1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Stuka Pilot-Hans Ulrich Rudel-Huy chương Chữ thập hiệp sĩ với Lá sồi vàng, thanh kiếm và kim cương.

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ChuyenGiaNemDa, 09/11/2021.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.813
    Đã được thích:
    14.230
    Bọn Đức này lúc nào cũng đổ cho Mùa Đông, không biết mùa Đông ảnh hưởng bao nhiêu phần trăm đến kết quả trận này.
  2. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Bây giờ chúng tôi đang bay trên khu vực quen thuộc từ mùa hè năm ngoái, ở đầu nguồn sông Volga, phía Tây của Rhew, trên con đường sắt gần Olinin và về phía Nam. Lớp tuyết dày đặt các lực lượng của chúng tôi trước nhiệm vụ khổng lồ, nhưng với người Xô viết thì họ thực hiện dễ dàng hơn. Kĩ thuật viên thông minh nhất là người sử dụng các phương pháp nguyên thủy nhất cho công việc và vận chuyển.

    Dù có được che phủ cả đêm bằng nhiều lớp rơm và chăn thì sáng hôm sau các động cơ vẫn không khởi động được. Các thợ máy thường phải ra ngoài trời suốt đêm, làm ấm các động cơ máy bay trong vòng nửa giờ để đảm bảo chúng hoạt động khi cần. Vì thế mà nhiều người bị tê cóng. Với tư cách là sĩ quan kĩ thuật, giữa các lần xuất kích, tôi luôn tham gia cùng các thợ máy để không bỏ lỡ cơ hội có thêm một chiếc máy bay sẵn sàng phục vụ.

    Trên không trung, chúng tôi hiếm khi bị tê cóng. Phải bay thấp trong thời tiết xấu, cộng thêm hỏa lực phòng không dày đặc khiến phi công chả còn tâm trạng nào nghĩ đến cái lạnh. Chỉ khi quay trở lại nơi trú ẩn ấm áp, chúng tôi mới nhận ra các triệu chứng của chúng.

    Vào đầu tháng Một, tướng Von Richthofen bay đến trên chiếc phi cơ Fieseler Storch, nhân danh Quốc trưởng trao tặng tôi huân chương chữ thập Hiệp sĩ (Knight’s Cross of the Iron Cross) Chứng nhận khen thưởng đặc biệt đề cập đến thành tích phá hủy cầu và tàu của tôi vào năm ngoái.

    ND: Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ ( Knight's Cross of the Iron Cross) trên cổ một lính dù Đức, một trong số 7.161 chiếc được trao trong cả cuộc chiến. Ngực phải anh ta đeo Chữ thập sắt hạng 1.

    [​IMG]

    Ngày hôm sau, không khí lạnh tăng cường khiến việc giữ cho phi cơ hoạt động càng trở nên khó khăn. Tôi đứng nhìn những người thợ máy cố gắng làm ấm động cơ bằng một ngọn lửa trần với hi vọng là nó sẽ khởi động lại. Một người nói với tôi: “Hoặc thành công hoặc tất cả sẽ cháy thành than. Ngoài ra chả còn cách nào khác đâu”. Tôi nhận ra rằng đây là một giải pháp quá cực đoan và đề xuất một cách khác. Chúng tôi lấy can xăng làm thành cái lò, lắp một ống khói ở phía trên, trên ống khói có nắp đậy được đục lỗ để ngăn tia lửa bắn ra. Sau đó đặt lò phía dưới động cơ máy bay, đốt lửa rồi hướng ống tỏa nhiệt vào chỗ cần thiết. Thế là vấn đề được giải quyết.

    Trong mùa đông này, vì các vấn đề kĩ thuật, chúng tôi chỉ sử dụng được một lượng nhỏ máy bay, do các phi công lâu năm, nhiều kinh nghiệm vận hành. Bởi thế, bất lợi về số lượng phần nào đó được bù lại về chất lượng.

    Chúng tôi dành vài ngày trên tuyến đường sắt Sytschewka – Rhew, nơi người Nga đang cố gắng đột phá. Sân bay ở đây chả khác gì với hồi chúng tôi ở Kalinin, nhưng khác với lúc đó, giờ không có lực lượng bộ binh Đức nào cả. Rồi một đêm, bọn Ivan từ Sytschewka đột nhiên xuất hiện ở ngoại ô Dugino. Sĩ quan kiểm soát bay (Fig/Off) Kresken, chỉ huy đại đội tham mưu, tập hợp một nhóm chiến đấu rút ra từ các nhân viên mặt đất của chúng tôi và từ các đơn vị lân cận, lao vào chiến đấu bảo vệ sân bay. Đó là những người thợ máy dũng cảm, hết ở hướng này rồi lại xoay hướng khác, tay cầm súng trường và lựu đạn, dành cả đêm trong các chiến hào, rồi đến khi ngày lên, họ lại quay trở lại với bổn phận, đánh vật với những chiếc máy bay.

    Đêm là thế, còn ban ngày thì chúng tôi có hẳn một kho nhiên liệu và bom cho việc phòng vệ. Trong 2 ngày liên tiếp, địch tấn công bằng các đơn vị kị binh và trượt tuyết. Đã có thời điểm chúng tôi phải thả bom ngay sát cạnh sân bay, Đến khi địch đã thiệt hại nặng nề thì Kresken, ngày xưa từng là vận động viên điền kinh, mới đưa những anh chàng thợ máy vào tấn công. Stuka lượn trên cao, bắn và thả bom vào tất cả những kẻ chống cự lại họ. Thế là các vị trí tiền tiêu sạch bóng quân thù. Đầu cuộc chiến, những người lính Luftwaffe sẽ chẳng bao giờ hình dung nổi mình lại đóng một vai trò như thế này trong chiến tranh.

    Cuối cùng thiết giáp cũng xuất hiện, mở rộng phòng tuyến trên sân bay, chiếm lại Sytschewka và thiết lập một sở chỉ huy ở đó. Tình hình gần như đã ổn định và một mặt trận mới được mở ra theo hướng Gschatsk – Rhew, bao trùm lên khu vực của chúng tôi. Những ngày liên tục phải rút lui đã trở thành quá khứ.

    Những con cáo chịu lạnh tốt hơn chúng ta. Mỗi khi phải bay quay trở lại Rhew ở độ cao thấp trên vùng đồng bằng phủ đầy tuyết, tôi thường thấy chúng chạy trên tuyết. Ở độ cao từ 5-10 feet, có thể thấy rõ chúng nghiêng đầu và rụt rè chớp mắt về bạn. Jackel vẫn còn vài viên đạn trong khẩu MG, anh ấy bắn một viên vào một con cáo, hạ gục nó. Sau đó, Jackel bay trở lại trên một chiếc Storch (ND: máy bay liên lạc cỡ nhỏ, biệt danh Con cò) có gắn ván trượt. Tuy nhiên, bộ lông thu được của Master Reynard đã bị thủng lỗ chỗ (ND: Reynard là một con cáo tinh khôn trong chuyện cổ Bắc Âu, rất thích chơi khăm những con vật khác. Rudel đang cố tỏ ra hài hước trong trò chơi săn bắn của mình và đồng đội).

