1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sư đoàn 308

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoaian1982, 16/01/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoaian1982

    hoaian1982 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/10/2003
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
    Sư đoàn 308

    Từ trước đến nay, em nghe nói sư đoàn 308 nổi tiếng là thiện chiến của QDNDVN nhưng trong kháng chiến chống Mỹ nó hầu như chỉ ở miền Bắc, vào Nam và sang Lào tham gia một số chiến dịch trong thời gian ngắn. Theo những thông tin không chính thức, trong các chiến dịch nhu Cánh Đồng chum - Xiêng khoảng và Quảng Trị 1972 Sư đoàn bị thiệt hại khá nặng. Có bác nào biết thông tin về những trận đánh trên đề nghị post lên cho anh em coi với.
  2. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    Sư đoàn 308 thì em chỉ biết là thành lập khoảng năm 1949 hay 1950 để tham gia chiến dịch Biên giới.Trong biên chế của sư đoàn có trung đoàn 102 là trung đoàn thủ đô(cái này khi duyệt các bác nếu thấy không cần thiết có thể xoá đi).Đây là sư đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội Nhân dân Việt Nam.Còn các trận đánh thì xin anh em tìm hộ.Ở bên này em không có tài liệu.
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Sư 308 thành lập ngày 28-8-1949 ở Thái Nguyên nhằm chuẩn bị cho tổng phản công. Sư đoàn gồm các trung đoàn 36 Bắc Bắc, 88 Tu Vũ và 102 Thủ đô, được hình thành từ các tiểu đoàn thiện chiến, nhiều chiến công. Do hình thành và đánh tập trung lớn nên đây là sư đoàn có chất lượng tốt nhất trong CT chống Pháp.
    Năm 1968 sư đoàn 308 tham chiến ở mặt trận nam Khe Sanh, đánh một số trận vây ép cấp đại đội-tiểu đoàn.
    Năm 1971 chiến dịch Nam Lào sư đoàn 308 nằm trong đội hình binh đoàn B70 do đại tá Cao Văn Khánh làm tư lệnh, tấn công vào cánh bắc đội hình phòng ngự của quân ngụy. TĐ102 tiêu diệt tiểu đoàn 39 biệt động quân, TĐ36 diệt thiết đoàn 17, TĐ88 phối hợp với các đơn vị bạn lần lượt xoá sổ lữ 3 dù ngụy, đánh tan cánh bắc của ngụy. Giai đoạn 2 TĐ102 xây dựng tuyến chốt trên một số điểm cao cắt đứt hoàn toàn giao thông trên tuyến đường 9. Chiến dịch được đánh giá là thành công với mức tổn thất thấp : 2163 hi sinh, 6176 bị thương (ngụy hét lên 3 vạn).
    Năm 1972, sư đoàn 308 nằm trong đội hình chiến dịch Quảng Trị, tấn công vào thị xã Đông Hà. Ngày 9-4-1972 sư đoàn tấn công Đông Hà không thành, bị thương vong. Từ 10 đến 26-4-1972, sư đoàn sử dụng lực lượng săn tăng trang bị B40, B41 từng bước đánh vỡ vành đai xe tăng quanh Đông Hà, lấn chiếm một số cao điểm ngoại vi. Ngày 23-4-1972, sư đoàn đẩy lùi 9 đợt phản kích của quân ngụy (trong trận này tên lửa chống tăng B72 lần đầu sử dụng, bắn 7 phát diệt 6 xe tăng). Ngày 27 và 28-4-1972, sư đoàn cùng xe tăng, đặc công được 30.000 quả đạn pháo chi viện tấn công toàn diện Đông Hà và làm chủ vào chiều hôm đó. Ngay sau khi giải phóng Quảng Trị, sư đoàn đang chuẩn bị tấn công Huế thì ngày 28-6-1972 quân ngụy phản công, sư đoàn phải rút về Quảng Trị, phòng thủ trên dãy Trường Phước chống nhau với sư dù ngụy nửa tháng rồi chuyển tiếp về mặt trận tây và tây nam thành cổ, cả 2 lần chuyển quân ta đều bị thiệt hại nặng vì bom pháo địch. Thời gian phòng thủ, sư đoàn bị thương vong rất nặng nề, các đại đội còn không đầy 20 tay súng, đạn dược chỉ còn ở mức tối thiểu, đạn pháo cối cạn kiệt... Tháng 11-1972, sư đoàn rút về tuyến sau củng cố, làm dự bị cho mặt trận cánh đông. Khi quân ngụy lấn cảng Cửu Việt, TĐ102 đã điều động 9 phân đội súng chống tăng giỏi xuống tham gia trận phản kích tái chiếm cảng.
  4. 0904223800

    0904223800 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/08/2003
    Bài viết:
    260
    Đã được thích:
    0
    Các bạn có biết thông tin gì về ông Trương Đình Mậu sư trưởng 308 chỉ huy chiến dịch Quảng Trị không?
  5. hungsheva2004

    hungsheva2004 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/01/2004
    Bài viết:
    2.415
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bác rất nhiều!Em sẽ tìm thêm tư liệu và đưa lên diễn đàn nhưng còn lâu nữa cơ ạ.
    Mòi người tiếp tục đi nhé!
    Được spirou sửa chữa / chuyển vào 10:17 ngày 19/01/2004
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Hùng béo tinh tướng! Em sẽ gửi bài mà chẳng thấy mặt mũi mày đâu cả! Không làm được thì để tao làm cho. Các bác thông cảm cho thằng Hùng béo, nó chỉ to mồm thôi, em sẽ chuộc lỗi thay nó! Đây là thời kỳ từ khi thành lập đến năm 1954 của sư 308 (trích trong hồi ký của Trung tướng Vương Thừa Vũ)
    Đại đoàn 308-những ngày đầu thành lập
    Sự phát triển của lực lượng vũ trang từ nhỏ đến lớn là quy luật tất yếu của chiến tranh giải phóng. Như xưa kia hồi thế kỷ XV, thời Lê Lợi dựng cờ cứu nước đánh đuổi quân Minh xâm lược, lúc đầu thế giặc đương mạnh, mà ta thì ?otuấn kiệt lưa thưa như sao sớm?, phải chống đỡ gian nan như ngọn đèn trước gió, chẳng khéo che đậy thì tắt phụt như chơi. Nhưng do có chí vượt gian nan, toàn dân đoàn kết, trên duới đồng lòng chung lưng đấu cật, có cách đánh hay đánh hiểm mà lực lượng ta ngày càng phát triển, chuyển yếu thành mạnh?
