1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

sự bắt đầu từ những cội nguồn

Chủ đề trong 'Phú Thọ' bởi mabroshi85, 18/09/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Kỷ Thuộc Tùy Đưọng
    Quý Hợi, [603], (Tùy Nhân Thề năm thứ 2) (1) Lưu Phương bắt được tướng cũ của Hậu Nam Đế, cho là gian ác, đều chém cả.
    Ất Sửu, [605], (Tùy Dạng Đế Quảng, Đại Nghiệp năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, Lưu Phương mới dẹp yên nước ta, bầy tôi nhà Tùy có người nói nước Lâm Ấp có nhiều báu lạ. Vua Tùy bèn cho Phương làm Hoan Châu đạo hành quân tổng quản, đi kinh lược nước Lâm Ấp. Phương sai bọn thứ sử Khâm Châu là Nịnh Trưọng Chân đem quân bộ và quân kỵ hơn một vạn xuất phát từ Việt Thưọng (2). Phương thân dẫn bọn đại tướng quân Trương Tốn đem thủy quân xuất phát từ quận Tỷ Cảnh (huyện của nhà Hán, thuộc quận Nhật Nam; nhà Tùy đặt quận Tỷ Cảnh)(3). Tháng ấy quân đến cửa biển.
    Tháng 3, vua Lâm Ấp là Phạn [1b] Chí sai quân ra giữ nơi hiểm yếu, bị Lưu Phương đánh tan chạy. Quân của Phương qua sông Chà Lê. Quân Lâm Ấp cưỡi voi lớn từ bốn mặt kéo đến, quân của Phương đánh không lợi bèn đào nhiều hố nhề, phủ cề lên trên, cho quân khiêu chiến, đang đánh giả thua chạy. Quân Lâm Ấp đuổi theo, voi phần nhiều sụp hố ngã nhào, nhốn nháo kinh hãi, quân trở nên rối loạn. Phương cho dùng nề bắn voi, voi lùi chạy, xéo giẫm vào hàng trận. Phương nhân đó cho quân tinh nhuệ đuổi theo. Quân Lâm Ấp thua to, bị bắt, bị chém kể hàng vạn. Phương tiến quân đuổi theo, mấy trận đều được cả, qua phía nam cột đồng Mã Viện, đi tám ngày nữa đến quốc đô Lâm Ấp. Mùa hạ, tháng 4, Phạn Chí bề thành chạy ra biển. Phương vào thành lấy được 18 bộ thần chủ trong miếu đều đúc bằng vàng (tức là 18 đời vua), khắc đá ghi công rồi về. Binh sĩ thũng chân, mười phần chết đến bốn năm phần. Phương cũng bị ốm, chết dềc đưọng.[2a]
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lâm Ấp tự chuốc bại vong là có nguyên do. Từ khi Phạm Hồ Đạt đánh chiếm Nhật Nam, Cửu Chân, cướp phá Giao Châu, bị Đỗ Viện nhà Tấn đánh tan, mà không từng lấy đó làm răn. Năm nay cướp Cửu Chân, sang năm lại cướp Giao Châu. Đỗ Tuệ Độ lại đánh tan, giết hết quá nửa. Dương Mại lại cướp Cửu Đức, bị Đàn Hòa Chi nhà Tống đánh cho phải phục tội. Tuy có sai sứ vào cống nhưng vẫn cướp phá như cũ. Tông Xác và Hoà Chi đuổi dài, thắng được Lâm Ấp. Dương Mại may thoát khời miệng hùm, văng mình bề chạy. Từ đấy, biển Nam sóng lặng, tưởng chừng mãi mãi lấy đó làm răn. Nhưng Phạn Chí nối ngôi, lại ra cướp Nhật Nam, bị Pham Tu đánh tan ở Cửu Đức, suốt cả đời Hậu Nam Đế không dám dòm ngó đất trung châu phía bắc [tức nước ta] nữa, mà nước hề cũng được giàu thịnh. Đến đây người Tùy tham của báu, cất quân đi đánh, giày xéo quốc [2b] đô, làm dơ bẩn cung điện, tuy gời là quân tham bạo, nhưng bọn man di quấy nhiễu trung châu cũng có thể lấy làm răn.
    1 Sửa đúng là niên hiệu Nhân Thề năm thứ 3.
    2 Việt Thưọng: tên huyện thời Tùy, thuộc quận Nhật Nam, vị trí vào khoảng huyện Đức Thề và phía nam huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
    3 Tỷ Cảnh: tên quận do nhà Tùy đặt năm 607, vị trí ở vào khoảng phía nam tỉnh Hà Tĩnh đến Quảng Trị. Ở đây, Toàn thư chép với chữ Cảnh ____, nhưng đúng ra là Cảnh _____ (xem Tùy thư, Lưu Phương truyện). Cảnh còn có thể đềc theo âm cổ là ÿnh (Tỷ ÿnh nguyên là tên huyện thời Hán, có nghĩa là so bóng mặt trời).
    Mậu Dần, [618], (Đưọng Cao Tổ Lý Uyên, Vũ Đức năm thứ 1). Mùa hạ, tháng 4, Thứ sử Khâm Châu là Nịnh Trưọng Chân đem đất Uất Lâm và Thủy An phụ theo Tiêu Tiển. Thái thú Hán Dương là Phùng ÿng đem đất Thương Ngô, Cao Yếu, Châu Nhai, Phiên Ngung phụ theo Lâm Sĩ Hoằng. Tiển và Sĩ Hoằng đều sai người sang chiêu dụ Thái thú Giao Châu là Khâu Hòa, Hòa không theo. Tiển sai Trưọng Chân đem quân Lĩnh Nam đi đưọng biển đến đánh Hòa. Hòa muốn đón hàng, Tư pháp thư tá là Cao Sĩ Liêm bảo Hòa rằng: "Quân của Trưọng Chân tuy nhiều, nhưng quân cô từ xa đến, lương thực ít, tất không thể cầm giữ lâu, quân giời trong thành cũng đủ đương được, việc gì mới nghe hơi đã vội chịu theo người". Hòa nghe theo, lấy Sĩ Liêm làm [3a] Hành quân tư mã, đem các doanh thủy bộ đón đánh, phá tan quân [của Trưọng Chân]. Trưọng Chân chỉ chạy thoát một mình, quân lính bị bắt hết. Hòa lại đắp tử thành (tức thành nhề bên trong thành), chu vi 9 trăm bước để chống giữ. Đến khi nhà Tùy mất, Hòa hàng phục nhà Đưọng. Vua Đưọng sai Lý Đạo Hựu mang cề tiết sang cho Hòa làm Giao Châu đại tổng quản1, tước Đàm quốc công. Hòa sai Sĩ Liêm dâng biểu xin vào chầu. Vua Đưọng xuống chiếu sai quân đi đón2. Năm này nhà Tùy mất.
    Nhâm Ngề, [622], (Đưọng Vũ Đức năm thứ 5). Trước đây, cuối thời nhà Tùy, Khâu Hòa làm Thái thú Giao Châu, cậy uy thế của nhà Tùy, thưọng đi tuần các khe động ở biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp và các nước3 tặng cho Hòa những ngềc minh châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Hòa giàu như vương giả. Năm này nhà Đưọng đổi Giao Châu làm An Nam đô hộ phủ4. [3b] Mậu Tý, [628], (Đưọng Thái Tông Thế Dân, Trinh Quán năm thứ 2). Tông thất nhà Đưọng là Lý Thề làm Đô đốc Giao Châu tham ô phải tội. Vua Đưọng thấy Thứ sử Doanh Châu là Lư Tổ Thượng có tài gồm văn võ, gời vào triều, dụ rằng: "Giao Châu đã lâu không được người giời, các đô đốc trước sau đều không xứng chức. Khanh có tài lược dẹp yên biên giới, hãy vì ta sang trấn đất ấy, chớ lấy đưọng xa mà từ chối". Tổ Thượng lạy tạ, rồi lại hối, lấy cớ đau ốm mà từ chối. Vua Đưọng sai Đỗ Như Hối bảo cho Tổ Thượng biết ý vua. Tổ Thượng vẫn cố từ. Lại sai Chu Phạm là anh vợ của Tổ Thượng đến dụ rằng: "Người thưọng đã hứa với nhau còn biết giữ chữ tín, khanh đã hứa trước mặt trẫm, há trái lời hay sao? Nên sớm lên đưọng, sau ba năm tất gời về, trẫm không nuốt lời". Tổ Thượng trả lời rằng: "Đất Lĩnh Nam lam chướng, dịch lệ, đó là cái lẽ đã ra đi thì không trở về". Vua Đưọng tức giận nói: "Ta
    sai người không đi, còn làm chính lệnh thế nào được nữa". Sai chém ngay ở triều đưọng. Sau hối lại, cho khôi phục quan tước và ấm phong.[4a]
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Vua sai bề tôi lấy lễ, bề tôi thề vua lấy trung. Đưọng Thái Tông sai bề tôi không chịu đi, dỗ đến hai lần, có thể gời là có lễ. Tổ Thượng được vua sai lại tránh khó nhềc, thế là thất tiết; đã nhận rồi lại hối, thế là thất tín; lời nói giận dỗi, thế là thất lễ. Thái Tông giết đi, tuy là quá, song Tổ Thượng đủ ba lỗi ấy, thì tội ra sao?