    Tôi ngạc nhiên một cách bất bình trước tin tức rằng căn cứ vào số phi vụ bay đêm quá cao đã thực hiện, tôi phải quay về hậu phương ngay lập tức. Mệnh lệnh gửi đến cũng yêu cầu tôi, sau kì nghỉ phép, phải tới Graz tại Steiermark để chỉ huy một phi đội dự bị, nơi tôi sẽ truyền lại những kinh nghiệm chiến đấu mới nhất cho các chàng “lính mới”. Những cam đoan lặp đi lặp lại, rằng tôi không cần nghỉ ngơi, rằng tôi không muốn rời khỏi Stuka, thậm chí sử dụng đến các mối quan hệ cá nhân ở cấp cao, đều không mang lại hiệu quả. Đấy là mệnh lệnh không thể đảo ngược. Thật khó khăn khi phải chia tay đồng đội, những người mà vận mệnh đã gắn bó chặt chẽ với tôi.

    Trung úy Pressler hứa rằng khi mọi thứ lắng xuống, sẽ xin tôi quay trở lại vào thời điểm tôi bắt đầu nhận cương vị mới. Đấy chỉ là cọng rơm mà tôi phải tóm chặt lấy. Phải vậy thôi!

    Vậy là vào một buổi sáng, tôi bay trở phía Tây, trên một máy bay vận tải qua Witebsk – Minsk – Warsaw, trở về Đức. Tôi nghỉ ngơi bằng cách trượt tuyết ở Riesengebirge, ở Tyrol, cố gắng xoa dịu nỗi buồn bực bằng thể thao và ánh nắng mặt trời.

    Dần dần, sự bình yên và vẻ đẹp của những đỉnh núi phủ tuyết trắng xóa, nơi mà tôi coi như nhà, đã xua tan mệt mỏi trong tôi sau một thời gian dài hoạt động liên tục trên không trung.
    Lần cập nhật cuối: 20/11/2021
    kuyomukotoho, huytopviagraless thích bài này.
  3. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    6. Huấn luyện và đào tạo

    Trước khi đảm nhận công việc huấn luyện mới, tôi kết hôn. Cha tôi là mục sư nhà thờ Tin lành dòng Luther, nghi lễ kết hôn được thực hiện ở ngôi làng nhỏ bé, nơi tôi có rất nhiều kỉ niệm đáng nhớ thời còn “trẻ trâu”.

    Sau đó là tới Graz, lần này không phải “bị huấn luyện” mà là đi dạy người khác. Bay theo đội hình, bổ nhào, bắn súng, ném bom vào mục tiêu …. Tôi thường phải ngồi trên máy bay tới 8h/ngày, vì lúc này chả có ai đến giúp cả. Khi thời tiết xấu hoặc đến lịch phải bảo trì (máy bay) thì có diễu tập quân sự hoặc thể thao. Các phi hành đoàn từ các trường đào tạo Stuka được gửi tới tôi để đào tạo chuyên sâu rồi sau đó đi thẳng ra mặt trận. Tương lai tôi sẽ còn gặp lại họ, có khi ở ngay chính đơn vị của tôi.

    Nếu không vì lí do đặc biệt, công việc đào tạo này cũng đơn giản. Tôi dành thời gian rảnh rỗi cho việc luyện tập điền kinh, chơi tenis, bơi hoặc đi thăm thú khung cảnh đồng quê tráng lệ của Graz.

    Sau 2 tháng, tôi cũng có một trợ lí. Phi công sĩ quan Jackel thuộc Phi đoàn số 3, người cũng có huân chương Chữ thập Hiệp sĩ , và chẳng khác gì tôi, vừa bị biệt phái vào một công việc ít thách thức hơn.

    Chúng tôi thực hiện các bài huấn luyện mô phỏng thực tế, giống y như ngoài mặt trận. Với 2 chiếc tiêm kích Messerschmitt đóng vai phi đội tấn công của kẻ thù, quá trình tập luyện trở nên rất khó khăn và gian khổ, nhưng tôi tin rằng những phi công cường kích vượt qua nó sẽ học hỏi được rất nhiều.

    Thể thao giúp cơ thể trở nên dẻo dai và bền bỉ. Tôi thường bắt cả phi đội chạy 6 dặm vào mỗi sáng thứ Hai, nó khiến họ cảm thấy hưng phấn hơn. Vào buổi chiều, chúng tôi tới Andritz để bơi lội và thử thách thần kinh. Tất cả đều đủ tiêu chuẩn trở thành vận động viên nhảy sào và ở đó, họ cạnh tranh gay gắt với nhau để lấy chứng chỉ bơi lội.

    Jack ít hơn tôi vài tuổi, vẫn còn là một thanh niên, là người mà không ai có thể giận dù lâm vào tình huống khó xử như thế nào đi chăng nữa. Cậu ấy là người đồng tính, rất thú vị, luôn chủ động và bình thản trước những biến động trong đời.

    Vào các buổi chiều Chủ nhật, tôi thường đi chơi trên núi. Có một trạm xe bus trước phòng bảo vệ và tôi bắt xe đi vào thành phố. Một lần, tôi chợt nhận ra điều khác lạ ở cái bóng xe bus hiện trên lề đường, nó to hơn hẳn ngày thường. Vậy là trên nóc xe bus có người. Đấy là lũ “trẻ trâu” đang bày trò nghịch ngợm, đặc biệt là với những cô gái đi ngang qua. Tôi chỉ cần nhìn mũ là biết được đấy là ai. Họ ở cùng căn cứ đấy nhưng chắc chắn không thể thuộc đơn vị tôi, bởi vì đã có nghiêm lệnh cấm tất cả mọi quân nhân trèo lên nóc xe bus. Tôi bình luận thẳng thắn với một trung úy bộ binh đang ngồi ngay bên cạnh:

    - Mấy chàng Đông gioăng (Don Juan) kia phải là người bên anh.

    Anh ta đáp trả bằng một nụ cười mát đầy kiêu ngạo:

    - Chớ vội cười. Lính bên anh thì có.

    Khi những người lính xuống xe ở Graz, tôi ra lệnh cho họ tới trình diện vào 11h sáng thứ Hai. Ở đó, tôi sạc cho họ một trận

    - Các anh làm cái quái gì vậy? Ai cho phép các anh vi phạm lệnh cấm?

    Họ đứng im chịu trận, nhưng vẻ mặt thì rõ ràng là có điều gì muốn nói, thế nên tôi yêu cầu họ trình bầy.

    - Chúng tôi nghĩ rằng việc đó được cho phép, nhất là khi có Sĩ quan Jackel tham gia cùng.

    Tôi vội vàng cho chúng nó giải tán trước khi vẻ nghiêm túc của mình bị phá vỡ. Rồi cứ đứng đó bật cười khi hình dung ra cảnh viên sĩ quan Jackel ngồi trên nóc xe bus. Khi nói với anh ta về tình huống khó xử mà tôi bị đặt vào, anh ta liền giở ngay bộ mặt ngơ ngác vô tội ra, thế là tôi đành bỏ cuộc.