    Mấy năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ta cũng gặp phải những khó khăn cực kỳ to lớn. Lực lượng vũ trang ta đã ít lại thiếu thốn nhiều bề-thiếu súng đạn, thuốc men, thiếu quần áo và lương thực, v.v? Trong khi đó lực lượng địch số lượng đông hơn, vũ khí nhiều hơn, lại không ngừng được tăng viện. Cậy có quân đông, súng tốt, đạn nhiều, quân Pháp liên tiếp mở các cuộc tiến công ào ạt hòng nhanh chóng nuốt trôi nước ta, chiến sụ diễn ra ác liệt ở Tây Bắc, Đông Bắc, đường số 5, ở đồng bằng Bắc Bộ, ở Bình-Trị-Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ. Trong cùng thời gian địch mở nhiều cuộc hành quân càn quét quy mô lớn bằng xe tăng, xe bọc thép, có quân đổ bộ đường không, đường thuỷ phối hợp; tiến hành những trận đột kích, những mũi thọc sâu vu hồi, những gọng kìm bao vây hàng trăm kilômét. Đi đến đâu địch cũng tàn phá đến đó-thực hiện chính sách ?otam quang?-đốt sạch, phá sạch, giết sạch rất dã man tàn bạo.
    Đây là thời kỳ rất gay go của cuộc kháng chiến. Ở nhiều nơi quân địch đã chiếm được các đô thị lớn. Chúng ta kháng chiến trong vòng vây bốn bề của chủ nghĩa đế quốc. Thế nhưng quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch, đã đạp bằng mọi khó khăn, làm thất bại những âm mưu chiến lược quan trọng của địch, buộc đế quốc Pháp phải xét lại chủ trương chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng. Đó là những năm đầu thắng lợi của quân và dân ta có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tương lai của cả cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc. Và đó cũng là những năm 1847, 1948 đầy thử thách đối với chúng ta.
    Đầu năm 1949, trong không khí chiến thắng chung, hội nghị cán bộ lần thứ VI của Trung ương Đảng họp bàn và ra các nghị quyết về nhiều vấn đề quan tọng đối với cuộc kháng chiến. Trong phần nói về nhiệm vụ và công tác quân sự, nghị quyết nhấn mạnh ?otrọng tâm công tác lúc này là tiếp tục xây dựng bộ đội chủ lực, tập trung cán bộ, tập trung vũ khí và phương tiện thông tin liên lạc cho những đơn vị có nhiệm vụ đánh vận động chiến? (Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VI). Nghị quyết quan trọng này đã chỉ ra phương hướng tiến lên của quân đội ta.
    Bấy giờ lực lượng chủ lực thuộc Bộ Tổng tư lệnh vẻn vẹn chỉ có trung đoàn 308 gồm các tiểu đoàn 11, 18, 23, 29, 54 và một số tiểu đoàn, đại đội pháo binh, công binh, thông tin, v.v?
    Tiểu đoàn 11 vốn là một tiểu đoàn mạnh của Liên khu III từng chiến đấu ở ngoại thành Hải Phòng và ở Kiến An, được Bộ (bắt đầu từ đây danh từ Bộ-chỉ Bộ Tổng tư lệnh) điều lên Việt Bắc từ mùa xuân 1947, chính là đơn vị đã diệt đồn lê dương Pháp ở Phủ Thông trong mùa hè 1948, và từ đó mang tên tiểu đoàn Phủ Thông.
    Tiểu đoàn 18, thành lập ở Sơn Tây hồi đầu năm 1947 gồm những chiến sĩ tự vệ thành Hà Nội và du kích Hồng Hà. Tiểu đoàn này đã chiến đấu nhiều ở Đông Bắc nhưng lại mang danh hiệu Bình Ca, tên một bến phà trên Sông Lô, vì đấy là nơi tiểu đoàn 18 xuất trận lần đầu và giành chiến thắng mở đầu cuộc tiến công bẻ gãy gọng kìm Sông Lô của quân Pháp do tên trung tá Com-muy-nan chỉ huy đánh lên căn cứ Việt Bắc hồi thu đông năm 1947.
    Tiểu đoàn 23 thành lập ở Liên khu III với hầu hết chiến sĩ quê ở Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, từng lăn lộn đánh địch ở Hoà Bình, Tu Vũ, bên sông Đà. Tiểu đoàn 23 mới lập công lớn trong trận phục kích ở Lũng Phầy trên đường số 4 và mang tên tiểu đoàn Lũng Phầy.
    Tiểu đoàn 29 là sự hợp nhất chung đúc tinh hoa của hai tiểu đoàn 39 và 48. Tiểu đoàn 39 vốn gốc là một trung đội giải phóng, từ sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 phát triển thành tiểu đoàn bảo vệ Bộ Tổng tư lệnh. Tiểu đoàn 48 sinh trưởng từ miền duyên hải, thành phần đa số là anh em công nhân Hải Phòng và các mỏ Hà Tu, Cầm Phả. Cả hai tiểu đoàn này đều có thành tích chiến đấu, khi hợp lại thành một tiểu đoàn mạnh, đã đánh nhiều trận công đông, tiêu biểu nhất là trận Bản Trại, nơi sông Kỳ Cùng chảy cắt ngang đường số 4, tiêu diệt một đồn do lính lê dương đóng giữ.
    Tiểu đoàn 54 chính là trung đoàn Thủ đô thu hẹp lại. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, Bộ Tổng tư lệnh điều động nhiều cán bộ và chiến sĩ của trung đoàn này đi học để tăng cường cho các đơn vị mới thành lập hoặc bổ sung vào các cơ quan, đơn vị chuyên môn; số còn lại tạm thời thu hẹp thành một tiểu đoàn mạnh, để khi có điều kiện phát triển thành trung đoàn, đại đoàn.
    Mùa xuân năm 1949, tôi đang làm nhiệm vụ quân khu phó Quân khu IV, trực tiếp phụ trách phân khu trưởng phân khu Bình-Trị-Thiên, được thông báo của Trung ương quyết định thành lập đại đoàn chủ lực đầu tiên. Tin vui này đã mang đến sự cổ vũ mạnh mẽ cho quân và dân Bình-Trị-Thiên đang chiến đấu anh dũng trên mảnh đất hẹp của Tổ quốc, bốn bề bị giặc Pháp bao vậy, uy hiếp. Thế là từ nay trở đi, bên cạnh lực lượng dân quân du kích và bộ đội địa phương rộng khắp, chúng ta có cả bộ đội tập trung cơ động mạnh. Trong suy nghĩ của chúng tôi lúc ấy-thường mơ ước chiến tranh du kích phát triển đến một lúc nào đó sẽ có những bước nhảy vọt, lực lượng bộ đội chủ lực tập trung sẽ xuất hiện. Và một khi những ?oquả đấm thép? ra đời sẽ thu hút lực lượng địch, làm cho chúng phải chia xẻ binh lực, lúc ấy Bình-Trị-Thiên sẽ có thêm điều kiện phát triển chiến tranh du kích, xây dựng thêm lực lượng? Giữa lúc đó tôi nhận được lệnh điều về Bộ nhận công tác.
    Từ Khu IV ra Thanh Hóa, đến Ninh Bình, tôi gặp đồng chí Văn Tiến Dũng. Tôi cùng đồng chí Văn Tiến Dũng theo đường giao liên qua vùng địch tạm chiếm Nam Định, Thái Bình, Hải Dương rồi vượt đường số 5 lên vùng tự do của tỉnh Bắc Giang.
