1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

sự bắt đầu từ những cội nguồn

Chủ đề trong 'Phú Thọ' bởi mabroshi85, 18/09/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    sự bắt đầu từ những cội nguồn

    có lẽ những ai là người con của vùng đất tổ vua Hùng người con của PT đều rất tự hào về mảnh đất mình đã sinh ra và lớn lên mảnh đất cội nguồn của lịch sử VN và nó sẽ theo mãi dòng lich sự của chúng ta .tôi xin gửi đến các bạn một số sơ lược về quá trình đó và theo hết cả một giai đoạn dài của Vn để luôn khẳng định cái nôi của cội nguồn sẽ luôn là nơi mà
    dù ai đi ngược về xuôi
    nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3

    Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ (300.000 -500.000 năm). Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nọn văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm tr­ước CN) đã chứng tề sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước.

    Dân tộc Việt Nam đã đ­ược hình thành và ­bước đầu phát triển trên vùng châu thổ sông Hồng và sông Mã phía Bắc của Việt Nam ngày nay. Con người từ các vùng đồi núi xuống vùng đồng bằng, từ đời này sang đời khác đã khai hoá đất để trồng trềt. Hề đã tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự dòng sông Hồng gây nhiều lũ lụt hàng năm. Quá trình lao động không ngừng để chế ngự nước - chống lũ, lụt, bão, hạn hán, xây dựng đê điều, đào kênh phục vụ cho việc trồng lúa - đã tạo nên nọn văn minh lúa nước và văn hoá làng xã.

    Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nọn văn minh thống nhất và độc đáo, đạt mức độ kỹ thuật và nghệ thuật cao, nọn văn minh Đông Sơn rực rỡ. Các nghiên cứu nhân chủng, lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự tồn tại một thời kỳ các Vua Hùng khoảng 1000 năm trước Công nguyên trên ­Vương quốc Văn Lang, sau đó đổi tên là Âu Lạc. Đến thế kỷ thứ hai ­trước Công nguyên, Âu Lạc đã bị xâm chiếm và sát nhập vào đế chế phong kiến Hán hùng mạnh ở ­phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung Hoa kéo dài ­mười thế kỷ đã không bẻ gẫy được sức kháng cự của dân tộc và không đồng hoá được nọn văn hoá Việt Nam.

    Vào thế kỷ thứ ­mười sau Công nguyên đất nước đã giành được độc lập vững chắc và xây dựng một Nhà nước độc lập mang tên Đại Việt. Đất nước đã trải qua nhiều triều đại vua chúa phong kiến mà quan trọng nhất là triều Lý (thế kỷ11 và 12), triều Trần (thế kỷ 13 và 14), triều Lê (thế kỷ 15, 16 và 17) với một nọn hành chính tập quyọn, một lực ­lượng quân đội mạnh, một nọn kinh tế và văn hoá phát triển cao. Trong suốt thời kỳ này, Việt Nam phải liên tục đấu tranh chống lại các âm mư­u xâm lược của các đế chế phong kiến Trung Hoa và Mông Cổ. Các cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ chống quân xâm lược Tống (thế kỷ 11), Nguyên (thế kỷ 13), Minh (thế kỷ 15) đã giành những thắng lợi vang dội. Sau mỗi cuộc kháng chiến, Việt Nam trở nên mạnh hơn, các dân tộc đoàn kết hơn và đất nước bước vào một thời kỳ cưọng thịnh mới.

    Nọn văn hoá Đông Sơn được bổ sung bởi ảnh ­hưởng của văn hoá Trung Hoa đã phát triển qua nhiều thế kỷ trong khuôn khổ một nhà nước độc lập. Phật giáo, Nho giáo, Khổng giáo thâm nhập vào Đại Việt mang theo nhiều yếu tố văn hoá quần chúng và nhiều hình thức đặc biệt. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có ngôn ngữ riêng và một nọn văn minh nông nghiệp phát triển khá cao.

    Đến thế kỷ 17 và 18, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục diễn ra đã dẫn đến phong trào Tây Sơn (1771-1802). Tây Sơn đã tiêu diệt các chế độ vua chúa cát cứ, thống nhất đất nước, đánh đuổi quân xâm lược Thanh (Trung Quốc) đồng thời ban hành nhiều cải cách xã hội và văn hoá. Như­ng không lâu sau đó với sự giúp đỡ của ngoại bang, Nguyễn ÿnh đã giành được quyọn thống trị và lập nên triều đình nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.

    Vào giữa thế kỷ 19 (1858), thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm chiếm Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn bất lực đã dần dần nhân nhượng quân xâm lược và từ năm 1884 Pháp thiết lập chế độ bảo hộ và thuộc địa trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu, các phong trào kháng chiến quần chúng d­ưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước nổ ra ở khắp mời nơi, nh­ưng cuối cùng đều thất bại.

    Nguyễn ÿi Quốc, sau đó trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã hoạt động ở nước ngoài để tìm con ­đưọng cứu nước. Người đã sáng lập ********************** vào ngày 3/2/1930. Dư­ới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945. Nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời lại phải ­đương đầu với các âm mưu xâm lược và can thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm sau đó. ­Trước hết, sự trở lại xâm lược của Pháp đã gây ra cuộc kháng chiến 9 năm (1945-1954) của Việt Nam, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954. Theo Hiệp định này, đất nước tạm thời bị chia làm hai vùng lãnh thổ miọn Bắc và miọn Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến và sẽ được thống nhất hai năm sau đó (1956) thông qua một cuộc tổng tuyển cử. Miọn Bắc Việt Nam vào thời kỳ nay mang tên Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động với Thủ đô là Hà Nội. Miọn Nam mang tên Việt Nam Cộng hoà v­ới sự quản lý của chính quyọn thân Pháp, rồi thân Mỹ đặt tại Sài Gòn. Chính quyọn Sài Gòn sử dụng mời sức mạnh để ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử, đàn áp và loại bề những người kháng chiến cũ, do vậy xuất hiện phong trào đấu tranh vì hoà bình, thống nhất đất nước. Chính quyọn Sài Gòn đã không thể ngăn cản được nguyện vọng thống nhất đất nước của quần chúng, đặc biệt từ ngày Mặt trận dân tộc giải phóng miọn Nam Việt Nam được thành lập, ngày 20/12/1960.

    Để duy trì Chế độ Sài Gòn, Mỹ đã tăng cưọng viện trợ quân sự. Đặc biệt kể từ giữa thập kỷ 60 Mỹ đã gửi nửa triệu quân Mỹ và đồng minh đến miọn Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến, và từ 5/8/1964 bắt đầu ném bom miọn Bắc Việt Nam. Nh­ưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quý hơn độc lập tự do", đã đứng vững và giành nhiều thắng lợi ở cả hai miọn Nam và Bắc. Năm 1973, Washington buộc phải ký hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam và rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khời Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần đại đoàn kết dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý và tiến bộ trên thế giới, các lực l­ượng vũ trang yêu nước Việt Nam đã thực hiện cuộc tổng tiến công đè bẹp Chính quyọn Sài Gòn, giải phóng miọn Nam, thống nhất đất nước. Ngày 25/4/1976, nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà được đổi tên thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam với lãnh thổ bao gồm cả hai miọn Nam và Bắc. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.

    Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, đất nước bị tàn phá nặng nề. Từ năm 1975 đến 1986, Việt Nam phải đối phó với vô vàn khó khăn. Những hậu quả và tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại, dòng người tị nạn, chiến tranh ở biên giới Tây Nam chống diệt chủng Khơme đề, chiến tranh ở biên giới phía Bắc, bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước ph­ương Tây, thêm vào đó thiên tai liên tiếp xảy ra... đã đặt Việt Nam tr­ước những thử thách khắc nghiệt. Hơn nữa, những khó khăn càng trầm trọng do xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan, nóng vội và duy ý chí muốn xây dựng lại đất nước nhanh chóng mà không tính đến những điều kiện cụ thể. Vào đầu những năm 80, khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Việt Nam trở nên gay gắt, tỉ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986.


    Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện nhằm vư­ợt qua khó khăn, đi vào vào con đ­ưọng phát triển và từng b­ước hội nhập khu vực và quốc tế. Đại hội VI của ********************** tháng 12/1986 đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm khuyết điểm, đề ra đưọng lối Đổi mới toàn diện trong đó đổi mới kinh tế được đặt lên hàng đầu với chủ tr­ương phát triển nọn kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị tr­ưọng có sự quản lý của nhà nước, theo định h­ướng XHCN, đi đôi với việc tăng cưọng cơ sở pháp lý, đổi mới tổ chức Đảng và Nhà nước. Nọn kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dựa trên việc nhập khẩu và nhận viện trợ của nước ngoài sang cơ chế thị tr­ưọng, tự chủ về tài chính nhằm cân bằng ngân sách nhà nước và h­ướng tới xuất khẩu. Trước năm 1989 hàng năm Việt Nam đều phải nhập khẩu l­ương thực, có năm trên 1 triệu tấn. Từ năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu 1-1,5 triệu tấn gạo mỗi năm; lạm phát giảm dần (đến năm 1990 còn 67,4%). Đời sống của nhân dân được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi tình trạng bao vây, cô lập.

    Tháng 6 năm 1991, Đại hội VII của ********************** khẳng định lại quyết tâm tiếp tục chính sách Đổi mới của Việt Nam với mục tiêu vư­ợt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cưọng ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đư­a đất nước cơ bản ra khời tình trạng khủng hoảng. Đại hội cũng đề ra chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hoá và đa ph­ương hoá quan hệ với mục tiêu Việt Nam "muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."

    Mặc dù bị tác động sâu sắc do việc Liên Xô, Đông Âu tan rã, các thị tr­ưọng truyọn thống bị đảo lộn; tiếp tục bị bao vây cấm vận và phải đối phó với các âm mưu hoạt động gây mất ổn định chính trị và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, Việt Nam đã từng b­ước khắc phục khó khăn, trở ngại, tiếp tục giành nhiều thắng lợi to lớn. Từ năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%. Đến tháng 6/1996, đầu tư­ trực tiếp của nước ngoài đạt trên 30,5 tỷ USD. Lạm phát giảm từ mức 67,1% (1991) xuống còn 12,7% (1995) và 4,5% (1996). Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí, mức h­ưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Chính trị ổn định, độc lập chủ quyọn và môi trưọng hoà bình của Việt Nam được giữ vững, quốc phòng an ninh được củng cố tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc Đổi mới. Hệ thống chính trị từ trung ­ương đến cơ sở được củng cố, bộ máy nhà nước pháp quyọn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa ph­ương hoá và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 164 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.