    Vài ngày sau, tôi suýt gặp phải một vụ tai nạn vớ vẩn khác. Một câu lạc bộ tàu lượn nhờ tôi kéo giúp tàu lượn của họ bằng một cái máy bay 2 tầng cánh cổ lổ sĩ của Czech, lí do là vì họ chả còn một ông phi công nào cả. Tôi vui vẻ nhận lời, tranh thủ làm chút việc riêng tư, số là vợ tôi rất thích bay, nên đây là cơ hội tốt để tận dụng. Sau 2h30ph bay, vì máy bay không có đồng hồ xăng nên tôi hỏi là còn bao nhiêu xăng, để còn biết đường hạ cánh. Câu trả lời là xăng còn non nửa bình nữa, cứ yên tâm đi. Thế là tôi yên tâm thật, bay trở lại sân bay. Nhưng khi đang ở tầm thấp, giữa cánh đồng khoai tây thì động cơ phát ra tiếng kêu. Tôi chỉ kịp kêu lên: “Nắm chặt lấy!” bởi vì tôi biết vợ tôi không thắt dây an toàn, trước khi máy bay lao xuống một luống khoai tây. Chiếc máy bay trượt qua một luống khoai tây khác rồi hạ cánh an toàn trên cánh đồng ngô. Chúng tôi lấy một ít xăng rồi cất cánh từ cánh đồng gập ghềnh đó, bay 2 dặm về sân bay.

    Biết bao nhiêu đồng đội của tôi, đặc biệt là trong Luftwaffe, vượt qua những trận đánh với kẻ thù mà không hề hấn gì, để rồi sau đó lại vướng phải những tai nạn “dân sự” hoàn toàn ngu ngốc kiểu như trên. Sự cố nhỏ nhặt này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của những quy định mà chúng ta buộc phải tuân thủ, dù chúng có vẻ ngớ ngẩn. Đó là trên máy bay, dù đang ở hậu phương hay ngoài mặt trận, ta đều phải cẩn thận như nhau. Đó là khi đối đầu với kẻ địch, không bao giờ chấp nhận những rủi ro không cần thiết ngay cả khi tâm trạng ta hoàn toàn thoải mái, tự tin vào chiến thắng.

    Khi chiếc máy bay cổ lỗ sĩ vừa hạ cánh xuống đường băng một lần nữa, tôi được biết rằng phi đội dự bị của một phi đoàn khác vừa được chuyển tới Nga. Vậy thì lần tới sẽ đến lượt tôi. Trong một thời gian dài, tâm trí tôi luôn bồn chồn với ý nghĩ rằng đã ở nhà được vài tháng, và giờ tôi mong mỏi được ra mặt trận. Tôi lo sợ mình bị giam chân ở hậu phương quá lâu, đấy là điều nguy hiểm. Vì tôi chỉ là con người nhỏ bé, thiên tính của tôi là sẵn sàng đánh đổi những cảm xúc gần gũi về cái chết để lấy nhiều cảm nhận mật thiết hơn về cuộc sống. Bởi vì tôi muốn sống, khao khát ấy luôn mạnh mẽ hơn mỗi khi tràn ngập trong tôi cái xung động điên cuồng của việc thoát chết sau mỗi lần tấn công. Đó cũng chính là thứ cảm giác thôi thúc tôi đứng trên đôi ván trượt, lao từ đỉnh Alpine dốc đứng, phủ đầy tuyết xuống phía dưới.

    Tôi không sợ chết, tôi yêu cuộc sống này, tôi cảm nhận được nó sâu trong từng hơi thở, trong từng lỗ chân lông, trong từng cơ bắp. Mỗi khi phải đối diện với thần Chết, tôi luôn nhìn thẳng vào mắt nó trong vài giây và chưa bao giờ là người đầu tiên phải cụp mắt xuống. Sau mỗi lần như vậy, cảm giác hân hoan chiến thắng khiến tôi chỉ muốn hét lên, át luôn cả tiếng gầm rú của động cơ.

    Tôi nghĩ đến tất cả những điều trên trong khi đánh vật với chiếc Messe trong xưởng vào buổi tối. Và quyết định rằng sẽ tìm mọi cách, sử dụng mọi mối quan hệ để thoát khỏi tình trạng này rồi quay lại mặt trận.

    Ý định đó mới hoàn thành một nửa. Chả bao lâu sau chúng tôi được lệnh chuyển đến Crimea. Vị trí đóng quân mới là Sarabus, gần Simferopol, dù sao vẫn gần mặt trận hơn so với nơi đóng quân cũ. Vấn đề vận tải được giải quyết bằng cách sử dụng tàu lượn, được những chiếc Ju 87 (Stuka) kéo theo sau. Chúng tôi đi qua Kracow – Lemberg – Proskurow – Nikolajew, rồi hạ cánh ở điểm tập kết. Sân bay lớn, rất phù hợp cho mục đích huấn luyện, còn những túp lều tạm thì chả khác gì ở mặt trận, nhưng mà ở đâu có ý chí ở đó sẽ có đường đi (there is a will there is a way). Chúng tôi bắt đầu bằng việc sử dụng lại giáo trình huấn luyện như hồi còn ở Graz.
    kuyomukotoho, huytopviagraless thích bài này.
  4. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Chúng tôi đặc biệt thích thú với những bài huấn luyện hạ cánh trên những sân bay khác nhau, như buổi sáng hạ cánh ở phía Tây bờ biển Đen, còn buổi chiều thì ở phía Tây Bắc gần biển Asow. Chúng tôi tắm ít nhất nửa giờ trên những bãi biển xinh đẹp, dưới ánh nắng mặt trời bỏng rát. Ở đây không có các ngọn đồi ngoại trừ gần Kertsch hoặc ở phía Nam, cách Jalta khoảng 5000 feet chạy dọc theo bờ biển phía Nam của Crimea. Tất cả địa hình còn lại đều bằng phẳng với những thảo nguyên rộng lớn đan xen các nông trang khổng lồ trồng cà chua. Một dải đồng bằng ven biển rất hẹp nằm kẹp giữa bờ biển và núi Jalta, đó là khu nghỉ dưỡng của người Nga, nơi chúng tôi thường đến bằng xe tải để tìm gỗ làm doanh trại. Chỗ đó còn xa mới xứng là một nơi nghỉ dưỡng thực thụ. Tôi
    có thấy một vài cây cọ ở Jalta – đến giờ vẫn ổn – nhưng 2 hoặc 3 cây cọ thì không làm nên một khu nghỉ dưỡng.

    Nếu nhìn từ xa, những tòa nhà tỏa sáng dịu dàng dưới ánh nắng mặt trời, đặc biệt đẹp nếu bạn được ngắm chúng trong khi bay dọc theo bờ biển. Nhưng ấn tượng tuyệt vời đó chỉ có khi bạn còn ở xa, lại gần, đi dạo trên các con phố thì sự thô tục và tầm thường của nơi nghỉ mát này (ND: Ý Rudel nói về kiến trúc) là một sự thất vọng to lớn. Ở hai thị trấn lân cận, Aluschta và Alukpa, cũng y hệt thế. Tại đó, những người đàn ông của tôi rất vui mừng khi khám phá ra những vườn nho, vừa đang độ chín. Chúng tôi nếm thử nho ở mọi sườn đồi và thường quay về nhà muộn với cái bụng quặn lên vì đau.