    Tháng 4 năm 1949 lên tới căn cứ địa Việt Bắc, mới biết rõ Bộ điều tôi về phụ trách chỉ huy đại đoàn chủ lực sắp thành lập. Nhận quyết định tôi tìm ngay về xã Phúc Trìu-địa điểm tiếp đón các đơn vị của các Liên khu (nhu Quân khu ngày nay) điều về để tiến hành xếp biên chế đại đoàn.
    Phong tham mưu đã cử đồng chí Bùi Nguyên Cát-chánh văn đại đoàn đón tôi. Đồng chí Bùi Nguyên Cát cùng tôi chiến đấu ở mặt trận Hà Nội cuối năm 1946, nên vừa trông thấy tôi đồng chí đã reo lên:
    -Anh Vũ! Từ Thủ đô ra đi nay mới lại được gặp anh. Thế mà đã hai năm rồi.
    Tôi nói vui:
    -Quả đất trong mà!
    Rồi không đợi tôi hỏi han tình hình, đồng chí Cát sôi nổi nói:
    -Được Bộ thông báo quyết định anh về phục trách đại đoàn, chúng tôi rất phấn khởi, mong anh mãi?
    Và hình như sợ mình quên, đồng chí Bùi Nguyên Cát giở sổ tay báo cáo tiếp những công việc mà đồng chí ghi được qua cuộc họp phòng tham mưu: Bộ đã điều anh Cao Văn Khánh từ Khu V ra làm đại đoàn phó. Các đơn vị do Bộ điều về mới có mặt một ít, đại bộ phận đang trên đường hành quân, có đơn vị còn đang chiến đấu. Theo các anh trên gợi ý thì tình hình đang rất khẩn trương, không thể có thời gian và cũng không có đủ điều kiện để hình thành ngay đại đoàn về mặt biên chế, mà phải vừa chiến đấu vừa xây dựng, trên cơ sở đó sẽ từng bước hoàn chỉnh về mặt tổ chức?
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đúng là khẩn trương, rất khẩn trương. Anh Cao Văn Khánh và tôi chưa kịp nắm quân thì đã có lệnh đi chiến đấu. Nói đúng hơn, chúng tôi mới nắm quân qua giấy tờ, bởi vì mới có hai tiểu đoàn 11, 54 vừa đi chiến đấu ở vùng Sơn Tây trở về, các tiểu đoàn 18, 23, 29 chiến đấu suốt mùa xuân ở đường số 4 đang trên đường về, còn các tiểu đoàn 79, 322, 626 mới được bổ sung thì chưa đến. Anh Khánh được lệnh đưa hai tiểu đoàn 11 và 54 sang Yên Bái tham gia chiến dịch Sông Thao. Theo yêu cầu của Bộ, trận đầu cả hai tiểu đoàn này phải nổ súng vào ngày 19 tháng 5 và đã đánh là phải chiến thắng giòn giã, mỗi tiểu đoàn diệt mộ đông địch. Chúng tôi chia tay nhau, cùng thống nhất một điều: Quán triệt tinh thần chỉ đạo của cấp trên ?ovừa đánh vừa xây dựng?. Vì vậy, những trận đánh sắp tới ở Sông Thao có ý nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng truyền thống đại đoàn sau này. Chúng tôi cũng thống nhất với nhau, trước hết phải rèn cho cán bộ, chiến sĩ có ý thức chấp hành mệnh lệnh thật nghiêm chỉnh. Đây là một trong những điều kiện không thể thiếu được để làm nên sức mạnh của quân đội cách mạng chiến thắng kẻ thù.
    Chúng tôi lưu luyến chia tay nhau và hứa hẹn cùng nhau vượt mọi khó khăn chấp hành vô điều kiện mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Tổng tư lệnh. Anh Cao Văn Khánh dẫn quân qua Sông Lô, Tuyến Quang, vừa đến Sông Chảy thì địch mở chiến dịch Pô-mô-nơ đánh lên Phú Thọ, nhảy dù xuống thị xã Tuyên Quang. Lúc này, ở Thái Nguyên, các tiểu đoàn 18, 23, 29 đã về đến hậu cứ và các tiểu đoàn 79, 626 cũng vừa tới. Tôi được lệnh đưa tất cả lực lượng này vượt Đèo Khế, Sơn Dương để kịp tham gia chiến dịch Sông Lô.
    Ngày 20 tháng 5, toi và chiến dịch Bằng Giang chỉ huy mặt trận Sông Lô lần thứ 2 (tháng 5-1949) được tin hôm trước, mừng sinh nhật Bác Hồ, các tiểu đoàn 11, 54 đã tiêu diệt nhanh gọn hai đồn Đại Bục, Đại Phác thu toàn bộ vũ khí, bắt nhiều tù binh. Thế là chiến sĩ Sông Thao đã mở màn tốt đẹp. Bộ chỉ huy quân đội Pháp mở cuộc hành quân Pô-mô-nơ đánh sâu vào hậu phương ta cốt gây tiếng vang trong dịp chúng bày trò đưa Bảo Đại ra lập cái gọi là ?oChính phủ quốc gia Việt Nam?. Nhưng cuộc hành quân này đã bị các đơn vị tiền thân của đại đoàn 308 cùng quân và dân địa phương bẻ gãy, tướng Cốc buộc phải vội vã hạ lệnh cho quân sĩ dưới quyền tháo chạy. Binh đoàn của Cốc rút về đến Lệ Mỹ (Phú Thọ) thì chui vào thế trận bày sắn của ta; mái đến ngày 30 tháng 5 địch mới thoát vòng nguy hiểm về tới Việt Trì. Bộ chỉ huy Pháp đã thú nhận là chúng bị ?onhiền tổn thất? sau những trận đụng độ với ta ở Tràng São, Núi Hét, Tiên Du, v.v?
    Sau trận này, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, chúng tôi lại chuẩn bị cho tiểu đoàn 79 và một khẩu đội sơn pháo cấp tốc ngược Yên Bái để có thêm lực lượng phát huy thắng lợi của chiến dịch Sông Tháo.
    Cuộc tiễn đưa diễn ra nhanh gọn. Tuy không bùi ngùi nhưng nỗi băn khoăn đến sốt ruột trỗi dậy trong nếp nghĩ của tôi sau buổi chia tay này: Bao giờ thì hình thành hoàn chỉnh đại đoàn về mặt tổ chức!