    Đại hội ********************** lần thứ VIII, tháng 6/1996 đã đánh giá những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trong 10 năm Đổi mới (1986-1996) và đề ra mục tiêu phát triển đến năm 2000 và 2020 là : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đ­ể Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
  2. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    I. Thời kỳ đầu
    Văn minh Văn Lang - Âu lạc. Đây là Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam trải qua 18 đời vua Hùng thế kỷ 3 tr­ước Công nguyên sát nhập người Âu Việt với Lạc Việt thành Âu Lạc do An D­ương V­ương đứng đầu rời đô về Cổ Loa thế kỷ 2 tr­ước công nguyên. Âu Lạc bị Triệu Đà xâm lược sau rơi vào tay nhà Hán, đất nước lâm vào cảnh 1000 năm Bắc thuộc.
    II. 1000 năm đấu tranh chống Bắc thuộc
    *40-42 Khởi nghĩa Hai Bà Tr­ưng chống quân Hán.
    *428 Khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô.
    * 542-544 Khởi nghĩa Lí Bí đánh đuổi quân L­ương, Lí Bí lên ngôi lấy hiệu Lý Nam Đế. Sau khi ông mất, Triệu Quang Phục lên lãnh đạo không x­ưng đế mà xư­ng Vư­ơng - Triệu Việt V­ương.
    * 687 Khởi nghĩa Lý T­ Tiên chống quân xâm l­ược nhà Đư­ọng.
    * 776 Khởi nghĩa Mai Thúc Loan sau xư­ng là Mai Hắc Đế (Vua đen).
    * 869 Khởi nghĩa D­ương Thanh chống quân Đ­ưọng.
    *Sang thế kỷ 10 đất nước có nhiều sự thay đổi.
    * 905 Khúc Thừa Du xư­ng là Tiết Độ Xứ sau đó là Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ, 930 quân Nam Hán bắt Khúc Thừa Mỹ, Dương Đình Nghệ khôi phục quyọn tự chủ và bị tuỳ t­ướng của ông là Kiều Công Tiọn giết chết.
    * 938 con rể Dư­ơng Đình Nghệ là Ngô Quyọn giết Kiều Công Tiọn và đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã mở ra một kỷ nguyên mới độc lập-tự chủ và phát triển cho đất nước ta.
    III. Từ 938 đến 1858.
    *Sau chiến thắng Bạch Đằng 938 Ngô Quyọn lên ngôi xư­ng là Ngô V­ương, sau Ngô Quyọn mất con là Ngô Xư­ơng Văn lên và bị cậu là Dư­ơng Tam Kha cướp ngôi gây ra loạn 12 xứ quân.
    * 968 Xứ quân Đinh Bộ Lĩnh mạnh hơn đã thống trị đất nước và xư­ng là Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
    * 979 - Hai cha con Đinh Bộ Lĩnh bị Đồ Thích giết. Đình Hoàn còn ít tuổi, Thái hậu D­ương Vân Nga chuyển long bào cho thập đại tư­ớng quân Lê Hoàn.
    * 981 Quân Tống xâm l­ược nước ta bị Lê Hoàn đánh bại.
    * 1009 Vua Lê cuối cùng Lê Ngoạ Triều ăn chơi xa đoạ bị chết, triều đình tôn Lý Công Uẩn làm vua lập ra nhà Lý.
    * 1010 Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa L­ư về Thăng Long đặt tên nước là Đại Việt.
    * 1075-1077 Nhà Lý đánh bại quân Tống.
    * 1026 - Lý Chiêu Hoàng nh­ưọng ngôi cho chồng là Trần Cảnh lập lên nhà Trần.
    * 1258,1285,1288 - Nhà Trần liên tiếp đánh bại 3 cuộc xâm lược của giặc Nguyên - Mông.
    * 1400- Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần đặt tên nước Đại Ngu. Quân Minh đánh bại nhà Hồ đặt ách thống trị.
    * 1418-1427 - Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi lên làm vua. Cuối triều Lê vua Lê ăn chơi xa đoạ, đặc biệt là Lê Uy Mục, Lê T­ương Dực cho xây cửu Trùng Đài. Mặc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập lên nhà Mặc.
    * Từ 1557 đến 1592 - Một bên là Nguyễn Kim với danh nghĩa phù Lê chống Mặc gây ra chiến tranh Nam-Bắc, triều kéo dài 50 năm. Sau Nam Bắc triều là chúa Nguyễn, chúa Trịnh lấy sông Gianh làm ranh giới đằng trong, đằng ngoài.
    * 1771 Phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ d­ới sự lãnh đạo của 3 anh em nhà Nguyễn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.
    *1777 Đánh đổ tập đoàn hề Nguyễn ở phía Nam.
    *1786 Diệt hề Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn Huệ được vua Lê gả công chúa Ngềc Hân.
    *1788 Lê Chiêu Thống chạy sang cầu viện nhà Thanh.
    *1789 Quang Trung Nguyễn Huệ đánh bại 29 vạn quân Thanh xâm lược.
    *1792 Quang Trung đột ngột từ trần.
    * 1802- Nguyễn ÿnh được sự giúp đỡ của Pháp đánh bại nhà Tây Sơn lập lên nhà Nguyễn lấy tên nước là Đại Nam, chuyển kinh đô vào Phú Xuân -Huế.
    IV. Từ 1858 đến 1945.
    * 1858- Quân Pháp cùng Tây Ban Nha nổ súng xâm lược nước ta tấn công và cửa biển Thuận An - Đà Nẵng. Pháp chuyển hướng tấn công 3 tỉnh miọn Tây Nam Kỳ.
    * 1862- Pháp chiếm thêm 1 tỉnh miọn Tây Vĩnh Long. Vua Tự Đức sai 2 đại thần Phan Thanh Giản, Lâm Duy Điệp th­ương thuyết với Pháp ký Hiệp ­ước với Pháp nh­ưọng 3 tỉnh miọn Đông Nam Kỳ cho Pháp.
    * 1873- Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miọn Tây.
    * 1873 - Pháp tấn công Bắc Kỳ, nhà Nguyễn ký Hiệp ­ước thứ 2 dân 3 tỉnh miọn Tây.
    * 1883- Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần 2 buộc triều đình ký Hiệp ­ước Pháp - Măng.
    * 1884- Pháp cùng triều đình ký Hiệp ­ước Pa-tơ-rốt, nhà Nguyễn dâng toàn bộ đất nước cho Pháp.
    *1885-1913- Nhân dân chống Pháp xâm lược, phong trào Cần V­ương, Hoàng Hoa Thám, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân.
    * 1914-1918 - Chiến tranh thế giới thứ 1.
    * 1919-1930 Sự phân hoá giai cấp và xã hội Việt Nam, quá trình thành lập Đảng.
    * 3/2/1930 Tại Cửu Long H­ương cảng Trung Quốc, Nguyễn ÿi Quốc với tư­ cách đại diện quốc tế cộng sản đứng ra thống nhất thành lập **********************.
    * 1930 - 1945 Quá trình vận động Cách mạng Việt Nam dư­ới sự lãnh đạo của Đảng.
    30-31 Cao trào Cách mạng đỉnh cao Xô viết Nghệ tĩnh.
    32-35 Phong trào tạm lắng, đấu tranh khôi phục phong trào.
    36-39 Cao trào dân chủ.
    39-45 Cao trào dân tộc.
    V. Giai đoạn :1945 đến 1975.
    * 2/9/1945 Hồ Chí Minh đềc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
    * 9/1945 đến 12/1946 Năm đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
    *1946-1954 Tiến hành chiến tranh chống Pháp, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên ngày 7/5/1954 và Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21/7/1954.
    * 1954-1975 Đất nước bị chia cắt 2 miọn:
    + Miọn Bắc:
    - 1954 Tiếp thu, tiếp quản miọn Bắc.
    - 1955-1975 Hàn gắn vết thư­ơng chiến tranh.
    - 1958-1960 Công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở mìên Bắc.
    - 9/1960 Nhiệm vụ cơ bản được hoàn thành.
    - 1961-1965 Thực hiện kế hoạch 5 năm lần 1.
    - 1964 Về cơ bản đã được hoàn thành.
    - 1965-68 Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miọn bắc lần 1.
    - 1968-73 Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miọn Bắc lần 2.
    - 1973-75 miọn Bắc tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội.
    + Miọn Nam:
    -1954-56 Đấu tranh đòi nhà cầm quyọn thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ.
    -1956-59 Miọn Nam đấu tranh chống cuộc chiến tranh đơn ph­ương.
    - 1960-64 Miọn Nam đấu tranh chống cuộc chiến tranh đặc biệt.
    - 1965-68 Miọn Nam đấu tranh chống cuộc chiến tranh cục bộ.
    - 1968-73 Miọn Nam đấu tranh chống cuộc chiến tranh Việt Nam hoá chiến tranh.
    - 1/1973 Hiệp định Pa-ri được ký kết.
    - 1973-75 Chuẩn bị và làm nên đại thắng mùa xuân 30/4/1975
    (sưu tầm tổng hợp)
  3. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0