    Bắt đầu mất kiên nhẫn vì thời gian thì cứ trôi còn mặt trận vẫn đang ở rất xa, tôi gọi điện cho Tư lệnh không quân ở Caucasus đề nghị ông cho đơn vị chúng tôi chiến đấu (ND: đơn vị của Rudel vẫn đang trong nhiệm vụ huấn luyện, giữ vị trí dự bị), mọi phi công đều đã sẵn sàng. Đó sẽ là đợt huấn luyện thực tế mà họ không thể quên, sau đó, các Không đoàn chiến đấu sẽ cảm thấy may mắn vì có được họ, những phi công mới ra trường nhưng đã có kinh nghiệm.

    Đầu tiên, chúng tôi nhận được lệnh đến Kertsch. Ở đó, các đoàn tàu tiếp vận của Liên Xô thường di chuyển dọc theo bờ biển phía Nam, và chúng tôi “có thể” tấn công chúng. Đấy chỉ là “có thể” thôi. Thực tế là chúng tôi bay hàng giờ đợi chờ, nhưng chúng không xuất hiện. Một lần tôi cố thử vận may với chiếc tiêm kích Messe, săn tìm máy bay trinh sát đối phương. Nhưng lũ khốn ấy luôn chuyển hướng bay ra biển ở khu vực Tuapse – Suchum, không thể đuổi kịp chúng bởi vì theo lẽ tự nhiên, tôi không thể cất cánh trước khi phát hiện ra chúng

    Tuy nhiên, sau đó, tôi đã thành công trong việc được điều động đến Beloretschenkaja, gần Maikop, nơi một Không đoàn khác đang đóng quân. Ở đây, chúng tôi có thể bay chiến đấu thật sự một lần nữa, bên cạnh nhau, yểm trợ cho hướng tiến công tới Tuapse.

    Chỉ sau một đêm, chúng tôi đã hiện diện ở mặt trận đang sôi sục, ngay hướng chính. Chúng tôi ở trên không trung từ sáng sớm đến tối muộn, trên khu vực lục quân đang tấn công qua thung lũng Psich, theo đường Chadykenskaja – Nawaginskaja, vượt qua đèo Goitsch theo hướng Tuapse. Điều này không phải là dễ dàng vì là một đơn vị huấn luyện, chúng tôi chỉ được trang bị những máy bay cũ, tương đối lạc hậu, còn Không đoàn mà chúng tôi chiến đấu bên cạnh thì sử dụng những mẫu máy bay mới nhất. Khi bay cùng họ trong cùng một đội hình ở độ cao lớn, chúng tôi sẽ gặp những bất lợi không thể khắc phục.

    Chiến đấu trong những thung lũng hẹp là trải nghiệm vừa thú vị vừa căng thẳng. Chúng tôi thường vô tình lao vào bẫy trong khi truy đuổi kẻ thù hoặc khi cố gắng phát hiện địa điểm được ngụy trang của họ. Khi đó, những thung lũng hẹp là nơi rất khó cơ động. Thỉnh thoảng, một đỉnh núi đột nhiên hiện lên sừng sững cuối thung lũng, chắn ngang đường bay, buộc bạn phải ngoặt gấp, và cứ thế, hết lần này đến lần khác, mạng sống của bạn phụ thuộc vào các tính năng và hiệu suất của máy bay.

    Nhưng đó vẫn là trò trẻ con khi so sánh với tình huống bạn lâm vào, với những đỉnh núi cao hơn trần bay 600 feet, chìm khuất trong những đám mây dày đặc. Bạn không biết rõ về địa hình trong thung lũng, lối ra ở đâu, khoảng trống nào có thể sử dụng, và quan trọng nhất ….quân Nga mai phục ở chỗ nào trong biển mây kia?

    Những đơn vị sơn cước Đức quá nhỏ bé, phải kiên cường chiến đấu chống lại lực lượng phòng thủ có số lượng vượt trội, giữ lợi thế về địa hình. Chúng tôi duy trì liên lạc chặt chẽ, cố gắng hết sức hỗ trợ họ tấn công hoặc phòng thủ, mà điều kiện thì thật khó khăn, bởi đây là cuộc chiến đấu của những kẻ mù. Ngay khi Sĩ quan hành quân đồng ý tấn công một mục tiêu cụ thể, chúng tôi lập tức thi hành, dù chính chúng tôi, từ trên cao, không thể nhìn rõ mục tiêu. Kết quả chỉ được biết khi chỉ huy bên đấy khen ngợi tính hữu ích và hiệu quả của chúng tôi.

    Geimamberg và những điểm cao lân cận, đã nằm trong tay người Đức. Sau những cuộc giao tranh khốc liệt, chúng tôi tiến dần được về phía Tây Nam, chỉ còn 13 dặm nữa là chiếm được Tuapse. Nhưng thương vong ngày càng cao trong khi lực lượng dự bị thì không có, vì vậy cuộc đột kích lên đèo Goitsch bị bỏ rơi và chiến thắng cuối cùng không còn thuộc về chúng tôi nữa.
  5. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Tôi vẫn còn giữ kỉ niệm về một trận đánh đáng nhớ ở nhà ga Goitsch.Ở đó, một con tàu bọc thép Xô viết, với các khẩu pháo hạng nặng, bắn phá vào các tuyến chiến đấu mỏng manh của chúng tôi. Sử dụng một chiến thuật xảo trá, nó phun ra lửa, rồi giống như một con rồng, chui tọt vào hang. Hang ổ của nó là một đường hầm nằm trên núi, khu vực lân cận Tuapse. Nó nhanh như chớp, di chuyển liên tục, vô cùng thính nhạy mỗi khi không quân Đức xuất hiện. Có một lần, chúng tôi tóm được nó đang “nằm ngủ”, nhưng khi “rón rén tiến lại gần” thì vào phút cuối cùng, chắc được người canh gác cảnh báo, nó choàng tỉnh và chạy trốn. Tuy bị đánh trúng nhưng thiệt hại có vẻ không nặng lắm, vì chỉ sau một vài ngày sửa chữa, nó xuất hiện trở lại, cảnh giác hơn gấp bội, vì từ đó trở đi, chúng tôi không thể nào đến gần nó được nữa.

    Để khống chế con rồng, ít nhất là một thời gian cho các lực lượng mặt đất nghỉ ngơi, chúng tôi ném một quả bom đặc biệt vào ngay cửa đường hầm, khóa nó và toàn bộ những người vận hành ở trong đấy. “Nhân nào thì quả đấy”, xạ thủ súng máy sau lưng tôi cười khoái trí, bình luận.

    Chúng tôi cũng tấn công cảng Tuapse, nơi đấy, cũng như mọi hải cảng khác của Liên Xô, được bảo vệ chặt chẽ bởi pháo phòng không. Bản thân thành phố và bến cảng, nằm sau một dãy núi, vẫn thuộc quyền kiểm soát của người Nga. Ở độ cao 9000 feet, hỏa lực mặt đất chào đón từ rất lâu trước khi chúng tôi tiếp cận được mục tiêu. Súng phòng không đặt trên các đỉnh núi cao 4500 – 5000 feet, cách Tuapse đến hàng dặm, đón đường bay không quân Đức. Chúng tôi phải hạ độ cao xuống còn 2500 feet để tránh họ, sau đó tấn công vào các bến bãi, các công trình cảng, các tàu mặt nước, đặc biệt là tàu chở dầu. Nói chung, để đối phó, tất cả các mục tiêu địch (nếu có thể) đều cơ động theo hình tròn, để tránh bom. Nếu họ không làm thế, những chàng trai của chúng tôi, giờ đã trở thành các phi công chính thức và dày dạn kinh nghiệm, sẽ biến họ thành một đống mảnh vụn.