    Nhưng rồi nỗi băn khoăn đó chẳng có điều kiện tồn tại lâu. Bởi lẽ có rất nhiều việc xảy ra sau đó đòi hỏi những người chỉ huy chúng tôi phải nghĩ tới, phải tìm biện pháp giải quyết. Và còn bởi một lẽ rất quan trọng là trải qua năm tháng được Đảng giáo dục và qua thực tế đâu tranh vũ trang với địch, tôi đã dần dần nghiệm ra rằng sức mạnh của một quân đội không phải chỉ là người đông với những đại đoàn này, quân đoàn nọ mà điều chủ yếu là ở trình độ giác ngộ chính trị, là ý thức tổ chức kỷ luật của nó. Muốn như thế, không có cách nào khác hơn là phải biết kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến với xây dựng, và ?ochỉ có xây dựng trong cơn thử lửa chiến tranh nhân dân, một đơn vị mới vững vàng và chóng trở thành tinh nhuệ?.
    Nghĩ như vậy, tôi thấy mình yên tâm và tự tin hơn, càng thất những dự kiến phải làm tiếp theo là rất cần thiết. Sau khi tiễn đưa tiểu đoàn 79 lên đường, tôi tranh thủ triệu tập các đồng chí tiểu đoàn trưởng còn lại họp kiểm điểm rút kinh nghiệm các trận chiến đấu vừa qua để đặt nền móng cho việc kết họp giữa xây dựng và chiến đấu trong quá trình xây dựng đại đoàn.
    Cuộc họp rút kinh nghiệm diễn ra hào hứng và sôi nổi. Nhiều ý kiến nhận xét phân rõ đúng sai được anh em phát biểu với một tinh thần thẳng thắn và dứt khoát?
    Mọi người như đã hết ý kiến, tôi mới đứng lên nói những suy nghĩ của mình như là điều tâm sự với anh em về trận đánh vừa qua: mình cũng thấy tiếc! Lẽ ra trận đánh khuýp chặt được địch thì ăn to. Thực tế diễn ra chứng tỏ ta phán đoán đúng ý đồ của địch nhưng đi vào cụ thể ta còn khuyết điểm về tổ chức chỉ huy. Ở Phan Lương, đúng là do ta tổ chức trinh sát, bám địch kém nên bộ đội vất vả mò mẫm suốt đêm vẫn không thấy địch, sáng ra ta thấy địch vẫn ở quanh khu vực này?
    Tổng kết chiến dịch Sông Lô qua bảy ngày đêm chiến đấu, ta đã diệt 800 tên, bắn rơi hai máy bay, đánh chìm hai sà lan địch... Đó là một con số đáng khích lệ. Nhưng với tôi, điều tâm đắc lại là những bài học về tổ chức xây dựng lực lượng như thế nào để bảo đảm bộ đội đánh tập trung tốt?-Tất nhiên sẽ có nhiều việc phải làm nhưng trước hết cần nhanh chóng tạo cho đơn vị thống nhất về mặt tổ chức kỷ luật; phải duy trì-nhất là đối với cán bộ, một ý thức nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh. Đó là điều kiện vật chất ban đầu có tác dụng góp phần quan trọng-nếu không nói là quyết định, tạo nên các mặt thống nhất khác. Nếu không như thế thì dù đơn vị có biên chế đầy đủ người và vũ khí cũng khó phát huy được sức mạnh để đánh địch và thắng địch.
    Chiến dịch Sông Lô và Sông Thao vừa kết thúc, thì chúng tôi được lệnh của Bộ trở lại hậu cứ Thái Nguyên để chính thức bắt tay vào công việc xây dựng đại đoàn.
    Vẫn lại con đường đất đỏ xuyên ngang căn cứ địa Việt Bắc với những địa danh quen thuộc mà chúng tôi đã đi qua: Bến Hiên, phà Bình Ca, châu Sơn Dương (huyện Tân Trào ngày nay), Đèo Khế, v.v? Thời gian lúc này đã là mưa rừng tháng 7. Mưa xối xả trút nước xuống đoàn quân gần như không mũ, không áo mưa, quần áo sũng nươc suốt ngày. Nhưng khí thế chiến thắng đã cổ vũ tất cả mọi người vượt qua mọi khắc nghiệt của thời tiết, đảm bảo hành quân tới đích đúng thời gian, đủ quân số.
    Ôn định xong chỗ ăn ở của các đơn vị, tôi và anh Cao Văn Khánh lên gặp đồng chí đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận chỉ thị cụ thể về xây dựng đại đoàn. Cơ quan Bộ Tổng tư lệnh hồi đó đóng ở khu Cù Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Qua những trạm gác được bố trí nghiêm mật và chỉ được đi theo những con đường được quy đinh do các đồng chí cảnh vệ trực tiếp dẫn, chúng tôi mới tới được khu làm việc của cơ quan Bộ. Vừa đặt chân tới nơi, chúng tôi đã được hưởng ngay cái không khí thoải mái như của một nơi không có chiến tranh. Những ngôi nhà làm theo kiểu chuôi vồ nằm rải trên một khu đồi thoai thoải, ẩn dưới tán lá rừng rậm nhưng thoáng mát, khang trang. Không khí làm việc ở đây trang nghiêm mà ấm áp, hồ hởi. Chúng tôi không tìm thấy dấu hiệu gì là tạm bợ cả. Nhưng đồng thời lại thấy rất rõ một điều nổi bật là tất cả đều trong tư thế chiến đấu, tất cả đều sẵn sàng rời khỏi khu nhà ấm cúng này khi có lệnh.
    Đồng chí Tổng tư lệnh vẫn mái tóc đen dày chải ngược về phía sau; vẫn nước da trắng nhưng hơi xanh-có lẽ vì sốt rét. Nhưng vóc dáng đồng chí chắc khỏe hơn so với hồi cuối năm 1946 mà tôi đã nhiều lần gặp khi đồng chí đi kiểm tra mặt trận Hà Nội.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đại tướng ra tận cửa phòng làm việc thân mật bắt tay và đưa chúng tôi vào nhà.
    Sau khi hỏi tình hình sức khỏe của chúng tôi và nghe chúng tôi báo cáo tóm tắt diễn biến hai chiến dịch Sông Lô, Sông Thao, đồng chí Tổng tư lệnh bàn ngay vào công việc xây dựng đại đoàn.
    Trước hết đại tướng phân tích cục diện chiến tranh đang chuyển biến có lợi cho ta, vì vậy, nhiệm vụ quân sự cần kíp lúc này là phải nỗ lực thực hiện tốt phương châm chiến lược của Đảng; phải ?ođánh mạnh hơn nữa vào hậu phương địch, đánh vào các vị trí chiến lược của địch, cắt đứt các đường giao thông quan trọng?. Phải ?otừ chủ động chiến dịch đi đến chủ động chiến lược từng bộ phận một cách mạnh bạo hơn? (Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trun ương lần thứ VI). Vì vậy trong thời gian tới ngoài việc phát triển mạnh mẽ, rộng khắp lực lượng dân quân du kích, phát triển và củng cố bộ đội địa phương, cần đặc biệt coi trọng phát triển bộ đội chủ lực, xây dựng các binh đoàn tập trung cơ động đánh địch ở các chiến trường quan trọng?
