà chỉ đầy vẻ lạnh nhạt và căm ghét nên lại thôi!

    - Nào, chào cậu, Miska?

    - Chào anh.

    - Đã lâu chúng ta không được trông thấy nhau? Lâu như hàng thế kỷ rồi ấy.

    - Phải, khá lâu… Mừng anh đã về nhà.

    - Cám ơn. Thế là chúng mình trở thành họ hàng với nhau đấy nhỉ?

    - Đã là thế rồi… Nhưng sao trên má anh lại có máu thế?

    - Chà không sao đâu, cạo mặt bị sướt đấy, mình đã cạo quá vội.

    Hai người ngồi vào bàn, lặng lẽ nhìn nhau, cả hai đều cảm thấy xa lạ và đều lúng túng khó xử. Họ sẽ phải nói với nhau một câu chuyện quan trọng nhưng trong lúc nầy còn chưa nói được. Miska có đủ tinh thần tự chủ, vì thế anh nói bình thản về công việc làm ăn, về những thay đổi đã xảy ra trong thôn.

    Grigori đưa mắt ra cửa sổ nhìn khoảng đất đã phủ một lớp tuyết đầu mùa xanh ngát và những cái cành trơ trụi của cây táo. Trước kia chàng có ngờ đâu rằng cuộc gặp mặt với Miska sẽ như thế nầy…

    Chỉ lát sau Miska đã bỏ ra ngoài. Ra đến phòng ngoài, anh mài rất cẩn thận con dao trên hòn đá mài rồi bảo Dunhiaska:

    - Anh muốn gọi một anh chàng nào đó đến cắt tiết con cừu thiến. Ông chủ nhà trở về thì phải được khoản đãi cho xứng đáng mới được. Em chạy đi kiếm rượu đi. Nhưng hượm đã, thế nầy nầy: em tạt qua nhà Prokho và bảo hắn là dù thăng thiên độn thổ cũng phải kiếm cho ra rượu. Việc nầy thì hắn sẽ làm cừ hơn em. Gọi hắn sang ăn tối nhé.

    Dunhiaska sung sướng nở nang cả mặt mày. Cô lặng lẽ nhìn chồng ra ý cám ơn…"May ra tất cả mọi việc đều sẽ được êm thấm… Chà, các chuyện đánh đấm đã hết rồi thì còn có gì mà nói với nhau nữa? Cầu Chúa giúp cho đầu óc cả hai đều sáng ra!" - Cô có những ý nghĩ đầy hy vọng trong khi đi tới nhà Prokho.

    Chưa được nửa giờ sau, Prokho đã hển hển chạy tới.

    - Anh Grigori Pantelevich? Anh bạn yêu quí của tôi? Thật không ngờ còn được trông thấy nhau? - Hắn mếu máo kêu lên the thé rồi vấp chân vào ngưỡng cửa, thiếu chút nữa thì đánh vỡ hũ rượu to bằng đến một thùng.

    Hắn nức nở ôm lấy Grigori, đưa tay áo lên lau mắt và vuốt hàng ria đẫm nước mắt. Trong cổ họng Grigori có cái gì run run, nhưng chàng trấn tĩnh được và chỉ cảm động vỗ vào lưng người lính hầu trung thành của mình một cách hơi thô bạo rồi chẳng nói ra đầu ra đũa gì cả:

    - Thế là chúng mình lại được trông thấy nhau rồi… Chà, Prokho ạ mình rất sung sướng được gặp cậu, thật hết sức sung sướng!

    Nhưng sao thế, ông lão nầy, cậu khóc đấy à? Về nằm nhà đâm ra yếu đuối thế nầy rồi hay sao? Cái ê- cu mòn rồi à? Thế cái tay của cậu như thế nào? Vợ cậu vẫn còn chưa vặn nốt cái tay kia hay sao?

    Prokho hỉ mũi ầm ầm rồi cởi cái áo lông ngắn.

    - Hai vợ chồng tôi bây giờ sống với nhau cứ như đôi chim cu ấy. Cái tay còn lại, anh xem đây nầy, vẫn còn nguyên vẹn, còn cái tay bị bọn Trắng Ba Lan chặt thì đã bắt đầu mọc lại, tôi nói thật đấy. Chỉ một năm nữa sẽ có đủ mười ngón thôi - Hãn lắc bên tay áo rỗng nói với giọng vui nhộn vốn có từ xưa.

    Chiến tranh đã dạy cho họ biết giấu sau nụ cười những tình cảm thật có trong lòng mình, biết gia thêm muối vào bánh mì cũng như vào câu chuyện. Chính vì thế Grigori vẫn tiếp tụ hỏi han với giọng pha trò:

    - Thế cậu sống như thế nào, con dê già nầy? Nhảy nhót như thế nào?

    - Nhảy theo kiểu ông già thôi, chẳng có gì vội vàng cả.

    - Không có mình mà cậu chẳng kiếm chác được thêm gì à?

    - Cái gì cơ chứ?

    - Chà, những cái trò mà cậu đeo vào mình dạo mùa đông năm ngoái ấy mà…

    - Anh Pantelevich? Cầu Chúa cứu vớt cho? Bây giờ thì lôi còn làm cái chuyện phù phiếm ấy làm gì? Hơn nữa với độc một cánh tay thì kiếm chác cái gì tôi? Đó là việc của anh, một tay trai trẻ, phòng không lạnh lẽo… Chứ tôi thì đã đến lúc đem cái của mình cho vợ nó làm bàn chải phết bơ lên chảo rồi…

    Hai người bạn cùng chiến hào lâu năm nhìn nhau rất lâu. Cả hai cười khà khà và cùng sung sướng vì được gặp nhau.

    - Anh về hẳn rồi chứ? - Prokho hỏi.

    - Về hẳn rồi. Không còn vướng víu gì nữa.

    - Thế anh đã làm đến cấp gì?

    - Mình đã là trung đoàn phó.

    - Thế tại sao họ để cho anh về sớm thế?

    Grigori sầm mặt, trả lời gọn lỏn:

    - Họ không cần đến nữa.

    - Vì sao thế?

    - Không biết. Có lẽ vì những chuyện trước kia.

    - Nhưng anh đã qua được Uỷ ban sàng lọc thuộc Phòng đặc vụ phụ trách các sĩ quan và đã lọt qua rồi thì còn quá khứ quá khiếc gì nữa?

    - Thiếu gì chuyện.

    - Thế Miska đâu.

    - Ở ngoài sân. Đang thu dọn cho gia súc.

    Prokho bước tới sát Grigori, hạ thấp giọng.

    - Tháng trước Platon Riaptrikov bị đem xử bắn rồi đấy.

    - Cậu nói gì thế hử?

    - Nói thật có Chúa chứng giám đấy.

    Phòng ngoài có tiếng cánh cửa cọt kẹt.

    - Chúng ta sẽ bàn thêm sau, - Prokho nói rất khẽ rồi cất cao giọng. - Thế nào, đồng chí chỉ huy, có cái mừng to như thế nầy thì phải uống một chầu chứ? Để tôi đi gọi Miska nhé!

    - Cậu ra gọi đi.

    Dunhiaska sắp xếp bàn ăn. Cô không còn biết nên tiếp đón ông anh của mình như thế nào nữa; cô đặt lên đầu gối Grigori một chiếc khăn tay sạch, đẩy tới trước mặt chàng dĩa dưa hấu muối, lau cái cốc năm lần bảy lượt… Grigori mỉm cười, nhận xét thầm mà không nói ra rằng Dunhiaska gọi mình là "bác".

    Trong khi ngồi ở bàn ăn, Miska đầu tiên cứ nhất định không nói năng gì mà chỉ chăm chú lắng nghe Grigori nói. Anh uống rất ít rượu, rất miễn cưỡng. Trái lại Prokho thì uống sạch ngay một cốc đầy, nhưng cũng chỉ đỏ bừng mặt mà càng hay đưa nắm tay lên chùi hàng ria trắng bệch.

    Dunhiaska cho hai đứa trẻ ăn xong, đặt chúng nằm lên giường, rồi để lên bàn một đĩa thịt cừu ninh rất to và rỉ tai Grigori:

    - Anh yêu của em, em chạy sang gọi chị Acxinhia nhé, anh không có gì phản đối chứ?

    Grigori lặng lẽ gật đầu. Chàng có cảm tưởng như suốt buổi chiều chẳng có ai nhận thấy rằng chàng đã sống trong một trạng thái chờ đợi căng thẳng, song Dunhiaska cũng có thấy là mỗi lần khi có tiếng gõ cửa chàng lại có vẻ đề phòng, lắng nghe và liếc nhìn ra cửa. Đúng là chẳng gì có thể lọt qua được cặp mắt tinh nhanh của cô em gái…

    - Thế cái thằng Cheresenko người Kuban vẫn chỉ huy trung đội à? - Prokho hỏi nhưng hai tay vẫn giữ khư khư cốc rượu, cứ như sợ có người nào cướp đi mất.

    - Nó bị giết ở gần Lvov rồi.

    - Thôi cầu cho nó được hưởng phúc nơi thiên đường. Nó vốn là một thằng kỵ binh cừ lắm? - Prokho vội vã làm dấu phép và uống một hớp rượu mà không nhận thấy nụ cười châm biếm trên môi Miska.

    - Thế còn thằng cha gì có cái tên kỳ quặc ấy? Cái thằng ở cánh bên phải ấy, chà, nó, thật là đáng nguyền rủa, tên nó hình như là Mai- Boroda ấy mà? Cái thằng khô- khon béo phục phịch và vui tính nó cho một nhát xả đôi thằng sĩ quan Ba Lan ở gần Brody ấy. Nó có còn sống, khoẻ mạnh không?

    - Nó vẫn cứ như một con ngựa giống ấy? Nhưng nó đã bị đưa sang đại đội súng máy.

    - Còn con ngựa của anh trao cho ai rồi?

    - Mình đã cưỡi một con khác.

    - Thế còn trán trắng đâu?

    - Nó đã chết vì một mảnh đạn pháo.

    - Trong khi chiến đấu à?

    - Ở địa điểm giữ ngựa. Trong lúc pháo binh địch bắn phá. Nó chết ngay ở chỗ buộc ngựa.

    - Chao ôi, thật đáng tiếc? Con ngựa tốt tốt là? - Prokho thở dài rồi lại cúi xuống với cốc rượu.

    Phòng ngoài có tiếng then cửa lách cách. Grigori rùng mình.

    Acxinhia bước qua ngưỡng cửa, nói lúng búng: "Xin chào cả nhà?"

    Rồi nàng thở hổn hển, cởi chiếc khăn bịt đầu, hai con mắt sáng ngời mở to trừng trừng cứ dán vào Grigori, Acxinhia bước tới bàn ăn, ngồi xuống bên cạnh Dunhiaska. Những bông tuyết nhỏ xíu tan dần trên lông mày, lông mi và làn da mặt trắng bệch của nàng. Nàng cau mày, đưa tay lên vuốt mặt, thở phào một cái và mãi lúc ấy mới trấn tính được để nhìn Grigori bằng cặp mắt đắm đuối, mờ đi vì xúc động.

    - Cô bạn đồng sự? Acxiutka? Chúng ta cùng rút lui với nhau, đã cùng làm mồi cho chấy rận… Tuy chúng tôi đã quẳng cô ở lại Kuban, nhưng thật còn có thể làm thế nào khác được nữa? - Prokho chìa cho nàng một cốc rượu, làm rượu tràn cả xuống bàn. - Cô hãy uống cạn mừng anh Grigori Pantelevich! Chúc mừng anh ấy đã về… Tôi đã nói với cô rằng anh ấy sẽ trở về, người ngợm hoàn toàn nguyên vẹn, bây giờ cô xem đấy, cô hãy bỏ hai mươi rúp mà mua lấy anh ấy! Ngồi vẫn chĩnh chệ, oai phong lẫm lẫm!

    - Hắn uống lắm vào rồi nói lung tung đấy, chị láng giềng ạ, đừng có nghe hắn. - Grigori cười, đưa mắt chỉ Prokho.

    Acxinhia cúi chào Grigori và Dunhiaska. Nàng chỉ hơi nâng cái cốc lên khỏi bàn, sợ mọi người nhìn thấy tay mình run.

    - Mừng anh đã về nhà, anh Grigori Pantelevich, còn cô, cô Dunhiaska, mừng dịp vui của cô.

    - Thế còn cô thì mừng cô cái gì? Mừng dịp đau khổ à? - Prokho, cười khà khà hích khuỷu tay vào sườn Miska.

    Mặt Acxinhia đỏ ửng lên, ngay đến hai cái dái lai nhỏ nhắn cũng hồng lên trong trong. Nhưng nàng đưa cặp mắt vừa cứng cỏi vừa tức tối nhìn Prokho rồi trả lời:

    - Mừng tôi là mừng niềm vui sướng… Một niềm vui sướng cực lớn!

    Thái độ thẳng thái cởi mở của nàng đã tước vũ khí của Prokho và làm hắn rất cảm động. Hắn bèn năn nỉ:

    - Cô hãy vì Chúa mà uống cốc rượu đi, uống cạn đến giọt cuối cùng đấy. Đã biết nói thẳng thì cũng phải biết uống thật tận tình! Ai còn để lại giọt rượu nào thì bằng đâm mũi dao nhọn vào tim tôi đấy.

    Acxinhia ngồi lại cũng không lâu, chỉ đủ thời gian mà nàng cho là không trái phép lịch sự. Suốt thời gian ấy nàng chỉ đưa mắt nhìn người yêu của mình vài lần mà cũng chỉ nhìn loáng qua thôi. Nàng tự bắt mình phải nhìn những người khác và cố tránh cặp mắt của Grigori vì nàng không thể vờ vĩnh làm vẻ lạnh nhạt, nhưng cũng không muốn để lộ tình cảm của mình cho người khác thấy. Grigori chỉ bắt gặp một lần cặp mắt của nàng lúc ra đến ngưỡng cửa và cái nhìn thẳng thắn, đầy yêu đương và trung thành ấy thực chất đã nói lên tất cả. Chàng ra tiễn Acxinhia. Prokho đã chuếch choáng gọi với sau lưng chàng:

    - Nhưng anh đừng ra lâu quá đấy? Chúng tôi uống hết tuốt bây giờ?

    Ra đến phòng ngoài, Grigori lặng lẽ hôn trán, hôn môi Acxinhia rồi hỏi:

    - Em thế nào, Acxiutka?

    - Chao ôi, làm thế nào kể cho hết được… Ngày mai anh sang nhé!

    - Anh sẽ sang.

    Nàng hấp tấp về nhà, chân bước rất nhanh, tựa như có việc gì rất cấp bách đang chờ mình. Mãi khi về tới thềm nhà mình nàng mới chậm bước, thận trọng leo lên những bực thềm cọt kẹl. Nàng chỉ muốn mau chóng được ngồi một mình với những ý nghĩ riêng, với niềm hạnh phúc vừa đến với mình đột ngột như thế.

    Nàng cởi cái áo mặc ngoài, bỏ chiếc khăn trùm đầu rồi không châm đèn, bước thẳng vào phòng trong. Bóng đêm tím ngắt, đặc quánh lọt vào phòng qua khung cửa sổ mà các cánh cửa chớp không bịt kín. Một con dế kêu lanh lảnh ở sau lò sưởi. Theo thói quen Acxinhia khom lưng soi gương, và tuy trời tối không cho nàng trông thấy hình của mình, song nàng vẫn sửa lại tóc, vuốt những nếp mút- xơ- lin trên ngực chiếc áo trong rồi bước ra cửa sổ, ngồi phịch xuống chiếc ghế dài một cách mệt mỏi.

    Suốt cuộc đời, nàng đã bao lần mơ ước và hy vọng, nhưng đều không thành sự thật. Có lẽ vì thế nên tâm trạng lo lắng thường ngày đã lại thay thế ngay niềm vui mà nàng vừa được hưởng. Cuộc đời từ nay sẽ ra sao đây? Có những chuyện gì đang chờ đợi nàng trong tương lai? Cái hạnh phúc đầy đắng cay của người đàn bà nó mỉm cười với nàng như thế có quá muộn không?

    Cảm thấy mình hoàn toàn trống rỗng sự xúc động lúc tối, nàng áp má vào mảnh kính lạnh buốt đầy sương muối, ngồi rất lâu, cặp mắt bình thản và có phần âu sầu nhìn đăm đăm vào bóng tối chỉ hơi loáng thoáng ánh tuyết.

    Grigori lại ngồi vào bàn. Chàng cầm bình rượu rót cho mình đầy cốc uống một hơi hết sạch.

    - Rượu tốt đấy chứ? - Prokho hỏi.

    - Mình không phân biệt được nữa. Đã lâu không uống rồi.

    - Y như rượu Nicolai ấy thôi, nói có Chúa chứng giám? - Prokho nói chắc chắn rồi lảo đảo ôm lấy Miska. - Miska ạ trong việc nầy thì anh hiểu biết còn tồi hơn con bò non phân biệt các thứ nước rửa bát. Nhưng tôi thì tôi biết hết sức tường tận về các thứ rượu. Tôi đã được uống cơ man nào các thứ rượu thuốc và rượu vang! Có một thứ rượu vang, vừa mở nút ra là bọt trong chai đã sủi lên như nước rãi của con chó dại ấy. Có Chúa chứng giám, tôi không nói láo đâu! Ở Ba Lan, hồi chúng tôi chọc thủng mặt trận và theo đồng chí Xemion Mikhailovich 2 tiến lên xả bọn Trắng Ba Lan, có lần đã ào tới chiếm được trang trại của một thằng địa chủ. Ngôi nhà trong cái trại ấy cao hai ba tầng, gia súc nuôi trong sân sừng chạm vào sừng ngoài ra còn có đủ mọi thứ chim gà, chẳng còn chỗ nào mà nhổ bãi nước bọt nữa.

    Nói tóm lại thằng địa chủ ấy nó sống cứ như ông vua con. Lúc trung đội của chúng tôi phi ngựa vào cái trại ấy, bọn sĩ quan không ngờ anh em có thể đến được, vẫn còn đang nhậu nhẹt phè phỡn với nhà chủ. Chúng nó đã bị chúng tôi chém chết sạch ngoài vườn và trên thang gác, chỉ có một thằng được bắt làm tù binh. Nó là một thằng sĩ quan rất to đầu, nhưng khi bị bắt thì na nó chảy xệ xuống, người nhũn ra như sợi bún vì sợ. Lúc ấy anh Grigori Pantelevich bị gọi cấp tốc lên ban tham mưu, vì thế chúng tôi muốn làm gì thì làm. Chúng tôi mò vào các phòng của tầng dưới, thấy trong đó có một cái bàn ăn khổng lồ, đồ ăn thức uống chẳng thiếu thứ gì! Chúng tôi làm bộ chưa thèm ăn tuy trong bụng đang đói khủng khỉếp, chỉ vì sợ. Chúng tôi nghĩ thầm: "Nếu tất cả có thuốc độc thì sao? Thằng tù binh của chúng tôi cứ giương mắt nhìn như một con quỉ dữ. Chúng tôi bèn ra lệnh cho nó: "Hốc đi! Thế là nó hốc. Không muốn hốc cũng phải hốc. "Nốc đi!" Thế là nó nốc. Đĩa nào chúng tôi cũng bắt nó ăn một miếng thật to, chai nào cũng bắt nó uống một cốc. Vì phải ăn uống như thế, cái thằng đáng nguyền rủa ấy, bụng nó trương phềnh ra ngay trước mắt chúng tôi, còn chúng tôi thì cứ chảy rớt chảy rãi. Sau chúng tôi thấy thằng sĩ quan ấy không chết, bèn bắt đầu ăn. Chúng tôi ăn phè phỡn và uống cái thứ rượu vang sủi bọt lên đến lỗ mũi.