    Mật độ phòng không ở đây tất nhiên không thể so sánh được với Kronstadt, nhưng cũng rất ấn tượng. Không thể bay thẳng qua những ngọn núi được, vì chúng quá cao, chúng tôi thường bổ nhào ở độ cao thấp vào các mục tiêu ở cảng, sau đó rẽ ngoặt ra hướng biển với trần bay cực đại, nhanh chóng thoát khỏi tầm bắn phòng không. Tuy nhiên ngoài biển đã có tiêm kích Liên Xô đứng đợi sẵn, chúng tôi lại phải leo lên độ cao 9000 feet với biên độ 3000 feet cao quá đầu pháo phòng không trên núi, tránh thất tốc khi không chiến. Đường về nhà gian nan vậy đó.

    Trong những điều kiện tương tự như Tuapse, chúng tôi cũng phải tấn công Gelendshik, nơi có sân bay và tàu hải quân đậu trên vịnh cùng tên. Nhưng lần này không quân Liên Xô sớm định vị được địa điểm xuất phát của chúng tôi. Họ ném bom cả ngày lẫn đêm. Thiệt hại về vật chất tuy ít nhưng về con người thì thật nặng nề. Chỉ huy trưởng một Phi đoàn của Không đoàn bên cạnh, Orthofer, bị giết trong một cuộc không kích. Vào đúng thời điểm đó, tôi đã hạ cánh và đang lăn bánh trên đường băng, bom rơi như mưa xuống bên phải và bên trái máy bay. Máy bay tôi trúng rất nhiều mảnh bom, hư hỏng nặng nhưng tôi may mắn không bị thương.

    Tướng Pflugbeil, chỉ huy tất cả lực lượng không quân ở đây, thường có mặt tại nơi sơ tán của chúng tôi. Ông ấy mang tới tin tức rằng chúng tôi sẽ được chuyển xa hơn về phía Đông, tới một sân bay gần Terek. Một cuộc tấn công khác đang được thực hiện và họ cần người yểm trợ. Hướng tấn công là Grosny – Biển Caspian. Vào thời điểm chúng tôi di chuyển, mũi xung kích của xe tăng chỉ còn cách Okshokodnice một quãng ngắn. Chúng tôi vượt qua Georgiewsk Piatigorsk và Mineralnya Wody, nơi có thể nhìn xuống dãy núi Elbruz bao la và hùng vĩ bên dưới, hạ cánh xuống căn cứ mới ở Soldatskaja. Trong lúc nghỉ giữa đường ở Mineralnya Wody, chúng tôi phải đối phó với lũ chuột, có mặt ở khắp mọi nơi, trong đệm, trong tủ, trong hộp. Chúng nhảy ra khi bạn mở túi sắc cốt và ăn tất cả mọi thứ. Bạn gần như không thể ngủ được vì tiếng rúc rích trong gối. Tôi thường phải lục tung mọi thứ xung quanh để xua đuổi chúng nhưng rồi sau vài phút yên tĩnh, mọi thứ lặp lại y như cũ.

    Đại dịch chuột kết thúc khi chúng tôi tới Soldatskaja, có lẽ là nhờ những đợt không kích liên tục của người Nga. Ở đây, chúng tôi không yểm trợ mũi đột kích về phía Tây như mệnh lệnh ban đầu, mà hướng xuống phía Nam. Sau vài ngày, liên quân Đức và Hungary chiếm được Naltschik. Từ trên cao nhìn xuống, khung cảnh thiên nhiên ở đây thật huy hoàng. Phía trước mặt, những đỉnh núi cao tới 15.000 feet, phủ đầy tuyết, lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời với tất cả mọi màu sắc có thể tưởng tượng. Còn ở phía dưới là những cánh đồng cỏ xanh rộng mênh mông trải dài ngút tầm mắt, lấm chấm những đốm xanh, đỏ, vàng, màu của hoa và thảm thực vật. Ngước lên cao là bầu trời xanh rực rỡ. Mục tiêu ngay gần bên nhưng tôi hoàn toàn quên mất bản thân mình, tôi là ai, tôi đang ở đâu, và những trái bom mang theo để làm gì, chỉ thấy ngự trị trong tôi một cảm giác thật nhẹ nhàng, bình yên và thanh khiết. Thế giới núi non mà Elbruz là trung tâm rộng lớn đến mức choáng ngợp, một vài thung lũng của nó có thể chứa đựng cả dãy Alps bên trong.
  6. huytop

    huytop Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    16/11/2014
    Bài viết:
    1.417
    Đã được thích:
    5.939
    Tác phẩm hay quá...Cám ơn Chuyengianemda nhé..Tớ đã nhờ Ban QT đưa bài của bạn lên đàu trang..Đang bị ốm, hy vọng sẽ gặp mọi người vào tuần sau...
    ChuyenGiaNemDa thích bài này.
  7. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Elbruz là đỉnh cao nhất của dãy núi Kavkaz, miền Nam nước Nga. Chiến dịch Hoa nhung tuyết (Operation Edelweiß) mà Đức quốc xã phát động nhằm chiếm các mỏ dầu ở miền Kavkaz, đặc biệt là ở Azerbaijan, đã ko thành công do sự hiểm trở của địa hình, sự thiếu thốn về lực lượng và đặc biệt là tinh thần chiến đấu ngoan cường của Hồng quân. Trong chiến dịch này, các đơn vị Luftwaffe, mà Rudel tham dự, yểm trợ cho Tập đoàn quân xe tăng 1 tiến về hướng Grozny - Vladikavkaz. Họ sẽ bị chặn đứng.

    Sơn pháo 7,5 cm Gebirgsgeschütz 36 của quân đội Đức đặt trên đỉnh núi cao 3000m thuộc Kavkaz

    [​IMG]

    Không quân Đức tấn công Tuapse

    [​IMG]

    Không chiến trên bầu trời Kavkaz

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
  8. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Sau khi chiếm giữ được Naltschik, chúng tôi làm vài chuyến xuất kích về hướng Đông tới mặt trận Terek, cách xa Mosdok. Rồi bất ngờ rút lui tới Belorestchenskaja thuộc mặt trận Tuapse, nơi đang diễn ra giao tranh ác liệt ở một số khu vực trọng điểm cũ. Giờ đã là tháng Mười một, tôi bay phi vụ thứ 650 và cảm thấy không được khỏe lắm. Trong vài tuần trở lại đây, lòng trắng của mắt tôi, da của tôi đều vàng khè. Bệnh vàng da, tôi đoán thế, nhưng vẫn hi vọng nó sẽ tự khỏi và tôi không phải ngừng bay vì nó.