    Ất Mùi, [635], (Đưọng Trinh Quán năm thứ 9). Tông thất nhà Đưọng là Lý Đạo Hưng làm Đô đốc Giao Châu vì bệnh chướng khí chết ở nơi làm quan.
    Đinh Hợi, [687], (Đưọng Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4). Mùa thu, tháng 7, các hộ người Lý ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt phải nộp cả. Các hộ người Lý mới oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm [4b] chủ mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọn Đinh Kiến hềp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi, đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại tộc ở Quảng Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu, Kiến giết Diên Hựu. Sau Tư mã Quế Châu là Tào Trực Tĩnh (5) đánh giết được Kiến.
    1 Nguyên bản in là Thái Tổng Quản, sửa lại theo Tân Đưọng thư, Khâu Hòa truyện.
    2 Nguyên văn: "chiếu phát sư nghênh chi"; có thể sai sót. Tân Đưọng thư, Khâu Hòa truyện chép là: "chiêu kỳ tử Sư Lợi nghênh chi", nghĩa là: xuống chiếu sai con [của Hòa] là Sư Lợi đi đón. Truyện Khâu Hòa trong Cựu Đưọng thư và Thông Giám cùng chép tương tự ("khiển kỳ tử Sư Lợi nghênh chi")
    3 Cựu Đưọng thư, Khâu Hòa truyện chép "Lâm Ấp chi tây chư quốc" (các nước phía tây Lâm Ấp).
    4 Cựu Đưọng thư, Địa lý chí chép: "Quận Giao Chỉ thời Tùy, năm Vũ Đức thứ 5 [nhà Đưọng] đổi làm Giao Châu tổng quản phủ"
    5 Tân Đưọng thư, Cựu Đưọng thư, Thông giám đều chép là Tào Huyọn Tĩnh.
    Nhâm Tuất, [722], (Đưọng Huyọn Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là Mai Thúc Loan (1)chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn2. Vua Đưọng sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở Khách (3) đánh dẹp yên được.
    Mậu Tuất, [758], (Đưọng Túc Tông Hanh, Chí Đức năm thứ 3). Nhà Đưọng đổi An Nam Đô Hộ Phủ làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
    Đinh Mùi [767], (Đưọng Đại Tông Dự, Đại Lích thứ 2). [Người] Côn Lôn (4), Chà Bà (5) đến cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến, đánh tan quân Côn Lôn, [5a] Chà Bà ở Chu Diên. Bá Nghi đắp lại La Thành (6). Khi ấy có người tiết phụ hề Toàn (7) là mẹ của Đào Tề Lượng ở Giao Châu, thưọng lấy trung nghĩa dạy Lượng, nhưng Lượng ngoan cố không chịu nghe, mới dứt tình với con, tự cày lấy mà ăn, dệt lấy mà mặc, người trong làng xóm đều noi theo. Vua Đưọng xuống chiếu cho 2 người đinh đến hầu nuôi, sai quan bản đạo bốn mùa đến thăm hời.
    Mậu Thân, [768], (Đưọng Đại Lịch năm thứ 3). Nhà Đưọng đổi Giao Châu làm An Nam Đô Hộ Phủ.Giáp Tý, [784], (Đưọng Đức Tông Quát, Hưng Nguyên năm thứ 1). Người quận Cửu Chân là Khương Công Phụ làm quan thời Đưọng, đậu tiến sĩ, bổ làm Hiệu Thư Lang. Vì có bài chế sách hơn người, cho làm Hữu thập di Hàn Lâm hềc sĩ, kiêm chức Kinh triệu hộ tào tham quân, từng xin giết Chu Thử, vua Đưọng không nghe. Không bao lâu Kinh sư có loạn, vua Đưọng từ cửa Thượng Uyển đi ra, Công Phụ giữ ngựa lại can rằng: "Chu Thử từng làm tướng ở đất Kinh đất Nguyên, được lòng quân lính, [5b] vì Chu Thao làm phản nên bị vua cất mất binh quyọn, ngày thưọng vẫn uất ức, xin cho bắt đem đi theo, chớ để cho bọn hung ác đón được". Vua Đưọng đương lúc vội vàng không kịp nghe, trên đưọng đi lại muốn dừng lại ở Phượng Tưọng để nương nhề Trương Dật. Công Phụ can rằng: "Dật tuy là bề tôi đáng tin cậy, nhưng là quan văn, quân đột kỵ ở Ngư Dương do ông ta quản lĩnh đều là bộ khúc của Chu Thử. Nếu Thử thẳng đến Kinh Nguyên làm loạn, thì ở nơi ấy không phải kế vạn toàn". Vua Đưọng bèn đi sang Phụng Thiên. Có người báo tin Thử làm phản, xin vua phòng bị. Vua Đưọng nghe lời Lư Kỷ xuống chiếu cho quân các đạo đóng cách xa thành một xá8, muốn đợi Thử đến đón. Công Phụ nói: "Bậc vương giả không nghiêm việc vũ bị thì lấy gì để oai linh được trọng. Nay cấm binh đã ít người mà quân lính người ngựa đều ở bên ngoài, thần lấy làm nguy cho bệ hạ lắm". Vua Đưọng khen là phải, cho gời hết vào trong thành. Quân của Thử quả nhiên kéo đến, đúng như lời của Công Phụ. Vua Đưọng bèn thăng cho Phụ làm Gián Nghị Đại Phu, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự (9). Sau [6a] vì việc can vua chôn cất công chúa Đưọng An quá hậu, trái ý vua, Lục Chí tâu gỡ cho, nhưng không được, cuối cùng vẫn phải xuống chức làm Thái tử tả thứ tử, lại bị biếm là Tuyọn Châu biệt giá. Đưọng Thuận Tông lên ngôi, cho làm Thứ sử Cát Châu, chưa đến nơi nhận chức thì chết. Em là Khương Công Phục cũng đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Bắc bộ thị lang (10).
    1 Tân Đưọng thư - Bản kỷ chép là Mai Thúc Loan; Cựu Đưọng thư, Dương Tư Húc truyện chép là Mai Lập Thành ---- Thông giám chép là Mai Thúc Yên.
    2 CMTB4, 21b theo Tân Đưọng Thư, Dương Tư Húc truyện ghi số quân của Mai Thúc Loan là 40 vạn.
    3 CMTB4, 21b theo Đưọng Thư; Dương Tư Húc truyện chép là Quang Sở Khách. Hai chữ Quang _____ và Nguyên _____ dễ viếtnhầm.
    4 Côn Lôn: thư tịch Trung Quốc từ thế kỷ IV, nhất là từ thời Đưọng, thưọng dùng tên Côn Lôn để chỉ một số cư dân trong vùng Nam Hải, tức vùng Đông Nam ÿ ngày nay. Tuệ Lâm trong Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (q.61), soạn năm 817, nói rằng "Côn Lôn .... cũng gời là Cốt Luân, là người Di ở các đảo châu Nam Hải, rất đen .... chủng loại có nhiều". Cựu Đưọng Thư, Nam Man truyện cùng chép: "Từ Lâm Ấp trở về phía nam, đều tóc quăn, da đen, gời chung là Côn Lôn". Như vậy Côn Lôn là một sự phiếm chỉ, khó có thể xác định đó là cư dân một nơi nào ở Đông Nam ÿ hiện nay.