    Về việc thành lập đại đoàn, đồng chí Tổng tư lệnh chỉ thị: Quân số của đại đoàn này lấy lực lượng chủ lực của Bộ là trung đoàn 308 làm nòng cốt, có bổ sung thêm các tiểu đoàn 79,322, 626 của Liên khu Việt Bắc và Liên khu III, sau đó bổ sung thêm tân binh và vũ khí. Nhưng cũng không ngồi chờ có đầy đủ quân số và vũ khí rồi mới hình thành tổ chức đại đoàn. Tất cả những điều ta mong muốn là cần thiết nhưng phải có thời gian. Bộ đã chỉ thị cho các Liên khu tích cự đóng góp ?ohùn vốn? nhưng không nên cầu toàn, trước mắt có bao nhiêu lực lượng cần nắm chắc để ?olàm vốn? ban đầu, rồi vừa chiến đấu vừa xây dựng, dần dần bổ sung hoàn chỉnh biên chế một đại đoàn mạnh?
    Chúng tôi có cảm tưởng đây không phải là vị đại tướng ra lệnh cho cấp dưới theo quy cách thông thường của một đội quân chính quy, mà là một buổi tọa đàm trao đổi ý kiến về công việc rất thân mật, dân chủ mà cũng rất nghiêm túc.
    Niềm tin tưởng vào tương lai và sự say sưa với công việc hiện rõ trên khuôn mặt của đồng chí Tổng tư lệnh đã truyền cảm mạnh mẽ đến chúng tôi, như tiếp thêm sức cho chúng tôi để làm tốt nhiệm vụ Đảng trao cho.
    -Các anh thấy còn ý kiến gì trao đổi nữa không?-Đại tướng hỏi.
    -Các việc như vậy đã rõ. Chúng tôi hứa quyết tâm làm tốt những điều mà Bộ đã chỉ thị-Tôi đáp.
    Đại tướng cười tỏ vui vẻ hài lòng và nói tiếp:
    -Tình hình đang rất khẩn trương, không có thời gian để bàn bạc nhiều. Các đồng chí về triển khai ngay công việc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Cần hết sức coi tọng chất lượng, bảo đảm khi có lệnh là toàn đại đoàn nhanh chóng lên đường đi chiến đấu và chiến đấu tốt.
    Trước khi chúng tôi trở lại đơn vị, đại tướng nói thêm: Về số hiệu sẽ lấy số hiệu trung đoàn 308 làm số hiệu đại đoàn, vì trung đoàn này là lực lượng nòng cốt đầu tiên của đại đoàn. Bộ cũng đã nhất trí tặng danh hiệu đại đoàn Quân Tiên Phong cho đại đoàn đồng chí với ý nghĩa đây là đại đoàn chủ lực đầu tiên của toàn quân.
    Chúng tôi ra về mang theo một niềm tin tưởng mãnh liệt, một niềm phấn khởi không nói thành lời. Vừa đến Phúc Trìu, chúng tôi tiến hành họp Đảng uỷ và Bộ chỉ huy đại đoàn để thảo luận kế hoạch cụ thể thực hiện chỉ thị của Bộ, trong khi tình hình tổ chức đại đoàn vẫn còn đang chuyển động. Những đơn vị thuộc các Liên khu được lệnh bổ sung cho đại đoàn vẫn đang trên đường về thì lại có những đơn vị được lệnh đi chiến đấu: tiểu đoàn 23 lên Đông Bắc, tiểu đoàn 29 xuống Trung Du? Có thể nói từ khi Bộ giao nhiệm vụ nghiên cứu thành lập đại đoàn, chưa lúc nào chúng tôi tập trung được đầy đủ các đơn vị.
    Với đặc điểm như vậy, Đảng uỷ và Bộ chỉ huy đại đoàn đã nhất trí phương châm công tác lãnh đạo và chỉ đạo lúc ấy là không cầu toàn, có bao nhiêu quân số, đơn vị hãy cứ sắp xếp biên chế bấy nhiêu, nhanh chóng ổn định tổ chức từng đơn vị, bộ phận đã có đủ điều kiện, tiến tới ổn định toàn bộ.
    Vì đây là đại đoàn chủ lực đầu tiên, nên Bộ chỉ thị cần tổ chức tốt lễ ra mắt động viên khí thế cán bộ, chiến sĩ đại đoàn, đồng thời cũng là dịp báo cáo thành tích với toàn dân và toàn quân về sự trưởng thành của quân đội. Quán triệt tinh thần ấy, Đảng uỷ quyết nghị thành lập ban tổ chức lễ thành lập đại đoàn. Riêng tôi được phân công trực tiếp huấn luyện đội ngũ để tiến hành diễu binh trong buổi lễ ra mắt đó.
    Có thể nói thời gian này thật là vất vả, ngày đêm bù đầu vào công việc. Trong khi lo biên chế sắp xếp các đơn vị, lo tổ chức lễ ra mắt, lo chương trình huấn luyện quân sự cho bộ đội, đồng thời chúng tôi vẫn phải có bộ phận đi chuẩn bị chiến trường để khi có lệnh của Bộ là lên đường được ngay.
    Với tinh thần phấn khởi về sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang, với tinh thần mong sớm có ?oquả đấm thép? để có đánh to thắng lớn nên chỉ trong một thời gian ngắn chưa đầy một tháng, toàn bộ cơ cấu tổ chức của một đại đoàn đã được hình thành. Và cái ngày đầy ý nghĩa phải đến đã đến. Ngày 28 tháng 8 năm 1949, lễ chính thức thành lập đại đoàn đã được tổ chức trọng thể tại Phố Đu-thị trấn của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, có đông đảo nhân dân quanh vùng đến dự, có cấp trên đến chứng kiên và giao nhiệm vụ.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trên bãi cỏ rộng nằm kề đường số 3, một kỳ đài lớn được dựng lên kết toàn bằng lá rừng. Một cổng chào với hai cột trụ cao to cũng kết toàn bằng lá được dựng ở lối ra vào đầu bãi. Cuối bãi-đối diện với cổng chào nổi lên một bức vẽ do các hoạ sĩ nghiệp dư của đại đoàn thể hiện biểu tượng đại đoàn Quân Tiên Phong với hình ảnh một chiến sĩ xung kích tay xách súng trường lắp lưỡi lê sáng quắc lao vào đồn giặc bốc lửa.
    Các đơn vị được xếp theo đội hình hàng ngang đối diện với lễ đài. Chỉ có khuôn mặt mọi người là thống nhất, rạng lên những nét tin tưởng, tự hào, phấn khởi và hồi hộp chờ đợi giờ phút lịch sử sắp đến với cuộc đời chiến đấu của mình, đang mong mỏi, đợi chờ cấp trên chứng kiện sự lớn lên của mình và giao nhiệm vụ cụ thể cho mình? Còn quần áo, giày mũ, súng đạn thì đủ kiểu, đủ loại với nhiều màu sắc khác nhau. Ngoài những bộ quân phục màu xanh còn thơm mùi vải mới vừa được quân nhu của Bộ cấp phát, lẻ tẻ còn có những đơn vị, những cá nhân mặc quần áo tự túc do gia đình tiếp tế hoặc quần áo chiến lợi phẩm lấy được của địch. Chất lượng cùa quần áo tự túc phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình, vì thế mà nó rất phong phú; có đồng chí mặc loại vải ka ki đắt tiền may kiểu cầu kỳ, có đồng chí mặc loại vải rẻ tiền màu nâu may theo kiểu tiện y (quần áo dùng phổ biến ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám), v.v?