    Tôi luôn trả lời theo kiểu phủ nhận với bất kì ai hỏi tôi có ổn không, đặc biệt là với tướng Pflugbeil, người luôn cố gắng ra lệnh cho tôi, trong một thời gian dài, phải nghỉ ngơi. Những kẻ đùa ác thì bảo tôi bị thế do ăn quá nhiều kem tươi. Họ muốn nhắc tới lần tướng Pflugbeil mang một thùng rượu sâm panh (6 chai) tới chúc mừng phi vụ thứ 600 của tôi nhưng lại rất ngạc nhiên khi biết rằng tôi không ưa rượu, chỗ quà đấy phải đưa xuống cho các nhân viên phi đội. Thế là ít hôm sau, ông cho chuyển đến mấy chiếc bánh khổng lồ cùng 2 thùng đựng đầy kem tươi. Đấy là một món hấp dẫn cho lũ bò sát ở đây, thực tế là trong 2 ngày chúng tôi không ăn gì ngoài bánh ngọt, khiến hôm sau không còn ai đủ sức để bay nữa.

    Nhưng giờ thì người tôi vàng khè như một cây mộc qua, bởi vậy một chiếc Messe 108 bay đến cùng với lệnh của ông tướng rằng tôi buộc phải đi, bằng vũ lực nếu cần thiết, tới bệnh viện ở Rostov. Tôi đã thành công trong việc thuyết phục ông ta ngừng ở giữa đường để báo cáo với Không đoàn của tôi tại Karpowa gần Stalingrad. Thế là chúng tôi chuyển hướng bay về phía Bắc đến Elitra. Ở đó, dù dùng đủ mọi cách thức, tôi vẫn không thành công trong việc được ở lại Không đoàn và bàn giao Phi đội cho người khác. Tuy nhiên, Tư lệnh Không đoàn hứa sẽ trao cho tôi Phi đội số 1, đơn vị mà tôi từng là thành viên khi chiến dịch Nga bắt đầu. Ông kết luận:

    - Nhưng trước đó anh phải vào bệnh viện đã.

    Thế là vào giữa tháng Mười một, tôi phải giam chân mình trong bệnh viện Rostov.


    7. Stalingrad.


    Việc nằm trong bệnh viện khiến tôi lo lắng. Gần một tuần nay, tôi không thấy có sự thay đổi nào, sức khỏe vẫn thế, không hề khá hơn với chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt và nằm suốt ngày trên giường bệnh. Tôi cũng chả mong chờ đồng đội đến thăm, vì họ làm quái gì có thời gian để đi một quãng đường dài đến chỗ này.

    Mặc dù chỗ tôi gần biển, nhưng trời đã trở lạnh. Tôi có thể cảm thấy điều đó qua những làn gió thổi qua khe cửa kính nhỏ như sợi tóc trên ô cửa sổ.

    Bác sĩ điều trị cho tôi là một anh chàng suất sắc nhưng bắt đầu mất kiên nhẫn với tôi. Vì vậy, tôi phải “điều trị” ngay cho anh ta vào cái ngày anh bước vào phòng tôi và thông báo cộc lốc:

    - Có một chuyến tàu bệnh viện về Đức vào ngày kia, tôi sẽ sắp xếp cho anh đi cùng nó.

    - Tôi không đi đâu.

    - Nhưng anh phải về nước để điều trị. Anh đang nghĩ đến cái quái gì vậy?

    Cái kiểu cáu kỉnh giả vờ của anh không dọa nổi tôi.

    - Tôi không thể bị loại ngũ bởi cái căn bệnh ngu ngốc này. Đây là một bệnh viện tuyệt đấy, nhưng tôi nằm trên giường bệnh thế là đủ rồi.

    Rồi tôi khẳng định như đinh đóng cột:

    - Tôi phải bay về phi đoàn của mình ngay lập tức.

    Giờ thì ngài bác sĩ nổi giận thực sự, anh ta há miệng, rồi ngậm lại, cuối cùng xả tất cả ra:

    - Tôi sẽ không chịu trách nhiệm, hiểu không, không một trách nhiệm gì hết.

    Một khoảng khắc im lặng trước khi anh ta chốt hạ:

    - Hơn nữa, tôi sẽ xác nhận điều đó trên giấy ra viện của anh.

    Tôi gói ghém đồ đạc, nhận giấy ra viện rồi lao ra sân bay. Ở đây có một người thợ máy đang bảo trì máy bay cho Không đoàn của tôi. “Khi cô thương thì muốn làm người thường cũng khó” (Nguyên văn: One only needs to have luck on one’s side), đúng lúc này có một chiếc máy bay vừa sửa xong, thế là nó được lao thẳng lên trời, hướng tới Karpowo, cách Stalingrad 10 dặm. Thật khó mà nói rằng tôi đang mạnh khỏe và sung sức, người tôi quay cuồng trong ranh giới giữa tỉnh và mơ. Nhưng tự nhủ rằng đấy chỉ là choáng ngợp trước không khí trong lành, chứ không phải do căn bệnh quái ác kia gây ra.

    Tôi bay qua Tazinskaja – Surwikino, rồi Kalasch trên sông Đông, sau 2h cũng hạ cánh ở Karpowo. Đường băng đậu kín máy bay, phần lớn là Stuka của Không đoàn tôi và của một Phi đoàn bên cạnh. Bản thân sân bay không được ngụy trang, nằm ngay giữa vùng đồng quê trống trải, dốc thoai thoải sang một bên.

    Sau khi hạ cánh, tôi trèo ra ngoài, đi tìm biển chỉ dẫn. Định hướng chính xác trong khu vực mà đơn vị trú đóng luôn là một trong những sở thích của chúng tôi, còn những tấm biển chỉ dẫn thì có mặt ở khắp mọi nơi. Thế nên, chả mấy chốc tôi đã mò ra văn phòng hành chính của Không đoàn, ngay giữa sân bay, trong một hố nằm dưới mặt đất, nói theo kiểu quân sự thì đó là một cái boong-ke (bunker).
  9. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Tôi đứng đợi một lúc rồi ra trình diện trước Sĩ quan chỉ huy – C.O (Commanding Officer), anh ấy vừa ra ngoài thực hiện một phi vụ bay ngắn với Kraus, bạn tôi. CO vô cùng ngạc nhiên khi thấy tôi quay trở lại sớm như vậy.

    - Nhìn anh xem. Mắt anh, người anh vàng như cây mộc qua vậy.

    Chả thể nào thoát được chuyện này mà không phải nói láo. Bởi vậy tôi trả lời:

    - Tôi ở đây bởi vì tôi đã được xuất viện, hoàn toàn khỏe mạnh.

    Có tác dụng đấy. CO quay ra nhìn nhân viên y tế (MO – Medical Officer) rồi lắc đầu, nói:

    - Nếu anh ta khỏi bệnh, thì hẳn là tôi biết nhiều về bệnh vàng da hơn tất cả lũ bác sĩ. Nhân tiện, giấy ra viện của anh đâu?

    Một câu hỏi hóc búa. Ở sân bay Rostov, tôi rất cần một số giấy tờ nên đã vứt cái chứng nhận của viên bác sĩ xảo quyệt kia để lấy thứ khác thuận lợi và phù hợp hơn. Tôi nghĩ rất nhanh và trả lời mà không thay đổi âm sắc:

    - Theo tôi hiểu thì giấy ra viện của tôi đang được chuyển đến theo đường bưu điện.