    Chợt nhìn ra thấy thằng sĩ quan bắt đầu nôn thốc nôn tháo. Chúng tôi nghĩ bụng: "Chà bỏ mẹ rồi! Thằng chết tiệt nầy nó cố ý ăn đồ độc để lừa chúng mình rồi". Chúng tôi bèn rút gươm nhảy xổ ra chỗ nó. Nó vái như tế sao: "Bẩm các quan lớn, đó là do thịnh tình của các quan nên tôi bị bội thực, chứ các quan đừng nghi ngờ, đồ ăn thức uống đều tốt cả". Thế là chúng tôi lại quay về với món rượu vang?

    Cứ mở nút là nó nổ phọt ra như một phát súng, bọt sủi lên tròn xoe, đứng bên cạnh nhìn thì chết khiếp được! Chính vì thứ rượu vang ấy mà đêm hôm ấy tôi đã ngã ngựa ba lần đấy! Vừa ngồi lên yên là lại như bị gió thổi vật xuống. Thứ rượu ấy nếu ngày nào lúc còn thanh tâm cũng được uống một hai cốc thì có lẽ sống được tới trăm tuổi đấy. Còn uống như thế nầy thì làm sao mà sống tới già được? Chẳng hạn như cái thứ nầy mà gọi là rượu được à? Là vi trùng truyền bệnh chứ không phải là rượu? Nốc cái của thổ tả nầy vào người thì cũng đến long móng trước tuổi thôi… Prokho hất đầu về phía cái hũ rượu rồi… rồi cho mình một cốc đầy đến miệng.

    Dunhiaska vào nhà trong ngủ với hai đứa trẻ và một lát sau cả Prokho cũng đưng dậy. Hắn ngật ngưỡng khoác cái áo lông ngắn lên vai rồi nói:

    - Tôi sẽ không mang cái hũ về đâu. Lòng dạ tôi nó không cho phép tôi đi đâu với những dồ đựng bên trong không có gì… Bây giờ tôi về đến nhà là sẽ bị vợ nó hành ngay đây. Làm cái trò ấy thì nó thành thạo lắm! Không biết những lời lẽ hại người như thế nó đã học được ở đâu? Chính tôi cũng chẳng biết nữa! Hễ tôi về đến nhà mà hơi có tí tỉ là nó sẽ bảo, như thế nầy chẳng hạn: "Đồ chó dái rượu chè be bét, thằng cụt khốn nạn, đồ thối thây!" Tôi thường nhẹ nhàng và bình tĩnh giảng giải cho nó rõ và bảo nó: "Đồ yêu quái hại người, đồ chó đẻ, mày đã thấy ở đâu có con chó dái say rượu mà lại còn cụt tay nữa hử? Khắp cả gầm trời nầy làm gì có cái của như thế hử?" Tôi vặn được nó một câu thổ tả thì nó lại tuôn ra cho tôi nghe một câu thứ hai, tôi bác bỏ câu thứ hai ấy thì nó đã có ngay một câu thứ ba và chúng tôi cứ thế suốt đêm đến sáng… Có hôm tôi chán ngấy không thèm nghe nó nữa, bèn bỏ xuống nhà kho để ngủ. Nhưng hễ tôi rượu say về nhà mà thấy nó nín thinh không la mắng gì cả là tôi không tài nào ngủ được, nói thật có Chúa chứng giám đấy? Trong người cứ như thiếu một cái gì, da thịt ngứa ngáy như lên mụn ghẻ, chẳng làm thế nào ngủ được nữa! Thế là lôi lại trêu vợ tôi, và nó lại hành cho tôi một trận, làm cho tôi toé phở? Con mụ nhà tôi đúng là một mẫu của quỉ dữ lôi chẳng làm thế nào trốn đi đâu được, đành mặc cho nó tam bành lục tặc, như vậy nó làm việc cũng sẽ hăng hơn tôi nói có đúng không? Nhưng thôi, tôi về đây, chào hai anh? Hay là đêm nay tôi chui vào cái máng cỏ mà ngủ để khỏi động đến nó?

    - Nhưng liệu cậu có mò được về đến nhà không? Grigori vừa cười vừa hỏi.

    - Dù phải bò như con tôi tôi cũng về được tới nơi! Hay tôi không phải là một thằng Cô- dắc hả, anh Pantelevich? Chỉ nghe anh nói thế cũng đủ lộn ruột rồi.

    - Thôi, nếu vậy thì cầu Chúa che chở cho cậu!

    Grigori tiễn bạn ra tới cửa xép rồi quay vào trong bếp.

    - Thế nào chúng mình nói chuyện chứ Miska?

    - Nào thì nói.

    Hai người ngồi trước mặt nhau, cách một cái bàn, và cùng nín lặng một lát. Rồi Grigori nói:

    - Giữa hai chúng mình hình như có chuyện gì ấy… Mình nhìn cậu cứ thấy có cái gì làm sao ấy! Mình về nhà, cậu không thích có có phải không? Hay là mình nhầm?

    - Không, anh đoán đúng đấy, tôi không thích.

    - Sao thế?

    - Lại thêm một mối lo.

    - Mình định sẽ tự kiếm lấy mà ăn.

    - Tôi không nói về chuyện ấy đâu.

    - Thế thì về chuyện gì?

    - Tôi với anh là hai kẻ thù…

    - Trước kia là thế.

    - Phải, nhưng xem ra cả sau nầy cũng vẫn thế.

    - Mình không hiểu. Tại sao vậy?

    - Anh là một con người không thể tin được.

    - Điều đó cậu nói không đúng đâu. Cậu nói như thế không đúng đâu?

    - Không, không phải là không đúng. Tại sao thời buổi như thế nầy người ta lại cho anh giải ngũ. Anh cứ nói toạc móng heo xem nào?

    - Mình không biết.

    - Không, anh có biết, nhưng lại không muốn nói ra? Người ta không tin anh, có phải không?

    - Nếu không tin thì đã chẳng trao cho một đại đội kỵ binh.

    - Đó là thời kỳ đầu tiên, nhưng một khi người ta không để anh ở trong quân đội nữa thì sự việc đã rõ rành rành rồi, người anh em ạ!

    - Nhưng cậu có tin mình không? - Grigori nhìn Miska chằm chằm và hỏi.

    - Không! Nuôi một con sói thế nào thì nuôi, nhưng nó vẫn chỉ ngó về rừng.

    - Hôm nay cậu uống quá nhiều đấy, Miska ạ.

    - Anh đừng có nói như thế? Tôi không say hơn anh đâu. Ngoài ấy người ta đã không tin anh thì ở đây cũng không thể tin anh nhiều hơn được, anh hãy biết rõ như thế!

    Grigori nín lặng một lát. Chàng uể oải nhặt một miếng dưa hấu muối trong cái đĩa, nhai nhai rồi lại nhổ ra.

    - Vợ tôi đã kể cho anh nghe về thằng Kirin Gromov chưa? - Miska hỏi.

    - Rồi.

    - Lúc thấy nó về, tôi cũng đã không thích. Tôi vừa nghe thấy thế, ngay hôm ấy…

    Grigori tái mặt, hai con mắt chàng trợn lên tròn xoe trong cơn tức giận như điên.

    - Thế sao, đối với cậu mình cũng như thằng Kirin Gromov hay sao?

    - Đừng làm rầm lên. Nhưng anh thì có gì tốt hơn nó?

    - Chà, cậu phải biết…

    - Ở đây chẳng có cái gì cần phải biết. Tất cả đã rõ ràng từ lâu rồi. Thế sau nầy thằng Mitka Korsunov vắc mặt về, tôi cũng sẽ vui mừng hay sao? Không, tốt nhất là anh và chúng nó đừng có mặt trong thôn làm gì?

    - Đối với cậu như thế thì hơn à?

    - Cả đối với tôi cũng như đối với nhân dân, như thế sẽ là tốt hơn, yên ổn hơn.

    - Cậu đừng coi mình với chúng nó là cá mè một lứa.

    - Tôi đã nói với anh rồi đấy, Grigori ạ, mà trong chuyện nầy anh cũng chẳng có gì đáng phải bực mình, anh không tốt hơn chúng nó, mà dứt khoát còn tồi tệ hơn, nguy hiểm hơn.

    - Tại sao thế? Cậu nói lung tung cái gì thế? - Chúng nó chỉ là những thằng tiểu tốt, còn anh lại cầm đầu cả cuộc bạo động.

    - Không phải mình cầm đầu chúng nó, mình là một sư đoàn trưởng.

    - Như thế còn ít hay sao?

    - Ít hay nhiều, vấn đề không phải là ở chỗ ấy… Nếu như hồi ấy, trong buổi liên hoan, mấy thằng Hồng quân không tìm cách giết mình thì có lẽ mình cũng không tham gia cuộc bạo động đâu.

    - Nếu anh không là sĩ quan thì có lẽ cũng chẳng có đứa nào động tới anh.

    - Và nếu chúng nó không bắt mình đi lính thì có lẽ mình đã chẳng là sĩ quan. Thôi, đó là một bài hát quá dài!

    - Một bài hát vừa dài vừa lởm lợm!

    - Bây giờ thì bài ấy không thể nào hát lại được nữa, muộn mất rồi.

    Hai người lặng thinh một lát và cứ ngồi yên hút thuốc. Rồi Miska lấy móng tay gảy tàn thuốc và nói:

    - Tôi biết các sự tích anh hùng của các anh, vì có được nghe kể lại. Anh đã giết nhiều chiến sĩ bên chúng tôi, vì thế tôi không thể nào nhìn anh một cách thoải mái được... Không thể xoá bỏ cái chuyện ấy khỏi trí nhớ của tôi được đâu.

    Grigori cười nhạt:

    - Cậu nhớ dai thật! Cậu đã giết anh Petro của mình, nhưng không hiểu sao mình không đả động câu nào về chuyện ấy... Nếu cứ nhớ hết mọi chuyện thì sẽ phải sống như lang sói mất.

    - Nhưng có sao đâu, tôi có giết, tôi không chối? Nếu hồi ấy mà bắt được anh thì có lẽ tôi cũng đã xủ trí với anh cũng như với anh chàng thân mến ấy rồi!

    - Thế mà khi Kotliarov bị bắt làm tù binh Ở Ust- Khopeskaia, mình đã vội vã về ngay, chỉ sợ có cả cậu trong số đó, sợ cậu bị bọn Cô- dắc giết mất... Té ra lần ấy mình vội vã thật là vô ích.

    - Thì ra anh là một người có lòng tốt như thế! Cứ tưởng tượng xem anh sẽ nói năng như thế nào nếu bây giờ đang là chính quyền của bọn Ka- det, nếu phần thắng đang thuộc về các anh. Chưa biết chừng cái lưng của tôi đã bị ăn roi da rồi? Nhưng bây giờ anh lại tốt bụng như thế...

    - Cũng chẳng có thể có đứa nào khác cho cậu ăn roi da chứ mình thì không vì cậu mà bẩn tay đâu.

    - Như thế thì tôi với anh là hai con người khác nhau thật... Vốn dĩ đối với quân địch tôi không hề ngại bẩn tay và ngay bây giờ nếu cần làm gì tôi cũng không chớp mắt đâu. - Misca rót chỗ rượu vào hai cái cốc rồi hỏi - Anh uống nữa không?

    - Nào thì uống, nếu không chúng ta sẽ quá tỉnh táo khi nói câu chuyện như thế nầy...

    Hai người lặng lẽ chạm cốc, uống cạn. Grigôri tì ngực vào bàn, vê vê hàng ria, nheo mắt nìn Miska:

    - Thế thì cậu sợ cái gì hả, Miska? Sợ mình lại nổi lên chống Chính quyền Xô viết à?

    - Tôi chẳng sợ gì cả, nhưng cùng với những điều khác tôi cũng có ý nghĩ là nếu xảy ra một chuyện rối loạn nào đó, anh sẽ lại ngả ngay sang phía bên kia.

    - Ở ngoài ấy, mình cũng đã có thể chạy sang với bọn Ba Lan được chứ, cậu thử nghĩ xem? Chúng ta đã có hàng đơn vị chạy sang bên chúng nó ấy.

    - Anh đã không kịp sang à?

    - Không, không muốn. Cái phần đi lính của đời mình sống đã đủ rồi. Không còn muốn đi lính cho bên nào nữa đâu. Trong cuộc đời mình, mình đánh đấm đã quá đủ rồi và bây giờ trong lòng đang đau khổ khủng khiếp. Mình chán ngấy tất cả, cách mạng cũng như phản cách mạng. Mặc cho tất cả… Mặc cho tất cả tan tành ra tro! Mình muốn sống bên cạnh hai đứa con của mình, lo công việc làm ăn tất cả chỉ có thế thôi. Miska ạ, cậu hãy tin rằng mình đã nói như thế với cả một tấm lòng chân thành.

    Tuy vậy không thể có một lời cam đoan nào làm Miska tin được. Grigori hiểu rõ như thế nên không nói nữa. Trong khoảnh khắc, chàng cảm thấy bực bội, cay đắng đối với bản thân mình. Việc quái gì phải biện bạch, phải hì hục chứng minh? Việc gì phải có những lời trao đổi theo kiểu say rượu như thế nầy và nghe những lời thuyết lý ngu xuẩn của Miska? Thôi mặc mẹ nó tất cả? Grigori đứng dậy.

    - Chúng ta hãy chấm dứt câu chuyện chẳng đi đến đâu nầy thôi! Thế là đủ rồi! Mình chỉ muốn nói với cậu một lời cuối cùng là mình sẽ không chống lại chính quyền chừng nào nó không rờ tay đến cổ họng mình. Nhưng nếu nó rờ lay đến cổ họng mình thì mình sẽ tự vệ? Dù sao mình cũng không vì cuộc bạo động mà chịu mất đầu như Platon Riaptrikov đâu.

    - Như thế nghĩa là thế nào?

    - Như thế đấy. Người ta hãy tính tới thời gỉan mình phục vụ trong Hồng quân cùng những vết thương mà mình đã mang vào người trong thời gian ấy, rồi mình đồng ý ngồi tù vì bạo động, nhưng nếu vì thế mà bị xử bắn thì xin lỗi? Như vậy thì quá đấy?

    Miska cười nhạt một cách khinh bỉ:

    - Anh nghĩ ra cái kiểu như thế thì cũng lạ đấy! Toà án cách mạng hay Uỷ ban Treka sẽ không hỏi anh muốn gì và không muốn gì, sẽ không mặc cả với anh đâu. Đã phạm tội thì phải nhận lấy đủ phần hậu quả. Các món nợ cũ thì phải trả cho đủ!

    - Thôi được, chúng ta hãy chờ xem.

    - Chúng ta hãy chờ xem, vấn đề đã rõ rồi.

    Grigori cởi dây lưng và áo sơ- mi, rồi è è trong họng bắt đầu tháo ủng.

    - Chúng mình sẽ chia nhau ra ở riêng chứ? - Chàng vừa hỏi vừa nhìn một cách quá chăm chú cái đế ủng đã bật chỉ.

    - Việc chúng mình chia nhau sẽ làm rất gọn: tôi sẽ sửa lại cái lều của nhà tôi rồi dọn về bên ấy.

    - Phải, thế nào cũng có ngày chúng mình phải ở riêng nhau ra. Mình và cậu không thể hoà thuận với nhau được đâu.

    - Không được thật. - Miska cũng nhận như thế.

    - Mình không ngờ cậu lại có ý nghĩ về mình như thế… Nhưng thôi, cũng chẳng sao…

    - Tôi đã nói toạc móng heo như thế đấy. Tôi nghĩ thế nào thì nói ra như thế. Bao giờ anh sẽ lên Vosenskaia.

    - Đại khái vài ngày nữa.

    - Không đại khái gì cả, ngày mai phải đi ngay.

    Mình vừa phải đi bộ gần bốn mươi vec- xta, mệt lừ cả người, ngày mai mình nghỉ đã, ngày kia sẽ đi đăng ký.

    - Đã có lệnh như thế nầy: việc đăng ký phải làm ngay tức khắc.

    Ngày mai anh đi ngay.

    - Cũng phải nghỉ ngơi một ngày chứ? Mà mình có trốn đi mất đâu?

    - Nhưng quỉ dữ nào biết được anh? Tôi không muốn phải chịu trách nhiệm về anh.

    - Cậu đã trở thành một thằng khốn nạn quá lắm rồi, Miska ạ! - Grigori nói và chàng không khỏi ngạc nhiên khi nhìn kỹ khuôn mặt trở nên gay gắt của người bạn cũ.

    - Anh đừng có nói tôi khốn nạn khốn niếc gì? Tôi không nghe quen những lời như thế đâu… - Miska lấy lại hơi rồi cất cao giọng - Anh phải biết rằng những cái thói như thế của bọn sĩ quan thì phải vứt bỏ đi! Ngày mai anh phải lên trên đó ngay, còn nếu nói nhẹ nhàng mà không đi thì tôi sẽ cho áp giải đi. Đã hiểu chưa? - Nói xong Miska bỏ đi.

    - Bây giờ thì hiểu tất cả rồi… - Grigori căm hờn nhìn theo sau lưng Miska rồi không cởi quần áo, cứ thế nằm xuống giường.

    Phải, mọi việc đã xảy ra đúng như đáng phải xảy ra. Mà tại sao chàng, Grigori nầy, lại phải được đón tiếp một cách khác cơ chứ? Thật ra thì tại sao chàng lại nghĩ rằng chỉ một thời gian ngắn phục vụ trung thành trong Hồng quân cũng đủ giúp chàng chuộc được tất cả các tội lỗi xưa kia của mình? Và chưa biết chừng Miska có lý khi hắn nói rằng không phải tất cả mọi chuyện đều có thể được tha thứ và các món nợ cũ đều phải trả cho hết?

    Grigori nằm mơ thấy một cánh đồng cỏ mênh mông và một trung đoàn đã triển khai đang chuẩn bị xung phong. Mãi đến khi từ một nơi nào đó rất xa vẳng tới tiếng hò kéo dài: "Đại đô- ô- ội…", chàng mới nhớ rằng cái đai bụng bên dưới yên ngựa đã bị nới lỏng. Chàng đặt mạnh chân lên chiếc bàn đạp bên trái và cái yên trẹo đi dưới sức nặng của chàng… Chàng vừa ngượng vừa sợ, bèn nhảy trên ngựa xuống để buộc lại cái đai bụng, nhưng trong khi đó chàng đã nghe thấy tiếng những tiếng vó ngựa đập xuống bất thần dội lên và xa đi rất nhanh. Trung đoàn đã ào lên xung phong mà không có chàng.