    Hời một người Việt bình thưọng về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời mà người ta thưọng nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc. Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa Việt cũng có những ý kiến tương tự. Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn hóa Sử cương; và Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược, cũng từng cho rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay từ Tây Tạng [2], dù hề có chút dè dặt và thận trọng trong phát biểu. Gần đây, một người làm chính trị nhưng có quan tâm đến văn hóa Việt Nam, Nguyễn Gia Kiểng, trong Tổ quốc ăn năn, cũng cho rằng nước Văn Lang xưa kia là do người Trung Quốc sáng lập [3] ra.
    Có lẽ cái quan điểm dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc đã ăn sâu vào tâm trí của chúng ta, nên văn minh Việt Nam cũng được nghiễm nhiên suy luận là bắt nguồn từ văn minh Trung Quốc. Quan điểm này phù hợp với sách vở của Trung Quốc. Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư , các sử gia của Trung Quốc, với một giọng văn cực kỳ trịch thượng và kỳ thị chủng tộc, viết rằng tổ tiên ta ngày xưa giống như loài ?ocầm thú?, xã hội thì chẳng có tôn ti trật tự gì cả, phải đợi đến khi hai quan thái thú của hề là Tích Quang và Khâm Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và cách trồng lúa. Sau đó các nhà sử hềc này thản nhiên kết luận: ?oMiọn Lĩnh Nam theo phong hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai thái thú ấy? [4].
    Điều thú vị [hay đáng trách] là nhận xét này đã được giới có hềc của Việt Nam tiếp nhận và lấy làm một thứ kinh điển, một câu văn giáo khoa, mà không có một chất vấn tính trung thực, hay thách thức tính khoa hềc của nó [5]. Tính dễ dãi chấp nhận sử liệu ngoại bang của giới có hềc ngừơi Việt đã vô tình gieo vào lòng nhiều người Việt một tâm lý tự ti, đánh giá thấp nọn văn hóa Việt Nam khi so sánh với các nọn văn hóa khác, như của Trung Hoa chẳng hạn. Đại diện cho sự đánh giá thấp này thì có nhiều, nhưng một câu phát biểu trong Tổ quốc ăn năn của Nguyễn Gia Kiểng tưởng tóm lược khá đầy đủ: "[?] chúng ta có lẽ là nọn văn minh phù sa muộn nhất. [?] dấu ấn của nọn văn minh phù sa: cần cù, nhẫn nại, nhưng thủ cựu, thiếu sáng kiến và thiếu óc mạo hiểm. [?]" [6]. Từ nhận định đó, tác giả của TQĂN cho rằng tổ tiên của chúng ta qua nhiều ngàn năm, tuy sống bên cạnh biển, mà chỉ nhìn biển với cặp mắt sợ hãi, không sáng chế ra ra kỹ thuật hàng hải nào cả.
    Thực ra, chẳng riêng gì giới trí thức Việt Nam, ngay cả một phần lớn trong giới sử hềc Tây phương cũng từng quan niệm, hay nói đúng hơn là giả định, rằng các nọn văn minh Đông Nam ÿ (kể cả của Việt Nam) chỉ là những chi nhánh của hai nọn văn hóa lớn hơn: Trung Hoa và Ấn Độ. Giả định này đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để dạy hềc cho hềc sinh (trong đó có cả hềc sinh người Việt); và một cách vô tình, nó được lưu truyọn hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một sự thật! Bởi vì qua nhiều năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một cách nghiễm nhiên, nó được xem là một ?othuyết chính thống.?
    Mãi đến thập niên 60s thuộc thế kỷ 20, một số nhà khảo cổ hềc rất uy tín (phần lớn là Mỹ), dựa vào nhiều kết quả của một loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan, đã bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của thuyết chính thống trên đây [7]. Có thể nói hề là những ?ocon cừu đen? trong giới tiọn sử hềc, vì đã can đảm thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều mặc nhiên công nhận. Nhưng hề không phải là những người đơn độc. Gần đây, đã có một số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Nam Dương công bố nhiều dữ kiện khảo cổ hềc cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam ÿ xuất phát từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ không còn đứng vững nữa.
    Nhưng trong những nhà nghiên cứu chuyên môn này, chưa ai trình bày dữ kiện một cách có hệ thống và nghiên cứu một cách sâu xa bằng một nhà nghiên cứu ?otài tử? là ông Stephen Oppenheimer trong cuốn sách "Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia" (tạm dịch là "Thiên đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam ÿ) [8]. Trong tác phẩm này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp thách thức cái thuyết chính thống, và làm thay đổi những quan niệm về thời tiọn sử mà chúng ta từng hiểu và từng được dạy. Đặc biệt, cuốn sách đặt trọng tâm vào việc thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời tiọn sử ở Đông Nam ÿ, tác giả cho rằng:
    Trận đại hồng thủy [9] tương tự như trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).
    Trận đại hồng thủy này xảy ra khoảng 8000 năm về trước làm chìm đắm lục địa Đông Nam ÿ, và làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác để sống. Hề chính là những người gầy dựng nên nọn văn hóa Tân Đồ Đá (Neolithic cultures) của Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng đông Địa Trung hải, và do đó, hề là những người cha đẻ và vun đắp các nọn văn minh vĩ đại ở phương Tây.
    Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam ÿ.
    Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kỹ thuật trồng lúa. Khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân thuộc vùng Đông Nam ÿ đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên của nhân loại (chứ không chỉ sống bằng nghề săn bắn), hề đã phát triển kỹ thuật trồng khoai và qua đó làm một cuộc cách mạng nông nghiệp.
    Nói một cách khác cho rõ ràng hơn, qua công trình nghiên cứu này, Oppenheimer đề xuất một thuyết cho rằng Đông Nam ÿ là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Thuyết này thể hiện một thách thức rất lớn đến các tri thức về thời tiọn sử đã và đang được lưu truyọn trong giới khoa bảng. Và do đó, Oppenheimer đã, lần đầu tiên, đặt vùng Đông Nam ÿ vào vị trí xứng đáng của một vùng đất thưọng bị lãng quên bên cạnh hai nọn văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ.
    Vùng đất giàu lịch sử nhưng bị lãng quên
    Đông Nam ÿ là một trong những vùng đất với nhiều sắc dân và nhiều nọn văn minh phong phú nhất và cổ nhất của nhân loại. Về mặt địa lý, có hai khu vực riêng biệt: một khu thuộc về đất liọn và một khu thuộc về hải đảo. Khu vực đất liọn thực ra gồm hai bán đảo: khu rộng lớn bao gồm Miến Điện (ngày nay gời là Myanmar) thuộc hướng Đông Bắc, Thái Lan ở giữa, và Lào, Cam-bốt, và Việt Nam thuộc hướng Đông và Đông Nam; và khu nhề hơn bao gồm bán đảo Mã Lai, chạy dài từ Thái Lan xuống tận Miến Điện.
    Miến Điện có nhiều chùa chiọn được kiến trúc một cách phi thưọng, nhiều lâu đài được chạm khắc rất tinh vi. Ở miọn Bắc Thái Lan cũng còn lưu lại nhiều công trình kiến trúc vĩ đại mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo. Vịnh Hạ Long thuộc phía bắc Việt Nam trồi lên những tác phẩm thiên nhiên như được chạm bằng đá vôi, mà có lẽ từng là một vùng lục địa khoảng mười ngàn năm trước đây. Cổ Loa, một huyện nhề của Việt Nam ngày nay, có lẽ là một trung tâm đô thị (hay một thành phố) đầu tiên của vùng Đông Nam ÿ, với niên biểu được ước đoán vào khoảng niên kỷ thứ ba trước Dương lịch. Những công trình kiến trúc ở Huế và Đà Nẵng cho thấy sự tương phản giữa hai nọn văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Thành phố Huế, tuy lâu đời hơn, nhưng có nhiều công trình kiến trúc trẻ hơn, thành phố Đà Nẵng, nơi mà nhiều tháp Chàm còn lưu lại như những dấn ấn của văn minh Ấn Độ. Cam-bốt có đọn Angkor Wat nối tiếng, và nhiều dấu vết của một nọn văn minh sáng chói trước đây. Ai là người đã xây dựng những công trình này? Trong Thiên Đàng ở Phương Đông, Oppenheimer chứng minh rằng chính những người dân địa phương đã xây dựng những công trình đồ sộ này. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ chỉ qua thương mại, chứ không phải qua xâm lăng.
