1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sư đoàn 3 BB ngụy - Những ngày cuối của cuộc chiến

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TLV, 18/12/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. thienthannho_p309

    thienthannho_p309 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/03/2005
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    sao cái hình chú nói là quân nguỵ bỏ chạy, tui lại thấy toàn là da^n chứ đâu có quân trong đó, nhìn kỹ thì thấy xe của dân không hà, tại sao dân lại bỏ chạy như khi "giải phóng" quân vào vậy chú?
  2. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Cháu không biết sao, tại vì lính VNCH bỏ hết quân phục kẻo gặp bộ đội thì bị túm cổ, rùi chạy về Bình Thuận gặp quân cảnh túm lại bắt chiến đấu tiếp thì sao? Dân bỏ chạy vì nghe VNCH nói: CS gặp phụ nữ uốn tóc thì cắt trọc, sơn móng tay thì lột móng, tắm máu, tẩy não, bla bla......Sau này hóa ra xạo cả.
  3. medabong

    medabong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/05/2003
    Bài viết:
    972
    Đã được thích:
    0
    Bác spirou, như vậy sau năm 1975. Khi mà CS đã nắm toàn miền Nam rồi mà tại sao vẫn còn nhiều người đi vượt biên ? Không phải trước năm 75 người dân bị lính VNCH tuyên truyền là CS vô sẽ làm này làm nọ nên người dân sợ phải bỏ chạy sao ? Như vậy thì tại sao sau năm 75 CS đã nắm quyền rồi mà người dân vẫn vượt biên ? Những năm 80s vẫn còn có người đi vượt biên. Cái gì cũng vừa phải thôi, bác làm như bác đã chứng kiến tận mắt cảnh lính VNCH tuyên bắt người dân phải di tảng vậy
    Hôm bửa tui có đọc một bài báo trong VNN nói về Nha Trang những ngày cuối tháng Tư. Đọc sơ sơ qua bài báo thì tui thấy cái giọng điệu vẫn như những bài tui đã từng đọc. Cái giọng điệu "tôi chắc là lính nguy bắn vào dân chứ hông phải mấy anh giải phóng đâu. bla bla bla". Và kéo xuống gần cuối bài tui thấy tấm hình một lính VNCH đứng sau một đứa bé đang khóc và đoàn người đó đang chuẩn bị lên mấy bay để di tảng hay gì đó. Phía dưới tấm hình thì ghi "Di cư cưỡng ép". Thấy tấm hình tui phải chửi tục lên một cái vì tui thấy XẠO quá. Tìm đại tấm hình nào có lính VNCH đứng phía sau và có đứa bé đang khóc rồi ghi là "Di cư cưỡng ép" tui thấy xạo quá. Vẫn cái giọng điệu tuyên truyền xạo đó mà hông bỏ. Sau năm 75 ai cưỡng ép họ mà họ vẫn vượt biên để chạy ? CS đã tới rồi và họ đã thấy CS như thế nào rồi tại sao họ vẫn chạy ?? Như vậy bác giải thích như thế nào về những luận điệu như "tại VNCH tuyên truyền là CS sẽ tắm máu Sài Gòn nên người dân mới chạy", "tại VNCH tuyên truyên là khi CS vô sẽ làm này làm nọ nên người dân sợ mới chạy" bla bla bla ... Nghe sao nó xạo quá. Sự thật là sau khi CS nắm quyền rồi người dân vẫn chạy đó không thấy sao ?? Đó là sự thật nhiều người đã thấy. Còn cái luận điệu như "tại VNCH tuyên truyền là CS sẽ tắm máu Sài Gòn nên người dân mới chạy" nói thật hồi đó đến giờ tui chưa bao giờ nghe ai nói đến điều đó, kể cả trong nước lẫn hải ngoại. Khi vào trang này thì tui mới thấy vài bác nói thôi.
  4. white_shark