    Grigori trở mình và khi tỉnh lại, chàng còn nghe thấy tiếng mình rên khàn khàn. Bên ngoài cửa sổ trời mới hửng một chút. Đúng là ban đêm gió đã mở toang cửa chớp, vì thế qua lớp kính bám đầy sương muối có thể nhìn thấy cái vòng sáng với những tia màu xanh lá cây của vành trăng khuyết. Grigori mò mẫm tìm được túi thuốc bèn châm một điếu. Tim chàng vẫn còn đập thình thịch và dồn dập như muốn nứt làm đôi. Chàng nằm ngửa ra, mỉm cười: "Lại nằm mơ thấy cái chuyện quỉ quái ấy! Chưa kịp đánh đấm gì cả…". Trong giờ phút trời sắp bình minh nầy, chàng có ngờ đâu rằng mình vẫn còn phải xung phong nhiều lần nữa cả trong mộng lẫn trong thực tế.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Nguyên văn: "Tên tôi là như người ta thường gọi" "Cô cứ ngồi yên thì hơn, cái cô có tên như người ta thường gọi ạ" (ND).

    2 Tức là đồng chí Budionnyi (ND).
  7. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0

    Dunhiaska dậy sớm vì còn phải vắt sữa bò. Grigori húng hắng ho, rón rén đi đi lại lại trong bếp. Dunhiaska đắp lại chăn cho hai đứa bé rồi mặc nhanh áo xống, bước vào bếp, Grigori đang cài khuy áo ca- pốt.

    - Mới tinh mơ thế nầy anh đã sắp sửa đi đâu đấy, anh yêu của em.

    - Anh đi một vòng trong thôn, nhìn ngó một chút.

    - Có lẽ anh ăn sáng đã, rồi hẵng…

    - Anh nhức đầu, không muốn ăn đâu.

    - Anh sẽ về ăn sáng nhé! Em nhóm lò ngay đây.

    - Đừng chờ anh làm gì, anh không chóng về đâu.

    Grigori bước ra phố. Lúc trời sắp sáng tuyết có tan một chút. Gió nồm thổi ẩm ướt, ấm áp. Tuyết trộn lẫn với đất dính bết vào gót ủng.

    Grigori nhìn chăm chú những căn nhà và những nhà kho mà chàng đã quen thuộc từ thời thơ ấu. Chung quanh bãi thôn vẫn còn hiện lên đen sì những đống hoang tàn của các nhà lái buôn và cửa hiệu mà Miska đã đốt năm ngoái. Dãy tường bao gần đổ dụi của toà nhà thờ đầy những vết thủng lỗ chỗ. "Cần phải có gạch để làm bếp lò". - Grigori thẫn thờ nghĩ bụng. Toà nhà thờ vẫn nhỏ bé như xưa và nom cứ như cắm xuống đất. Cái mái đã lâu không sơn lại bị rỉ nom vàng khè. Các bức tường loang lổ những đám nước thấm nâu nâu, và ở những chỗ vừa lở vữa những viên gạch bị bóc trần có một màu đỏ rất tươi.

    Các dãy phố đều vắng tanh. Hai ba người đàn bà, còn ngái ngủ gặp Grigori ở gần giếng. Họ lặng lẽ cúi chào Grigori như khi gặp một người lạ, và mãi khi chàng đã đi qua họ mới đứng lại và nhìn theo rất lâu.

    "Phải ra mộ thăm mẹ và Natalia mới được", - Grigori nghĩ vậy rồi rẽ vào cái ngõ thông tới con đường đi ra nghĩa địa, nhưng vừa đi được một lát chàng đã đứng lại. Chàng cảm thấy trong lòng nặng chình chịch và rối như tơ vò. "Thôi hôm khác mình sẽ đi, - chàng quyết định như thế rồi đi về phía nhà Prokho. - Bây giờ đối với mẹ và Natalia, mình đến hay không đến cũng thế thôi. Cả hai đều đã yên nghỉ ở ngoài ấy. Tất cả thế là hết. Tuyết đã phủ đầy mộ. Nhưng ở sâu dưới ấy, có lẽ đất lạnh lắm… Thế là mọi người đã sống đủ tuổi đời cả rồi nhanh thật, cứ như trong mộng ấy. Mọi người đều nằm ở một chỗ, bên cạnh nhau cả vợ mình, cả mẹ, lẫn Petro và Daria… Cả nhà đều ngoài ấy và nằm bên cạnh nhau. Mọi người đều sung sướng, chỉ một mình cha thui thủi nơi đất khách quê người. Ông cụ nằm ở đấy giữa những người lạ có lẽ cũng buồn…" Grigori không nhìn ngang nhìn ngửa nữa, cứ cắm cúi đi, mắt dán xuống chân, nhìn lớp tuyết mỏng trắng loá đang tan dở và hơi lõm bõm nước. Tuyết rất mềm, mềm đến nỗi chàng không cảm thấy có gì dưới chân, thậm chí gần như không nghe thấy tiếng lạo xạo.

    Rồi Grigori bắt đầu nghĩ tới hai đứa con. Không hiểu sao hai đứa đã trở nên rụt rè, trầm lặng, không hợp với tuổi chúng nó chút nào và khác hẳn hồi còn có mẹ. Thần chết đã cướp mất của chúng nó nhiều thứ quá. Những chuyện chẳng có gì cũng làm chúng nó sợ. Tại sao hôm qua con Poliuska lại khóc khi nó trông thấy chàng? Khi gặp lại người thân thuộc, trẻ con thường có khóc đâu, hình như chúng nó có như thế đâu? Không biết lúc ấy trong bụng nó nghĩ gì nhỉ? Mà tại sao khi chàng nắm lấy tay nó thì trong con mắt nó lại thoáng có vẻ hoảng hốt? Chưa biết chừng nó cũng nghĩ rằng bố nó không còn sống nữa, không bao giờ trở lại nữa, vì thế khi nhìn thấy chàng thì nó sợ. Nhưng dù sao chàng Grigori nầy, cũng chẳng có lỗi về điều gì đối với hai đứa. Chỉ cần dặn Acxinhia để nàng thương chúng nó và cố tìm mọi cách để thay được mẹ chúng nó… Có lẽ rồi chúng nó cũng sẽ xoắn xuýt lấy mẹ kếthôi. Nàng là một người đàn bà âu yếm tốt bụng. Vì yêu chàng nên nàng cũng sẽ yêu cả hai đứa trẻ.

    Nghĩ tới những chuyện ấy thì cũng nặng nề và đau lòng. Tất cả không phải đều sẽ đơn giản như thế đâu. Tỏàn bộ cuộc đời đã tỏ ra hoàn toàn không đơn giản như chàng mới gần đây còn tưởng. Với một lòng ngây thơ ngu xuẩn như của con nít, chàng đã ngỡ rằng chỉ cần trở về nhà, thay cái áo ca- pốt bằng chiếc áo choàng bằng dạ thô của nông dân, thế là tất cả sẽ đẹp như trong tranh: sẽ không ai hé răng nói chàng một lời nào, không ai trách cứ chàng, tự nhiên tất cả mọi việc sẽ được thu xếp ổn thoả, rồi chàng sẽ sinh sống làm ăn như một nhà nông hiền lành và một người chủ gia dình gương mẫu. Không thật ra tình hình đâu có đơn giản như thế.

    Grigori mở rất cẩn thận cái cửa xép bám lắt lẻo vào độc một chiếc bản lề của sân nuôi gia súc nhà Prokho. Với đôi ủng da tròn đã trẹo cả đế và cái mũ ba tai chụp xuống tới lông mày, Prokho đang đi về phía thềm nhà, cái thùng vắt sữa bò rỗng lủng lẳng trong tay một cách vô tư lự, những giọt sữa trắng trắng rơi vãi lả tả xuống tuyết.

    - Đồng chí ngủ có ngon không, đồng chí chỉ huy?

    - Ơn Chúa.

    - Chúng mình phải có tí tỉ cho giã chầu rượu tối qua mới được, nếu không đầu óc cứ trống rỗng, y như cái thùng nầy ấy.

    - Uống thêm cho giã rượu cũng là một việc đáng nghĩ tới đấy, nhưng tại sao trong thùng lại chẳng có gì thế nầy? Cậu tự tay ra vắt sữa đấy à?

    Prokho gật mạnh đầu cho cái mũ ba tai chạy ra sau gáy và mãi lúc nầy Grigori mới nhận thấy rằng người bạn của chàng có bộ mặt rầu rĩ một cách rất là bất thường.

    - Nếu không thì quỉ dữ vắt sữa con bò thay cho tôi hay sao? Phải, tôi phải vắt sữa bò thay nó, con mụ đáng nguyền rủa ấy. Uống sữa do tay tôi vắt thì nó cũng đến sôi bụng lên thôi! - Prokho phát khùng quẳng cái thùng đi rồi nói gọn lỏn - Chúng ta vào trong nhà thôi.

    - Thế còn vợ cậu? - Grigori ngập ngừng hỏi.

    - Quỉ dữ lôi nó ra mà nhắm với nước kvas? Trời còn chưa rạng nó đã dậy sửa soạn rồi bỏ đi đến thôn Krugilinsky để hái mận dại.

    - Tôi vừa ở đằng anh về là nó gây sự với tôi ngay? Nó lải nhải đọc đủ các bài kinh rồi nhảy chồm lên và bảo: "Tôi đi hái mận dại đây! Hôm nay hai đưa con dâu nhà Marsaev đi, tôi cũng đi!" Tôi nghĩ thầm: "Mày cứ xéo đi, đi hái lê tao cũng mặc xác, cầu cho con đường mày đi êm như trải thảm?" Rồi tôi trở dậy, nhóm lò và ra vắt sữa bò. Phải, chỉ có độc một tay thì có thể làm nổi những việc như thế hay không?

    - Gọi một mụ nào đến giúp có hơn không? Cậu thật là một thằng kỳ quặc?

    - Chỉ con cừu đực mới kỳ quặc thôi, vì đến lễ Đức Mẹ nó vẫn còn bú, chứ tôi thì vốn dĩ không phải là một thằng kỳ quặc bao giờ.

    - Tôi cứ nghĩ thầm: rồi mình xoay xở cũng xong! Đấy, tôi đã xoay xở được như thế đấy. Tôi bò lổm ngổm như con tôm dưới bụng nó, còn nó, cái con bò ba lần đáng nguyền rủa ấy, nó đâu chịu đứng yên, bốn chân cứ đạp lung tung. Tôi đã phải bỏ cả cái mũ ba tai ra cho nó khỏi sợ, nhưng nó vẫn cứ thế. Trong khi tôi vắt sữa, cái áo sơ- mi tôi mặc ướt đẫm cả. Hễ tôi giơ tay với lấy cái thùng đặt dưới bụng nó là nó đưa chân đá luôn! Cái thùng văng sang một đằng còn tôi thì văng sang một nẻo. Tôi đã vắt xong theo cái kiểu như thế đấy. Nó không phải là một con bò cái mà là một con quỉ có sừng? Tôi bèn nhổ toẹt vào mặt nó một cái rồi bỏ đi. Chẳng có sữa tôi vẫn sống được như thường. Nhưng chúng ta uống cho giã rượu chứ?

    - Nhưng có còn không?

    - Độc một chai. Ngon ghê lắm đấy.

    - Được, ngần ấy cũng đủ rồi.

    - Anh vào đi, anh sẽ là khách của tôi. Tôi rán trứng nhé! Làm chỉ loáng cái là xong.

    Grigori thái mỡ chài, giúp chủ nhà nhóm lửa trên đống tro ở miệng lò. Hai người lặng lẽ nhìn những miếng mỡ hồng hồng lách tách chảy ra nước và trườn đi trườn lại trong cái chảo. Rồi Prokho lôi ra một cái chai đầy bụi từ sau cái ổ để các hình thánh.

    - Đây là chỗ tốt để giấu các tài liệu bí mật không cho vợ tôi biết đấy - Hắn giải thích ngắn gọn.

    Hai người nhắm rượu trong căn phòng nhà trong nhỏ bé, đốt lửa rất ấm và thì thầm nói chuyện với nhau.

    Grigori không đem những nỗi tâm sự thầm kín nhất của mình ra nói với Prokho thì còn nói với ai? Chàng dạng rộng hai chân gân guốc rất dài ngồi cạnh chiếc bàn, cái giọng trầm khàn khàn của chàng vang lên trầm trầm:

    - Cả thời kỳ còn ở bộ đội lẫn trên đường về, mình cứ nghĩ tới chuyện mình sẽ về sống như thế nào với ruộng đất, sẽ được nghỉ ngơi trong gia đình, xa tất cả các chuyện quỉ quái ấy như thế nào. Tám năm liền không xuống ngựa đâu phải trò đùa? Ngay trong giấc ngủ, hầu như đêm nào mình cũng nằm mê thấy cái cảnh đẹp mắt ấy: mình không giết người thì người cũng giết mình… Nhưng Prokho ạ, xem ra muốn làm như ý mình thì không được đâu… Xem ra đối với những người khác mình sẽ không thể cày ruộng đất, chăm nom ruộng đất được đâu…

    - Hôm qua anh đã nói chuyện với Miska rồi chứ?

    - Cứ như được uống mật ong ấy.

    Grigori bắt tréo hai ngón tay.

    - Tình bạn giữa hai chúng mình bây giờ là như thế nầy. Nó trách mắng mình về chuyện đã đi lính cho bọn Trắng, nó nghĩ rằng mình đang ngấm ngầm muốn làm hại chính quyền mới, đang giấu một con dao trong bụng chờ thời cơ chống lại. Nó sợ mình sẽ dấy lên một cuộc bạo động, nhưng mình cần quái gì phải làm cái trò ấy. Thằng ngu xuẩn, nó không hiểu được như thế.

    - Nó cũng nói với tôi như thế đấy.

    Grigori cười nhạt, nụ cười chẳng có gì vui vẻ.

    - Hồi chúng mình tiến quân vào Ba Lan, có một thằng khô- khon ở Ukraina đến xin chúng mình cấp cho vũ khí để bảo vệ thôn xóm. Vốn là chúng nó bị những nhóm thổ phỉ ******** làm tội, cướp phá, giết gia súc. Lúc ấy mình cũng có mặt. Thằng trung đoàn trưởng bảo: "Nếu cấp vũ khí cho các anh thì chính các anh cũng đi làm thổ phỉ thôi". Những thằng khô- khon cười và nói: "Đồng chí ạ, đồng chí cấp vũ khí cho chúng tôi thì chúng tôi không những không để những thằng thổ phỉ vào làng mà còn không cho cả các đồng chí vào nữa". Trong lúc nầy, chính mình đại loại cũng đang nghĩ như thằng khô- khon ấy: nếu làm thế nào cho thôn Tatarsky có thể không cho cả bọn Trắng lẫn bọn Đỏ vào thì tốt nhất. Theo mình thì dù có là thằng Mitka Korsunov anh vợ mình hay thằng Miska Kosevoi, chúng nó cũng chỉ đáng giá như nhau thôi. Nó nghĩ rằng mình là một thằng trung thành với bọn Trắng, không có bọn Trắng mình không thể sống được. Thật là một thằng hạng bét! Mình mà lại trung thành với chúng nó? Mới gần đây thôi, hồi tiến vào Krym, trong một trận chiến đấu mình đã có dịp chạm trán với một thằng sĩ quan của Kornilov, một thằng đại tá oắt con nbanh như con cắt. Nó có bộ ria để theo kiểu Anh với hai mảnh ngay dưới lỗ mũi, nom cứ như hai đám nước mũi ấy. Mình ra sức xả được nó một nhát mà trong lòng như mở cờ? Cái thằng đại tá khốn nạn ấy chỉ còn giữ được nửa cái sọ cùng với nửa cái mũ cát- két… Tất cả lòng trung thành của mình là như thế đấy? Chúng nó ******** làm tội mình cũng đủ nhiều rồi. Mình đổ máu ra kiếm được cái hàm sĩ quan khốn kiếp nầy mà trong bọn sĩ quan mình vẫn cứ như một con quạ trắng. Bọn chó đẻ ấy, chúng nó vốn dĩ có coi mình là một con người đâu, chúng nó không thèm chìa tay cho mình bắt, đã thế mà còn muốn mình… Mẹ chúng nó chứ? Cái chuyện ấy nói đến cũng đủ buồn nôn rồi? Thế mà mình còn lập lại cái chính quyền của chúng rló hay sao? Còn rước những thằng tướng như Fitkhelaurov về nữa hay sao? Cái trò ấy sau khi thử làm một lần mình đã phải nấc suốt một năm trời, nhưng thôi đủ rồi, mình đã khôn ngoan ra rồi, thử làm tất cả những cái trò ấy mình đã mang vạ vào thân rồi?

    Prokho vừa nhúng bánh mì vào mỡ nóng vừa nói:

    - Sẽ chẳng có bạo động bạo điếc gì đâu. Thứ nhất là bọn Cô- dắc chỉ còn lại quá ít, mà những thằng sống sót thì đã rút kinh nghiệm. Sau khi làm những thằng anh em của mình đổ máu khá nhiều, chúng nó đã trở nên hiền lành và thông minh hơn. Bây giờ thì đem vòng thòng lọng ***g vào cổ cũng không thể lôi chúng nó đi bạo động được nữa đâu. Mà lại còn một điều nữa là ở đây dân chúng chỉ đang khao khát một cuộc sống yên ồn. Anh hãy xem mùa hè năm nay mọi người làm ăn như thế nào: cổ khô cắt về đánh đống cao ngất, thóc lúa gặt về kỳ hết chẳng để sót một hạt nào, mệt đến thở không ra hơi mà vẫn cứ cày, vẫn cứ gieo hạt, cứ như người nào cũng định sống một trăm năm nữa ấy? Không, cái chuyện bạo động thì chẳng có gì đáng nói đâu. Đó là một câu chuyện ngu xuẩn. Nhưng ôn dịch nào biết được là trong đầu óc bọn Cô- dắc chúng nó có thể nghĩ ngợi những gì…

    - Thế chúng nó có thể nghĩ ngợi những gì? Cậu định nói đến chuyện gì thế?

    - Những thằng láng giềng của chúng ta đã nghĩ ra cái trò…

    - Thế nào?

    - Anh lại còn thế nào nữa à? Chúng nó đã bạo động ở tỉnh Voronezskaia, tại một nơi nào đó gần Bogutra rồi.

    - Đó chỉ là chuyện bịa?

    - Chuyện nầy thì có gì mà bịa. Hôm qua có một thằng dân cảnh quen với tôi đã nói thế. Hình như chúng nó đang sắp sửa bị điều tới đấy thì phải.

    - Nhưng đích xác là ở những chỗ nào?

    - Ở Monaxtiasina, ở Thượng Dones, ở Pasek ở Cựu Kalitva, Tân Kalitva, và cũng còn vài nơi nữa. Nghe nói bạo động lớn lắm.

    - Tại sao hôm qua cậu không cho biết chuyện nầy, con ngỗng trụi lông nầy?