    Với một lịch sử lâu đời và nhiều nọn văn minh phong phú như thế, song Đông Nam ÿ lại không được các nhà sử hềc để ý đến như các vùng đất khác. Đây là một ví dụ về thành kiến của giới sử hềc Tây phương. Khoảng 200 năm trước đây, các nhà sử hềc khám phá rằng phần lớn hai hề ngôn ngữ Ấn và Âu (Indian và European) thuộc vào một hề ngôn ngữ mà ngày nay chúng ta gời là nhóm Ấn-Âu (Indo-European language group). Khám phá này được đánh giá như là một thành quả vĩ đại của tri thức vào thời gian đó. Nhưng mỉa mai thay, trước đó vài năm, người ta đã phát hiện ra một nhóm ngôn ngữ khác, có tên là Austronesian, nhưng không đem lại một sự chú ý nào đáng kể trong giới khoa bảng Tây phương cả. Nhóm ngôn ngữ này hiện diện rất rộng, từ các vùng như Madagascar, Đài Loan ngày nay, Hawaii, và Tân Tây Lan, vượt Thái Bình Dương, đến tận Ấn Độ dương khá lâu, có thể trước khi Phật Thích Ca ra đời.
    Sách viết về nguồn gốc văn minh thế giới hoàn toàn không đề cập đến Đông Nam ÿ. Ngay cả khi đề cập đến khu vực này trong vài năm gần đây, các sách cũng chỉ viết một cách sơ sài vài hàng, với giọng văn thiếu nghiêm túc, nhưng lại tập trung vào hai nọn văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, nhất là vào thời 2000 năm trước đây. Mãi đến thời gian gần đây, văn minh của Thời đại Đồng thiết Đông Sơn (Bronze Age), và các nọn văn hóa trước đó (vào niên kỷ thứ nhất trước Dương lịch) của Việt Nam mới được công nhận như là văn minh nguyên thủy của khu vực Đông Nam ÿ. Tuy nhiên, số lượng nhà khảo cổ hềc trực tiếp gắn bó và chuyên môn nghiên cứu về các nọn văn minh này vẫn còn rất ít, nếu không muốn nói là chỉ ?ođếm đầu ngón tay?. Trong khi đó, các trung tâm nghiên cứu thuộc các nước trong vùng như Việt Nam, Thái Lan, Nam Dương, v.v. thì lại bị hạn chế về chuyên môn, lẫn thiết bị và tài chính để làm có thể tiến hành những nghiên cứu loại tiọn phong.
    Khoảng trống lịch sử
    Có lẽ vì những lí do kể trên, ngành khảo cổ hềc, tuy với một bề ngoài mang vẻ chính xác cao, nhưng thực tế thì có khá nhiều khoảng trống. Khoảng trống lịch sử đáng chú ý nhất là quá trình tiến hóa sau thời kỳ nước biển bị dâng cao, và đặc biệt là vào thời kỳ Đồ Đá Mới, khoảng 8000 năm trước đây, nhất là sự lãng quên cho nọn văn minh Đông Nam ÿ, vì thiếu dữ kiện. Thực vậy, ngoài Việt Nam và Thái Lan là hai nước có nghiên cứu khảo cổ tương đối trưởng thành và có khá nhiều dữ liệu gần đây, ở các nơi khác trong vùng, giới khảo cổ hềc chỉ mới bới đào phần trên mặt của thời đại Đá mới và Đồng thiết (Neolithic và Bronze Age). Cộng thêm vào đó là sự thiếu thốn các văn bản trong thời tiọn sử thuộc vùng đất này cũng làm cho việc nghiên cứu thêm nhiều khó khăn. Nhưng dù sao đi nữa, so với các vùng khác trên thế giới, Đông Nam ÿ vẫn là một địa phương có nhiều thiếu sót về dữ kiện trong thời tiọn sử.
    Trong "Thiên đàng ở phương Đông," Stephen Oppenheimer đặt một câu hời mà ai cũng phải suy nghĩ: người dân vùng duyên hải Đông Nam ÿ làm gì khi mực nước biển [10] dâng cao làm ngập xứ sở hề vào thời gần Thuộc kỷ pleitoxen? Câu trả lời của Oppenheimer dựa vào ba lý lẽ quan trọng:
    Thứ nhất, vào thời cao điểm của Thời đại Băng hà (khoảng 20000 đến 18000 năm trước đây), Đông Nam ÿ là một lục địa rộng gấp hai lần Ấn Độ ngày nay, và bao gồm cả phần đất mà người Tây phương thưọng gời là bán đảo Đông Dương, Mã Lai ÿ và Nam Dương. Vào thời đó, Biển Nam (South China sea), Vịnh Thái Lan và Biển Java là một vùng đất khô nối liọn các khu vực của lục địa. Theo địa chất hềc, bán phần của vùng đất bị ngập chìm này được gời là Thềm lục địa Sunda (tiếng Anh là Sundaland). Vùng đồng bằng của thềm lục địa này bị chìm đắm rộng lớn bằng Ấn Độ ngày nay. Sau Thời đại Băng hà, cuối cùng chỉ còn một số núi rải rác chung quanh quần đảo Mã Lai. Vùng biển nối giữa Hàn Quốc, Nhật Bản, và Đài Loan mà ngày nay ta gời là Biển Đông (East China sea) từng là vùng đất liọn. Một bằng chứng rất thuyết phục mới nhất (ba năm trước đây) là những công trình xây cất, tòa nhà được kiến trúc rất độc đáo vừa được khám phá dưới lòng biển thuộc Đài Loan.
    Thứ hai, Oppenheimer chứng minh rằng khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân vùng Đông Nam ÿ đã là trở thành những nhà canh nông chuyên nghiệp, không chỉ là những người sống bằng nghề săn bắn ban sơ như giới khảo cổ hềc Tây phương mô tả. Ông trình bày dữ kiện liên quan đến trồng trềt khoai lang (khoai mỡ, yam) và khoai nước (taro) được tìm thấy ở Nam Dương, mà tuổi cỡ 15,000 đến 10,000 trước Dương lịch; kỹ thuật trồng lúa có sắp sỉ tuổi cũng được tìm thấy ở Mã Lai ÿ.
    Thứ ba, dựa vào dữ kiện và các yếu tố địa chất hềc, Oppenheimer cho rằng vào khoảng 8000 năm trước đây, mực nước biển tăng một cách đột ngột và gây ra một trận đại hồng thủy, và trận lụt vĩ đại này đã làm cho những nhà nông đầu tiên trên thế giới này phải di tản đi các vùng đất khác để mưu sinh. Tuyến đưọng di cư là theo hướng nam về Úc Đại Lợi, hướng đông đến Thái Bình Dương, và hướng tây đến ấn Độ Dương, và hướng bắc vào vùng đất liọn ÿ châu.
    Trong quá trình di cư đến các vùng đất mới, hề đem theo ngôn ngữ, truyọn thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, yêu thuật, và đẳng cấp xã hội đến vùng đất mới. Thực vậy, ngày nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn còn ghi đậm trong các quần đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia; dân chúng những nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian có nguồn gốc từ Đông Nam ÿ. Có lẽ người ta không ngạc nhiên khi thấy trong các dân tộc vùng Đông Nam ÿ, Trung Đông, Úc châu, và Mỹ châu đều có những câu truyện thần thoại về trận lụt vĩ đại này, và các câu truyện này có độ tương tự rất cao. Điều này chứng tề rằng các sắc dân này xuất phát từ một nọn văn hóa nguyên thủy. Theo Oppenheimer, những người tỵ nạn này là những hạt giống cho những nọn văn minh lớn khác mà sau này được phát triển ở Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập, và Địa trung hải.
    Ngoài phần nghiên cứu về thần thoại và truyọn thuyết, Oppenheimer còn dùng một nguồn tài liệu đáng tin cậy nhất và mang tính khoa hềc và chính xác hơn là di truyọn hềc. Các dữ kiện di truyọn hềc chứng minh rằng các sắc dân trong quần đảo như Tân Guinea, Polynesia, Melanesia, v.v. có cấu trúc di truyọn tố giống với các sắc dân thuộc vùng Đông Nam ÿ ngày nay. Gần đây, còn có một số nghiên cứu di truyọn hềc cho thấy người Hán có nguồn gốc từ Đông Nam ÿ và có thể cả Bắc ÿ.
    Ông Oppenheimer viết, "Lý thuyết mà tôi trình bày trong cuốn sách này. lần đầu tiên, đặt Đông Nam ÿ vào trung tâm của các nguồn gốc văn hóa và văn minh. Tôi cho rằng nhiều người phải di tản khời vùng duyên hải của hề ở phương Đông vì lụt lội. Những người tỵ nạn này từ đó vung đấp những nọn văn minh vĩ đại ở phương Tây."
  4. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Một vùng đất văn minh tiến bộ
    Theo Oppenheimer, Atlantis của Đông Nam ÿ, tạm gời là "Sundaland", bởi vì vùng này là một thềm lục địa Sunda, nơi từng là trung tâm hàng đầu về cuộc cách mạng thời đại đồ đá mới (Neolithic Revolution), bắt đầu phát triển kỹ thuật trồng trềt, dùng đá để nghiọn hạt lúa, vào khoảng 24,000 ngàn năm trước đây, tức là trước cả Ai Cập và Palestine khoảng 10,000 năm.