    white_shark Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    24
    Đã được thích:
    0
    Thêm 1 số hình ảnh về sự tháo chạy của quân nguỵ
  5. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Tướng Ngô Quang Trưởng biện bạch:
    Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I
    Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân Đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư Đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di dịch là: Phải rút khỏi Quân Đoàn 1 càng sớm càng hay.
    Trở ra Quân Đoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rút cục tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ nói với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy, cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.
    Cái lầm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn, v.v. đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân Đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, đại tướng Cao Văn Viên, tôi (tư lệnh Quân Đoàn 1), và tư lệnh Quân Đoàn 2 (tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng.
    Tôi ra lệnh cho tướng Trần Văn Nhựt rút Sư Đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với lòng sắt đá và giọng nói cứng rắn hàng ngày buộc anh em phải giữ không để mất một cục sỏi ở Vùng 1.
    Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin tổng thống cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng 1 được? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân.
    Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó Quân Đoàn 1) đang chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do đại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi "bỏ Huế." Thật làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ.
    Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay: "?" Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao?" Tôi buồn bã trả lời: "Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để được tàu Hải Quân rút về Đà Nẵng.

  6. TLV

    TLV Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/12/2003
    Bài viết:
    1.329
    Đã được thích:
    0
    Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 4, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển từ công việc hành chánh đến quân sự. Tình hình khó khăn, địch tấn công, mà lại thêm cái lệnh "phải rút càng sớm càng tối" lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ thướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3, 1975, thủ tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu, và các trưởng phòng sở của hành chánh để thủ tướng nói chuyện.
    Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ "trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong, đến phần thắc mắc thì cũng chẳng ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình đại tá Kỳ, tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu: "Thưa thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở không đến làm việc, thưa thủ tướng, phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó?" Câu hỏi thật hay, nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1 càng sớm càng tốt.
    Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Đà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Đà Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu, mặc dù lúc đó tàu đã cặp bến Cam Ranh rồi.
    Tôi nhờ hạm trưởng gọi về Bộ tổng Tham Mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. Còn nếu không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn.
    Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây, tôi gặp phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (tư lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải) và chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân) đang ngồi viết bản tự khai, và trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội gì. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật bất công. Tướng Thi thực sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là tổng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng: "Xã ấp tốt quá mà bỏ là sao?" Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng này bị phạt quá oan uổng vì họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn tại Sài Gòn.
    Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi có nói rằng: "Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh là không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi, họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua trung tướng Trần Văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn làm đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế mà rút lui. Mà tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê Nguyên Khang với giọng giận dữ đã buột miệng nói: "Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả!"
    Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra đi của tướng Thoại và tướng Khánh. Là vị tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, thấy đề đốc Thoại ở đó, họ ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh, tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Chà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn.


  7. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1

    Cái trang web đó đúng là viết bậy thiệt, tôi cũng công nhận là không có sự cưỡng ép di tản, mà chỉ là do sự tuyên truyền về tắm máu hay tẩy não. Thậm chí ngược lại, lính VNCH còn...bắn bớt dân hay đồng đội để có chỗ. Bác không chịu nổi khi đọc web CS, vậy đọc của sỹ quan thủy quân lục chiến viết vậy:

    Hai chiếc M-113 lại lội nước ra tàu. (chiếc này do lính VNCH lái)
    Lần này tôi mục kích tận mắt những cái xích sắt nghiến nát những đầu người. Tiếng máy nổ và tiếng nước vỗ đã át đi những tiếng thét tiếng la và có thể, cả tiếng vỡ của những cái đầu, nhưng không có gì có thể che lấp được những mảnh quần áo và mầu đỏ của máu cuộn theo chiều quay của xích sắt. Màu đỏ của máu và những mảnh vải cuộn theo chúng tôi suốt cả lộ trình khoảng một trăm thước. Màu đỏ của máu và những mảnh quần áo chắc chắn còn dính cả thịt còn trồi lên, trồi lên xen lẫn với bọt nước phía sau chúng tôi.
    ..............
    Lên đến trên tàu, không khí quá nặng nề ngột ngạt. Không phải nặng nề ngột ngạt vì số người trên tàu quá đông, mà vì cả tàu đang bị bao trùm bằng mùi giết chóc, căng thẳng.
    Huy mập nhét vào tay tôi khẩu súng ngắn, dặn dò:
    "Súng tôi lên đạn sẵn, ông giữ cẩn thận."
    "Còn gì nữa để mà phải thủ súng lên đạn sẵn?"
    "Thì ông cứ giữ đề phòng. Biết đâu có lúc phải xài tới."
    Chưa kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.
    Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
    "Ðụ mẹ, có xuống không?"
    "Tôi lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
    "Ðụ mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
    "Tôi lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
    "Ðụ mẹ, một."
    "Tôi lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết. Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
    "Ðụ mẹ, hai."
    "Trời đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh mà."
    "Ðụ mẹ, ba."
    Tiếng ba vừa dứt, tiếng súng nổ.
    Người trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến khác khiêng ném xuống biển.
    Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một thiếu tá Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí:
    "Ðụ mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?"
    Ông thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập, năn nỉ:
    "Anh tha cho em, anh tha cho em."
    "Ðụ mẹ, một."
    "Thôi, thôi, thôi anh để em xuống."
    Lết ra tới lan can tàu, ông ta quay lại năn nỉ lần chót:
    "Anh tha cho em, anh thương em với."
    "Ðụ mẹ, hai."
    Biết là không thể năn nỉ, xin xỏ gì được, ông ta vừa khóc vừa nhảy xuống biển.
    Cùng trong thời gian đó, tôi nghe thấy nhiều tiếng súng khác ở nhiều nơi khác nhau trên tàu.
    Huy mập cho biết:
    "Tàu chở nặng quá nên bị mắc cạn. Hồi nãy cố ra thử nhưng không nổi nên quay đúng một vòng tròn rồi hết nhúc nhích. Ông thuyền trưởng cho biết là tàu dành riêng cho Thủy Quân Lục Chiến, nên yêu cầu những ai không phải Thủy Quân Lục Chiến rời tàu. Ông Râu thấy không, sức mấy mà người ta chịu xuống. Thành ra ông thuyền trưởng yêu cầu Thủy Quân Lục Chiến giải quyết. Lính mình tụi nó giải quyết bằng súng."
    "Vậy thì có nhằm nhò gì đến tôi mà ông bắt tôi phải thủ khẩu súng trong người."
    "Bộ ông tưởng thằng mặc đồ rằn nào cũng là Thủy Quân Lục Chiến sao. Và bộ ông tưởng thằng Thủy Quân Lục Chiến nào cũng phải biết ông sao. Trong lúc hỗn quân hỗn quan này, ông không lo thủ lấy thân còn ai lo cho ông đây."
    Tiếng súng vẫn đì đoành đây đó trên tàu. Xác người vẫn tiếp tục bị ném xuống biển. Nhiều người vừa khóc vừa nhảy ra khỏi tàu. Những khẩu súng vẫn được kê vào đầu những người lính Bộ Binh, vẫn đì đoành.
    Tình người!
    Tình chiến hữu!
    Tôi đứng nhìn bất lực. Tôi hoàn toàn bất lực trước cảnh đau xót này.
    ......................