    - Tôi không muốn nói trước mặt thằng Miska, hơn nữa nói về những chuyện nầy chẳng có gì thú vị. Chỉ mong sao suốt đời không phải nghe nói về những trò như thế. - Prokho trả lời bằng một giọng bực bội.

    Grigori sầm mặt lại. Chàng ngẫm nghĩ giờ lâu rồi nói:

    - Cái tin ấy rất là không hay.

    - Nhưng nó có liên can gì đến anh đâu. Cứ mặc cho bọn khô- khon có dịp suy nghĩ. Chúng nó bị nện vào đít thật đau sẽ biết thế nào là bạo động. Còn tôi với anh thì dứt khoát không dính dáng đến chuyện ấy làm gì. Tôi chẳng thương hại chúng nó chút nào đâu.

    - Bây giờ sẽ có những chuyện khá khó khăn cho mình.

    - Sao thế?

    - Lại còn sao thế? Nếu đối với mình, cả chính quyền khu cũng có những ý nghĩ như thằng Miska thì mình sẽ không thoát khỏi ngồi tù ở ngay cạnh một nơi có bạo động, mình lại là một sĩ quan cũ, hơn nữa đã từng bạo động… Cậu hiểu chưa?

    Prokho thôi không nhai nữa, mặt có vẻ đăm chiêu. Đầu óc hắn vẫn chưa nghĩ ra được những điều như thế. Hơi men đã làm hắn trở nên đờ đẫn, suy nghĩ rất chậm chạp, khó khăn.

    - Nhưng việc ấy thì có liên can gì đến anh, anh Pantelevich? - Hắn thắc mắc hỏi.

    Grigori cau mày bực bội và không nói gì cả. Rõ ràng tin nầy đã làm chàng lo lắng. Prokho muốn đẩy tới cho chàng một cốc rượu, nhưng chàng ngăn tay chủ nhà lại, kiên quyết nói:

    - Mình không uống nữa đâu.

    - Nhưng có lẽ chúng mình cứ uống thêm một cốc nữa đi. Uống đi, anh Grigori Pantelevich, trong lúc chưa say thì cứ uống đi. Trong cuộc sống quá vui vẻ như thế nầy chỉ có rượu làm cho mình quên hết được.

    - Cậu cứ say một mình đi. Đầu óc cậu ngu xuẩn như thế thì nó đến làm cho cậu mất mạng thôi. Hôm nay mình còn phải lên Vosenskaia để đăng ký.

    Prokho nhìn chàng chằm chằm. Khuôn mặt dãi dầu nắng gió của Grigori ửng lên một màu đỏ tía, gần như nâu, chỉ ở sát chân bộ tóc chải lật ra sau là da còn có màu trắng bệch. Vẻ mặt chàng rất bình thản, cái bình thản của người lính đã biết mọi sự đời mà chiến tranh và mưa nắng đã làm cho gần gụi thân thuộc với Prokho. Hai con mắt hơi hum húp của chàng nom âm thầm, đầy vẻ mệt mỏi khắc nghiệt.

    - Anh có sợ rằng chính cái chuyện ấy… anh có sợ chúng nó bỏ tù anh không? - Prokho hỏi.

    Grigori sôi nổi hẳn lên.

    - Người anh em ạ, chính là mình đang sợ cái trò ấy đấy! Cha sinh mẹ đẻ chưa ngồi tù bao giờ, vì thế mà mình sợ ngồi tù hơn sợ chết.

    - Nhưng xem ra cũng phải nếm cái mùi ngon ngọt ấy thôi.

    - Anh chọn con đường về nhà thật là không đúng. - Prokho nói bằng một giọng thương hại.

    - Thế thì cậu bảo mình đi đâu mới đúng?

    - Có lẽ anh nên tìm một nơi nào đó ở thành phố mà tránh đi, chờ cho cái chuyện lộn xộn ấy lắng xuống một chút rồi hãy trở về thì hơn.

    Grigori xua tay, bật cười.

    - Làm như thế không hợp với mình đâu? Chờ đợi và theo đuôi là điều đáng ghét nhất trên đời. Mình có thể bỏ hai đứa trẻ để đi đâu bây giờ?

    Anh nói thế mà nghe được à? Không có anh ở nhà chúng nó không sống được đấy chắc? Sau đó sẽ về đón chúng nó và cô người yêu cũng được chứ sao? À mà quên không nói cho anh biết: Mấy thằng chủ của anh, chỗ anh và Acxinhia đi ở từ trước chiến tranh ấy mà, cả hai đứa đều ngỏm cả rồi.

    - Nhà Litnhitki ấy à?

    - Chính chúng nó đấy. Anh chàng Dakha, bạn đỡ đầu của tôi, có làm lính hầu cho thằng Litnhitki con trong thời kỳ rút lui. Hắn ta kể rằng lão địa chủ già mắc bệnh thương hàn đã chết ở Morozovskaia, còn thằng con mò được tới Ekaterinoda. Nhưng đến đấy thì con vợ nó tằng tịu với thằng tướng Pokrovsky vì thế nó bất mãn, không chịu được, đã tử tự bằng súng ngắn.

    - Hừ, mặc cho quỉ dữ bắt chúng nó đi. - Grigori nói bằng một giọng lạnh nhạt. - Những người tốt mà chết còn thương, chứ cái hạng như chúng nó thì chẳng ai đau lòng đâu.

    Rồi chàng đứng dậy, mặc áo ca- pốt và đến lúc cầm lấy nắm đấm trên cánh cửa mới trầm ngâm nói tiếp:

    - Quỉ quái nào biết được vì sao bao giờ mình cũng thèm được như thằng Litnhitki con hay thằng Miska nhà mình… Đối với chúng nó thì ngay từ đầu tất cả đều rõ rành rành, còn đối với mình thì ngay đến bây giờ mọi mặt đều vẫn còn mù mịt. Chúng nó, cả hai đứa, đều có con đường riêng, một con đường thẳng mà đi, một mục đích mà theo, còn như mình cứ đi quanh đi quẩn, ngả ngả nghiêng nghiêng như thằng say rượu… Mình đã bỏ bọn Trắng nhưng lại không nhập được vào bọn Đỏ, cứ lềnh bềnh như đống phân giữa hố nước trên băng. Cậu thấy đấy, Prokho ạ, dic nhiên đáng là mình phải ở bên Hồng quân đến cùng, và nếu thế thì chưa biết chừng mọi việc của mình sẽ qua khỏi trơn tru. Và ngay từ đầu, chuyện nầy thì cậu cũng biết, mình đã rất hăng hái phục vụ Chính quyền Xô viết, nhưng sau đó tất cả đều tan vỡ… ở bên bọn Trắng, trong bộ tư lệnh của chúng nó, mình đã là một thằng xa lạ, bao giờ cũng bị chúng nó nghi ngờ. Nhưng làm thế nào để có thể khác được? Một thằng con nhà làm ruộng, một thằng Cô- dắc không có chữ nghĩa như mình thì họ hàng thân thuộc gì với chúng nó? Chúng nó có tin mình đâu? Rồi sau ở bên bọn Đỏ tình hình cũng vẫn như thế. Mình không phải là một thằng mù, vì thế cũng thấy được rằng thằng chính trị viên và những thằng Đảng viên cộng sản khác trong đại đội theo dõi mình thế nào… Trong các trận chiến đấu, chúng nó nhìn mình không ngơi mắt, rình từng bước đi của mình và có lẽ chúng nó nghĩ bụng: "Chà- à- à, cái ********* đẻ, thằng Trắng, thằng sĩ quan Cô- dắc nầy, đừng để nó chơi xỏ mình mới được". Mình nhận thấy tình hình như thế mà tim mình lập tức lạnh hẳn đi. Trong thời gian gần đây mình đã không chịu nổi cái thái độ nghi nghi ngờ ngờ như thế nữa. Bị hun nóng quá thì đá cũng phải nứt vỡ. Thôi tốt nhất là chúng nó cho mình giải ngũ. Mọi mặt sẽ càng gần đến chỗ kết thúc hơn. - Chàng húng hắng ho những tiếng khàn khàn, nín lặng một lát rồi không nhìn Prokho, nói giọng khác hẳn - Cám ơn cậu đã thết mình. Thôi mình đi đây. Chúc cậu mạnh khoẻ. Đến tối, nếu còn trở về mình lại sẽ sang. Nhưng cất cái chai đi kẻo vợ cậu về nó lại đập gãy cái cán xoong trên lưng cậu đấy.

    Prokho tiễn chàng ra tới thềm và khẽ nói trong phòng ngoài:

    - Chao ôi, anh Pantelevich, làm thế nào cho ở trên ấy chúng nó đừng tóm cổ anh đấy.

    - Mình sẽ xem như thế nào. - Grigori trả lời dè dặt.

    Chàng không tạt qua nhà mà xuống thẳng bờ sông Đông, tháo chiếc thuyền buộc ở bến đò, không biết của nhà ai, khum bàn tay tát nước trong thuyền ra rồi bẻ một cái cọc trên dãy hàng rào, đập vỡ một khoảng băng ven bờ và bơi sang bờ bên kia.

    Trên mặt sông, những làn sóng xanh lá cây sẫm bị gió thổi sủi bọt, cuồn cuộn trôi về phía tây. Trên dải nước tĩnh ở hai bên bờ, các đợt sóng xô đến, đập vỡ váng băng mỏng ròn, làm rung rinh những đám rong rêu xanh rờn mượt như tơ. Bờ sông không ngớt những tiếng băng nhỏ đập vào nhau kêu lanh canh như pha- lê, tiếng những hòn đá củ đậu ven bờ bị nước tràn qua ràn rạt nhè nhẹ. Nhưng khi tới giữa dòng, nơi nước lao rất mạnh, rất đều, Grigori chỉ nghe thấy tiếng đập trầm trầm của những đợt sóng ập tới mạn thuyền bên trái và tiếng gió rú không lúc nào ngớt, rất thấp, rất trầm, trong khu rừng ven sông.

    Grigori kéo thuyền lên bờ, nhưng vẫn để một nửa còn ngâm dưới nước, rồi tháo ủng, cuốn lại rất cẩn thận vải bọc chân để đi đường dễ chịu hơn.

    Đến giữa trưa thì chàng đến Vosenskaia.

    ° ° °

    Trong Uỷ ban quân sự khu rất đông người và rất ồn ào. Những tiếng chuông điện thoại réo gay gắt, các cánh cửa phòng đập rầm rầm, những người mang vũ khí ra vào tấp nập, từ trong các phòng vẳng ra tiếng máy chữ đập khô khan. Ngoài hành lang có chừng hai chục chiến sĩ Hồng quân đứng vây quanh một người nhỏ bé mặc chiếc áo da chếp nếp kiểu Romanov. Họ cướp lời nhau nói không biết những gì trong những tiếng cười rộ. Khi Grigori bước theo dãy hành lang, từ căn phòng đằng xa có hai chiến sĩ Hồng quân kéo ra một khẩu trọng liên. Hai cái bánh nho nhỏ của khẩu súng khẽ kêu lên lọc cọc trên mặt sàn gỗ sây sứt. Một anh chàng súng máy béo tốt cao lớn, pha trò kêu to: "Nầy các cậu đại đội nhà pha, tránh ra không đây chẹt chết bây giờ!".

    "Xem ra thì chúng nó sắp sửa lên đường đi dẹp bạo động đấy?" - Grigori nghĩ thầm.

    Lúc vào đăng ký, chàng bị giữ lại cũng không lâu. Người thư ký của Uỷ ban quân sự vội vã xem qua giấy chứng minh của chàng rồi nói:

    - Đồng chí hãy qua phòng chính trị 1 của Uỷ ban Treka sông Đông. Đồng chí là sĩ quan cũ, vì thế phải sang bên ấy mà ghi sổ đăng ký.

    - Rõ. - Grigori đưa tay lên vành mũ chào và không để lộ chút nào nỗi xao xuyến tràn ngập trong lòng mình.

    Ra đến quảng trường chàng dừng lại, đăm chiêu suy nghĩ Đáng là phải đến phòng chính trị, nhưng phần xác cũng như phần hồn của chàng cưỡng lại một cách đau khổ, không để cho chàng đi. "Sẽ bị chúng nó bỏ tù mất?" Một giọng nói bên trong bảo Grigori, và chàng run bắn người lên vì sợ hãi và kinh tởm. Chàng đứng lại bên dãy hàng rào của trường trung học, đưa cặp mắt không trông thấy gì nhìn xuống khoảng đất đầy phân gia súc và đã tưởng tượng thấy mình đang đi trên những bậc thang bẩn thỉu xuống một chỗ hầm nhà với hai tay bị trói, và sau lưng chàng có một kẻ nắm chặt cái cán sần sùi của khẩu Nagan. Grigori nắm hai tay lại và nhìn đường gân xanh nổi phồng lên. Cả hai bàn tay nầy cũng sẽ bị chúng nó trói hay sao? Máu trong người chàng dồn cả lên mặt. Không, hôm nay chàng sẽ không tới đó? Ngày mai muốn đi thì sẽ đi, chứ hôm nay chàng còn về thôn, sống nốt ngày hôm nay với hai con, gặp Acxinhia và sáng mai sẽ lại tới Vosenskaia. Mẹ khỉ, mẹ cái bên chân đau đi chốc chốc lại nhói một cái. Chàng sẽ chỉ về nhà một ngày rồi quay lại đây, nhất *** h sẽ quay lại. Ngày mai muốn ra sao thì ra, còn hôm nay thì không!

    - Á… à anh Melekhov! Bao năm nay không gặp nhau rồi…

    Grigori quay lại Yakov Fomin, bạn đồng đội cũ của Petro, trước kia là trung đoàn trưởng trung đoàn 28 đã nổi loạn chống lại Quân đội sông Đông đi tới gần chàng.

    Đây không còn là tên Fomin vụng về, ăn vận cẩu thả của trung đoàn Atamansky như xưa kia Grigori thường biết. Chỉ hai năm mà hắn đã thay đổi hẳn; hãn mặc chiếc áo ca- pốt của kỵ binh rất diện, may rất vừa người, hàng ria đỏ chăm sóc cẩn thận xoắn vểnh lên nom rất ngang tàng. Trong toàn bộ thân hình, cũng như dáng đi cố ra vẻ hùng dũng và nụ cười tự mãn của hắn đều có thể thấy rõ tính chất của một kẻ tự coi mình hơn người.

    - Run rủi thế nào anh lại gặp chúng tôi thế nầy? - Hắn vừa hỏi vừa bắt tay Grigori và cứ nhìn vào mắt chàng bằng hai con mắt màu xanh lơ nằm rất xa nhau.

    - Tôi phục viên rồi. Vừa tới Uỷ ban quân sự.

    - Anh về đã lâu chưa?

    - Hôm qua.

    - Tôi vẫn nhớ tới anh Petro Pantelevich của anh luôn. Một tay Cô- dắc cừ như thế mà chết uổng. Tôi và Petro vốn là bạn chí thân chí thiết với nhau đấy. Anh Melekhov ạ, đáng là năm ngoái các anh không nên bạo động mới phải. Các anh quả đã phạm sai lầm?

    - Xem ra cũng phải nói một câu gì đó, vì thế Grigori trả lời:

    - Đúng đấy. Anh em Cô- dắc đã sai lầm…

    - Vừa rồi anh ở đơn vị nào.

    - Tập đoàn quân kỵ binh số một.

    - Làm gì?

    - Đại đội trưởng.

    Té ra vậy? Hiện nay tôi cũng đang chỉ huy một đại đội kỵ binh. Ở ngay đây, ở Vosenskaia, chúng ta đang có một đại đội kỵ binh cảnh vệ. - Hắn đưa mắt nhìn quanh rồi hạ thấp giọng rủ Grigori: - Thế nầy nầy, chúng ta hãy đi chơi một lát, anh cùng đi với tôi một đoạn, kẻo ở đây có nhiều người qua lại, họ không để cho chúng mình có thể nói chuyện với nhau được.

    Hai người đi dọc theo dãy phố, Fomin liếc nhìn Grigori và hỏi:

    - Anh định về nhà sinh sống à?

    - Nếu không thì còn chỗ nào mà ở nữa? Phải về nhà thôi.

    - Làm ăn à?

    - Phải.

    Fomin lắc đầu tỏ vẻ thương hại rồi thở dài:

    - Anh Melekhov ạ, anh chọn thật không đúng lúc, chao ôi, thật không đúng lúc… Trong một hay hai năm anh không nên về nhà thì hơn.

    - Tại sao thế ạ?

    Fomin nắm lấy khuỷu tay Grigori, hơi ngả người về phía chàng và khẽ nói:

    - Tình hình trong khu đang nhốn nháo lắm. Bà con Cô- dắc hết sức bất mãn đối với chế độ trưng thu lương thực. Ở huyện Bogutra đang có bạo động. Hôm nay chúng tôi lên đường đi trấn áp đây. Người anh em ạ, tốt nhất anh hãy chuồn khỏi nơi nầy đi, mà phải quàng quàng lên mới được. Tôi là bạn thân của Petro, vì thế mới nói với anh lời khuyên nầy: anh hãy đi đi!

    - Tôi chẳng còn nơi nào mà đi nữa.

    - Hừ, anh phải cẩn thận? Tôi muốn nói rằng phòng chính trị bắt đầu bắt giữ các sĩ quan rồi đấy. Trong tuần nầy đã có hai cậu chuẩn uý bị giải từ Dudarevca về đây, một cậu nữa thì từ Resetovka, còn từ bên kia sông Đông thì hàng lô bị giải về, cả những thằng Cô- dắc thường, chẳng có chức tước gì, cũng bắt đầu bị hỏi đến. Anh tự suy nghĩ xem, anh Grigori Pantelevich ạ.

    - Xin cám ơn anh về lời khuyên, nhưng tôi sẽ không đi đâu cả. - Grigori vẫn khăng khăng.

    - Dù sao cũng là việc của anh thôi.

    Rồi Fomin bắt đầu nói về tình hiình trong khu, về quan hệ của hắn với các thủ trưởng khu và với uỷ viên quân sự khu Sakhaev. Vì đầu óc còn đang bận với những ý nghĩ của mình, cho nên Grigori chỉ nghe hắn nói một cách thẫn thờ. Hai người cùng đi qua ba đoạn đường phố, rồi Fomin đứng lại.

    - Tôi có việc cần phải đi đằng nầy. Thôi nhé. - Hắn đưa tay lên vành chiếc mũ lông kiểu Kuban, chia tay với Grigori một cách lạnh nhạt rồi rẽ vào một cái ngõ, cái dây đeo súng qua vai còn mới toanh kêu kèn kẹt, người dướn thẳng, nom oai vệ một cách rất buồn cười.

    Grigori đưa mắt nhìn theo hắn rồi quay trở lại. Chàng vừa bước lên những bậc thềm bằng đá trước ngôi nhà hai tầng của phòng chính trị vừa nghĩ thầm: "Chấm dứt cho mau cho chóng thôi, chẳng kéo dài làm gì nữa! Grigori ạ, mày đã có gan ăn cướp thì cũng phải có gan chịu đòn?"