    5 Chà Bà: phiên âm tên đảo Java.
    6 Theo Nguyên Hòa quận huyện chí (q.38), năm này (767) Trương Bá Nghi cho đắp La Thành ở vị trí mới, cách sông Tô Lịch khoảng 200 thước.
    7 Cương mục TB4 chép người tiết phụ này hề Kim, hẳn là đã dựa vào Tân Đưọng thư q.205 Liệt nữ truyện (Kim tiết phụ). Toàn thư đã chép nhầm chữ Kim ra chữ Toàn.8 Xá: 30 dặm.
    9 Việc Khương Công Phụ căn ngăn Đưọng Đức Tông, Đưọng thư và Thông giám đều ghi vào năm Kiên Trung thứ 4 (783), quan hàm được phong là Gián nghị đại phu kiêm Đổng bình chương sự.
    10 Bắc bộ thị lang: Đại Việt sử ký tiọn biên (bản in thời Tây Sơn) sửa là Tỉ bộ thị lang (____ tỉ và ____ bắc dễ viết nhầm). CMTB26 dẫn An Nam kỷ yếu ghi Bình trước là Đô úy ở Vũ Định, nhề đem quân cứu viện Trương Bá Nghi, được phong làm An Nam Đô Hộ.
  2. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Tân Mùi, [791], (Đưọng Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng 4, người ở Đưọng Lâm thuộc Giao Châu (Đưọng Lâm thuộc huyện Phúc Lộc)2 là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khềe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại Lịch(766-780] đời Đưọng Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng [6b] kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị, chưa được bao lâu thì chết. Con là An tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gời cha là Bố, mẹ là Cái, cho nên lấy [Bố Cái] làm hiệu). Vương thưọng hiển linh, dân cho là thần, mới làm đọn thề ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế (tức là Phu hựu chương tín sùng nghĩa Bố Cái Đại Vương. Đọn thề nay ở phưọng Thịnh Quang (3), ở phía đông nam (4) ruộng tịch điọn).
    Tháng 5, ngày Tân Tỵ, nhà Đưọng đặt quân Nhu Viễn ở phủ trị. Mùa thu, tháng 7, ngày Canh Thìn, nhà Đưọng lấy Triệu Xương làm đô hộ. Xương vào cõi, lòng dân bèn yên. Xương sai sứ dụ An, An đem quân hàng. Xương đắp thêm La Thành kiên cố hơn trước, ở chức 17 năm, vì đau chân xin về. Vua Đưọng chuẩn cho, lấy Lang trung bộ Binh là Bùi Thái thay Xương.
    Quý Mùi, [803], (Đưọng Trinh Nguyên năm thứ 19). Đô đốc Bùi Thái sai lấp bề những hào rãnh ở trong thành, hợp làm một [7a] thành (5). Tướng ở châu là Vương Quý Nguyên đuổi Bùi Thái đi. Vua Đưọng vời Xương hời tình trạng. Xương đã ngoài 70 tuổi, mà tâu việc rõ ràng. Vua Đưọng cho là giời, lại sai làm Đô hộ Giao Châu. Xương đến, người trong châu đều mừng, loạn bèn yên.
    Mậu Tý, [808], (Đưọng Hiến Tông Thuần, Nguyên Hòa năm thứ 3). Trương Chu làm Đô hộ Giao Châu (trước Chu làm Kinh lược phán quan, đến nay thăng làm Đô hộ), đắp thêm thành Đại La, đóng 300 chiếc thuyọn mông đồng (loại thuyọn ngắn), mỗi thuyọn có 25 chiến thủ, 23 tay chèo, thuyọn chèo ngược xuôi, nhanh như gió. Lại đắp hai thành ở châu Hoan, châu ÿi, vì các thành ấy trước bị Hoàn Vương (vua Chiêm Thành) phá hủy.
    Kỷ Hợi, [819], (Đưọng Nguyên Hòa năm thứ 14). Mùa đông, tháng 10, Đô hộ là Lý Tượng Cổ vì tham bạo hà khắc mất lòng dân chúng. Tướng của Cổ là Dương Thanh đời đời làm tù trưởng Man, khoảng niên hiệu Khai Nguyên [713-742] nhà Đưọng làm Thứ sử Hoan Châu (6), [7b] Tượng Cổ vẫn kiêng dè, gời cho làm nha tướng, đến đai sai đi đánh người Man ở Hoàng Động. Thanh nhân thấy lòng người oán giận Tượng Cổ, đang đêm trở về đánh úp châu, chiếm được, giết Tượng Cổ (Thanh là người Giao Châu, Tượng Cổ là người tôn thất nhà Đưọng). Vua Đưọng sai Quế Trọng (7) đánh Dương Thanh mà không thắng. Thanh vào trong người Man Lạo làm loạn, cướp phá phủ thành, Đô hộ Lý Nguyên Gia đánh không được, dụ không đến. Do đấy người Man Hoàng Động dẫn Hoàn Vương vào cướp.
    1 Bắc bộ thị lang: Đại Việt sử ký tiọn biên (bản in thời Tây Sơn) sửa là Tỉ bộ thị lang (____ tỉ và ____ bắc dễ viết nhầm). CMTB26 dẫn An Nam kỷ yếu ghi Bình trước là Đô úy ở Vũ Định, nhề đem quân cứu viện Trương Bá Nghi, được phong làm An Nam Đô Hộ.
    2 Nay là xã Cam Lâm, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.
    3 Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.
    4 Nguyên bản in: "tịch điọn đông-tây", có lẽ là đông-nam hay đông-bắc, khắc in nhầm.
    5 Nguyên văn: "Sản thành trung câu địa thành, hợp vi nhất thành" và cước chú: "cậu địa có bản chép là câu trì (ao ngòi)". Như vậy "câu địa thành" có lẽ phải đềc là "câu đìa thành", hiểu là thành có hào rãnh trong ngoài, mà câu đìa là lối ghép 1 từ Hán và 1 từ Nôm đồng nghĩa. Trong câu trên có 3 chữ thành, thừa chữ thành thứ hai.
    6 Người làm thứ sử Giao Châu nói đây là ước tính theo thời gian, cần hiểu là người đời trước trong gia tộc của Dương Thanh chứ không phải chính Dương Thang.
    7 CMTB4, 29b theo Cựu Đưọng thư, Bản kỷ và Thông giám sửa lại là Quế Trọng Vũ, bấy giề làm An Nam đô hộ.
    __________________
    Giáp Thìn, [824], (Đưọng Mục Tông Hằng, Trưọng Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia (2) thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. (Bấy giề Nguyên Gia dời phủ trị (3) đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhề thôi, có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người hề Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biọn đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gời là La Thành, sau Cao Biọn đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gời là La Thành).
    [8a] Mậu Thân, [828], (Đưọng Văn Tông Hàm, Thái Hòa năm thứ 2). Đô hộ Hàn Ước đánh Vương Thăng Triều ở Phong Châu, thắng được, sau bị Dương Thanh đuổi, chạy về Quảng Châu.
    Tân Dậu, [841], (Đưọng Vũ Tông Viêm, Hội Xương năm thứ 1). Vua Đưọng xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm Kinh lược sứ thay Hàn Ước.
    Quý Hợi, [843], (Đưọng Hội Xương năm thứ 3). Kinh lược sứ Vũ Hồn bắt tướng sĩ đắp sửa thành phủ, tướng sĩ làm loạn, đốt lầu thành, cướp kho phủ. Hồn chạy về Quảng Châu. Giám quân là Đoàn Sĩ Tắc vỗ yên được quân làm loạn.
    Bính Dần, [846], (Đưọng Hội Xương năm thứ 6). Người Nam Man4 vào cướp. Vua Đưọng sai Kinh Lược Sứ là Bùi Nguyên Hựu (5) đem quân các đạo lân cận đánh dẹp được. Đinh Sửu, [857], (Đưọng Tuyên Tông Thầm, Đại Trung năm thứ 11). Mùa hạ, tháng 4, nhàĐưọng lấy Hữu thiên ngưu vệ đại tướng quân [8b] là Châu Nhai6 là Kinh lược sứ Giao Châu.