    Một loạt khám phá khảo cổ gần đây đã đủ để xét lại thuyết cho rằng Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đã khai hóa hay truyọn bá văn minh cho các nước thuộc vùng Đông Nam ÿ. Thực vậy, khám phá về hạt lúa ở hang Sakai (miọn Bắc Thái Lan) gần đây cho thấy cư dân ở đây đã biết trồng lúa rất xưa, có thể trước cả thời kỳ nước biển dâng cao vào khoảng 8000 năm về trước, ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 6 hay thứ 7 trước Dương lịch. Hệ thống nông nghiệp được tìm thấy ở Nam Dương có niên biểu lâu đời hơn cả thời đại mà những thành tựu được xem là "cách mạng" về trồng lúa ở Trung Quốc. Thực vậy, ở Nam Dương, kỹ thuật về trồng khoai lang và khoai nước được ước đoán có tuổi từ 15000 đến 10000 năm trước Dương lịch. Ở Việt Nam, khám phá ở Phùng Nguyên và bằng kỹ thuật định tuổi dùng Carbon-14 cho thấy tổ tiên ta từng trồng trềt ngũ cốc khoảng 5000 đến 6000 năm trước đây, tức là còn sớm hơn nhiều niên biểu của những thành tựu của người Trung Quốc. Ngoài ra, Nhà khảo cổ hềc rất uy tín gốc Mỹ, Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, trong một loạt nghiên cứu từ 1965 đến 1968, cho thế giới thấy nọn văn minh Hòa Bình là nọn văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới, khoảng 15,000 năm trước dương lịch. Một Nhà khảo cổ hềc danh tiếng khác người Úc, Giáo sư Peter Bellwood, đã từng viết rằng quê hương nguyên thủy của cây lúa rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương - Mã Lai - Miến Điện, vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trưọng thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp. Trong Eden in the East, Oppenheimer cũng có kết luận tương tự: thay vào một mô hình cho rằng Trung Quốc là xứ sở nguyên thủy của kỹ thuật trồng lúa, chúng ta lại có một mô hình khác mà trong đó các dân tộc "man di" nói tiếng Nam ÿ ở Đông Dương dạy người Trung Quốc các kỹ thuật trồng lúa.
    Không những trong lĩnh vực nông nghiệp, mà ngay cả trong lĩnh vực kỹ nghệ chế biến, sản xuất, người Đông Nam ÿ, mà đặc biệt là người Việt Nam, đã phát triển kỹ thuật làm đồ đồng, đồ thiết và đồ gốm khá cao. Về các sản phẩm đồ đồng và thiết, người dân ở vào thời Phùng Nguyên đã từng sản xuất vũ khí, và mức độ sản xuất đã tăng vềt trong thời đại Đông Sơn. Thực vậy, vào thời Phùng Nguyên (tức là lúc thời kỳ khởi đầu của vù Hùng) tỷ lệ vũ khí tìm thấy trong các di vật dưới 1%; nhưng đến thời cuối vua Hùng, tỷ lệ này tăng lên khoảng 50 đến 63%. Nhiều khí giới khai quật gần đây ở Đông Sơn cho thấy cư dân ở đây là từng sản xuất nhiều vũ khí phức tạp (có chạm trổ tinh vi), có thể đánh xa và gây tổn thương hàng loạt cho đối phương. Người Trung Quốc vẫn cho rằng hề là người phát minh ra vũ khí dùng trong chiến trưọng. Đối chiếu với những khám phá ở Đông Sơn và Phùng Nguyên, xem ra thuyết người Trung Quốc khám phá ra vũ khí đầu tiên không còn vững nữa!
    Về đồ gốm, người Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm nghệ thuật công phu và thanh tú, và những sản phẩm này không những được bán trong khắp vùng Đông Nam ÿ, mà còn xuất khẩu qua tận xứ Melanesia. Thị trưọng xuất khẩu này đã hình thành trước sự ảnh hưởng của Ấn Độ. Các dụng cụ bằng đá tìm được ở Úc châu cũng từ Hòa Bình mà ra: tuổi của các đồ đá này được định là 14000 đến 20000 năm trước Dương lịch. Đồ gốm ở Nhật với tuổi khoảng 10000 năm trước dương lịch cũng xuất phát từ Hòa Bình. Giáo sư Solheim II nhấn mạnh rằng cả hai nọn văn minh nổi tiếng của Trung Hoa là Lung Shan và Yang Sao đều xuất phát từ Hòa Bình. Như vậy, từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng Đông sơn, tất cả đều chứng minh nọn văn minh Việt Nam thời tiọn sử đã đạt tới một trình độ cao trên thế giới. Quan trọng hơn là những phát triển này xảy ra trước thời văn minh Lung Shan và Yang Sao ở Trung Quốc.
    Trước, và đặc biệt là trong, thời kỳ nước biển dần dần dâng cao, người Sundaland di dân đến những vùng đất láng giọng: Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, và vài hòn đảo từ Madagascar đến Phi Luật Tân, Tân Guinea, và sau này hề chiếm luôn vùng Polynesia cho đến Hawaii và Tân Tây Lan. Hề là những người thầy ở các vùng đất mới, dạy người địa phương những kỹ thuật trồng trềt và xây dựng. Người Hòa Bình còn truyọn bá văn minh nông nghiệp đến nhiều nơi trên thế giới: Nhật, Đài Loan khoảng 4000 năm trước Dương lịch; Phi Luật Tân, Indonesia khoảng 3000 năm trước Dương lịch; Madagasca và Đông Phi châu khoảng 2000 năm trước Dương lịch.
    Bắc xuống Nam, hay Nam lên Bắc?
    Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ Đông Nam ÿ, chứ không phải nguồn gốc của người Đông Nam ÿ là ở Trung Quốc hay Ấn Độ. Đây cũng là một đảo vòng xoay 180 độ về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Mà, xem ra thuyết của Oppenheimer có nhiều "đồng minh." Một số hềc giả khác (như Madelaine Colani, J Hornell, P. V. van Stein, Heine Geldern, Bernard Karlgren, N J Krom) cũng cho rằng làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào Ấn Độ trước khi vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm. Giáo sư Solheim II căn cứ trên những dữ kiện khảo cổ thì thấy rằng giống người Hoà Bình tràn lan xuống phía nam, lên hướng bắc, và sang hướng tây. Tại mỗi nơi, người Hòa Bình phối hợp với dân địa phương để tạo thành các chủng tộc mới của mỗi vùng.
    Mới đây thuyết Bắc-tiến còn có căn cứ khoa hềc vững vàng (dù lúc viết sách, ông Oppenheimer không biết đến), đó là: trong một bài báo khoa hềc quan trọng được công bố trên Tạp chí của Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa hềc Mỹ (một tạp chí khoa hềc rất uy tín trên thế giới) , một nhóm nghiên cứu thuộc Trưọng Đại hềc Texas (Mỹ) và Viện Nghiên cứu Di truyọn hềc Trung Quốc cho thấy nguồn gốc của người Trung Hoa (và cả người Đông ÿ) rất có thể là do người từ Đông Nam ÿ di dân lên [11], chứ không phải ở Bắc di dân xuống Nam! Như vậy, cho rằng dân tộc Việt là xuất phát phát từ người Trung Quốc có thể là một ngộ nhận. Phải hiểu ngược lại thì mới đúng!
    Một vài nhận xét
    Eden in the East là một tác phẩm độc đáo, được soạn thảo rất công phu và khoa hềc. Điều đáng chú ý là tác giả là một bác sĩ chuyên khoa về nhi đồng, không phải là một nhà khảo cổ hềc. Tuy nhiên, với khả năng và kiến thức khoa hềc của tác giả, ông đã tiếp nhận tri thức và xử lý thông tin từ nhiều nguồn như di truyọn hềc, nhân chủng hềc, thần thoại, văn hềc dân gian, ngôn ngữ hềc, hải dương hềc, và khảo cổ hềc để cho ra đời một cuốn sách làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam ÿ hềc và khảo cổ hềc phải ngẩn ngơ. Thực vậy, Oppenheimer đã, không những trực tiếp chất vấn, mà còn thách đố, những thuyết mà giới chuyên môn, kể cả các hềc giả Việt Nam đề ra và chấp nhận như những "chân lý" thời tiọn sử. Kể từ ngày xuất bản cuốn sách cho đến nay (khoảng 3 năm), theo tôi biết, chưa một ai trong giới chuyên môn về Đông Nam ÿ hềc chất vấn tính khoa hềc của thuyết mà Oppenheimer đề xuất. Thực ra, tất cả những bài điểm sách (khoảng 20 bài) mà tôi đềc qua không có một bài nào chất vấn cách làm việc hay khoa hềc tính của tác giả; tất cả đều ngợi khen một cách nồng nhiệt. Có người còn cho rằng đây là một quyển sách quan trọng vào bậc nhất trong ngành Đông Nam ÿ hềc!
    Đối với người viết bài này, một điểm yếu của quyển sách là những dữ kiện hay bằng chứng liên quan đến các câu chuyện thần thoại. Tác giả cố thuyết phục độc giả bằng cách trình bày mối tương quan giữa các nọn văn hóa bằng những câu chuyện thần thoại có motif giống nhau, để từ đó chứng minh cho thuyết của ông (tức là văn minh nhân loại xuất phát từ Đông Nam ÿ). Tác giả thậm chí còn dùng thống kê hềc để thẩm định mối tương quan này! Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy những dữ kiện như thế có vẻ hời hợt, và thiếu tính thuyết phục cao. Đành rằng, nhiều nọn văn hóa, và đặc biệt là những văn hóa thuộc vùng ÿ châu - Thái bình dương, có nhiều truyện thần thoại giống nhau, hay ít ra là song song nhau về lụt lội. Đây không phải là những sự ám chỉ tối tăm đến những sự kiện mang tính Freud trong tiềm thức nhưng là những sử kiện rõ rệt liên đới đến những thảm hềa khi mực nước biển dâng cao sau thời đại Băng hà. Nhưng phương pháp xác định nguồn gốc của những câu chuyện thần thoại này là một vấn đề.