    Riêng tôi vinh dự được phân công chỉ huy cuộc diễu binh, nên anh em trong cơ quan rất quan tâm đến trang phục của tôi. Ý kiến tham gia nói chung là rất rôm rả, nhưng cuối cùng vẫn chỉ có bộ âu phục ka ki màu vàng như quân phục hè hiện nay, đã mặc nhiều lần, mũ cứng bọc ka ki mua ở cửa hàng làm mũ tự nhân và đôi ủng da chiến lợi phẩm.
    Đến giờ khai mạc, đội kèn đồng của Bộ cử xuống do đồng chí Đinh Ngọc Liên chỉ huy, vận quần áo ka kai màu xám, đội mũ ca-lô cũng màu xám, chân đi giày da, vung kèn theo động tác thống nhất, thổi bài kèn chào khi đồng chí Trần Đăng Ninh-đại diện Chính phủ và đồng chí Tổng tư lệnh bước vào lễ trường.
    -Nghiêm!-Tôi hô rất to.
    Hàng quân im lặng, không động đậy.
    Tôi đứng nghiêm theo hàng quân, quay mặt về phía lễ trường, mắt nhìn lên lá cờ đỏ sao vàng đang tung bay trong gió sớm mà nhoà đi vì xúc động. Biết bao hy sinh của đồng bào đồng chí, biết bao công sức bù trì của Đảng, của ndn mới có được đứa con đầu lòng lớn mạnh hôm nay. Niềm vui sướng bị dồn nén cứ muốn bật tung ra vì những mơ ước nhỏ nhoi xưa, nay đã thành sự thật gấp nhiều lần. Được Đảng giáo dục chỉ lối, tôi tham gia cách mạng, qua những năm tháng tù đầy ở Hoả Lò, ở căng Bá Vân, ở Nghĩa Lộ, lúc ấy những người tù chính trị của đế quốc, chúng tôi chỉ ước gì có được một đội quân-nhỏ thôi, một tiểu đội, một trung đội với một ít vũ khí để vượt ngục, lập chiến khu, khởi nghĩa giành chính quyền. Giờ đây cả nước ta đã có cả một đạo quân mạnh gấp ngàn, vạn lần, có biết bao dân quân du kích, có biết bao đại đội độc lập, tiểu đoàn và trung đoàn tập trung, nay lại có cả đại đoàn chủ lực cơ động. Sung sướng biết nhường nào!
    Phấn khởi, tự hào và trách nhiệm cứ xáo trộn trong tôi, tạo thành sức bật mới trong tôi kể từ cái giờ phút lịch sử khó quên này.
    Buổi lễ được cử hành theo đúng chương trình đã định. Đại diện Đảng và Chính phủ, đồng chí Trần Đăng Ninh bước lên lễ đài, đưa cặp mắt hiền hậu nhìn bao quát hàng quân rồi ôn tồn nói: các đồng chí rất xứng đáng là đơn vị mà Đảng, Chính phủ và nhân dân đặt nhiều tin cậy. Hồ Chủ tịch vũng rất vui lòng về những cố gắng trong xây dựng, những gương dững cảm trong chiến đấu của các đồng chí? Càng nói giọng đồng chí càng trầm lắng tình cảm. Đồng chí nói về ý nghĩa thành lập đại đoàn, về vinh quang và trách nhiệm củ đại đoàn trong giai đoạn mới, và cuối cùng đồng chí nhấn mạnh chỉ có học tập tốt, chiến đấu tốt và phải hết sức khiêm tốn thì mới xứng đáng là danh hiệu đại đoàn Quân Tiên Phong.
    Những điều đồng chí Trần Đăng Ninh thay mặt Đảng và Chính Phủ căn dặn là những điều mà chúng tôi nhớ mãi, mang theo nó, vận dụng và thực hiện nó một cách nghiêm túc trong quá trình xây dựng đại đoàn.
    Khác với lần gặp ở Cù Vân, hôm nay đồng chí Võ Nguyên Giáp mặc lễ phụ ka ki màu vàng (tất nhiên lễ phục hồi ấy không giống kiểu lễ phục ngày nay), cổ thắt cra-vát màu đen, đi giày da đen, đội mũ cứng bỏ quai có đính quân hiệu hình tròn sao vàng, nền đỏ, viền vàng xung quanh, nhưng vai không đeo cấp hiệu.
    Đồng chí Tổng tư lệnh bước lên lễ đài trước cái nhìn chăm chú và trìu mến của hàng quân đứng dưới. Một phút im lặng-nghiêm trang nhưng lại chứa chan tình cảm chan hòa dân chủ và bình đẳng của một đội quân cách mạng.
    Giơ tay chào hàng quân rồi với nét mặt thân mật, cởi mở, với giọng nói miền Trung ấm áp, đồng chí đại tướng đọc nhật lệnh phân tích sâu sắc về thế ta đang đi lên, thế địch đang đi xuống và đang sa vào bị động? Sự ra mắt của đại đoàn 308 hôm nay là một cột mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự lớn mạnh của quân đội đang chuyên từ phân tán đến tập trung, từ đánh du kích tiến lên đánh vận động?
    Đoàn quân vẫn trong tư thế đứng nghiêm nghe đại tướng đọc nhật lệnh giao nhiệm vụ. Giọng của đại tướng mạnh dần, dứt khoát như có cái gì thúc giục: đại đoàn Quân Tiên Phong phải xứng đáng la con chim đầu đàn; phải hễ đánh là thắng; phải có nhiệm vụ cùng với cá binh đoàn chủ lực khác đi tiên phong trên con đường tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch?
    Tiếng hoan hô vang dậy lan xa đập vào vách núi dội lại càng làm cho không khí buổi lễ sôi nổi, náo nhiệt nhưng rất trật tự khi đại tướng Tổng tư lệnh bước xuống lễ đài thân mật trao cho tôi, thay mặt đại đoàn nhận lá cờ thêu hai chữ ?oChiến thắng?.
    Tôi hiểu rất rõ ý nghĩa phần thưởng nàu-tất cả cho chiến thắng.