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Phòng chính trịi. Ở đây là tên gọi những tổ chức Treka cấp khu hoặc cấp huyện trong hai năm 1920 - 1921 (Lời chú bản tiếng Nga)
  8. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 222

    Lúc khoảng tám giờ sáng, Acxinhia cào than nóng trong bếp lò thành một đống rồi vừa ngồi xuống chiếc ghế dài vừa kéo tạp dề lên lau khuôn mặt đỏ bừng bừng, đẫm mồ hôi. Trời còn chưa hửng, nàng đã dậy để làm xong thật sớm các công việc bếp núc: nàng nấu món mì gà, làm bánh tráng, tưới rất nhiều bơ nóng vào bánh phó mát rồi đưa vào lò nướng. Nàng biết rằng Grigori rất thích ăn bánh phó mát nướng vì thế đã làm một bữa thật sang với hy vọng người yêu sẽ sang nhà mình ăn trưa.

    Nàng chỉ muốn kiếm một cớ gì đó để tạt sang nhà Melekhov và ở lại bên ấy một phút thôi cũng được, cốt sao có dịp được nhìn thấy Grigori, dù chỉ một loáng. Chàng đang ở ngay đây, bên cạnh nhà mà không được trông thấy mặt chàng thì thật là không tưởng tượng được. Nhưng dù sao nàng cũng nén được ý muốn ấy và không sang. Thật ra nàng đâu còn là một cô gái. Ở cái tuổi của nàng thì không thể làm gì một cách xốc nổi.

    Nàng rửa tay rửa mặt sạch hơn mọi ngày, mặc chiếc áo lót sạch và cái váy lót mới viền đăng- ten. Nàng đứng đắn đo rất lâu bên cạnh cái rương mở nắp, không biết bên ngoài nên mặc cái gì bây giờ?

    Ngày thường mà diện quần lành áo tốt thì không tiện, nhưng nàng cũng không muốn mặc những áo xống giản dị thường mặc trọng khi làm lụng. Vì không biết nên quyết định lựa chọn những thứ gì.

    Acxinhia cau mày, thẫn thờ so sánh những cái váy đã là cẩn thận.

    Cuối cùng nàng quyết định mặc một chiếc váy màu lam sẫm và cái áo ngoài màu xanh da trời viền đăng- ten đen gần như chưa mặc lần nào. Đó là những thứ đẹp nhất mà nàng có. Suy đến cùng thì hàng xóm láng giềng nghĩ thế nào chẳng được? Đối với họ hôm nay là ngày thường nhưng đối với nàng lại là ngày hội: Nàng vội vã thắng bộ cánh vào rồi ra đứng trước cái gương. Một nụ cười hơi có phần ngạc nhiên thoáng trên môi nàng: hai con mắt rất trẻ, bừng bừng như hai hòn than của một người nào đó, đang tò mò và vui vẻ nhìn nàng.

    Acxinhia chăm chú xem xét lại khuôn mặt của mình một cách nghiêm khắc rồi thở dài nhẹ nhõm. Không, sắc đẹp của nàng vẫn chưa phai tàn chút nào? Khi gặp nàng nhiều gã Cô- dắc đã phải đứng lại nhìn theo bằng cặp mắt rồ dại.

    Trong khi đứng trước gương sửa lại những nếp váy, nàng nói thành tiếng: "Chà, anh Grigori Pantelevich, anh hãy cẩn thận đấy!, Rồi cảm thấy mình đỏ mặt, nàng khẽ cười và cố giữ cho mình khỏi cười to. Tuy vậy nàng vẫn tìm ra trên thái dương vài sợi tóc bạc và nhổ đi. Không nên để Grigori nhìn thấy cái gì nhắc nhở chàng về cái tuổi của nàng. Đối với chàng, nàng muốn mình vẫn còn trẻ như bảy năm về trước.

    Cho đến giờ ăn trưa, nàng vẫn còn cố nán ngồi được ở nhà, nhưng rồi không chịu được nữa, nàng khoác lên vai chiếc khăn bằng lông dê trắng và sang nhà Melekhov, Dunhiaska ở nhà một mình, Acxinhia chào Dunhiaska rồi hỏi:

    - Ở nhà chưa ăn trưa à?

    - Với những con người không thiết gì đến nhà cửa ấy thì làm thế nào có thể cơm nước đúng giờ được? Chồng em còn ra Uỷ ban, còn anh Grigori thì lên thị trấn. Em đã cho hai đứa trẻ ăn xong rồi, còn đang chờ người lớn đây.

    Nhìn bên ngoài thì Acxinhia rất bình tĩnh, không có một cử chỉ hay lời nói nào để lộ rõ nỗi thất vọng trong lòng. Nàng nói:

    - Thế mà tôi cứ tưởng mọi người đều có nhà đầy đủ. Thế bao giờ anh Griska… anh Grigori Pantelevich mới về! Hôm nay chứ?

    Dunhiaska đưa nhanh mắt nhìn khắp người chị láng giềng ăn mặc diêm dúa rồi trả lời miễn cưỡng:

    - Anh ấy đi đăng ký rồi.

    - Anh ấy hứa lúc nào sẽ về!

    Vài giọt nước mắt long lanh trong khoé mắt Dunhiaska. Cô nói giọng ngắc ngứ và có vẻ trách móc:

    - Thật là chị đã chọn đúng lúc… để trang điểm thế nầy… Sao chị còn chưa biết rằng anh ấy có thể không bao giờ trở về nữa?

    - Tại sao lại không trở về nữa?

    - Miska nói rằng ở trên trấn họ sẽ bắt giữ anh ấy… - Dunhiaska khóc với những giọt nước mắt dè xẻn đầy căm uất. Cô đưa tay áo lên lau nước mắt và kêu lên - Nó thật đáng nguyền rủa, cái cuộc sống nầy! Mà không biết tất cả chuyện ấy bao giờ mới chấm dứt? Anh ấy đi rồi là hai đứa trẻ có thể nói là như hoá điên hoá ngộ. Chúng nó không rời em nửa bước. Hết "Bố cháu đi đâu?" lại "Bao giờ bố cháu mới về!". Mà em thì biết gì được? Đưa tiễn hai người ra sân mà trong lòng đau như cắt… Cái cuộc sống chết tiệt nầy nó còn ra sao nữa! Chẳng được một lúc nào yên tĩnh, thật là khóc lên được!

    - Nếu đêm nay anh ấy không về, ngày mai tôi sẽ lên trấn hỏi xem sao. - Acxinhia nói rất lạnh nhạt, cứ như đang bàn về một câu chuyện hết sức bình thường, không đáng xúc động một chút nào.

    Dunhiaska ngạc nhiên trước vẻ mặt bình tĩnh của nàng. Cô thở dài:

    - Bây giờ thì xem ra không còn có thể chờ anh ấy được nữa đâu. Anh ấy về đây chỉ để chịu khổ?

    - Tạm thời còn chưa biết sẽ thế nào đâu! Thôi cô đừng khóc nữa, nếu không hai đứa nhỏ lại tưởng… Tôi về nhé!

    Đến tối mịt Grigori mới về. Chàng ở nhà một lát rồi sang với Acxinhia.

    Những điều lo lắng khắc khoải mà nàng vừa phải chịu đựng một ngày dài đằng đẵng cũng có phần giảm bớt cái vui khi trông thấy nhau. Đến lúc trời sắp hoàng hôn thì Acxinhia có cảm tưởng như mình đã phải làm quần quật suốt ngày, không được rướn lưng lên một lần nào. Chờ đợi mãi đâm ra nản lòng và mệt mỏi, nàng bèn nằm xuống giường ngủ thiếp đi một lát, nhưng vừa nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài cửa sổ, nàng đã nhảy chồm dậy, lẹ như hồị còn con gái.

    - Tại sao anh không cho em biết rằng anh lên Vosenskaia? - Nàng ôm lấy Grigori, vừa hỏi vừa giúp chàng cởi những cái khuy áo ca- pốt.

    - Anh vội quá, không kịp nói.

    - Còn em và Dunhiaska thì khóc hết nước mắt, cả hai cứ tưởng anh không về nữa.

    Grigori mỉm cười dè dặt.

    - Không, chưa đến nỗi như thế đâu. - Chàng lặng đi một lát rồi lại nói thêm - Tạm thời còn chưa đến nỗi như thế đâu.

    Chàng khập khiễng bước tới bên cạnh cái bàn ngồi xuống. Qua cánh cửa mở toang có thể nhìn thấy gian nhà trong, cái giường gỗ rộng kê ở góc phòng, chiếc rương với những chỗ ốp đồng sáng bềnh bệch. Tất cả ở đây đều vẫn như hồi còn là một thanh niên, chàng thường mò sang bên nầy những lúc Stepan vắng nhà. Gần như chàng không nhận thấy có sự thay đổi nào cả, tựa hồ thời gian đã trôi qua nhưng quên không ngó vào căn nhà nầy. Ngay đến những hương vị xưa kia cũng còn được giữ nguyên: vẫn nồng nặc cái mùi ngây ngất của men rượu mới, mùi sàn nhà lau rửa sạch sẽ và mùi bách lý hương héo thoang thoảng. Grigori có cảm tưởng như lần trước mình mới ra khỏi nơi nầy chưa được bao lâu, vào một buổi sáng, nhưng thật ra tất cả các việc đó đã xảy ra lâu lắm rồi…

    Chàng nén tiếng thở dài, bắt đầu từ từ cuốn một điếu thuốc, nhưng không hiểu sao hai tay cứ run lên, làm thuốc rơi lả tả xuống đầu gối.

    Acxinhia vội vã bày bàn ăn. Món mì đã nguội tanh, phải hâm lại mới được. Nàng bèn chạy ra nhà kho vơ lấy một ít củi vụn rồi bắt đầu nhóm lửa trên đống than trước lò. Nàng thở hổn hển, mặt hơi tái đi. Trong khi thổi những hòn than cháy rực toé ra những tia lửa đỏ, nàng vẫn kịp đưa mắt nhìn Grigori gù lưng xuống lặng lẽ hút thuốc.

    - Công việc của anh ở trên ấy thế nào? Tất cả đều ổn thoả rồi chứ?

    - Mọi việc đều rất tốt.

    - Không biết tại sao Dunhiaska cứ nói rằng thể nào anh cũng bị bắt? Cô ấy đã làm em sợ chết đi được.

    Grigori cau mày ném điếu thuốc đi, đầy vẻ tức tối.

    - Thằng Miska đã thở vào tai nó như thế đấy. Cái thằng ấy, lúc nào nó cũng nghĩ tới chuyện đem tai vạ đổ lên đầu anh.

    Acxinhia bước tới gần cái bàn. Grigori nắm lấy tay nàng.

    - Mà em có biết không, - chàng ngước nhìn vào mắt nàng và nói - Tình hình anh cũng không ổn lắm đâu. Chính anh cũng đã nghĩ rằng mình đặt chân vào cái phòng chính trị ấy rồi sẽ không ra khỏi đấy nữa. Dù sao anh cũng đã chỉ huy một sư đoàn trong cuộc bạo động, với cái hàm trung uý… Trong lúc nầy họ đang muốn nắm chắc trong tay những thằng như anh đấy.

    - Thế họ đã nói với những anh những gì?

    - Họ đưa cho một bản tự khai để anh điền vào. Đó là một tờ giấy trên đó phải ghi lại toàn bộ thời kỳ đi lính. Nhưng chữ nghĩa của anh thì tồi lắm. Cha sinh mẹ đẻ không bao giờ phải viết nhiều đến như thế. Anh phải ngồi hai tiếng đồng hồ để viết lại tất cả mọi việc mình đã làm. Rồi lại có thêm hai người nữa vào trong phòng, họ hỏi tất cả mọi chuyện về cuộc bạo động. Họ ra vẻ cũng chẳng đến nỗi nào, đều là những anh chàng nhã nhặn. Anh chàng cao cấp hơn hỏi: "Đồng chí có muốn uống trà không? Nhưng chỉ có đường hoá học thôi". Anh nghĩ thầm: trong lúc nầy thì còn trà với triếc cái gì? Chỉ cốt sao hai cái cẳng tao còn đưa ra được toàn vẹn ra khỏi chỗ chúng mày là tốt. - Grigori nín lặng một lát rồi nói thêm bằng một giọng khinh bỉ như nói về người khác - Anh đã khá nhu nhược trong việc đền nợ cũ Anh đã sợ.

    Chàng cảm thấy bực bội với chính mình vì ở đấy, trên Vosenskaia, chàng đã nhát gan và không đủ sức chống lại sự sợ hãi xâm chiếm lòng mình. Chàng càng bực mình gấp bội vì nỗi lo lắng của chàng hình như chẳng có căn cứ gì cả. Bây giờ thì tất cả những điều mà chàng cảm thấy trong lúc đó đều có vẻ vừa buồn cười vừa đáng nhục. Chàng đã nghĩ về chuyện ấy trên đường về, có lẽ chính vì thế nên bây giờ chàng vừa kể lại tất cả vừa chế giễu mình và cũng có phần thổi phồng các cảm xúc của mình.

    Acxinhia chăm chú nghe chàng kể lại rồi nhẹ nhàng rút tay ra và đi tới chỗ bếp lò. Nàng khơi to ngọn lửa, hỏi:

    - Nhưng sau nầy sẽ như thế nào?

    - Một tuần nữa anh lại phải đi đăng ký.

    - Anh nghĩ rằng dù sao người ta cũng sẽ bắt anh à?

    - Xem ra thì như thế đấy. Sớm hay muộn chúng nó cũng sẽ bắt thôi.

    - Nếu vậy chúng ta sẽ làm thế nào bây giờ? Chúng mình sẽ sống thế nào bây giờ, anh Griska?

    - Anh cũng không biết. Nhưng chuyện ấy cứ để lúc khác hãy bàn.

    - Em có nước rửa không thế?

    Hai người ngồi vào bàn ăn tối, và cái hạnh phúc trọn vẹn mà Acxinhia cảm thấy lúc sáng quay trở lại với nàng. Grigori đang ngồi đây, ngay bên cạnh nàng. Bây giờ thì có thể nhìn chàng không rời mắt mà không lo có người khác rình mò ánh mắt của mình, có thể dùng cặp mắt nói ra tất cả mọi điều, không chút giấu giếm, không chút ngượng ngùng. Lạy Chúa tôi, nàng đã đau khổ mong nhớ chàng đến ngần nào, tấm thân của nàng đã chờ đợi bao lâu nay hai bàn tay to lớn và thô bạo nầy! Nàng gần như không đụng tới các món ăn mà chỉ hơi ngả người về phía trước nhìn Grigori ăn lấy ăn để, cặp mắt mờ đục của nàng âu yếm vuốt ve khuôn mặt, cái cổ ngăm ngăm bó chặt trong cái cổ đứng của áo quân phục, cặp vai rộng, hai bàn tay nặng nề đặt trên bàn. Nàng thèm khát, ra sức hít cái mùi mồ hôi đàn ông nồng hắc toả ra từ người chàng lẫn với mùi thuốc lá, cái mùi quen thuộc và thân thiết chỉ có ở một mình chàng. Dù bịt mắt lại, nàng chỉ cần ngửi thấy cái mùi ấy cũng có thể phân biệt được Grigori của nàng với hàng ngàn người đàn ông khác. Hai làn má của nàng đỏ rực lên, tim nàng đập dồn dập, đập thình thịch. Tối nay nàng không thể nào làm trọn nhiệm vụ của một bà chủ nhà đãi khách chu đáo, vì ngoài Grigori ra, nàng không còn nhìn thấy chung quanh mình có gì khác nữa. Nhưng chàng cũng không đòi nàng phải săn sóc cho mình: chàng tự tay lấy bánh mì, đưa mắt tìm thấy cái đựng muối trên lò sưởi, tự múc lấy đĩa mì thứ hai.

    - Anh đang như một con chó đói ấy. - Chàng mỉm cười nói như tự bào chữa. - Từ sáng chưa được miếng nào vào bụng.

    Và mãi lúc nầy Acxinhia mới chợt nhớ nhiệm vụ của mình. Nàng vội vã đứng chồm lên:

    - Chao ôi, sao mà đầu óc em nó mụ ra mất rồi? Có cả bánh phó mát lẫn bánh tráng mà em quên khuấy đi mất! Anh ăn thịt gà đi! Ăn thật nhiều vào, anh yêu của em! Em mang ra ngay đây.

    Nhưng chàng đã ngồi ăn lâu và tận tình biết bao? Làm cứ như hàng tuần nay không được cho ăn không bằng: Acxinhia kiên nhẫn chờ đợi, nhưng rồi nàng cũng không nhịn được nữa: nàng đến ngồi bên cạnh Grigori, đưa tay trái níu đầu chàng vào với mình, còn tay phải thì với lấy chiếc khăn thêu sạch, tự tay lau cặp môi và cái cằm chảy mỡ của người yêu rồi nín thở, áp chặt môi mình vào môi chàng, hai con mắt lim dim toé ra những tia màu da cam trong bóng tối.

    Thật ra con người ta muốn cảm thấy hạnh phúc cũng không cần nhiều gì cho lắm. Dù sao tối hôm ấy Acxinhia cũng đã được hưởng hạnh phúc.
  9. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 223

    Grigori thấy gặp Miska là một chuyện rất nặng nề. Mối quan hệ giữa hai người đã được xác định rõ ràng ngay từ buổi đầu, vì thế hai người chẳng còn có gì đáng nói với nhau nữa, mà cũng chẳng nói làm gì. Chắc hẳn Miska không thích thú gì mỗi khi gặp mặt Grigori.

    Anh thuê hai người thợ mộc, và họ cấp tốc chữa lại cho anh căn nhà nhỏ: họ thay những cái dầm đã gần mục hết trên mái, soi lại mái nhà, dựng lại một trong bốn bức tường xiêu vẹo, làm những đà ngang cửa, các khung cửa sổ và cửa ra vào mới.

    Sau khi ở Vosenskaia về, Grigori có tới Uỷ ban cách mạng thôn, trình cho Miska xem các giấy chứng minh của quân đội có đóng dấu của Uỷ ban quân sự rồi bỏ về mà không chào từ biệt. Chàng dọn sang ở với Acxinhia, đem theo cả hai đứa con và ít đồ riêng. Lúc đưa tiễn anh sang ở chỗ mới, Dunhiaska oà lên khóc:

    - Anh yêu của em, anh đừng giận em, em không có lỗi với anh đâu? - Dunhiaska nhìn anh trai bằng cặp mắt van lơn.

    - Nhưng giận em về chuyện gì cơ chứ, Dunhiaska? Không, không đâu, em nói gì vậy? - Grigori an ủi em gái. - Em nhớ đến thăm anh và các cháu… Cả gia đình nhà ta, anh chỉ còn có mộ mình em, bao giờ anh cũng thương em và bây giờ vẫn thương… Phải, còn chồng em thì lại là chuyện khác. Tình nghĩa giữa hai anh em mình không thể nào sứt mẻ được đâu.

    - Chúng em sắp dọn nhà rồi, anh đừng bực mình nhé.

    - Việc gì phải làm thế? - Grigori nói có vẻ khó chịu. - Các em cứ ở lại nhà cho đến sang xuân cũng được. Chẳng trở ngại gì anh đâu ở bên nhà Acxinhia cũng có đủ chỗ cho anh và các cháu.