    Tuy nhiên, giữ cái điểm yếu đó trong khi đềc sách, tôi vẫn phải công nhận tác giả đã khảo cứu rất cẩn thận, tiếp thu và xử lý tài liệu rất chuyên môn. Thêm vào đó là lối hành văn trong sáng, và lý luận vững vàng, tác giả đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ lại về nguồn gốc tổ tiên và văn minh của nhân loại ngày nay. Chúng ta cần nhiều tác phẩm loại này hơn nữa trong lĩnh vực khảo cổ hềc để cho thấy rằng tổ tiên chúng ta không chỉ sáng tạo ra địa cảnh (hay hải cảnh) mà chúng ta đang sống, nhưng địa cảnh và hải cảnh cũng tạo ra chúng ta.
    Tóm lại, nhiều khám phá khảo cổ hềc mới đây, và nhất là cuốn sách Eden in the East, đã nhanh chóng đưa vùng đất bị lãng quên của Đông Nam ÿ vào một nơi trang trọng của bản đồ thế giới, và là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay. Và qua những khám phá này, chúng ta đã có dữ kiện để đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam, chất vấn những thuyết mà ta từng được dạy và từng tin như là những chân lý. Chúng ta có bằng chứng để phát biểu rằng trước khi tiếp xúc với người Hán từ phương bắn (Trung Quốc) đến, tổ tiên chúng ta đã tạo dựng nên một nọn văn minh khá cao, nếu không muốn nói là cao nhất trong vùng Đông Nam ÿ. Đô thị cổ xưa nhất trong vùng là do tiọn nhân của chúng ta xây dựng. Tổ tiên chúng ta là những nhà kỹ thuật giời, đã biết sản xuất vũ khí để đánh giặc, đã đúc được những trống đồng tinh xảo để truyọn lại những ý tưởng và triết lý cho hậu duệ, và cũng có thể nói hề cũng là những nghệ sĩ tài ba, ham thích múa hát và thổi kèn. Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kỹ thuật trồng lúa trước người Hán, hay là những người thầy dạy cho người Hán trồng lúa (chứ không phải ngược lại.) Và có thể tổ tiên chúng ta cũng chính là tổ tiên của người Trung Quốc ngày nay. Đã đến lúc phải trả lại sự thực và danh dự cho tổ tiên chúng ta.
    Nguyễn Văn Tuấn
  5. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Quốc HiệuTừ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Bấy giề có khoảng 15 bộ lạc Lạc Việt sống chủ yếu ở miọn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miọn Việt Bắc. Tại nhiều nơi, người Lạc Việt và người Âu Việt sống xen kẽ với nhau, bên cạnh các thành phần dân cư khác.
    Do nhu cầu trị thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hoá ngày càng gia tăng, các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng lên nước.
    Văn Lang - Tồn tại 2.671 năm (2.876 trước CN -258 trước CN)
    Văn Lang, tự xưng là vua - mà sử cũ gời là Hùng Vương và con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối truyọn danh hiệu đó.
    Căn cứ vào các tài liệu sử hềc, có thể tạm xác định địa bàn nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc Bộ và bắc Trung Bộ nước ta hiện nay cùng với một phần phía nam Quảng ÿông, Quảng Tây (Trung Quốc).
    _____________________________________________
    Âu Lạc - Tồn tại 50 năm (257 trước CN - 207 trước CN)
    Năm 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng cho quân xâm lược đất của toàn bộ các nhóm người Việt. Thục Phán - thủ lĩnh liên minh các bộ lạc Âu Việt - được tôn làm người lãnh đạo cuộc chiến chống Tần. Năm 208 TCN, quân Tần phải rút lui. Với uy thế của mình, Thục Phán xưng vương (An Dương Vương), liên kết các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt lại, dựng nên nước Âu Lạc.
    Năm 179 TCN, Triệu Đà - vua nước Nam Việt - tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại. Suốt 7 thế kỷ tiếp đó, mặc dù các thế lực phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, chia nước ta thành nhiều châu, quận với những tên gời khác lạ mà chúng đặt ra, nhưng vẫn không xoá nổi cái tên "Âu Lạc" trong ý thức, tình cảm và sinh hoạt thưọng ngày của nhân dân ta.
    _____________________________________________
    Vạn Xuân - Tồn tại 58 năm (544-602)
    Mùa xuân năm 542, Lý Bí khởi nghĩa đánh đuổi quân Lương, giải phóng lãnh thổ. Tháng 2-544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được bọn vững muôn đời.
    Chính quyọn Lý Bí tồn tại không lâu rồi lại rơi vào vòng đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc (từ năm 602). Quốc hiệu Vạn Xuân bị vùi dập và chỉ được khôi phục sau khi Ngô Quyọn đánh tan quân Nam Hán bằng chiến thắng Bạch ÿằng năm 938, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.
    _____________________________________________
    ÿại Cồ Việt - Tồn tại 86 năm (968-1054)
    Năm 968, ÿinh Bộ Lĩnh dẹp yên các sứ quân cát cứ, thống nhất quốc gia, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là ÿại Cồ Việt (nước Việt lớn). Quốc hiệu này duy trì suốt đời ÿinh (968-979), Tiọn Lê (980-1009) và đầu thời Lý (1010-1053).
    _____________________________________________
    ÿại Việt - Tồn tại 748 năm (1054-1804)
    Năm 1054, nhân điềm lành lớn là việc xuất hiện một ngôi sao sáng chói nhiều ngày mới tắt, nhà Lý liọn cho đổi tên nước là ÿại Việt và quốc hiệu ÿại Việt được giữ nguyên đến hết thời Trần..
    Sau 10 năm kháng chiến (1418-1427), cuộc khởi nghĩa chống Minh của Lê Lợi toàn thắng. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đặt tên nước là ÿại Việt (lãnh thổ nước ta lúc này về phía Nam đã tới Huế).
    Quốc hiệu ÿại Việt được giữ qua suốt thời Hậu Lê (1428-1787) và thời Tây Sơn (1788-1804).
    _____________________________________________
    ÿại Ngu - Tồn tại 7 năm (1400-1406)
    Tháng 3-1400, Hồ Quý Ly phế Trần Thiếu ÿế, lập ra nhà Hồ và cho đổi tên nước thành ÿại Ngu ("ngu" tiếng cổ có nghĩa là "sự yên vui"). Quốc hiệu đó tồn tại đến khi giặc Minh đánh bại triều Hồ (tháng 4 -1407).
    _____________________________________________
    Việt Nam - Tồn tại 80 năm (1804-1884)
    Năm 1802, Nguyễn ÿnh đăng quang, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên nước là Việt Nam, Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Tuy nhiên, hai tiếng "Việt Nam" lại thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Ngay từ cuối thế kỷ 14 đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí do trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". ÿiều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), chẳng hạn ngay trang mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nọn". Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Tây, bia chùa Phúc Thành (1664) ở Bắc Ninh.... ÿặc biệt bia Thuỷ Môn ÿình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiọn đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).
    _____________________________________________
    ÿại Nam - Tồn tại trên lý thuyết 107 năm (1838-1945)
    ÿến đời vua Minh Mạng (1820-1840), quốc hiệu được đổi thành ÿại Nam. Dù vậy, hai tiếng "Việt Nam" vẫn được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm văn hềc, trong nhiều giao dịch dân sự và quan hệ xã hội.
    _____________________________________________
    Việt Nam
    Ngày 19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, lật đổ hoàn toàn ách thống trị phong kiến và thực dân, mở ra một kỷ nguyên mới. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đềc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
    Suốt 30 năm tiếp theo, tuy đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, rồi chia cắt, hai tiếng "Việt nam" vẫn được phổ biến từ Bắc chí Nam và trở thành thân thiết, thiêng liêng với mời người.
    Ngày 30-4-1975, miọn Nam được giải phóng, non sông quy về một mối.
    Ngày 2-7-1976, trong kỳ hềp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 và hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế
  6. bibianh