    Mậu Dần, [858], (Đưọng Đại Trung năm thứ 12). Mùa xuân, tháng giêng, vua Đưọng lấy Khang Vương phó (7) là Vương Thức làm Giao Châu kinh lược đô hộ sứ. Thức là người có tài lược, đến phủ sai trồng cây táo gai (8) làm rào, bên ngoài đào hào sâu để thoát nước trong thành, bên ngoài hào trồng tre gai, giặc không thể xâm phạm được, kén chọn dạy bảo quân lính rất tinh nhuệ. Không bao lâu, người Nam Man (tức Nam Chiếu) kéo đến đông, đóng ở bến đò Cẩm Điọn, cách châu độ nửa ngày đưọng. ÿ tứ của Thức vẫn an nhàn như thưọng, sai người phiên dịch đến dụ, bày tề lợi hại, chỉ một đêm người Man lại kéo đi, sai người đến từ tạ nói: "Chúng tôi chỉ đến bắt bọn người Lạo làm phản, chứ không phải đến cướp". Lại có Đô hiệu La Hành Cung (Đô hiệu cũng như Đô tướng) chuyên quyọn ở phủ đã lâu, quân tinh nhuệ dưới cề đến 2 nghìn người mà ở phủ đô hộ chỉ có vài trăm quân gầy yếu. Thức đến phủ, đánh trượng vào lưng [Hành Cung] rồi đuổi ra nơi biên viễn.
    1 Hoàn Vương: vua nước Chiêm Thành (khoảng những năm 756-808, nước Lâm Ấp được thư tịch Trung Quốc gời là Hoàn Vương Quốc, từ sau năm 808 mới gời là Chiêm Thành).
    2 Lý Nguyên Gia: Việt Sử Lược q1.10b dựa vào Cựu Đưọng thư (Bản kỷ 17) chép là Nguyễn (tức Lý) Nguyên Hỷ. Chữ Gia và chữ Hỷ có thể lầm với nhau.
    3 Nguyên bản in nhầm chữ ____ phủ thành chữ _____ phủ.
    4 Ở đây, Toàn thư chép là Nam Man. Tân Đưọng thư q.8 Bản Kỷ, khi nói đến sự kiện này, lại chép là Vân Nam Man. Nhưng cũng căn cứ vào Tân Đưọng thư, q.222 Nam Chiếu truyện, thì Vân Nam Man nói ở đây là Nam Chiếu, tên quốc gia của các tộc người vùng Vân Nam, Trung Quốc (chủ yếu là người Thoán), cưọng thịnh từ khoảng thế kỷ VIII, thưọng tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược ra xung quanh.
    5 Cương mục (TB4, 35a) theo sử liệu của Thông Giám và Tân Đưọng thư (Bản kỷ) đã sửa lại là Bùi Nguyễn Dụ (hai chữ ____ dụ và____ hựu dễ viết nhầm)
    6 Châu Nhai (cũng đềc là Chu Nhai), Toàn thư và cả Cương mục (TB4, 36b) dựa và Thông giám và Cựu Đưọng thư (Bản Kỷ), nhưng cả hai tài liệu ấy đều chép tên người này là Tống Nhai. Hai chữ ____ Tống và ______ Chu dễ viết nhầm. Toàn thư chuyển tiếp lầm trong Cương mục: nên sửa lại là Tống Nhai.
    7 Thầy hềc của Khang Vương.
    8 Vốn là ___ ___ "lặc mộc" (cây táo gai), nguyên bản in nhầm thành ___ ___ "điều mộc" (Xem CMTB4, 37).
    Trước đó, Đô hộ là Lý Trác làm chính sự tham [9a] lam tàn bạo, mua hiếp bò ngựa của người Man, mỗi con chỉ trả cho một đấu muối, lại giết tù trưởng Man là Đỗ Tồn Thành, dân Man oán giận, dẫn đưọng cho người Nam Chiếu đến lấn cướp biên giới. Đất Tây Nguyên, Đào Lâm, thuộc Phong Châu, từ xưa vẫn có quân phòng đông1 6.000 người, tù trưởng Man Động Thất Quán bên cạnh là Lý Do Độc, thưọng giúp đỡ việc đóng giữ và thu tô thuế. Viên Tri Châu Phong Châu (không rõ hề tên) nói với Tác xin bề quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc ngăn phòng. Từ đó Do Độc thế cô, không thể đứng vững được. Thác đông tiết độ của Nam Chiếu (Thác đông: ý nói khai thác cõi đông; Giao Chỉ ở phía đông nước Nam Chiếu, cho nên đặt chức ấy) gửi thư sang dụ Do Độc, đem con gái gả cho con trai của Do Độc, bổ làm Thác đông thác nha (2). Do Độc bèn đem dân chúng làm tôi nước Nam Chiếu. Từ đấy Giao Châu mới có mối lo về người Man [Nam Chiếu].
    Tháng 5 năm ấy, người Man [Nam Chiếu] đến cướp, Thức đánh lui được. Mùa thu, tháng 7, có bọn dân xấu nhiều lần nổi loạn, nói phao rằng: "Nghe đồn Kinh lược sứ Châu Nhai (Châu Nhai ở Quảng [9b] Châu) (3) sai quân Hoàng đầu (quân bịt đầu bằng khăn vàng) vượt biển sang đánh úp châu ta". Rồi bọn hề đang đêm kéo nhau đến vây thành, đánh trống reo hò: "Xin đuổi Thức về để chúng tôi đóng ở thành này chống giữ quân Hoàng đầu phía Bắc". Lúc ấy Thức đang ăn, có người khuyên nên tránh đi. Thức nói: "Tôi động chân một chút thì thành này vỡ ngay". Rồi cứ thong thả mà ăn, ăn xong, mặc áo giáp dẫn tả hữu lên mặt thành, dựng cề đại tướng ngồi mà trách mắng. Bọn làm loạn quay đầu bề chạy. Ngày hôm sau, Thức sai bắt giết hết.
  3. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Bấy giề đói kém loạn lạc liên tiếp, 6 năm không nộp thượng cung (thượng cung là tiọn, lụa nộp sang Kinh sư để cho vua [Trung Quốc] chi dùng), trong quân không có khao thưởng. Thức bắt đầu sửa sang việc thuế khóa, khao thưởng quân lính. Chiêm Thành, Chân Lạp đều thông sứ trở lại.
    Canh Thìn, [860], (Đưọng ÿ Tông Thôi, Hàm Thông năm thứ 1). Mùa xuân, giặc ở Chiết Đông là Cừu Phủ làm loạn. Nhà Đưọng bàn chọn tướng đi đánh dẹp. Hạ Hầu Tư nói: "Vương Thức tuy là con nhà nho, nhưng trước ở An Nam đã từng uy phục được cả người Hoa và người Di, [10a] cõi xa đều nghe danh tiếng, có thể đảm nhiệm được". Vua Đưọng bèn gời Thức về trao cho chức Chiết Đông quan sát sứ.
    Mùa đông, tháng 12, ngày Mậu Thân, người thổ man dẫn quân Nam Chiếu hợp lại hơn 3 vạn người, nhân khi sơ hở đến đánh chiếm phủ [trị] của châu ta. Đô hộ Lý Hộ cùng với viên giám quân chạy về Vũ Châu.
    Tân Tỵ, [861], (Đưọng Hàm Thông năm thứ 2). Mùa xuân, tháng giêng vua Đưọng xuống chiếu phát quân Ung Quản (4) và các đạo lân cận sang cứu Lý Hộ, đánh lại Nam di [Nam Chiếu]. Mùa hạ, tháng 6, ngày Quý Sửu, vua Đưọng sai Phòng ngự sứ Diêm Châu là Vương Khoan làm Kinh lược sứ An Nam.
    Bấy giề Lý Hộ từ Vũ Châu thu nhặt quân người địa phương [Giao Châu] đánh bọn Man [Nam Chiếu], lấy lại được phủ thành. Vua Đưọng trách tội thất thủ, biếm làm Tư hộ Đạm Châu, sau đày đi Phong Châu, lấy Vương Khoan làm Đô hộ kinh lược sứ. Hộ khi mới đến giết tù trưởng người Man là Đỗ Trừng5, cho nên hề hàng nhà Trừng xui giục và dẫn đưọng cho người Man [Nam Chiếu] đánh lấy châu.
    [10b] Nhâm Ngề, [862], (Đưọng Hàm Thông năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, Nam Chiếu lại vào cướp phá. Vương Khoan mấy lần sai sứ cáo cấp. Vua Đưọng sai Hồ Nam quan sát sứ trước là Sái Tập thay thế, đem binh các đạo Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc, hợp lại được 3 vạn, giao cho Tập để chống cự. Thế quân đã mạnh, quân Man bèn rút lui.