    - Anh sẽ lấy chị ấy chứ, anh Griska?

    - Vẫn còn chán thì giờ để làm việc ấy, - Grigori không trả lời dứt khoát.

    - Anh lấy chị ấy đi anh ạ, chị ấy tốt lắm. - Dunhiaska nói giọng cương quyết. - Hồi mẹ còn sống mẹ thường nói anh chỉ nên lấy chị ấy làm vợ thôi. Trong những ngày cuối cùng mẹ đã mến chị ấy. Trước khi chết mẹ thường sang chơi bên chị ấy luôn.

    - Mày nói cứ như dỗ anh ấy. - Grigori mỉm cười nói. - Ngoài Acxinhia ra anh còn lấy ai bây giờ? Hay là anh lấy mụ Andriunhikha?

    Mụ Andriunhikha là bà già nhiều tuổi nhất thôn Tatarsky. Mụ đã quá một trăm tuổi từ lâu rồi. Nghĩ tới cái thân hình bé tí tẹo, còng sát đất của mụ, Dunhiaska phì cười:

    - Anh chỉ nói bậy, anh yêu của em? Em chỉ hỏi như thế thôi. Anh chẳng đả động gì tới chuyện ấy, vì thế em mới phải hỏi?

    - Dù là lấy ai, nhưng thể nào anh cũng mời em đến ăn cưới đấy. - Grigori pha trò, vỗ vai em gái rồi ra khỏi ngôi nhà thân yêu, trong lòng nhẹ nhõm.

    Nói đúng sự thật thì đối với chàng sống ở đâu mà chẳng thế, miễn là được sống yên ổn. Nhưng chính sự yên ổn ấy lại là điều chàng không thể nào kiếm được… Chàng sống vài ngày trong hoàn cảnh vô công rỗi nghề. Nó làm chàng cảm thấy rất nặng nề. Chàng cũng đã thử làm vài việc để sửa sang ngôi nhà của Acxinhia, nhưng lại lập tức thấy ngay rằng mình không thể làm gì được. Đầu óc chàng cứ chơi vơi ở chỗ nào. Chàng rất đau khổ vì cái tình trạng chưa biết được điều gì rõ ràng nó dằn vặt, trở ngại không để mình sinh sống: không một phút nào chàng giũ bỏ được ý nghĩ là mình có thể bị bắt, bị bỏ tù, mà như thế còn là may, nếu không còn có thể bị xử bắn nữa là khác Những lúc thức giấc trong đêm, Acxinhia thường thấy Grigori không ngủ. Chàng thường gối đầu tay nằm ngửa, nhìn đăm đăm vào bóng tối mung lung bằng hai con mắt lạnh lùng đầy phẫn nộ.

    Acxinhia cũng biết chàng đang nghĩ gì. Nhưng nàng cũng chẳng biết làm gì để giúp đỡ chàng. Chính nàng cũng đau khổ, khi thấy chàng đau khổ, khi đoán biết rằng các hy vọng của mình về một cuộc sống chung giữa hai người thế là lại không thực hiện được.

    Nàng không gặng hỏi chàng về một điều gì. Thôi cứ để cho chàng tự giải quyết lấy mọi việc. Chỉ một đêm, khi nàng chợt tỉnh dậy và nhìn thấy bên cạnh mình có một đốm thuốc đỏ rực, nàng bèn nói.

    - Anh Griska ạ, anh cứ là không ngủ… Hay anh tạm rời khỏi thôn đi đâu một dạo có được không? Hoặc là hai chúng mình cùng lánh về một nơi nào có được không?

    Chàng ân cần kéo chăn đắp chân cho nàng rồi miễn cưỡng trả lời:

    - Để anh nghĩ xem đã. Em cứ ngủ đi.

    - Rồi đến khi nào ở đây tình hình mọi mặt đều ổn cả, chúng ta sẽ lại trở về anh thấy thế nào hả?

    Nhưng chàng trả lời một cách không dứt khoát, làm như mình chưa quyết định một điều gì cả:

    - Chúng ta hãy chờ xem sắp tới đây tình hình sẽ như thế nào đã. Thôi ngủ đi, Acxiutka. - Nói xong chàng nhẹ nhàng và âu yếm đặt môi mình lên bên vai trần mát rượi, mịn như lụa của nàng.

    Nhưng thật ra chàng đã quyết định rồi: chàng sẽ không lên Vosenskaia nữa. Người cán bộ phòng chính trị tiếp chàng lần vừa rồi sẽ chờ đợi chàng một cách vô ích. Hôm ấy anh ta khoác chiếc áo ca- pốt lên vai ngồi sau chiếc bàn và trong khi nghe chàng, Grigori nầy kể về cuộc phiến loạn, anh ta cứ vươn vai răng rắc và vờ ngáp dài. Anh ta sẽ không được nghe thêm gì nữa. Mọi điều đã được kể lại hết rồi.

    Đến hôm phải lên phòng chính trị, Grigori sẽ bỏ thôn ra đi, và nếu cần sẽ đi lâu ngày. Đi đâu thì chính Grigori còn chưa rõ, nhưng chàng đã nhất quyết thế nào cũng đi. Chàng không muốn chết, cũng không muốn ngồi tù. Chàng đã chọn cho mình một con đường, nhưng không muốn nói trước cho Acxinhia biết. Cũng chẳng nên đầu độc mấy ngày cuối cùng của nàng làm gì, không thế, mấy ngày ấy cũng không vui vẻ lắm rồi. Cần phải chờ đến ngày cuối cùng hãy nói, chàng đã quyết định như thế. Còn bây giờ thì cứ để cho nàng rúc mặt vào nách chàng mà ngủ ngon lành. Trong những đêm ấy, nàng thường nói: "Em rất sung sướng được ngủ dưới cái cánh của anh". Thôi được, tạm thời cứ để cho nàng được ngủ. Nhưng tội nghiệp, nàng còn được nép sát vào người chàng cũng chẳng bao lâu. Sáng sáng Griska chăm nom nựng nịu hai đứa con một lát rồi lang thang không mục đích trong thôn. Khi có mặt những người khác, chàng cảm thấy trong lòng vui vẻ hơn.

    Có lần Prokho mời chàng đến nhà gã Nikita Mennhikov để tụ tập uống rượu với vài gã thanh niên Cô- dắc đồng ngũ. Grigori kiên quyết từ chối. Qua lời bà con trong thôn kể lại, chàng biết rằng bọn nầy đang bất mãn với chính sách trưng thu lương thực, vì thế trong khi nhậu nhẹt, nhất định chúng sẽ đem chuyện ấy ra nói. Chàng không muốn làm cho mình bị tình nghi nên ngay khi gặp người quen, chàng cũng tránh không đả động tới chuyện chính trị. Chàng đã chần ngấy cái trò chính trị ấy rồi, dù không nói đến, nó cũng làm cho Grigori đủ đau khổ ê chề vì nó.

    Cẩn thận như thế càng không thừa vì lúa má nộp theo chính sách trưng thu lương thực chỉ có được rất ít, chính vì thế mà ba lão già đã bị bắt giữ làm con tin và bị hai đội viên đội trưng thu lương thực áp giải lên Vosenskaia.

    Hôm sau, ở gần cửa hiệu của hợp tác xã cung tiêu thống nhất, Grigori gặp Dakha Kramxkov, một tên lính pháo binh cũ vừa mới từ một đơn vị Hồng quân trở về. Gã đang say bí tỉ, chân nam đá chân xiêu nhưng khi bước tới trước mặt Grigori, gã cài lại tất cả những cái khuy trên chiếc áo vét ngắn bê bết đất sét trắng và nói bằng một giọng khàn khàn:

    - Chào anh, anh Grigori Pantelevich?

    - Chào cậu - Grigori nắm lấy bàn tay rộng bè bè của tên lính pháo binh tướng ngũ đoản, vai u thịt bắp như một cây dâu da.

    - Anh có nhận ra tôi không?

    - Nhận ra hẳn đi chứ?

    - Anh có nhớ năm ngoái ở gần Bokovskaia đại đội pháo của chúng tôi đã cứu anh như thế nào không? Không có chúng tôi, kỵ binh của anh đã bị khốn rồi. Hôm ấy chúng ta đã cho bao nhiêu thằng Đỏ về chầu Chúa, thật là khủng khiếp! Chúng tôi đã tặng cho chúng nó, lúc thì một quả đạn nổ, lúc thì một quả đạn ghém… Hôm ấy tôi phụ trách máy ngắm ở khẩu đội thứ nhất đấy! Chính tôi đấy? - Dakha nắm tay đấm bình bịch vào bộ ngực rất nở nang của gã.

    Grigori liếc nhìn chung quanh thấy có vài gã Cô- dắc đang đứng gần đấy nhìn hai người và lắng nghe câu chuyện. Môi Grigori run lên, chàng giận dữ nhe hai hàm răng trắng loá, sát sin sít.

    - Cậu say mất rồi, - Chàng khẽ nói, hai hàm răng vẫn nghiến vào nhau, - Tìm chỗ nào mà ngủ đi và đừng nói lung tung nữa.

    - Không, tôi chẳng say chút nào cả? - Tên lính pháo binh đã say nhè gào lên rất to. - Có lẽ tôi chỉ say vì đau khổ đấy thôi! Về đến nhà thì thấy không còn là cuộc sống, mà chỉ là cái con b… thôi? Dân Cô- dắc không còn có một cuộc sống nữa rồi, và làm gì còn có dân Cô- dắc nữa! Chúng nó bắt nộp bốn chục pút thóc, như thế thì còn ra sao nữa? Chúng nó có gieo hạt đâu mà lại bắt người ta nộp? Chúng nó có biết lúa má nó mọc lên bằng cái gì không?

    Gã nhìn quanh bằng cặp mắt đờ đẫn, ngầu máu rồi bất thình lình ngật ngưỡng vồ lấy Grigori như con gấu, phà cả hơi rượu vừa nóng vừa nồng vào mặt chàng.

    - Sao anh lại mặc cái quần không có nẹp thế nầy hử? Muốn lộn sòng thành một thằng mu- gích à? Không thể như thế được! Anh Grigori Pantelevich yêu quý của tôi ạ! Phải choảng nhau một trận nữa mới được? Đại khái phải làm như năm ngoái ấy; đả đảo chủ nghĩa cộng sản, Chính quyền Xô viết muôn năm!

    Grigori xô mạnh gã ra khỏi người chàng và khẽ nói:

    - Về nhà đi, thằng say rượu khốn nạn? Mày có biết mày đang nói những gì không?

    Tên Kramxkov vươn ra hai bàn tay với mười ngón tõe rộng, miệng lúng búng:

    - Xin anh thứ lỗi cho nếu tôi có nói những điều gì không phải… Xin anh thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi đã thành thực nói với anh như nói với vị chỉ huy của tôi… như với một người dù sao cũng là người cha chỉ huy yêu quí của tôi; phải choảng nhau một trận nữa mới được?

    Grigori nín thinh quay đi, bước qua bãi thôn về nhà. Cho đến chiều chàng vẫn còn mang ấn tượng của cuộc gặp gỡ lố bịch ấy.

    Chàng nhớ lại những tiếng kêu la say rượu của tên Kramxkov, sự yên lặng đầy vẻ đồng tình và nụ cười của những tên Cô- dắc, bụng bảo dạ: "Không, phải mau mau chuồn đi thôi! Sẽ chẳng có gì hay ho đâu…"

    Đáng là đến thứ bảy Grigori phải lên Vosenskaia. Ba ngày nữa chàng mới phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn nhưng tình thế đã chuyển biến không như thế: tối hôm thứ năm, Grigori vừa sắp sửa vào giường nằm thì ngoài cửa có người gõ rất mạnh. Acxinhia bước vào phòng ngoài. Grigori nghe thấy nàng hỏi: "Ai đấy?" Chàng không nghe thấy tiếng trả lời, nhưng do một nỗi bồn chồn mơ hồ, chàng nhổm dậy, tụt trên giường xuống và bước ra cửa sổ. Trong phòng ngoài có tiếng then cửa lách cách. Dunhiaska bước vào trước.

    Grigori nhìn thấy khuôn mặt tái nhợt của em gái bèn chưa kịp hỏi han gì đã đưa tay với lấy chiếc mũ lông và cái áo ca- pốt.

    - Anh yêu của em…

    - Có gì thế? - Chàng vừa ***g tay áo ca- pốt vừa khẽ hỏi.

    Dunhiaska thở hổn hển vội nói:

    - Anh ơi, anh đi ngay đi thôi? Trên trấn có bốn người cưỡi ngựa, vừa tới bên em. Họ đang ngồi ở nhà trong… Họ nói rất khẽ, nhưng em đã nghe được… Em đứng sau cánh cửa nên nghe thấy hết… Miska nói rằng cần phải bắt anh… Miska đang kể cho họ nghe về anh… Anh phải đi đi!

    Grigori bước nhanh tới trước mặt Dunhiaska, ôm lấy Dunhiaska và hôn thật mạnh vào má Dunhiaska.

    - Cám ơn, em gái của anh! Em về đi, kẻo họ để ý thấy em ra khỏi nhà. Tạm biệt em, - Rồi chàng quay lại bảo Acxinhia - Bánh mì! Mau lên? Nhưng không cần cả cái, một miếng thôi?

    Thế là chấm dứt cuộc sống yên ồn mà chàng vừa được hưởng không được bao lâu. Cũng như trong chiến đấu, chàng làm mọi việc một cách vội vã, nhưng chắc chắn. Chàng vào nhà trong, nhẹ nhàng hôn hai đứa trẻ đã yên giấc rồi ôm lấy Acxinhia:

    - Tạm biệt em? Anh sẽ gửi tin về ngay. Prokho sẽ cho em biết.

    Chú ý chăm nom hai đứa trẻ. Cửa phải đóng lại. Chúng nó có hỏi thì bảo anh đi Vosenskaia rồi. Thôi tạm biệt em, đừng buồn nhé, Acxiutka? - Chàng hôn nàng và cảm thấy trên môi có cái vị ấm mặn mặn của nước mắt.

    Chàng không có đâu thì giờ để an ủi và nghe những lời lắp bắp bất lực, không đầu không đũa của Acxinhia. Chàng nhẹ nhàng gỡ hai cánh tay đang ôm ghìm lấy mình, bước ra phòng ngoài, lắng nghe một lát rồi bất thình lình mở toang cánh cửa bên ngoài. Một làn gió lạnh thổi lạt từ ngoài sông Đông vào mặt chàng. Chàng nhắm mắt trong một giây đề quen dần với bóng tối.

    Đầu tiên Acxinhia nghe thấy tiếng tuyết lạo xạo dưới chân Grigori. Và mỗi bước chân đều dội vào làm tim nàng đau nhói. Rồi tiếng những bước chân lắng dần và có tiếng hàng rào cọt kẹt. Sau đó tất cả lặng đi, chỉ còn nghe thấy tiếng gió rú ù ù trong khu rừng bên kia sông Đông. Acxinhia cố lắng nghe để nhận thấy một cái gì qua tiếng gió rít nhưng chẳng thấy gì cả. Nàng bắt đầu thấy lạnh, bèn vào trong bếp và tắt đèn.
  10. doctruyen

    doctruyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/03/2016
    Bài viết:
    13.010
    Đã được thích:
    0
    Sông Đông Êm Đềm
    Chương 224

    Cuối mùa thu năm 1920, vì công tác thu thóc theo chế độ trưng thu lương thực làm thiếu kết quả cho nên đã thành lập những đội trưng thu lương thực và trong dân chúng Cô- dắc vùng sông Đông đã bắt đầu âm thầm nảy ra tư tưởng bất mãn. Trên các trấn vùng trên của Quân khu sông Đông, Sumilinskaia, Kazanskaia, Migulinskaia, Meskovskaia, Vosenskaia, Elanskaia, Slasevskaia và những trấn khác đã thấy xuất hiện những toán thổ phỉ vũ trang nhỏ. Đó là câu trả lời của giai cấp kulak và tầng lớp sung túc trong dân Cô- dắc trước việc tổ chức các đội trưng thu lương thực và việc Chính quyền Xô viết tăng cường các biện pháp thực hiện chính sách trưng thu lương thực.

    Mỗi toán thổ phỉ có từ năm đến hai mươi tay súng. Phần lớn bọn chúng gồm những tên Cô- dắc vốn đã sống ở địa phương và trước kia đã từng tích cực tham gia Bạch vệ. Trong số bọn nầy có những tên đã hoạt động thanh tiễu trong hai năm. Một nghìn chín trăm mười tám, một nghìn chín trăm mười chín, những tên hạ sĩ quan, quản ách, chuẩn uý của Quân đội sông Đông cũ trốn tránh đợt động viên tháng Chín, những tên phiến loạn lừng danh về những thành tích chiến đấu và những vụ bắn giết tù binh Hồng quân trong cuộc bạo động năm ngoái ở khu Đông Thượng, tóm lại là những kẻ không thể nào đi cùng đường với Chính quyền Xô viết.

    Trong các thôn, chúng tập kích vào các đội trưng thu lương thực, cướp lại các xe chở thóc lúa tới các trạm tập trung lương thực, giết các Đảng viên cộng sản và những người Cô- dắc ngoài Đảng trung thành với Chính quyền Xô viết.

    Nhiệm vụ diệt trừ các toán thổ phỉ được trao cho tiểu đoàn vệ binh khu Đông Thượng đóng phân tán ở thị trấn Vosenskaia và thôn Batki. Song tất cả các biện pháp nhằm tiêu diệt các toán thổ phỉ trên vùng đất rộng lớn của khu đều chưa thu được kết quả. Trước hết vì dân chúng địa phương có thái độ đồng tình với các toán thổ phỉ nầy. Họ cung cấp cho chúng lương thực và tin tức về sự di động của các đơn vị Hồng quân, ngoài ra còn che giấu chúng khi chúng bị đuổi bắt. Và hai nữa là vì viên tiểu đoàn trưởng Kaparin, một thượng uý cũ trong quân đội Nga hoàng, Đảng viên Đảng xã hội cách mạng, không muốn tiêu diệt các lực lượng phản cách mạng mới nẩy nở trong thời gian gần đây ở vùng thượng lưu sông Đông và tìm mọi cách cản trở công việc. Chỉ năm thì mười hoạ, những khi bị bí thư ban chấp hành Đảng bộ khu thúc bách lắm, hắn mới tổ chức một cuộc xuất kích ngắn ngày rồi lại quay về thị trấn Vosenskaia, lấy cớ hắn không thể phân tán lực lượng và không thể mạo hiểm một cách vô nghĩa lý, để các cơ quan khu và các kho tàng ở Vosenskaia không được bảo vệ chu đáo. Tuy có chừng bốn trăm tay súng và mười bốn khẩu súng máy, song tiểu đoàn nầy chỉ làm công tác doanh trại: các chiến sĩ Hồng quân canh gác những kẻ bị bắt, chở nước, chặt cây trong rừng, và coi như làm nghĩa vụ lao động, họ lấy những hạt phỉ tử và lá sồi làm mực viết. Tiểu đoàn cung cấp có kết quả củi đun và mực viết cho vô số những cơ quan và bàn giấy của khu, nhưng trong khi đó con số các toán thổ phỉ nhỏ trong khu lại tăng một cách đáng sợ. Và mãi đến tháng Chạp, khi đã bắt đầu nổ ra cuộc nổi loạn lớn trong địa hạt huyện Bogutra thuộc tỉnh Voronezskaia, ngay sát cạnh khu Đông Thượng, tiểu đoàn mới miễn cưỡng ngừng các công việc lấy gỗ và các thứ làm mực. Theo lệnh của tư lệnh bộ đội Quân khu sông Đông, tiểu đoàn nầy với biên chế gồm ba đại đội bộ binh và một trung đoàn súng máy, đã cùng với đại đội kỵ binh cảnh vệ, tiểu đoàn một của trung đoàn trưng thu lương thực số 12 và hai đội đánh chặn nhỏ được phái đi trấn áp cuộc phiến loạn.