    Và cũng thật nhanh, trong tâm khảm tôi lại trỗi dậy những suy tư muốn tâm sự với các đồng chí cán bộ, chiến sĩ trung đoàn Thủ đô nay là một thành viên của đại đoàn 308: các đồng chí hẳn còn nhớ khi chúng ta rút khỏi Thủ đô mang theo tâm trạng gì không? Chúng ta lưu luyến, chúng ta băn khoăn sao rút ra khỏi Liên khu I sớm thế, và bao giờ về lại Thủ đô? Thì hôm nay đây, chúng ta đã bắt đầu lần gỡ được câu trả lời. Hơn hai năm-từ tháng 2 năm 1947 đến tháng 8 năm 1949, chúng ta đã đi được một đoạn đường không ngắn lắm. Từ một trung đoàn Thủ đô ngày ra đi, mọi thứ đều thiếu thốn, hôm nay chúng ta đứng trong đội ngũ một đại đoàn. Nhận cờ Chiến thắng của Bộ trao cho, tôi đã hiểu và chắc các đồng chí cũng hiểu là phải chiến thắng và chỉ được phép chiến thắng. Đó là con đường về Thủ đô của chúng ta-Về trong chiến thắng.Đúng là ngày về phải là ngày Thủ đô chiến thắng quân thù mà chúng ta đã cùng với đồng chí đại tướng Tổng tư lệnh hứa hẹn quyết tâm trong buổi liên hoan ở làng Thượng Hội mừng trung đoàn Thủ đô hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu ở Liên khu I.
    Với một nước công nghiệp phát triển , việc lập một binh đoàn cơ động chiến lược chẳng phải là một chuyện gì khó khăn. Nhưng ở nước ta, từ tay không đứng lên chống chọi với đạo quân xâm lược nhà nghề của một đế quốc mạnh, bốn bề đang bị chúng bao vây, thì đây lại là một sự kiện lớn. Cũng vì thế mà toàn quân, toàn dân ta đều vui mừng, tự hào khi nhận được tin thông báo phát trên đài phát thanh, đăng trên báo: Đại đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta ra đời mang danh hiệu đại đoàn Quân Tiên Phong. Các chiến trường Khu III, Khu IV, Khu V, cực Nam Trung Bộ, đến Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ xa xôi, gửi về cho chúng tôi những bức điện, những lá thư mang theo những tình cảm tha thiết, chia vui với chúng tôi, chân thành, nhắc nhở chúng tôi, phải làm sao cho xứng danh đại đoàn chủ lực đầu tiên của toàn quân.
    ?o? Đại đoàn Quân Tiên Phong là tượng trưng, là hình ảnh sự trưởng thành của quân đội ta từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh? (trích thư một đơn vị Nam Bộ).
    ?oQuân Tiên Phong, con chim đầu đàn vừa xuất hiện đã làm chúng tôi vui sướng và tin tưởng biết chừng nào?, con chim ấy nhất định sẽ bay cao và bay xa, bay đi mãi, đi khắp chiến trường, khắp đất nước và làm cho quân thù phải khiếp sợ? (trích thư của một đơn vị Liên khu V).
    Tổng bộ ********* gửi tặng đại đoàn thanh kiếm mang tên ?oDân tộc?.
    Quốc hội tặng thanh kiếm khắc bốn chữ ?oMã đáo thành công?, chúc đại đoàn đánh đâu thắng đấy.
    Đáp lại tất cả những lời chúc mừng chân thành và đẹp đẽ đó, tôi thay mặt toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn. Đảng uỷ và Bộ chỉ huy đại đoàn, viết thư cảm ơn các cơ quan, đoàn thể, chính quyền, các đơn vị, nhắc lại lời hứa trong ngày lễ thành lập đại đoàn: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng; đẩy mạnh xây dựng đại đoàn lớn mạnh; đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị và mệnh lệnh của cấp trên; bất cứ nhiệm vụ gì trên trao cho cũng hoàn thành; khó khăn gì cũng tự khắc phục; đánh là thắng.
    Đại đoàn Quân Tiên Phong ra đời trong dịp kỷ niệm lần thứ IV cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám; giữa lúc cuộc Kháng chiến trường kỳ đã vượt qua mùa đông lạnh lẽo bước sang mùa xuân ấm áp. Tuy nhiên về thực lực thì đại đoàn mới sắp xếp biên chế được hai trung đoàn bộ binh tương đối hoàn chỉnh: trung đoàn 88 gồm ba tiểu đoàn bộ binh (tiểu đoàn 23, 29, 322) và một tiểu đoàn phóng pháo-tiểu đoàn 38 (gồm một đại đội 120mm và hai đại đội phóng pháo 187mm-Kiểu súng cối cỡ lớn do Quân giới ta sản xuất, nòng pháo là một ống oxygene, có đường kính 187mm, đạn tự chế tạo nặng 35kg, có sức công phá tương đối lớn, tầm bắn xa có hiệu quả tốt 2.000m) và trung đoàn 102-tức trung đoàn Thủ đô gồm ba tiểu đoàn bộ binh (tiểu đoàn 18, 54, 79) và một tiểu đoàn phóng pháo-tiểu đoàn 69 (gồm một đại đội 120mm và hai hai đại đội pháo 187mm).
    Vốn ban đầu tuy còn ít ấy nhưng vẫn không cản bước mọi người.
    Đảng uỷ và Bộ chỉ huy đại đoàn chúng tôi họp ha quyết tâm: động viên tất cả cán bộ, chiến sĩ dốc sức vào xây dựng, vừa xây dựng vừa chiến đấu, đưa đại đoàn tiến lên làm tròn nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang mà nhân dân và Tổ quốc giao phó.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mặt trận Biên giới
    Năm 1950, cuộc kháng chiến, cứu nước của nhân dân ta đã bước sang năm thứ 5.
    Cục diện chiến tranh lúc này đang chuyển biến mau lẹ có lợi cho ta. Từ năm 1948 đến năm 1950, ta mở 30 chiến dịch nhỏ trên khắp các chiến trường toàn quốc, tiêu diệt và tiêu hao một phần sinh lực địch. Trên chiến trường Việt Bắc (chỉ các tỉnh miền núi thuộc Liên khu Việt Bắc và Liên khu X hồi đó: Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn) sau chiến thắng thu đông năm 1947, ta lại liên tiếp thắng địch ở các chiến dịch Sông Lô (5-1949), Sông Thao (5-1949), Lê Lợi (11-1949) và chiến dịch Lê Hồng Phong I đầu năm 1950.
    Như thế là trải qua mấy năm đầu kháng chiến, nhân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Đầu năm 1950, Trung ương nhận định: thế của ta đã mạnh hơn hẳn địch về tinh thần và đang phát triển mạnh mẽ cả về thế lẫn lực. Thế và lực có liên hệ mật thiết với nhau. Thế mạnh có thể tạo nên lực mạnh. Thế và lực hợp lại sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp to lớn.
    Xuất phát từ nhận định tình hình một cách khoa học và biện chứng đó, Trung ương đã đề ra chủ trương ?ota cần chiếm ưu thế quân sự trên chiến trường chính? (Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ II của Đảng-họp từ 21-1 đến 2-2-1950) và ?oưu thế quân sự đó phải giữ vững và phát triển cho đến toàn thắng?. Trung ương còn đề ra nhiệm vụ quân sự trước mắt là phải ?oquét lực lượng địch ra khỏi miền biên giới Bắc Bộ?.