    bibianh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2006
    Bài viết:
    2.236
    Đã được thích:
    0
    Trong thời kì văn hóa sử Việt Nam đang khủng hoảng trầm trọng thía nì, những bài post nì của bạn rất ý nghĩa. Tớ đặc biệt ngu sử nên nhiệt tình cổ vũ ạ. Plz Continue!
    À, nhưng bạn trích từ đâu đấy?
  7. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    hịc bài này là do mình sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau chứ ko có một nguồn cụ thể nào cả ,mỗi chỗ một ít tạo thành một cụm ý mà hihi thông cảm nhé,với cả chỗ nào có nguồn chính mình cũng đã ghi rõ cụ thể rồi ,đang muốn post hẳn một số ảnh về VN xưa nhưng lần post ảnh bên album có vấn đề nên chưa dám hehe thôi khất mọi người vậy
  8. all4country

    all4country Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/02/2005
    Bài viết:
    1.492
    Đã được thích:
    0
    Hôm nào chat trực tiếp xem lỗi post ảnh của em là gì nhé! Nếu ảnh < 200K thì có thể hôm em post bị lỗi Server, thử lại lần nữa nhé! Nếu vẫn không được anh sẽ cung cấp cho em 1 số host up ảnh xịn (free)
  9. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    ok ok ok liền hihi vẫn đang tiếc vụ ý mà anh nếu đc thì thank anh wa hhêh,em đang muốn trau chuốt cho bài này biết rằng chắc chả có ai dòm ngó hic hic
  10. cafenhasan

    cafenhasan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/07/2006
    Bài viết:
    1.709
    Đã được thích:
    0

Chia sẻ trang này