    Thế là giữ đúng lời hứa với tôi 10 ngày trước, CO bổ nhiệm tôi làm chỉ huy trưởng phi đội cũ của tôi.

    Ở đây, mọi người ít phải xuất kích, họ mới chỉ có một lần tấn công qua bến cảng Volga, vùng phụ cận của Astrachan. Nhiệm vụ chính là bắn phá vào thành phố Stalingrad, nơi người Xô viết biến thành một pháo đài. Chỉ huy phi đoàn cũng giới thiệu sơ qua về tình hình đơn vị. Các nhân viên mặt đất vẫn là những người cũ, từ chuyên viên vũ khí Gotz đến chuyên viên kĩ thuật Pissarek. Các nhân viên trên không – lũ phi công - tất nhiên không có được may mắn như thế, lí do thứ nhất bởi vì thương vong, còn lí do thứ nhì là tất cả các phi công mới mà tôi huấn luyện đã được chuyển sang Phi đoàn dự bị. Khu vực ăn ở, sinh hoạt … đều ở dưới lòng đất, nơi mà chỉ trong một thời gian ngắn tôi nhanh chóng làm quen và coi như nhà mình.

    Ngày hôm sau chúng tôi thực hiện một chuyến xuất kích đến Stalingrad, với 2/3 thành phố nằm trong tay người Đức. Dù trên thực tế người Nga chỉ kiểm soát 1/3 nhưng 1/3 đó được phòng vệ với một lòng tin mang tính chất tôn giáo. “Stalingrad là thành phố của Stalin còn Stalin là chúa trời của những chàng trai người Kirgyz, Uzbek, Tarta, Turkmen và người Mông Cổ. Họ bám chặt lấy những mảnh vụn cho tới chết, họ ẩn nấp đằng sau những tàn tích của một bức tường. Đối với Stalin, họ là những người bảo vệ con quái vật chiến tranh, và khi con quái vật này chùn bước, những viên đạn súng lục ổ quay từ tay các chính ủy sẽ đóng đinh họ xuống mặt đất mà họ đang bảo vệ. Những học sinh Châu Á của chủ nghĩa cộng sản toàn trị này, và các chính ủy đứng đằng sau họ, được định mệnh sắp đặt để buộc nước Đức và thế giới từ bỏ niềm tin vững chắc rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một tín điều chính trị, như bao tín điều khác. Thay vào đó, đầu tiên họ chứng minh với chúng ta, sau là với toàn thế giới, rằng họ là môn đồ của sách Phúc âm mới. Bởi thế, Stalingrad chính là Bethlehem trong thế kỉ của chúng ta, nhưng đấy là Bethlehem của chiến tranh với lòng hận thù, sự từ bỏ và hủy diệt” (ND: Đoạn này thuần túy chính trị, vừa chống Cộng vừa chống Do thái, quá hàn lâm so với một người đầu óc đơn giản như Rudel. Em thắc mắc không biết có phải chính tay ông ta viết hay do người biên tập của ông – một cựu viên chức quốc xã trong Bộ tuyên truyền của Goebbels – thêm vào. Thời điểm hồi kí được viết thì chiến tranh đã kết thúc, Rudel và ông ta đều đang tị nạn ở Nam Mĩ và cộng tác chặt chẽ với nhau)

    Những ý nghĩ trên chiếm trọn tâm trí tôi khi liên tục thực hiện những chuyến xuất kích vào pháo đài Đỏ. Khu vực Liên xô kiểm soát nằm trên bờ phía Tây của sông Volga và mỗi đêm, những người lính cận vệ băng qua sông, cung cấp đồ hậu cần cho lực lượng phòng thủ. Những trận đánh khốc liệt bùng nổ trong từng khối nhà, từng căn hầm, từng bức tường nhà máy. Chúng tôi phải thả bom với một độ chính xác được tính toán cẩn thận, bởi vì những đồng đội bộ binh có khi đang ở trong một căn hầm cùng kẻ thù hoặc đứng cách họ vài mét đằng sau một bức tường.

    Trên bản đồ ảnh của chúng tôi về thành phố, mọi ngôi nhà đều có thể nhận rõ, mọi mục tiêu đều được phi công đánh dấu bằng mũi tên màu đỏ. Chúng tôi bay đến, bản đồ ở trên tay, chỉ được thả bom sau khi đã xác định vị trí chính xác của mục tiêu và lực lượng Đức trên mặt đất.

    Từ trên không trung nhìn xuống phía Tây Stalingrad – phần nằm trong tay người Đức – chúng tôi có một ấn tượng kì lạ bởi sự yên tĩnh bao trùm, đặc biệt nhất là giao thông gần như bình thường. Mọi người, bao gồm cả dân thường, thực hiện công việc thường ngày như thể mặt trận đang ở rất xa. Chỉ có phần phía Đông thành phố về phía sông Volga là nơi những ổ kháng cự của quân Nga còn trụ lại và là vùng đất chịu đựng những cuộc oanh tạc dữ dội nhất của chúng tôi. Ở đó, phòng không địch thường im bặt vào buổi chiều, có lẽ đạn đã hết sau một ngày bắn cật lực và phải chờ tiếp vận mới vào ban đêm. Ở bờ sông bên kia, không quân Nga cất cánh từ một vài sân bay dã chiến và cố gắng ngăn cản các cuộc tấn công trên không xuống bờ sông bên này. Rất hiếm khi họ đuổi theo chúng tôi về đến nhà mà thường nhanh chóng quay trở lại phần lãnh thổ họ kiểm soát dưới mặt đất.
  10. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Sân bay chúng tôi nằm gần thành phố nên khi cất cánh theo đội hình, máy bay phải bay hình tròn từ 1 đến 2 vòng mới đạt được độ cao cần thiết, thế là đủ để cảnh giới đường không của Liên xô cảnh báo cho lực lượng phòng không của họ. Điều này khiến các phi công không thể tách rời khỏi đội hình phi đội, có quá nhiều nguy cơ, bản năng mách bảo chúng tôi điều đó.

    Thời gian này, thể chất của tôi đạt tới điểm giới hạn, nhưng báo cáo bị ốm lên trên đồng nghĩa với việc mất quyền chỉ huy phi đội, nỗi lo sợ đó cung cấp thêm sức chịu đựng cho tôi. Sau 2 tuần như thể ở dưới địa ngục, tôi dần dần hồi phục sức khỏe. Trong khoảng thời gian đó chúng tôi vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ ở phía Bắc thành phố, nơi mặt trận tiếp giáp với sông Đông, vài lần tấn công các mục tiêu gần Beketowa. Công việc được thực hiện một cách khó khăn dưới hỏa lực phòng không dữ dội. Lời khai từ những người Nga bị bắt cho biết các khẩu súng phòng không này được điều khiển bởi phụ nữ. Bởi thế khi nhận nhiệm vụ tới khu vực này, chúng tôi thường nói đùa: “Hôm nay bọn này đi hẹn hò với mấy em gái phòng không đây”. Điều này không có nghĩa coi thường, vì ai cũng biết mấy “em gái” đó bắn tốt thế nào.