    Trong trận chiến đấu ở lối vào thôn Xukhoi Dones, đại đội kỵ binh trấn Vosenskaia dưới quyền chỉ huy của Yakov Fomin đã xung phong vào sườn các đội hình chiến đấu của quân phiến loạn, đánh tan chúng, bắt chúng phải tháo chạy và trong khi truy kích đã chém chết gần một trăm bảy mươi tên, còn đại đội thì chỉ mất ba chiến sĩ.

    Trừ một số rất ít, hầu hết các chiến sĩ trong đại đội kỵ binh là dân Cô- dắc các trấn vùng thượng lưu sông Đông. Ngay ở đây họ cũng chưa bỏ được các truyền thống Cô- dắc cổ xưa: sau trận chiến đấu, tuy hai Đảng viên cộng sản trong đại đội phản đối, song hầu như một nửa số chiến sĩ đã cởi bỏ những chiếc áo ca- pốt và áo bông cũ để mặc những chiếc áo da thuộc ngắn còn tốt lột trên xác những tên phiến loạn bị chém chết.

    Vài ngày sau trấn áp cuộc bạo động, đại đội kỵ binh bị gọi về thị trấn Kazanskaia. Trong những ngày nghỉ ngơi sau cuộc chiến đấu gian khổ, Fomin đã chơi bời thoả thích ở Kazanskaia. Là một tên chơi gái đã thành tật, một thằng phóng đãng vui tính và thích giao du, hắn thường bỏ đi mất hút suốt đêm và mãi đến khi trời sắp rạng mới mò về chỗ hắn ở. Vốn được Fomin đối xử suồng sã, các chiến sĩ tối tối thấy người chỉ huy của họ lượn phố với đôi ủng bóng lộn, thường nháy mắt với nhau ra vẻ thông cảm và nói:

    - Chà, con ngựa giống của chúng ta lại đang đi kiếm bọn vợ lính vắng chồng đấy? Bây giờ thì đến sáng mới thấy mặt cho mà xem.

    Hễ được tin có rượu và có dịp nhậu nhẹt là Fomin lại giấu chính uỷ và chỉ đạo viên chính trị của đại đội kỵ binh để láng cháng tới nhà những tên Cô- dắc quen biết trong đại đội. Những chuyện như thế xảy ra không phải là ít. Nhưng chẳng bao lâu anh chàng chỉ huy ngang tàng ấy đã trở nên buồn rầu, mặt mũi âm thầm và hầu như hoàn toàn quên hết các thú vui chơi gần đây. Chiều chiều hắn không còn đánh bóng đôi ủng cao ống rất diện một cách kỹ càng như xưa nữa. Hắn thôi không cạo râu hàng ngày, ngoài ra cũng ít lui tới chỗ của những gã cùng thôn trong đại đội, thảng hoặc có tạt tới ngồi uống vài cốc rượu hắn cũng rất ít nói trong khi trò chuyện.

    Sự thay đổi trong lính tình của Fomin ăn khớp với cái tin mà người chỉ huy chi đội Vosenskaia vừa nhận được: phòng chính trị của Uỷ ban Treka sông Đông đã báo một tin vắn tắt là tại Mikhailovka thuộc khu Ust- Medvedisky ngay cạnh đấy, tiểu đoàn cảnh vệ do tên tiểu đoàn trưởng Vaculin cầm đầu đã nổi loạn.

    Vaculin vốn là đồng đội và bạn thân của Fomin. Xưa kia Fomin đã từng cùng với hắn phục vụ trong quân đoàn Mironov, cùng với hắn tiến từ Xaransk tới vùng sông Đông, và cả hai đã cùng hạ khí giới đầu hàng kỵ binh của Budionnyi bao vây quân đoàn phiến loạn của Mironov. Quan hệ bạn bè giữa Fomin và Vaculin vẫn còn kéo dài cho tới thời gian gần đây. Mới đây thôi, trong những ngày đầu tháng Chín, Vaculin đã tới Vosenskaia và ngay hồi đó hắn đã nghiến răng than phiền với người bạn cũ của hắn rằng "cái lối hoành hành ngang ngược của các chính uỷ đã đưa người dân cày tới chỗ phá sản với chính sách trưng thu lương thực và sẽ đưa nước nhà tới chỗ diệl vong". Trong thâm tâm Fomin cũng tán thành những lời Vaculin nói ra, song hắn vẫn giữ thái độ dè dặt do cái tính khôn vặt thường bù đỡ cho cái đầu óc vốn dĩ đã thiếu thông minh từ khi bố mẹ đẻ ra. Nói chung hắn là một người thận trọng, không bao giờ vội vã, cũng không bao giờ đồng ý hay từ chối điều gì ngay. Nhưng chẳng bao lâu, sau khi được biết về cuộc nổi loạn của tiểu đoàn Vaculin, cái tính thận trọng cố cựu của hắn đã thay đổi. Một buổi tối trước khi đại đội kỵ binh lên đường đi Vosenskaia, một số tên trong đại đội đã đến tụ tập tại nhà của tên trung đội trưởng Anferov. Rượu nặng được đưa ra đầy ắp trong một cái thùng thường đựng nước cho con ngựa. Những tên ngồi quanh chiếc bàn chuyện trò sôi nổi. Có mặt trong cuộc nhậu nhẹt, Fomin cứ lặng thinh lắng nghe những tên khác nói và cũng lặng thinh múc rượu trong thùng. Nhưng khi một tên trong đám chiến sĩ nhắc lại cuộc xung phong ở gần Xukhoi - Dones thì Fomin trầm ngâm xoắn xoắn đầu ria của hắn, ngắt lời tên kể chuyện:

    - Anh em ạ, chúng mình xả cái bọn khô- khon kể ra cũng cừ đấy, nhưng rồi chẳng bao lâu nữa chính chúng mình cũng sẽ phải chịu khổ thôi… Chúng mình về đến Vosenskaia thấy gia đình của chúng mình ở đấy bị các đội trưng thu lương thực vơ vét hết thóc lúa thì sẽ như thế nào hử? Dân Kazan đang căm các đội trưng thu lương thực ấy lắm đấy. Chúng nó vét sạch sành sanh các vựa thóc, lại còn dùng chổi quét cho hết.

    Căn phòng lặng đi. Fomin nhìn một lượt những tên trong đại đội của hắn rồi nói thêm với nụ cười gượng gạo:

    - Chuyện ấy mình nói đùa đấy thôi… Nhưng cẩn thận đấy, chớ có bép xép, không khéo một câu đùa lại bị xé to ra không biết đến thế nào.

    Trên đường về Vosenskaia, Fomin có một nửa trung đội Hồng quân đi kèm, tạt về nhà hắn ở thôn Rubezenyi. Về tới thôn, hắn không cưỡi ngựa vào sân nhà hắn, mà xuống ngựa bên cạnh cổng, ném dây cương cho một chiến sĩ Hồng quân rồi bước vào nhà.

    Hắn gật đầu chào vợ một cách lạnh nhạt rồi cúi đầu rất thấp chào cụ già mẹ hắn, kính cẩn hôn tay mẹ và ôm hôn thằng con nhỏ.

    - Nhưng cha đâu rồi? - Hắn ngồi xuống chiếc ghế đẩu rồi vừa hỏi vừa đặt thanh gươm vào giữa hai đầu gối.

    - Ông ấy ra nhà máy xay rồi. - Mụ già nhìn thằng con, trả lời và ra lệnh nghiêm khắc - Bỏ ngay mũ ra, cái thằng phản Chúa nầy? Ai lại đội mũ mà ngồi ngay dưới các hình thánh như thế hử? Chao ôi, Yakov ạ, rồi mày cũng không giữ được cái đầu đâu…

    Fomin mỉm cười một cách miễn cưỡng, bỏ chiếc mũ lông Kuban xuống, nhưng không cởi áo ngoài.

    - Sao mày không cởi áo ngoài ra hử?

    - Con chỉ tạt vào thăm cả nhà một phút thôi, vì công việc nhà binh nên chẳng còn có được lức nào nữa.

    - Chúng tao biết chán cái công việc nhà binh của mày rồi… - Mụ già nói bằng một giọng nghiêm khắc để ám chỉ cuộc sống phóng đãng của thằng con cùng những sự tằng tịu của hắn với những ả ở Vosenskaia.

    Lời ong tiếng ve về các chuyện ấy đã bay về thôn Rubezenyi từ lâu. Mụ vợ của Fomin sợ hãi đưa mắt nhìn mẹ chồng rồi bỏ ra chỗ bếp lò. Già trước tuổi, mặt mày nhợt nhạt, nom mụ cứ như gà phải cáo. Mụ muốn có cái gì để làm chồng vừa ý, lấy lòng chồng và được hưởng dù chỉ một cái nhìn âu yếm, bèn moi một miếng giẻ trong cái ổ bên dưới cửa bếp lò, rồi quì xuống khom lưng cọ những mảng bùn đặc sệt bám trên đội ủng của Fomin.

    - Anh có đôi ủng tốt quá, anh Yakov ạ. Anh đi bẩn bẩn là… Em sẽ đánh ngay, đánh thật sạch cho anh? - Mụ lẩm bẩm gần như không thành tiếng, và cứ cắm đầu lê gối dưới chân chồng.

    Từ lâu hắn không còn ăn nằm với mụ nữa và từ lâu với người đàn bà mà hắn đã từng yêu hồi trai trẻ, hắn không còn có một tình cảm nào khác ngoài một sự thương thương khinh khinh. Nhưng mụ thì bao giờ cũng vẫn yêu hắn, vẫn thầm hy vọng rằng một ngày nào đó hắn sẽ quay về với mình, nên đã tha thứ cho hắn hết thảy. Đã bao năm ròng mụ chăm lo công việc làm ăn trong nhà, nuôi dạy con cái, cố tìm mọi cách làm vừa lòng mụ mẹ chồng tính tình cổ quái. Bao nhiêu gánh nặn của công việc làm đồng áng đều đổ cả lên đôi vai gầy của mụ. Những công việc lao động không sao đảm đương nổi cùng bệnh tật mà mụ mang vào thân sau khi sinh đứa con thứ hai, đã mỗi năm làm cho sức khoẻ của mụ hao mòn thêm. Người mụ gầy rộc, mặt cắt không còn hột máu. Cái già sồng sộc đến trước tuổi đã phủ lên cặp má mụ những vết nhăn nhằng nhịt như mạng nhện.

    Trong hai con mắt mụ thấy hiện rõ một vẻ vâng chịu và khiếp hãi thường thấy ở những con vật thông minh trong khi ốm yếu. Nhưng bản thân mụ không nhận thấy rằng mình già đi nhanh như thế nào và sức khoẻ của mình đã mỗi ngày một suy sụp như thế nào, vì thế mụ vẫn còn đặt hy vọng vào một điều may mắn nào đó, và trong những buổi gặp mặt hiếm hoi, mụ cứ ngắm thằng chồng đẹp trai bằng cặp mắt âu yếm sợ sệt đầy thán phục.

    Fomin nhìn từ bên trên xuống cái lưng gập lại một cách thảm hại của vợ, hắn nhìn hai cái xương bả vai gầy gò hằn lên rất rõ dưới làn áo, nhìn hai bàn tay to bè bè, run run ra sức cọ bùn trên đôi ủng của mình, và nghĩ thầm: "Nom mĩ miều nhỉ, thật chẳng có gì đáng nói nữa? Thế mà trước kia có lúc mình đã ngủ với của dịch tả dịch hạch nầy… Nhưng sao nó già đi nhiều như thế… Già đến thế nầy rồi cơ ài"

    - Thôi đừng chùi nữa! Dù sao đi cũng sẽ bẩn thôi! - Hắn vừa nói giọng bực bội, vừa rút chân ra khỏi hai bàn tay vợ.

    Mụ phải cố gắng lắm mới rướn được lưng dậy. Một ánh hồng hồng hơi ửng lên trên cặp má vàng ệch. Hai con mắt ươn ướt mà mụ ngước nhìn chồng tràn ngập cả một niềm yêu thương, cả một lòng trung thành như của một con chó, làm hắn phải quay mặt đi. Hắn hỏi mẹ:

    - Thế nhà ta sống ở đây như thế nào hả mẹ?

    - Vẫn thế thôi. - Mụ già cau có trả lời.

    Đội trưng thu lương thực đã đến thôn ta chưa?

    - Mãi hôm qua chúng nó mới bỏ đi Hạ Kripskoi.

    - Chúng nó có lấy đi thóc của nhà ta không?

    - Có lấy chúng nó xúc đi bao nhiêu hả, Davyduska?

    Davyduska là thằng bé mười bốn tuổi giống bố như lột với hai con mắt màu xanh lơ rất xa tinh mũi. Nó trả lời:

    - Ông có đứng đấy trong khi họ lấy, ông biết đấy. Hình như mười túi thì phải.

    - À- à à ra vậy? - Fomin đứng dậy, đưa nhanh mắt nhìn thằng con rồi sửa lại đoạn dây đeo súng. Mặt hắn hơi tái đi khi hắn hỏi - Ở nhà có bảo cho chúng biết rằng chúng nó lấy thóc của ai không?

    Mụ già khoát tay mỉm cười, nụ cười không khỏi có một vẻ khoái trá đầy ác ý:

    - Về mày chúng nó cũng chẳng biết gì lắm đâu? Thằng chỉ huy của chúng nó bảo: "Bất luận là ai có thóc lúa thừa cũng đều phải nộp hết. Dù là Fomin hay là chính chủ tịch khu đi nữa, chúng tôi cũng thu số thóc thừa!". Thế là chúng nó bắt đầu sục vào các hòm thóc ngay.

    - Mẹ ạ, con sẽ tính sổ với chúng nó. Con sẽ tính sổ với chúng nó? - Fomin nói âm thầm rồi vội vã từ biệt gia đình để lên đường.

    Sau chuyến về thăm nhà hắn bắt đầu thăm dò rất thận trọng tình hình tư tưởng các chiến sĩ trong đại đội kỵ binh của hắn, và không cần vất vả lắm hắn cũng có thể xác định được rằng phần lớn họ đang bất mãn với chính sách trưng thu lương thực. Vợ con, họ hàng thân thuộc xa gần, đến thăm họ từ các thôn các trấn, đem đến những câu chuyện về tình hình các đội viên trưng thu lương thực khám xét, lấy đi hết thóc lúa, chỉ để lại cho đủ gieo hạt và ăn dùng. Tất cả các chuyện ấy đã dẫn tới tình trạng là cuối tháng Giêng, trong một cuộc họp toàn doanh trại ở thôn Batki, binh lính trong đại đội kỵ binh đã công khai tỏ rõ thái độ giữa lúc ấy uỷ viên quân sự khu Sakhaev nói chuyện. Chúng kêu nhao nhao từ trong các hàng:

    - Giải tán các đội trưng thu lương thực đi!

    - Đã đến lúc phải chấm dứt cái lối vơ vét thóc lúa rồi!

    - Đả đảo chính uỷ các đội trưng thu lương thực?

    Để trả lời bọn chúng, các chiến sĩ Hồng quân thuộc đại đội cảnh vệ quát lên:

    - Lũ phản cách mạng!

    - Giải tán những ********* đẻ nầy đi!

    Cuộc họp kéo dài và diễn ra rất sôi nổi. Một người trong số vài Đảng viên cộng sản lèo tèo trong doanh trại nói với Fomin giọng xúc động:

    - Đồng chí phải phát biểu đi mới được, đồng chí Fomin! Đồng chí xem, các chiến sĩ trong đại đội đồng chí đang diễn ra những tiết mục gì thế?

    Một nụ cười chỉ hơi thoáng hiện sau hàng ria Fomin.

    - Nhưng tôi lại là một anh chàng ngoài Đảng, chúng nó nghe gì tôi đâu?

    Rồi hắn lại tiếp tục ngậm tăm và trước khi cuộc họp kết thúc rất lâu, hắn đã cùng tên tiểu đoàn trưởng Kaparin bỏ ra ngoài. Trên đường đi Vosenskaia, hai tên đã bàn bạc với nhau về tình hình trước mắt và chẳng mấy chốc đã ăn giọng. Một tuần sau, tên Kaparin tới chỗ Fomin ở, nhìn thẳng vào mắt hắn và nói:

    - Một là chúng ta phải lập tức bạo động ngay, hai là sẽ không bao giờ còn có thể bạo động được nữa. Anh Yakov Efilmovich, anh phải thấy rõ như thế mới được? Phải nắm vững thời cơ trong lúc nầy. Hoàn cảnh hiện nay đang rất thuận lợi. Bọn Cô- dắc đang ủng hộ chúng ta. Anh có uy tín rất lớn trong khu. Tinh thần dân chúng lại tốt không thể tưởng tượng được. Tại sao anh cứ nín thinh như thế? Anh quyết định ngay đi!

    - Việc nầy thì có gì mà quyết định với không quyết định? - Fomin thủng thẳng nói tách bạch từng tiếng, hai con mắt cứ nhìn gườm gườm. - Vấn đề ở đây được giải quyết xong xuôi rồi. - Chúng ta chỉ còn phải vạch ra một kế hoạch, thế nào cho mọi mặt đều không vấp váp gì cả, sao cho khỏi bị con muỗi nó đốt vào mũi là được. Chúng mình hãy bàn nhau về vấn đề nầy đi.

    Sự đi lại chơi bời rất đáng nghi giữa Fomin và Kaparin không khỏi bị chú ý. Vài đảng viên cộng sản trong tiểu đoàn đã bố trí theo dõi hai tên và đem những điều mình nghi ngờ lên báo cáo với trưởng phòng chính trị của Uỷ ban Treka sông Đông Archemev và uỷ viên quân sự Sakhaev, Archemev vừa cười vừa nói:

    - Các cậu đúng là chim bị tên sợ cành cây cong 1 Thằng Kaparin nầy vốn là một đứa nhát như cáy, chẳng nhẽ nó lại dám quyết định gây chuyện gì hay sao? Riêng thằng Fomin thì chúng ta phải để ý mới được. Từ lâu nó đã có những điều đáng nghi ngờ, nhưng ngay đến thằng Fomin cũng chưa chắc dám liều mạng làm bừa đâu. Tất cả các chuyện ấy chỉ là lo vớ lo vẩn. - Anh ta kiên quyết kết luận như vậy.