    Để thực hiện nhiệm vụ quân sự trước mắt kể trên, tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên Giới. Nhưng chọn khu vực nào để mở chiến dịch trên tuyến biên giới dài gần 1.00 kilômét từ Bát Sát-Lào Cai đến Móng Cái-Quảng Ninh, thì phải đến cuối tháng 7 năm 1950, Trung ương mới quyết định hướng chính là khu vực biên giới thuộc hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
    Để chuẩn bị cho chiến dịch ?ochỉ được thắng? này, ngay từ đầu năm 1950, Trung ương đã chỉ thị cho Liên khu uỷ Việt Bắc gấp rút chuẩn bị chiến trường Đông Bắc (Các tỉnh biên giới từ Cao Bằng, Lạng Sơn đến Quảng Ninh), cần làm tốt các việc như: ?ocủng cố, phát triển cơ sở chính trị và vũ trang?, ?ođiều tra địch?, ?ochuẩn bị lương thực tiếp tế cho bộ đội đến đánh? (Chỉ thị về mở chiến dịch Tây Bắc và chuẩn bị chiến trường Đông Bắc của Ban Thường vụ Trung ương Đảng). Cùng lúc Trung ương giao nhiệm vụ cho các địa phương trong toàn quốc phối hợp để kiềm chế địch, không cho chúng tiếp viện, đồng thời tiêu hao lực lượng chúng ở địa phương? (Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương về việc phát động ?otuần lễ thi đua giết giặc lập công?).
    Về mặt hậu cần, Trung ương đã huy động 121.700 dân công với 1.716.000 ngày công vào việc bắc cầu, sửa đường cũ, làm đường mới, vận chuyển 2.346 tấn gạo, 120 tấn thực phẩm, 200 tấn đạn dược v.v? (Dự thảo tổng kết chiến dịch Biên Giới-Học viện Quân sự) lên tận hoả tuyến phục vụ bộ đội chiến đấu.
    Từ giữa năm 1949, Bộ chỉ huy quân đội Pháp đặc biệt tập trung theo dõi hoạt động của ta ở vùng biên giới Việt-Hoa, chúng có phát hiện một phần nào dấu hiệu chuẩn bị hoạt động quân sự của ta ở vùng này. Nhưng do chỉ đạo hoạt động nghi binh khéo léo của Bộ Tổng chỉ huy ta, những cố gắng của địch vẫn dừng lại ở mức phán đoán sai về ta. Với chiến dịch Lê Hồng Phong I mở hồi tháng 2 năm 1950, ta đã tiêu diệt một phần sinh lực địch, mở ra một vùng giải phóng rộng hàng trăm kilômét vuông ở vùng sông Thao (Sông Hồng đoạn từ Phú Thọ-Lào Cai gọi là Sông Tháo); sau đó trong suốt tháng 3, đầu tháng 4, theo lệnh của Bộ, trung đoàn 102 vẫn ở lại vùng này để cùng phối hợp với bộ đội và dân quân Liên khu X tiếp tục hoạt động, càng làm cho Bộ chỉ huy quân đội Pháp sa vào chủ quan, không phán đoán được chính xác hoạt động quân sự của ta sẽ hướng vào đâu là chính trong thu đông tới. Cho đến đầu tháng 9, trong Bộ tham mưu quân đội Pháp vẫn tồn tại hai ý kiến không phân thắng bại:
    -Đối phương có thể đánh vùng biên giới Đông Bắc.
    -Đối phương có thể tiến công đánh chiếm Lào Cai.
    Thậm chí gần đến ngày chiến sĩ Biên Giới mở màn mà Tổng chỉ huy quân đội Pháp, tướng Các-păng-chi-ê-vẫn còn quả quyết rằng: ?o********* chỉ đủ sức mở cuộc tiến công ở phía Lào Cai thôi?.
    Như thế là đại đoàn 308 ra quân lần nay trong một bối cảnh có nhiều thuận lợi rất cơ bản. Niềm vui chiến thắng của chiến dịch Lê Hồng Phong I mà trung đoàn Thủ đô được tham dự góp phần tạo nên cùng với không khí phấn khởi, tin tưởng, tự hào của buổi lễ thành lập đại đoàn vẫn đang hun nóng bầu nhiệt huyết mọi người hăng hái vượt lên phía trước. Và điều quan trọng có ý nghĩa thắng lợi giòn giã của chiến dịch đã được Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy lo liệu một cách khá cụ thể và rất chu đáo.
    Cuối tháng 4 năm 1950, theo lệnh của Bộ, hai trung đoàn 88 và 102 do anh Cao Văn Khánh chỉ huy ngược lên phía thượng nguồn sông Lô. Thật ra đây là cuộc hành quân mở đầu đi vào chiến dịch nhưng lúc đó chúng tôi không được trên phổ biến trước, mà chỉ được giao nhiệm vụ di chuyển đến địa điểm mới để tiến hành huấn luyện quân sự theo chương trình thống nhất do Bộ quy định?
    Mùa luyện quân qua đi rất nhanh. Tiết trời bắt đầu chuyển dần sang thu. Nước thượng nguồn sông Lô bớt hung dữ, đã trở lại tốc độ chảy hiền lành. Trong lúc cán bộ, chiến sĩ đanh ?othi đua? trổ tài ?otham mưu con? phán đoán, phân tích để cuối cùng đều có chung một khẳng đinh: thu đông này, chắc lại hướng về Lào Cai, thì Bộ ra lệnh tiếp tục hành quân theo hướng Đông.
    Thượng tuần tháng 8, đại đoàn qua Lũng Cú-Đông Văn-điểm cực bắc của Tổ quốc.
    Từ đây, đại đoàn lại thực sự bước vào một cuộc thử thách mới với thiên cay nghiệt hiếm thấy ở những nơi trước đó đại đoàn đã đi qua.
    Đội hình hành quân lúc thì phải vạch lối tìm đường vượt qua những dáy núi cỏ gianh, lau sậy lút đầu người, hầm hập hơi nóng mặt trời; khi thì phải trườn theo những con đường mon đầy nguy hiểm vừa đủ người đi vắt qua những dãy núi đá trùng điệp, một bên là vách đứng, một bên là vực thẳm, trước mặt là Cổng Trời (là những đèo qua hai hẻm núi, từ xa nhìn tựa như cái cổng thiên nhiên hùng vĩ. Đồng bào địa phương gọi là Cổng Trời) sừng sững, v.v?
    Tất cả những thử thách đó đều đã vượt qua. Chính trên con đường đầy gian khổ và hiểm nghèo này, không khí lạc quan, phấn khởi lại rộ lên, vì ai nấy thấy hướng mình phải đi, đích mình cần tới. Mọi người cười nói râm ran và tự do bình luận:
    -Đây là con đường thông minh.
    -Trung ương Đảng ta tài giỏi thật.
    -Nước cờ ta đi thật cao.
    -Thằng Tây chuyến này hết đường chạy, v.v?

Chia sẻ trang này