    1 Đời Đưọng, quân phòng thủ ở biên giới thưọng được gời là phòng thu và phòng đông.
    2 Thác đông thác nha: Thông giám (Mậu Dần, Đại Trung 2) khảo dị với Man thư, đã hiệu chỉnh là Thác đông áp nha; nên sửa theo cách gời đó.
    3 Ở đây nói đến viên Kinh Lược Sứ Tống Nhai mà Toàn Thư đã lầm là hề Châu tên Nhai (xem NK5 8b - năm 857), đến đây thấy trùng với tên quận Châu Nhai (ở đảo Hải Nam) nên người chú thích nguyên bản Toàn thư đã chú nhầm.
    4 Tức Ung Châu. Quản là đơn vị hành chính do nhà Đưọng đặt, tương đương như phủ.
    5 CMTB4, 40a theo Thông giám, chép là Đỗ Thủ Trừng
    Mùa hạ, tháng 5, Lĩnh Nam tiết độ là Sái Kinh thấy Tập đem quân các đạo đến chống cự với quân Man, sợ Tập lập được công, có ý ghen ghét, nhân đó tâu rằng: "Bọn Nam Man đã trốn xa, biên giới không đáng lo nữa. Kẻ vũ phu cầu công, xin càn quân đóng thú, tổn phí quân lương và chuyên chở, vì góc lánh đưọng xa khó bề kiểm soát, nên tha hồ làm việc gian trá. Xin bãi quân đóng giữ, cho đạo nào lại về đạo ấy". Vua Đưọng nghe theo. Tập nhiều lần tâu rằng: "Bọn người Man rình lúc sơ hở đã lâu, không thể không phòng bị, xin lưu lại 5 nghìn thú binh". Vua Đưọng không nghe, Tập cho là giặc Man [Nam Chiếu] ắt lại đến, mà quân lính và lương thực đều thiếu, trí lực [11a] hai mặt đều quẫn, mới làm tề sớ "Thập tất tử trạng" [10 tình trạng ắt phải chết] trình lên tòa Trung thư. Nhưng tể tướng thời bấy giề tin lời Sái Kinh, cuối cùng vẫn không xét đến.
    Mùa thu, tháng 7, Sái Kinh ở trị sở, chính lệnh hà khắc thảm độc, cả cõi đều oán, bị quân sĩ đuổi, phải biếm làm Tư hộ Nhai Châu, không chịu đi nhận chức, vua Đưọng xuống sắc bắt phải tự tử. Mùa đông, tháng 10, bọn Man Nam Chiếu 5 vạn người đến cướp, Tập cáo cấp. Vua Đưọng sai lấy quân hai đạo Kinh Nam, Hồ Nam 2 nghìn người và con em nghĩa chinh ở Quế Quản (vì hề ứng mộ tòng quân nên gời là nghĩa binh) 3 nghìn người đến Ung Châu chịu lệnh tiết chế của Trịnh Ngu để sang cứu [Sái Tập]. Tháng 12, Tập lại xin thêm quân, vua Đưọng sắc cho Sơn Nam đông đạo đem 1 nghìn quân tay nề sang cứu. Khi ấy quân Nam Chiếu đã vây phủ, quân cứu viện không thể đến được. Tập chỉ cố thủ xung quanh thành mà thôi.
    Quý Mùi, [863], (Đưọng Hàm Thông năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Canh Ngề, quân Nam Chiếu đánh chiếm phủ thành, tả hữu của Tập [11b] đều chết hết. Tập chạy bộ, cố sức đánh, người trúng mười mũi tên, muốn xuống thuyọn của giám quân nhưng thuyọn đã đi xa bề, bèn nhảy xuống biển chết, cả nhà 70 người. Liêu thuộc là Phàn Xước đem ấn tín binh phù của Tập sang sông trước, được thoát. Tướng sĩ các châu Kinh Nam, Giang Tây, Ngạc, Nhạc, Tương, hơn 4 trăm người chạy đến phía đông thành giáp sông. Ngu hầu Kinh Nam là bọn Nguyên Duy Đức bảo quân sĩ rằng: "Bọn ta không có thuyọn, xuống nước tất chết, chi bằng lại quay về thành đánh nhau với người Man, một người của ta đổi lấy hai người Man, cũng có lợi". Bèn trở lại thành, vào cửa Đông La (tức là cửa đông La Thành An Nam). Người Man không phòng bị, bọn Duy Đức tung quân đánh, giết quân Man hơn 2 nghìn người. Đến đêm, tướng Man là Dương Tư Tấn từ trong tử thành (tức thành nhề ở trong thành) đem quân ra cứu, bọn Duy Đức đều chết cả.
    Nam Chiếu hai lần chiếm Giao Châu, vừa giết vừa bắt gần 15 vạn người. [Khi rút lui] lưu lại 2 vạn quân, sai Tư Tấn giữ [12a] thành Giao Châu ta. Người Di Lão ở các khe động không cứ xa gần đều hàng phục cả. [Vua] Nam Chiếu cho thuộc hạ là Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ phủ [Giao Châu] ta. Vua Đưọng xuống chiếu gời viện binh các đạo về chia giữ Tây Đạo ở Lĩnh Nam1.
    Tháng 6, bề An Nam đô hộ phủ, đặt chức Hành Giao Châu ở trấn Hải Môn2, cho Hữu giám môn vệ tướng quân là Tống Nhung giữ chức Hành Giao Châu thứ sử, cho Vũ Nghĩa tiết độ sứ3 là Khang Thừa Huấn kiêm lĩnh chức Lĩnh Nam cập chủ quân hành doanh (4).Mùa thu, tháng 7, lại đặt An Nam đô hộ phủ ở Hành Giao Châu, cho Tống Nhung làm Kinh lược sứ, đem quân Sơn Đông một vạn người đến trấn giữ. Khi ấy quân các đạo của nhà Đưọng đến cứu viện, đều đóng lại ỡ Lĩnh Nam không tiến, hao phí lương thực, vận chuyển, người Nhuận Châu là Trần Bàn Thạch dâng sớ xin đóng loại thuyọn nghìn hộc để chở gạo từ Phúc Kiến đi đưọng biển, không đầy một tháng thì đến Quảng Châu. Vua Đưọng nghe theo, lương ăn của quân lính nhề đó được đầy đủ. Nhưng [12b] bọn quan lại mượn tiếng thuê thuyọn để cướp đoạt thuyọn của người buôn, vứt hàng hóa của hề lên bề: khi thuyọn ra biển có chiếc nào bị sóng gió làm chìm đắm thì bắt giam cương lại1 và chủ thuyọn để bắt đọn số gạo bị mất, [vì thế] người ta rất khổ sở.
    1 Tây Đạo: tức Ung Châu (trị sở ở Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay).
    2 Trấn Hải Môn: lỵ sở ở huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay.
    3 Vũ Nghĩa tiết độ sứ: nên sửa theo Tân Đưọng thư, Khang Thừa Huấn truyện là Nghĩa Vũ tiết độ sứ.
    4 Lĩnh Nam: trong chức vụ kiểm lĩnh của Khang Thừa Huấn nên sửa đúng là An Nam, theo Thông Giám và Tân Đưọng thư (đã dẫn). CMTB5, 4a cũng dẫn nhầm là Lĩnh Nam.
    Giáp Thân, [864], (Đưọng Hàm Thông năm thứ 5). Vua Đưọng cho Tổng quản (2) kinh lược sứ là Trương Nhân kiêm coi giữ việc Giao Châu, tăng thêm quân ở trấn Hải Môn cho đủ số 2 vạn 5 nghìn người, sai Nhân tiến quân lấy lại phủ thành.
    Mùa thu, tháng 7, Nhân dùng dằng không dám tiến. Hạ Hầu Tư tiến cử Kiêu vệ tướng quân là Cao Biọn thay, bèn cho Biọn làm Đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ, bao nhiêu quân sĩ của Nhân đều trao cho Biọn cả. Biọn tiểu tự là Thiên Lý, cháu của Nam Bình Quận Vương [Cao] Sùng Văn, đời đời coi giữ cấm binh. Biọn đổi chí vào việc hềc, thích bàn luận việc xưa nay, người trong quân đều [13a] khen ngợi. Lúc còn ít tuổi, theo giúp Chu Thục Minh. [Một hôm] có hai con diều sóng đôi bay qua, Biọn giương cung nhắm bắn, khấn rằng: "Nếu ta sau này được quý hiển thì phải bắn trúng" rồi bắn một phát tên trúng cả hai con. Mời người cả kinh, nhân đó gời là "Lạc điêu thị ngự sử" [quan thị ngự sử bắn rơi chim điêu]. Sau Biọn được thăng dần đến chức Hữu thần sách đô ngu hầu. Người Đảng Hạng làm phản, Biọn đem hơn 1 vạn cấm binh đến đóng ở Trưọng Vũ, nhiều lần lập công, thăng chức Tần Châu phòng ngự sử, lại có công nữa. Bấy giề Nam Chiếu chiếm đất ta, cho nên sai Biọn sang thay [Trương Nhân].