    Tháng 03 gãy súng- Cao Xuân Huy. Việt Nam thư quán.
    Hoặc cảnh cướp phá ở Đà Nẵng do Lê Xuân Nhuận, sỹ quan cảnh sát viết. Ông này cũng viết nhẹ đi nhiều, không dám nói thẳng ra rằng các toán cướp bóc, hãm hiếp mặc đồ rằn ri đó là lính nên tôi không trích dẫn.
    ..........
    Trong lúc đó, Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Vùng I tổ-chức phát lương sớm cho nhân-viên các Tỉnh thất-thủ di-tản về tập-trung trước sân. Tình-trạng bơ-vơ và hoàn-cảnh nguy-khốn xung quanh đã thôi-thúc mọi người tranh-thủ từng giây từng phút để sớm ra đi, cho nên thới-gian hầu như dài vô-tận đối với những người phải sắp hàng để đợi đến lượt mình được lĩnh lương. Lần đầu tiên trong lịch-sử của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia, có một số cảnh-viên vô-kỷ-luật, muốn mình được giải-quyết trước, đã xông đến bao vây phát-ngân-viên, và, trong lúc lộn-xộn, có kẻ đã nổ súng uy-hiếp để cướp tiền. Viên đan xoi lủng một lỗ và làm nứt một đường, trên cánh cửa kính tiền diện của trụ-sở Cảnh-Lực Miền Trung, phải chăng là dấu-hiệu của sự rạn vỡ đã thâm-nhập vào lòng của một tổ-chức tượng-trưng cho an-toàn chung, để hòa nhịp với guồng máy lớn đã bước trước vào một giai đoạn mới, hỗn-quan, hỗn-quân.
    ..............
    Khoảng 10 giờ sáng thì có một toán Việt-Cộng xuất-hiện, nổ súng dò đường phía Ngũ Hành Sơn. Trên này, súng đạn vứt bỏ ngổn-ngang, chiến-xa nằm im thin-thít, mấy khẩu đại-pháo ngỏng cổ chơ-vơ; một số có súng bắn nhau để giành xuống phà; trong cảnh biến-loạn, quân cũng như dân, như rắn mất đầu .
    Tất cả tư liệu do phía VNCH viết, hy vọng bác hài lòng và không nổi giận, chửi tục. Về việc cưỡng ép di tản, thực ra đã có rất nhiều trong giai đoạn Mỹ còn ở Việt Nam. Bác ở Mỹ thì ra tiệm sách kiếm cuốn "Vietnam: War lost and win", trang 78 sẽ biết thêm. Vụ này lính VNCH và lính Mỹ hành quân truy quét tam giác sắt Củ Chi, dồn dân vào trại tị nạn, trên cổng trại tị nạn có viết: Đón chào bà con tị nạn C.ộng s.ản .
  8. spirou

    spirou Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/05/2003
    Bài viết:
    2.819
    Đã được thích:
    1
    Quên, viết chưa xong đã nhấn nút gửi, chuyện vượt biên sau này, phần lớn có lý do kinh tế. Tôi không muốn nhắc lại, đã tranh luận nhiều với bác yuyu rồi, mệt lắm. Phiền bác lục topic cũ đọc lại vậy.
  9. duongphuongbay

    duongphuongbay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    1.108
    Đã được thích:
    0
    Cho dù với bất kỳ lý do gì, chính trị hay kinh tế, chuyện 1 chính phủ cai quản đất nước như thế nào mà để người dân lũ lượt bỏ nước ra đi đông nhất trong lịch sử, bỏ mạng nơi biển sâu rừng thẳm nhiều nhất trong lịch sử thì đó chắc chắn là một vết nhơ lớn trong tiến trình lịch sử vẻ vang của dân tộc. Chỉ khi nào có sự nhìn nhận sai lầm một cách công khai, xin lỗi toàn dân (chẳng hạn thế) thì lúc đó oan hồn người đã khuất cũng như tâm hồn người còn sống mới mong thoát khỏi ám ảnh dai dẳng lâu nay, lòng người mới thực sự yên.
    Nhà tớ có 2 người bị chôn sống tết Mậu Thân, 11 người mất tích trên biển, nhưng những người còn lại cũng chẳng ai muốn chống phá hay hận thù chính quyền này cả, bởi tất cả đều trân trọng những giây phút hoà bình thực tại, nhưng tận đáy sâu của mỗi người thì nỗi ám ảnh không nói nên lời thật khủng khiếp, 30 năm rồi vẫn chưa xoá đi được...

Chia sẻ trang này