    Nhưng bây giờ mà theo dõi thì đã muộn: hai kẻ âm mưu đã kịp bàn định xong xuôi. Chúng đã quyết định phát động cuộc phiến loạn ngày mười hai tháng Ba lúc tám giờ sáng. Chúng ước hẹn với nhau rằng hôm ấy Fomin sẽ đưa đại đội kỵ binh đi tập ngựa buổi sáng, mang theo tất cả đồ trang bị, rồi bất thình lình tấn công trung đội súng máy đóng ở ngoại ô thị trấn, chiếm các khẩu súng máy và khi mọi việc xong xuôi sẽ góp sức với đại đội cảnh vệ "làm vệ sinh" các cơ quan thuộc khu.

    Kaparin vẫn còn nghi ngờ một điều là không biết tiểu đoàn có hoàn toàn ủng hộ hắn không. Một lần hắn nói cho Fomin biết những giả thiết của hắn. Fomin chăm chú nghe rồi nói:

    - Chỉ cần chiếm cho kỳ được các khẩu súng máy, sau đó chúng tôi sẽ làm cho tiểu đoàn của anh không còn ho he gì nữa…

    Việc theo dõi Fomin và Kaparin được bố trí rất cẩn thận nhưng không đem lại kết quả gì. Hai tên gặp nhau rất ít và cũng chỉ trong những trường hợp có công tác. Mãi đến cuối tháng Hai mới có lần đội tuần tra bắt gặp hai tên đi đêm với nhau ngoài phố. Fomin dắt con ngựa yên cương sẵn sàng. Kaparin đi bên cạnh. Nghe thấy tiếng hô, Kaparin trả lời: "Người mình đây?" Hai tên cùng vào chỗ Kaparin ở. Fomin buộc ngựa vào dãy lan can bên thềm nhà. Chúng không thắp đèn trong phòng. Đến bốn giờ sáng Fomin bước ra, lên ngựa về nhà. Đó là tất cả những điều xác định được uỷ viên quân sự khu Sakhaev gửi lên tư lệnh quân đội Quân khu sông Đông một bức điện mật mã báo cáo những điều mình nghi ngờ đối với Fomin và Kaparin. Vài ngày sau nhận được điện trả lời của tư lệnh, duyệt y việc cách chức và bắt giữ Fomin và Kaparin.

    Hội nghị của ban chấp hành Đảng bộ khu thông qua quyết nghị: báo cho Fomin biết mệnh lệnh của Uỷ ban quân sự khu điều hắn lên Novocherkask chịu sự điều động của lư lệnh quân đội, và bảo hắn trao quyền chỉ huy đại đội kỵ binh cho đại đội phó của hắn là Obchinhikov; cũng ngay hôm ấy đại đội kỵ binh được điều đi Kazanskaia với cớ đó những toán thổ phỉ xuất hiện ở đấy và sau đó, đến đêm sẽ bắt giữ những tên âm mưu. Cũng đã quyết định điều hai đại đội kỵ binh ra ngoài trấn vì lo đại đội nầy sẽ nổi loạn khi được tin Fomin bị bắt. Đại đội trưởng đại đội hai của tiểu đoàn cảnh vệ là Đảng viên cộng sản Tokachenko được trao nhiệm vụ báo cho các Đảng viên và các trung đội trưởng biết về khả năng xảy ra bạo động và chuẩn bị cho đại đội của anh cùng trung đội súng máy hiện đang có mặt trong thị trấn sẵn sàng chiến đấu.

    Sáng hôm sau Fomin nhận được mệnh lệnh.

    - Chà, cũng chẳng sao, cậu hãy nhận lấy đại đội, Obchinhikov ạ.

    - Mình sẽ đi Novocherkask - Hắn nói rất thản nhiên. - Cậu sẽ xem các giấy tờ sổ sách chứ?

    Đại đội phó Obchinhikov là một cán bộ ngoài Đảng. Anh ta không được ai cho biết trước và cũng chẳng nghi ngờ gì cả, vì cứ thế chúi đầu vào các sổ sách giấy tờ.

    Chờ lúc thuận lợi Fomin viết cho Kaparin một mẩu giấy: "Hành động ngay hôm nay. Tôi bị cách chức. Hãy sẵn sàng". Hắn ra phòng ngoài, trao mẩu giấy cho gã cần vụ của hắn và nói rất khẽ:

    - Giấu tờ giấy ấy vào miệng. Cho ngựa đi bước một. Hiểu chưa? Cho ngựa đi bước một đến chỗ Kaparin. Nếu đang đi mà bị đứa nào giữ lại thì nuốt ngay mẩu giấy đi. Trao xong tờ giấy cho hắn thì quay ngay về đây.

    Sau khi nhận được mệnh lệnh lên đường tới thị trấn Kazanskaia, Obchinhikov cho đại đội kỵ binh tập hợp trên quảng trường nhà thờ để sửa soạn ra đi. Fomin cho con ngựa của hắn liến tới trước mặt Obchinhikov.

    - Cậu cho phép mình nói vài câu từ biệt đại đội.

    - Xin mời anh, nhưng ngăn ngắn thôi nhé, đừng bắt chúng tôi chờ quá lâu đấy Fomin ra trước đại đội, hắn giữ con ngựa luôn luôn nhảy cỡn, nói với các chiến sĩ:

    - Các đồng chí, các đồng chí đã biết rõ tôi. Các đồng chí biết rằng bao giờ tôi cũng đã chiến đấu vì mục đích gì. Bao giờ tôi cũng đã đứng bên cạnh các đồng chí. Nhưng bây giờ không thể nhẫn nhục được nữa, vì họ đang cướp bóc người Cô- dắc, đang cướp bóc dân cày nói chung. Chính vì thế mà tôi bị cách chức. Còn như họ sẽ làm gì thì tôi chưa biết. Vì thế tôi muốn nói vài lời từ biệt các đồng chí…

    Trong giây lát, những tiếng huyên náo, la hét trong đại đội làm ngắt lời phát biểu của Fomin. Hắn rướn người trên bàn đạp, nói giật giọng:

    - Nếu anh em muốn thoát khỏi cái cảnh bị cướp bóc thì hãy tống cổ các đội trưng thu lương thực ra khỏi vùng nầy, hãy giết những thằng uỷ viên trưng thu lương thực như Murzov, và những thằng chính uỷ như Sakhaev! Chúng nó đã đến vùng sông Đông chúng ta.

    Những tiếng ồn ào át cả mấy lời cuối cùng của Fomin. Hắn chờ đến lúc thật thuận lợi rồi ra lệnh oang oang:

    - Thành hàng ba từ bên phải, rẽ sang phải… tiến!

    Đại đội kỵ binh ngoan ngoãn chấp hành khẩu lệnh. Choáng váng trước tất cả những việc vừa xảy ra, Obchinhikov cho ngựa phi tới gần Fomin:

    - Đồng chí đi đâu đấy, đồng chí Fomin?

    Tên kia không quay đầu lại, trả lời giễu cợt:

    - Bọn mình đi dạo quanh nhà thờ một vòng…

    Mãi đến lúc nầy ý thức của Obchinhikov mới nắm được toàn bộ những việc vừa xảy ra trong vài phút ngắn ngủi. Anh ta bèn cho con ngựa tách rời khỏi đội hình hàng dọc của đại đội. Đi theo anh ta chỉ có chỉ đạo viên chính trị, phó chỉ đạo viên chính trị và độc một chiến sĩ Hồng quân. Khi mấy người đã cưỡi ngựa đi khỏi được chừng hai trăm mét, Fomin mới nhận thấy rằng họ vắng mặt. Hắn bèn quay ngựa lại, quát to:

    - Obchinhikov, đứng lại!

    Bốn người cho ngựa chuyển từ nước kiệu nhẹ sang nước kiệu đại. Dưới những vó ngựa, từng đám tuyết đang bắn vung ra bốn phía.

    Fomin ra lệnh:

    - Súng sẵn sàng chiến đấu? Bắt lấy Obchinhikov? Trung đội một! Đuổi theo!

    Những phát súng nổ lên một hồi. Chừng mười sáu tên thuộc trung đội một cho ngựa xông lên đuổi theo. Trong khi đó Fomin phân những tên còn lại trong đại đội làm hai nhóm: một nhóm do tên trung đội trưởng trung đội ba chỉ huy được phái đi tước vũ khí trung đội súng máy, còn nhóm thứ hai thì hắn đích thân chỉ huy tiến tới chỗ đóng quân của đại đội cảnh vệ ở đầu phía bắc thị trấn, trong các chuồng ngựa giống cũ của trấn.

    Nhóm thứ nhất xả súng lên trời và vung gươm loạn xạ, thúc ngựa phi dọc theo đường phố chính. Bọn phiến loạn chém chết bốn Đảng viên cộng sản mà chúng gặp trên đường, xông ra ngoài lề thị trấn rồi vội vã dàn thành đội hình và không hò hét gì cả, lặng lẽ xung phong vào các chiến sĩ Hồng quân thuộc trung đội súng máy vừa chạy ra khỏi nhà.

    Trung đội súng máy đóng trong một ngôi nhà xây tách rời hẳn ra. Khoảng cách ngôi nhà nầy và các ngôi nhà gần nhất trong thị trấn không quá một trăm xa- gien. Gặp phải hoả lực súng máy bắn thẳng từ trước mặt, bọn phiến loạn cho ngựa quay ngoặt trở lại. Trong bọn có ba tên chưa kịp phi tới cái ngõ gần nhất đã trúng đạn ngã lăn từ trên ngựa xuống. Thế là không thể tóm cổ các chiến sĩ súng máy bằng một đòn bất ngờ được rồi. Bọn phiến loạn cũng không thử tổ chức một đợt xung phong thứ hai nữa. Tên Trumakov trung đội trưởng trung đội ba cho nhóm của hắn vào một nơi kín đáo rồi không xuống ngựa, hắn nhìn ra rất cẩn thận từ sau một căn nhà kho bằng đá và nói:

    - Chà chúng nó lại kéo thêm hai khẩu "Maxim" nữa. - Nói xong hắn đưa mũ lông lên cái trán đẫm mồ hôi và quay lại nói với bọn lính - Quay trở lại đi thôi, anh em? Cứ mặc cho Fomin đến mà tóm cổ bọn súng máy. Chúng mình có mấy cậu nằm lại trên tuyết rồi, ba à? Hừ, cứ mặc cho chính hắn thử nếm mùi xem sao?

    Ở đầu phía đông thị trấn vừa bắt đầu có tiếng súng nổ, đại đội trưởng Tokachenko đã nhảy ra khỏi chỗ anh ở. Anh vừa đi vừa mặc chiếc áo ngoài và chạy nhanh vào doanh trại. Chừng ba chục chiến sĩ Hồng quân đã có mặt ở gần doanh trại và đã xếp thành hàng dài.

    Họ đón đại đội trưởng bằng những câu hỏi đầy thắc mắc:

    - Ai bắn thế?

    - Có chuyện gì thế?

    Tokachenko không trả lời, cứ nín lặng đứng vào hàng cùng với các chiến sĩ Hồng quân đã chạy trong trại ra. Gần như cùng lúc đó, một số Đảng viên là cán bộ của những cơ quan quanh khu cũng chạy tới doanh trại và đứng vào trong hàng.

    Vài phát súng trường vang lên đì đẹt trong thị trấn. Tại một chỗ nào đó ở vùng ven phía tây thị trấn có một tiếng lựu đạn ném tay nó rất to. Tokachenko trông thấy chừng năm chục người cưỡi ngựa phi về hướng doanh trại với những thanh gươm tuốt trần bèn từ từ rút khẩu Nagan khỏi bao súng. Anh chưa kịp ra lệnh thì những tiếng nói chuyện trong hàng đã lập tức im bặt và các chiến sĩ Hồng quân đã cầm những cây súng trường trong tư thế sẵn sàng.

    - Nhưng quân ta đấy mà! Nhìn mà xem, đồng chí tiểu đoàn trưởng Kaparin của chúng ta kia kìa? - Một chiến sĩ Hồng quân kêu lên.

    Đám kỵ binh xông từ trong dãy phố ra bỗng nằm rạp cả xuống cổ ngựa như theo một hiệu lệnh và thúc ngựa xông tới doanh trại.

    - Không cho chúng nó vào? - Tokachenko giật giọng quát to.

    Một loạt đạn nổ vang, át cả tiếng Tokachenko. Cách chỗ các chiến sĩ Hồng quân đang xiết chặt hàng ngũ chừng một trăm bước, bốn tên cưỡi ngựa đã ngã lộn xuống từ trên lưng ngựa, số còn lại hỗn loạn phi tản ra và quay lộn trở lại. Một tên có lẽ chỉ bị thương nhẹ, ngã từ trên yên xuống nhưng vẫn không chịu để dây cương rời khỏi tay.

    Hắn bị con ngựa đang phi nước đại lôi đi chừng mười xa- gien, nhưng sau lại nhảy chồm lên đứng dậy được, nắm được bàn đạp và đuôi yên rồi chỉ loáng một cái đã lại ngồi trên lưng ngựa lúc nào không biết. Hắn hung hãn giật mạnh dây cương và ngay trong lúc con ngựa đang phi như bay, bắt nó phải rẽ ngoặt sang bên cạnh và lẩn vào trong cái ngõ gần nhất.

    Sau khi đuổi theo Obchinhikov không có kết quả, bọn kỵ binh thuộc trung đội một quay về thị trấn. Việc tìm kiếm chính uỷ Sakhaev cũng chẳng đi đến đâu. Đến căn nhà vắng tanh của Uỷ ban quân sự cũng như chỗ ở của Sakhaev đều không tìm ra anh ta. Thì ra vừa nghe thấy tiếng súng anh ta đã lao đầu ra sông Đông, vượt qua băng chạy vào rừng, rồi từ đó tới thẳng thôn Batki và ngày hôm sau đã có mặt ở thị trấn Ust- Khopeskaia, cách Vosenskaia năm mươi véc- xta.

    Phần lớn số lãnh đạo đã kịp thời lẩn trốn. Nhưng đi lùng kiếm họ thì không phải không nguy hiểm vì các chiến sĩ Hồng quân thuộc trung đội súng máy đã đem những khẩu trung liên tới đặt ở trung tâm thị trấn và dùng hoả lực kiểm soát được tất cả các dãy phố thông tới quảng trường chính.

    Bọn kỵ binh ngừng các việc lùng sục, kéo xuống sông Đông, phi nước đại tới bãi nhà thờ, chỗ bắt đầu cuộc đuổi rượt Obchinhikov vừa nãy. Chẳng mấy chốc tất cả những tên theo Fomin đều tới tụ tập ở đấy. Chúng lại xếp thành hàng ngũ. Fomin ra lệnh đặt cảnh giới, số lính còn lại được phân tán về các chỗ ở, nhưng ngựa không được tháo yên cương.

    Fomin, Kaparin và mấy gã chỉ huy trung đội kéo nhau ra ở riêng trong một căn nhà nhỏ ở bên lề thị trấn.

    - Hoàn toàn thất bại rồi! - Kaparin ngồi phịch xuống chiếc ghế dài một cách bất lực rồi kêu lên đầy vẻ tuyệt vọng.

    - Phải, nếu không chiếm được thị trấn thì chúng mình không thể nào bám lại ở đây được đâu. - Fomin khẽ nói.

    - Anh Yakov Efimovich ạ, phải xông xáo khắp trong khu thôi. Bây giờ chúng mình run sợ thì sẽ được cái gì? Dù sao chưa đến lức phải chết thì chúng mình chưa chết đâu. Chúng mình phát động bà con Cô- dắc nổi lên rồi thị trấn sẽ về tay chúng mình. - Trumakov đề nghị.

    Fomin im lặng nhìn hắn rồi quay lại nói với Kaparin:

    - Thế nào quan lớn, quan lớn mất tinh thần rồi à? Thôi chùi nước dãi đi! Đã phóng lao thì phải theo lao? Đã cùng nhau bắt tay vào việc rồi thì phải cùng theo đuổi kỳ xong… Theo anh thì thế nào: rút khỏi thị trấn hay còn thử thêm lần nữa?

    Trumakov gạt phắt đi:

    - Để những thằng khác muốn thử thì thử? Thằng nầy sẽ không lao đầu vào miệng súng đâu. Làm cái trò ấy sẽ chẳng được tích sự gì cả.

    - Tôi không hỏi cậu, im mồm đi! - Fomin lườm Trumakov một cái tên kia bèn đưa mắt nhìn xuống đất.

    Kaparin trầm ngâm một lát rồi nói:

    - Phải, tất nhiên bây giờ mà thử một lần nữa thì chẳng có nghĩa lý gì cả. Chúng nó chiếm được ưu thế về vũ khí, nắm được tới mười bốn khẩu súng máy, còn chúng ta chẳng có khẩu nào. Mà quân số bên chúng nó cũng đông hơn… Chúng ta đành phải bỏ đi rồi tổ chức anh em Cô- dắc bạo động thôi. Và khi nào chúng nó điều được lực lượng tăng viện tới đây thì toàn khu đã bị quân khởi nghĩa chiếm rồi. Hy vọng duy nhất là làm được như thế. Chỉ còn con đựờng ấy thôi!

    Fomin nín lặng giờ lâu rồi nói:

    - Thôi được chúng ta đành phải quyết định như thế vậy. Các ông trung đội trưởng? Các ông lập tức kiểm tra vũ khí đạn dược, đến xem mỗi anh em còn bao nhiêu đạn. Một mệnh lệnh phải chấp hành thật nghiêm là không được bắn phí một viên nào. Đứa nào vi phạm đầu tiên sẽ bị tôi tự tay chém chết. Các ông hãy truyền đạt lại cho các chiến sĩ biết rõ như thế. - Hắn lặng đi một lát rồi đấm nắm tay to lù lù xuống bàn. - Chà, ****** những khẩu súng máy! Mà tất cả cũng chỉ tại cậu, Trumakov! Dù chỉ cướp được chừng bốn khẩu súng cũng hay biết mấy? Tất nhiên bây giờ chúng nó sẽ tống cổ chúng ta ra khỏi thị trấn… Thôi giải tán? Nếu không bị chúng nó đánh bật ra thì chúng ta sẽ ngủ lại đêm trong thị trấn, trời rạng sẽ xuất phát, chúng ta sẽ tiến quân qua khắp trấn…

    Đêm hôm ấy trôi qua một cách yên tĩnh. Một đầu thị trấn Vosenskaia thuộc về những tên nổi loạn trong đại đội kỵ binh, còn đầu kia nằm trong tay đại đội cảnh vệ với những Đảng viên cộng sản và đoàn viên thanh niên đến sáp nhập thêm. Hai bên chỉ ngăn cách bởi hai đoạn đường phố nhưng chẳng bên nào đánh liều mở một cuộc tấn công ban đêm.

    Sáng hôm sau đại đội kỵ binh phiến loạn không chiến đấu gì cả, rời bỏ thị trấn và kéo đi về hướng đông nam.

    --- ------ ------ ------ -------

    1 Nguyên văn: "Con quạ bị khiếp vía một lần sợ cả bụi cây" (ND).

Chia sẻ trang này