    Ất Dậu, [865], (Đưọng Hàm Thông năm thứ 6). Mùa thu, tháng 7, Cao Biọn sửa quân ở trấn Hải Môn chưa tiến. Giám quân là Lý Duy Chu ghét Biọn muốn tống đi, nhiều lần giục Biọn tiến quân. Biọn đem hơn 5 nghìn quân vượt biển đi trước, hẹn Duy Chu đem quân ứng viện. Biọn đi rồi, Duy Chu cầm quân còn lại không tiến phát. Tháng 9, Biọn đến Nam Định3, Phong Châu, quân Man gần 5 vạn đương gặt lúa, Biọn ập đến [13b] đánh tan, chém được bọn Trương Thuyên, thu lấy số lúa đã gặt dùng để nuôi quân.
    Bính Tuất, [866], (Đưọng Hàm Thông năm thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu thăng chức cho Đoàn Tù Thiên làm Tiết độ sứ Thiện Xiển (Thiện Xiển là đô khác của Nam Chiếu, ở tây bắc Giao Châu)4, sai Trương Tập (5) giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô thống phủ ta, Triệu Nặc Mi làm Đô thống Phù Da6. Giám trận nhà Đưọng sai Vi Trọng Tể đem hơn 7 nghìn quân đến Phong Châu. Biọn được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tề tâu thắng trận gửi đến trấn Hải Môn, Duy Chu đều giấu đi. Mấy tháng không có tin tức, vua Đưọng lấy làm lạ mới hời Duy Chu. Duy Chu tâu rằng: Biọn đóng quân ở Phong Châu, ngồi nhìn giặc không chịu tiến. Vua Đưọng tức giận, sai Hữu vũ vệ tướng quân là Vương ÿn Quyọn thay Biọn, đòi Biọn về kinh đô, ý muốn biếm phạt nặng.
    Tháng ấy, Biọn đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất [14a] nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sót chạy vào châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biọn vây châu thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Thành sắp hạ thì vừa lúc Biọn nhận được văn thư của Vương ÿn Quyọn cho biết đã cùng với Duy Chu đem đại quân xuất phát từ trấn Hải Môn. Biọn liọn trao việc quân cho Trọng Tể, rồi cùng với bộ hạ hơn 100 người về Bắc. Trước đó, Trọng Tể sai tiểu sứ là Vương Tuệ Tán, Cao Biọn sai tiểu hiệu là Tăng Cổn cùng mang thư báo thắng trận về nhà Đưọng, đến giữa biển, trông thấy cề quạt kéo sang phía đông, hời những thuyọn đi trên biển thì hề nói đó là quan Kinh lược sứ và Giám quân mới đến. Hai người bàn nhau rằng: "Duy Chu thế nào cũng cướp lấy tề biểu và giữ chúng ta lại". Bèn nấp ở hải đảo chề Duy Chu đi qua rồi mới đi gấp về kinh sư. Vua Đưọng được tề tâu cả mừng, liọn thăng cho Biọn làm Kiểm hiệu Công bộ thượng thư, sai Biọn đi đánh người Man. Biọn về đến trấn Hải Môn thì quay lại.
    1 Cương lại: người giữ việc ghi chép sổ sách vận chuyển lương thực.
    2 Tân Đưọng thư q.224 hạ, Cao Biọn truyện và Việt Sử Lược q.1 đều chép là Dung Quản kinh lược sứ, Dung Quản hay Dung Châu thời Đưọng, đặt trị sở ở huyện Bắc Lưu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay.
    3 Nam Định: tên huyện do nhà Đưọng đặt năm Vũ Đức thứ 4 [621] (Đưọng thư, Địa lý chí). Lại theo Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử thời Tống thì ở huyện Nam Định có núi Đông Cứu ở châu Gia Lâm. Như vậy huyện Nam Định thời thuộc Đưọng ở về phía nam sông Đuống, vào khoảng huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc ngày nay.
    4 Thiện Xiển: tức Côn Minh, ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ngày nay.
    5 Theo Thông Giám và Tân Đưọng thư, Nam Chiếu truyện, hề tên người này là Dương Tập Tư, không phải là Trương Tập như Toàn thư đã viết nhầm.
    6 Phù Da: tên huyện thuộc châu Vũ Định. Theo Thanh nhất thống chí, châu Vũ Định thời Đưọng thuộc quyọn An Nam đô hộ phủ; nay ở địa phận tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Chữ Phù trong nguyên bản đúng ra phải chép là ____ _____.
  4. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    ÿn Quyọn là người ngu hèn, việc gì cũng xin lệnh của Duy Chu. Duy [14b] Chu là người hung bạo tham lam, các tướng không chịu giúp việc, bọn hề bèn mở vòng vây cho người Man trốn đi quá nửa. Biọn đến nơi lại đốc thúc khích lệ tướng sĩ, đánh lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người thổ man dẫn đưọng cho quân Nam Chiếu, chém hơn 3 vạn đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biọn lại phá được hai động thổ man dã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 1 vạn 7 nghìn.
    Tháng 11, ngày Nhâm Tý, vua Đưọng xuống chiếu cho các lộ quân Giao Châu, Ung Châu, Tây Châu (1) phải giữ bề cõi, không tiến đánh nữa; đặt Tĩnh Hải quân ở Giao Châu, lấy Biọn làm Tiết độ sứ. (Từ đây cho đến đời nhà Tống, An Nam gời là Tĩnh Hải quân tiết trấn). Từ khi Lý Trác xâm phạm quấy nhiễu, khiến cho người Man [Nam Chiếu] gây hềa đến gần 10 năm, đến đấy mới yên. Cao Biọn giữ phủ xưng vương (2), đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao [15a] 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tưọng nhề3 trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc4, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đưọng bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian (5).
    Lê Văn Hưu nói: Một Lý Trác tham bạo mà dẫn đến mười mấy năm bị tai hềa người Man, huống chi lại có kẻ bạo ngược hơn cả Lý Trác nữa. Một Cao Biọn đốc suất bộ thuộc mà chém được vài vạn quân giặc mạnh, huống chi lại có người giời hơn Cao Biọn nữa! Cho nên Trác không thể bảo toàn được mình, mà Cao Biọn thì giữ thành xưng vương, người khéo trị nước phải nên cẩn thận việc chọn người.
    Đinh Hợi, [867], (Đưọng Hàm Thông năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, Cao Biọn đi tuần thị đến hai châu Ung, Quảng thấy đưọng biển có [15b] nhiều đá ngầm làm đắm thuyọn, vận chở không thông, bèn sai bọn Nhiếp trưởng sử Lâm Phúng, Hồ Nam tướng quân Dư Tồn Cổ đem quân bản bộ và thủy thủ hơn nghìn người đến đục đá khai đưọng, bảo rằng: "Đạo trời giúp người thuận, thần linh phù kẻ ngay. Nay khai đưọng biển để giúp sinh dân, nếu mình không theo lòng riêng thì có gì khó. Các đô hộ thời trước không khao thưởng quân sĩ, giữ phép không vững, làm sai lời hứa, trái ước hẹn, mưu lợi riêng, cho nên mời người đều trễ biếng. Nay ta không như thế, chỉ cốt làm cho xong việc của nhà vua mà thôi". Biọn nói xong, bọn Phúng vâng lệnh đi ra. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5, khởi công khơi đào, trong khoảng hơn 1 tháng, gần được thông suốt, duy ở quãng giữa có hai chỗ đá lớn quanh co chắn
    ngang đến mấy trượng, đục xuống thì quằn đục, dùng búa thì gãy cán, người làm việc cả ngày nhìn nhau, công việc cơ hồ bề dở. Ngày 26 tháng 5, đương ban ngày bỗng nhiên mây dồn, gió nổi dữ dội, trông vào rừng tối như đêm, [16a] ngửa bàn tay không nhìn thấy, chốc lát hàng trăm tiếng sét nổ vang trời ở chỗ đá lớn, chỉ trong khoảnh khắc trở lại bừng sáng. Người làm việc chạy tới xem thì thấy các khối đá đã bị tan nát cả. Về phía tây lại gặp hai chỗ đá lớn dựng đứng, người làm cũng phải chịu bó tay.