    Một cách đều đặn, chúng tôi tấn công lên phía bắc, nơi những cây cầu băng ngang sông Đông, chiếc lớn nhất gần làng Kaleskaja, vị trí đầu cầu được phòng không bảo vệ cực kì cẩn thận. Tù nhân Nga khai rằng sở chỉ huy của một đơn vị lớn nằm ở đó. Chúng liên tục được mở rộng, gia cố với rất nhiều người, vật liệu dồn vào. Việc chúng tôi phá hủy những cây cầu giúp chặn đứng dòng chảy tiếp viện nhưng đối phương nhanh chóng khôi phục bằng cách sử dụng cầu phao, băng qua những chỗ đứt gãy.

    Quân đội Rumani đảm nhiệm phòng tuyến sông Đông, bảo vệ bên sườn của tập đoàn quân số 6 Đức đang chiến đấu trong Stalingrad.

    Vào một buổi sáng, sau khi nhận được lệnh báo động, Không đoàn chúng tôi cất cánh tới đầu cầu ở Kaleskaja. Thời tiết xấu, mây thấp, tuyết rơi nhẹ, nhiệt độ âm 20 độ C. Xuất hiện từ đằng xa những nhóm người tiến về phía chúng tôi trong khi chúng tôi mới bay được nửa đường. Họ mặc quân phục màu nâu. Người Nga à? Không, đó là người Rumani. Họ đang bỏ chạy, một số thậm chí vứt bỏ súng trường để chạy nhanh hơn. Đó là một cảnh tượng gây sốc, nó báo hiệu điều tồi tệ diễn ra phía trước. Chúng tôi chuyển thành đội hình hàng dọc bay về phía Bắc, nhìn thấy những ụ pháo Rumani trên mặt đất, không có người điều khiển, không bị phá hủy, đạn dược nằm ngay bên cạnh.

    Từ đằng xa, những đơn vị tiên phong của Liên Xô xuất hiện. Họ đã phát hiện ra những vị trí bị bỏ rơi của quân đội Rumani. Chúng tôi sà xuống bắn súng máy và ném bom, nhưng có ích gì khi lực lượng mặt đất không còn ở đó?

    Giận dữ, kinh hoàng tràn ngập trong tâm trí. Làm thế nào ngăn chặn được thảm họa này đây? Tôi ném bom như mưa, bắn súng máy xối xả vào những đợt sóng màu vàng – xanh rộng không bờ bến đang tràn lên, những đợt sóng đến từ lục địa Châu Á và Mông Cổ (ND: Rudel miệt thị người Nga không phải là người Châu Âu, là lũ man di mọi rợ gốc Mông cổ). Tôi bắn không còn một viên đạn, thậm chí bắn hết cả số đạn dùng cho việc tự vệ nhằm chống lại một cuộc truy đuổi của tiêm kích đối phương. Giờ phải nhanh chóng quay về để tái nạp nhiên liệu, đạn dược. Với đám đông như thế kia, đòn tấn công của chúng tôi chỉ như muối bỏ bể, nhưng lúc này tôi không muốn nghĩ về điều đó.

    Trên đường quay trở về, chúng tôi một lần nữa nhìn thấy những cái lưng của người Rumani. May cho họ là tôi đã hết đạn nên không thể chặn đứng cuộc tháo chạy hèn nhát. Sự hèn nhát của họ chắc chắn sẽ khiến toàn bộ mặt trận sụp đổ.

    Quân đội Liên Xô tiến tới Kalatsch một cách áp đảo. Với Kalatsch trong tay, họ đã khép được nửa vòng tròn, bao vây ½ Stalingrad.

    Các binh sĩ của tập đoàn quân số 6, dưới làn đạn pháo tập trung ác liệt, chống chịu những làn sóng Đỏ tràn đến, hiểu rằng các tuyến tiếp vận bị cắt đứt, họ đã bị dồn vào chân tường, không còn con đường nào khác ngoài việc tiếp tục chiến đấu và giáng trả.

    Mặt trận Stalingrad chạy dọc theo những cái hồ nằm trên cao nguyên, trải dài từ nam xuống bắc rồi nối với thảo nguyên. Không có hòn đảo nào nằm giữa khoảng đồng bằng rộng mênh mông hàng trăm km cho tới một thị trấn khá lớn, Elistra. Ở đây, mặt trận hơi lượn về phía Tây.

    Một sư đoàn bộ binh cơ giới Đức phòng thủ ở Elistra, để khống chế lũ cặn bã hùng mạnh của thảo nguyên. Khoảng trống giữa Elistra và Tập đoàn quân số 6 do các đồng minh chúng tôi kiểm soát. Hồng quân xác định rằng đây chính là điểm yếu, đặc biệt là khu vực phía Bắc của mấy cái hồ, và họ đột phá xuyên về hướng Tây. Sông Đông chính là mục tiêu, chỉ sau vài ngày người Nga đã hiện diện trên sông. Từ đó, đòn đột kích xuyên qua phòng tuyến chúng tôi, tiến lên hướng Tây Bắc, tiến tới Kalatsch. Đây chính là điểm hội quân của người Nga, khép lại 2 gọng kìm, thiết lập một vòng tròn vĩ đại bao vây trọn vẹn Tập đoàn quân số 6 bên trong. Sau đó sẽ chỉ còn sự hủy diệt.

    Tất cả mọi thứ diễn ra với một tốc độ choáng ngợp, nhiều đơn vị dự bị Đức bị người Nga áp đảo và mắc kẹt trong gọng kìm của họ. Ở đây, chủ nghĩa anh hùng xuất hiện, thực hiện bởi những người lính vô danh. Không có một đơn vị Đức nào đầu hàng mà không bắn đến viên đạn cuối cùng, ném quả lựu đạn cuối cùng. Họ đã chiến đấu đến cùng.

    Giờ chúng tôi bay trong “chiếc túi” theo mọi hướng, tới bất cứ vị trí nào bị đe dọa. Binh lính tập đoàn quân số 6 trụ vững trước sức ép của người Nga, phong tỏa các vị trí bị xuyên thủng rồi sau đó phản công quyết liệt, đánh bật đối phương trở về nơi xuất phát. Sân bay của chúng tôi thường xuyên trở thành mục tiêu của các cuộc không kích tầm thấp và tầm cao, nhưng vì đã bỏ nhiều công sức cho hầm hào nên thiệt hại tương đối ít. Chỉ có điều chúng tôi quá thiếu xăng dầu, bom và đạn dược, nên sẽ không khôn ngoan nếu vẫn duy trì cả Phi đoàn trong “túi”. Cuối cùng chúng tôi đành phải rời bỏ sân bay, bay ra ngoài, chỉ giữ lại bên trong một phi đội đặc biệt do P.O Jungklausen chỉ huy, yểm trợ cho tập đoàn 6 đến chừng nào còn có thể. Phần còn lại của Phi đoàn tới Oblivskaja, cách Stalingrad 100 dặm về phía Tây.
    Lần cập nhật cuối: 25/11/2021
    kuyomukotoho, huytopMuahoaLekima thích bài này.

Chia sẻ trang này