    1 Tây Châu, nên sửa là Tây Xuyên, theo Thông Giám.
    2 Nguyên văn: "Biọn cứ ngã phủ xưng vương". Sử liệu Trung Quốc, kể cả Tân Đưọng thư q.224 hạ; Cao Biọn truyện đều không thấy ghi việc Cao Biọn xưng vương. Cương Mục cho rằng đó chỉ là do một số "người Giao Châu kinh sợ Biọn mà gời Biọn là Cao Vương") (CMTB5, 10b).
    3 Nguyên văn: "nữ tưọng", tức tưọng nhề đắp trên mặt thành có các lỗ để nhắm bắn.
    4 Nguyên văn: "Ngũ trượng ngũ thốn", chắc là khắc in lầm, thân thành cao 2 trượng 6 thước thì nữ tưọng chỉ có thể là 5 thước 5 tấc; Việt Sử Lược (q.1) cũng ghi số đó.
    5 Việt sử lược (q.1) chỉ ghi con số 5.000 gian.
    Ngày 21 tháng 6 lại có sét đánh như trước, chỉ trong một lúc đá lớn đều bị tan vụn cả. Kênh bèn đào xong, vì thế gời là kênh Thiên Uy1.
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Việc Cao Biọn đào kênh sao mà kỳ dị thế? Đó là việc làm hợp lẽ (2), cho nên được trời giúp. Trời là lẽ phải. Đất có chỗ hiểm, chỗ bằng, đó là lẽ thưọng. Sức người có thể vượt hiểm được, đó cũng là lẽ thưọng. Nếu hiểm mà không vượt được thì trời phải nhề đến tay người làm gì? Vua Vũ trị thủy, nếu không hợp lẽ thì trời do đâu mà tác thành được? Đất do đâu mà bằng phẳng được? Công hiệu đến mức rùa sông Lạc hiện điềm lành, thế không phải là trời [16b] giúp ư ? Xem như lời của Biọn nói: "Nay khai đưọng biển để giúp sinh dân, nếu không theo lòng riêng thì có gì khó". Lòng thành phát ra từ lời nói, thì lời nói ấy há chẳng là thuận ư ? Lòng tinh thành thực cảm thông đến cả vàng đá, huống nữa là trời? Việc gì trời đã giúp sức là thuận. Kinh Dịch nói: "Giữ điều tín mà nghĩ điều thuận, thì trời sẽ giúp cho, đều tốt cả, không có điều gì bất lợi". Thế thì việc sét đánh đá lớn để giúp chẳng có gì là lạ cả.
    Mậu Tý, [868] (Đưọng Hàm Thông năm thứ 9). Mùa thu, tháng 7, vua Đưọng lấy Cao Biọn làm Hữu kim ngô vệ đại tướng quân (có sách chép là Kiểm hiệu thượng thư bộc xạ), đến đời Đưọng Hy Tông năm Ất Mùi niên hiệu Càn Phù năm thứ 2 [875] đổi làm Tây Xuyên tiết độ sứ. Biọn thấy cháu gời bằng ông hề là Cao Tầm trước làm tiên phong, xông pha tên đạn, được quân lính phục theo, bèn dâng biểu tiến cử Tầm thay mình trấn giữ đất ta. Vua Đưọng nghe theo. [Cả Biọn và Tầm] ở trấn cộng 13 năm;
    Biọn [17a] từ năm Bính Tuất đến năm Giáp Ngề niên hiệu Hàm Thông [866-874], Tầm từ năm Ất Mùi đến năm Mậu Tuất niên hiệu Càn Phù (875-878).
    Canh Tý, [880], (Đưọng Hy Tông Nghiễm, Quảng Minh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng 3, quân ở phủ Đô hộ làm loạn, Tiết độ sứ Tăng Cổn bề chạy khời thành (Cổn thay Biọn, có tiếng là người biết vỗ dân (3), người [trong châu] gời là Tăng thượng thư; Cổn từng soạn sách Giao Châu ký, 1 thiên). Các đạo quân nhà Đưọng đóng giữ Ung Quản thưọng tự ý bề về luôn.
    Ất Sửu, [905], (Đưọng Ai Đế Chúc, Thiên Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, ngày Mậu Tuất, Chu Toàn Trung nhà Đưọng thấy Giao Châu tiết độ sứ đồng bình chương sự Chu Toàn Dục là người ngu đần chất phác, không có tài năng gì, tự xin bãi đi. Toàn Dục là anh Toàn Trung.
    Trở lên là [kỷ] thuộc Tùy, Đưọng, từ năm Quý Hợi đến năm Bính Dần, cộng 304 năm [603-906]. [17b]
    1 Cương mục đã nhận xét rằng kênh ấy không thuộc địa phận nước ta (CMTB5, 12a). Có thể là ghọnh Bắc Thú, ở huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay.
    2 Nguyên bản in: "Cái sở hợp lý ....", có lẽ câu văn là "Cái sở hành hợp lý ....", mà khắc in sót chữ hành.
    3 Nguyên bản in: "Cổn đại Biọn, phủ tự hữu thanh", có thể hiểu là: ..... có tiếng về chữ "phủ" (vỗ về dân chúng). Nhưng có khả
    năng in nhầm: "... phủ dân hữu thanh" (có tiếng biết vỗ về dân chúng).
  5. mabroshi85

    mabroshi85 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/09/2006
    Bài viết:
    240
    Đã được thích:
    0
    Kỷ Nam Bắc Phân Tranh
    Đinh Mão, [907], (Đưọng Thiên Hựu năm thứ 4; Lương Thái Tổ Chu Toàn Trung, đổi tên là Hoảng, Khai Bình năm thứ 1). Nhà Lương cho Quảng Châu tiết độ sứ là Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, tước Nam Bình Vương. Khi ấy, Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo (1) chiếm giữ châu trị, xưng là Tiết độ sứ, có ý mưu đồ lẫn nhau. Năm ấy nhà Đưọng mất.
    Tân Mùi, [911], (Lương Càn Hóa năm thứ 1). Nam Bình Vương nhà Lương là Lưu Ẩn chết, em là Nham lên thay.
    Đinh Sửu, [917], (Lương Mạt Đế Hữu Trinh, đổi tên là Chẩn, Trinh Minh năm thứ 3). Quảng Châu tri lưu hậu nhà Lương là Lưu Nham đặt quốc hiệu là Hán (tức Nam Hán2), niên hiệu Càn Hanh năm thứ 1. Khúc Hạo sai con là Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang Quảng Châu để thăm dò tình hình [Nam Hán] hư thực thế nào. Hạo chết, Khúc Thừa Mỹ lên thay3.
    Kỷ Mão, [919], (Lương Trinh Minh năm thứ 5). Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Vua [Nam Hán] cả giận (vua Hán trước tên là Nham, đổi là Thiệp, lại đổi là Cung, vì có điềm rồng trắng hiện, nên đặt tên ấy. Năm Tấn Thiên Phúc thứ 6 [941], tự cho chữ Cung là không lợi, lại đổi [18a] là Nghiễm4). Quý Mùi, [923], (Lương Long Đức năm thứ 3; Đưọng Trang Tông Lý Tồn Húc, Đồng Quang
    năm thứ 1). Năm ấy nhà Lương mất.
    Mùa thu, tháng 7, vua Hán sai kiêu tướng là Lý Khắc Chính (5) đem quân sang đánh Giao Châu (6), bắt được Tiết độ sứ là [Khúc] Thừa Mỹ đem về, [Khắc Chính] lấy bộ tướng của mình là Lý Tiến thay thế. Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao Châu, bị tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ (7) người ÿi Châu đánh đuổi. Vua Hán trao cho Đình Nghệ tước vị, lấy Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành, bảo tả hữu rằng: "Dân Giao Chỉ hay làm loạn, chỉ có thể ràng buộc (ki mi) mà thôi".
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Nghiễm đương lúc triều đình phương Bắc rối loạn, nhề nghiệp cũ của anh (8) mà dựng nước, đặt niên hiệu, cùng với Khúc Hạo tranh bá, rồi bắt Thừa Mỹ, lấy Giao Châu, hùng [18b] cứ một phương, cùng xuýt xoát với các nước tiếm ngôi ở Bắc triều. Cho nên, Tiọn Ngô Vương nổi lên, tuy giết được con, phá được quân [của Nghiễm], nhưng không giữ được đất, quốc thống hề Lưu kéo dài không dứt,
    mãi đến khi Tống [Thái] Tổ dấy lên thì đất ấy mới nhập vào nhà Tống.
    Tân Mão, [931], (Đưọng Minh Tông Tự Nguyên, Trưọng Hưng năm thứ 2). Mùa đông, tháng 12, Dương Đình Nghệ nuôi 3 nghìn con nuôi, mưu đồ việc khôi phục. Lý Tiến biết, sai chạy ngựa báo cho vua Hán. Năm ấy, Đình Nghệ đem quân vây Tiến. Vua Hán sai Thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu, chưa đến nơi, thành đã mất. Tiến trốn về nước. Bảo đến vây thành, Đình Nghệ đưa quân ra đánh, Bảo thua chết. Từ đó Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, trông coi việc châu.
    1 Khúc Hạo: người làng Cúc Bồ, huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng ngày nay, ở đó hiện còn đình thề hề Khúc. Cương mục dẫn sách An Nam kỷ yếu, ghi thêm: "Cuối thời Đưọng, Khúc Hạo làm Tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tôn; đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt ở mỗi giáp một viên quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Hạo giữ chức Tiết độ sứ được hơn 4 năm thì mất" (CMTB5, 15a).
    2 Nam Hán: 1 trong 10 nước thời Ngũ Đại ở Trung Quốc bao gồm cả tỉnh Quảng Đông, phần phía nam Quảng Tây, nam Phúc Kiến ngày nay, trước sau 67 năm (905-971), gồm 5 đời làm vua.
    3 Cương mục theo Tư trị thông giám ghi Khúc Thừa Dụ được trao chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, năm Thiên Hựu thứ 3 (906) được thăng Đồng bình chương sự (CMTB5, 14a).
    4 Nghiễm _____ (trên chữ long là rồng, dưới chữ thiên), nguyên bản khắc thiếu 1 nét thành trên chữ long dưới chữ đại, không có trong tự điển. Còn chữ đã ghi (long + thiên), bản dịch cũ phiên là Yểm, bản dịch Cương mục phiên là Yêm. Thực ra, chữ này có hai âm Hán Việt là Yểm và Nghiễm, nhưng trong trưọng hợp tên vua Nam Hán ở đây thì đềc là Nghiễm. Ngũ đại sử q.65 Nam Hán thế gia chép rằng vua Nam Hán ban đầu tên là Nham, rồi đổi tên là Trắc ____ (chứ không phải Thiệp) _____ như Toàn thư chép ở đây), "sau thấy rồng trắng hiện lên, lại đổi tên là Cung, sau có nhà sư người Hồ nói rằng theo sấm thư thì diệt hề Lưu là Cung, bèn lấy nghĩa "rồng bay lên trời" (phi long tại thiên) trong Chu Dịch, đặt làm chữ ____ âm là Nghiễm, lấy làm tên".
    5 Thông giám (Trưọng Hưng 1), Tân Ngũ đại sử, Nam Hán thế gia chép tên viên tướng nhà Nam Hán này là Lương Khắc Trinh.
    6 Việc quân Nam Hán sang đánh Giao Châu (tức nước ta), bắt Khúc Thừa Mỹ, sử liệu Trung Quốc như Thông giám ghi vào tháng 9 năm Trưọng Hưng thứ 1 (930). Tân Ngũ Đại sử, Nam Hán thế gia ghi vào niên hiệu Đại Hữu thứ 3, cũng tức là năm 930. Chưa rõ vì sao cả Toàn thư và Cương mục (TB5, 17a) đều ghi vào năm Quý Mùi (923)?
    7 Cương mục ghi Dương Diên Nghê, người ÿi Châu, tức Thanh Hóa (CMTB5, 17a). Tài liệu Trung Quốc như Tống Sử (q.488), Tư tri thông giám v.v.... cũng chép là Dương Diên Nghệ. Ngũ đại sử (q.65) chép như Toàn thư (là Đình Nghệ). Có thể nhầm nét chữ vì chữ ____ diên và chữ ____ đình gần giống nhau.
    8 Chỉ Lưu Ẩn.
    Bính Thân, [936], (Đưọng Phế Đế Tông Kha, Thanh Thái năm thứ 3, Tấn Cao Tổ Thạch Kim Đưọng, Thiên Phúc năm thứ 1). Năm ấy nhà [Hậu] Đưọng mất
    [19a] Đinh Dậu, [937], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, nha tướng của Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn (Cương mục [Trung Quốc] chép _____)1 giết Đình Nghệ để thay chức.
    Mậu Tuất, [938], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 3). Mùa đông, tháng 12, nha tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyọn từ ÿi Châu cất quân đánh Công Tiễn. Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Hán. Vua Hán là Cung muốn nhân khi nước ta có loạn chiếm lấy nước, bèn cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo (2) làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem quân sang cứu Công Tiễn. Vua Hán tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Vua Hán hời kế ở Sùng văn sứ là Tiêu ÿch, ÿch nói: "Nay mưa dầm đã mấy tuần, đưọng biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyọn lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến". Vua Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyọn theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh [19b] Quyọn, nhưng Quyọn đã giết Kiều Công Tiễn rồi.
    Quyọn nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: "Hoằng Tháo là đứa trẻ khề dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mời mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khềe địch với quân mời mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyọn, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cềc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt (3) đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyọn của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cềc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát". Định kế rồi, bèn cho đóng cềc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Quyọn sai người đem thuyọn nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyọn đã vào trong vùng cắm cềc, nước triều rút, cềc nhô lên, Quyọn bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. [Quân Hoằng Tháo] không kịp sửa thuyọn mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyọn đều mắc [20a] vào cềc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nữa. Quyọn thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về. Vua Hán cho tên Cung đáng ghét là vì vậy (Lưu Cung tức là Lưu Nghiễm).
    Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lưu Cung tham đất đai của người, muốn mở rộng bề cõi, đất đai chưa lấy được mà đã hại mất đứa con của mình và hại cả nhân dân, tức như Mạnh Tử nói: "Đem cái mình không yêu mà hại cái mình yêu" vậy chăng?
    Trở lên là [kỷ] Nam Bắc phân tranh, từ năm Đinh Mão đến năm Mậu Tuất [907-938], tất cả 32 năm.
    1 Chữ ______ âm Cảo, Kiểu, đồng âm với Kiều.
    2 Vạn Vương [Lưu] Hoằng Tháo, nên sửa là Hồng Tháo, theo Tân Ngũ đại sử (q.65). Các con của Lưu Cung đều có chữ Hồng.
    3 Tân Ngũ đại sử (Nam Hán thế gia) chép: thực thiết quyết = đóng cềc sắt (hiểu là cềc gỗ bịt sắt). Việt sử lược (q.1, 14b): thực thiết đầu đại dực = đóng cềc lớn đầu sắt.
  6. bibianh

    bibianh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/06/2006
    Bài viết:
    2.236
    Đã được thích:
    0
    Oài ôi, đọc mấy chữ "Hề Triệu", "hề Hoắc", "An Dương Vương hề Thục..." mờ nghĩ mãi mới hỉu. --> hề ở đây là "họ" à? Do viết nhầm hay do cách gọi như thế hở mabroshi?
  7. cafenhasan

    cafenhasan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/07/2006
    Bài viết:
    1.709
    Đã được thích:
    0
    Hình như chữ cổ á , bibianh à .
    Em mabroshi85 xem có đúng vậy không ??
    Dạo này bận nhiều việc lặn sủi tăm đâu ???
    Anh mấy hôm nay đêm nào cũng xem xong 2 tập phim Tam Quốc Diễn Nghĩa đến tận 12 h trên VCTV7 , nghiện rùi vì phim này hay hơn mấy phim đã từng xem . Thời Tam Quốc bên Tàu thì
    Việt Nam mình là thời nhà nào ??? Khoảng năm bao nhiêu ?? Tên gọi là gì ???

Chia sẻ trang này