1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sư đoàn 308

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoaian1982, 16/01/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thực ra thì ngay cả cấp trên của Ti-ri-ông, tướng Sa-lăng cũng hoàn toàn bất ngờ. Sau khi ta chiếm Nghĩa Lộ, mở tung cửa ngõ vào Tây Bắc, tư lệnh quân viễn chinh Pháp mới biết Tây Bắc là hướng chính của ta trong thu đông năm 1952. Và phải qua ngày 18 tháng 10, bộ tham mưu quân đội Pháp mới biết rõ tại hướng này ta tập trung một lực lượng rất mạnh gồm ba đại đoàn bộ binh 308, 312, 316 và đại đoàn công pháo (công binh và pháo binh) 351. Nhưng biết thì đã muộn. Mà đã muộn thì càng phải bị động đối phó để chuốc thêm thất bại.
    cuối tháng 10, qua hơn mười ngày kể từ hôm giải phóng Nghĩa Lộ, các cánh quân của ta đã quét sạch địch trên một khu vực rộng lớn giữa sông Thao với sông Đà, từ Quỳnh Nhai trên phía Lai Châu xuống đến Vạn Yên đối diện với Yên Châu, Mộc Châu. Tây Bắc có bốn vựa thóc thì ba đã về ta: Nghĩa Lộ, Quang Huy, Than Uyên. Trước biến chuyển mới, tướng Sa-lăng chủ trương cứu vãn tình thế bằng cách mở một cuộc hành quân lớn từ Việt Trì (ngã ba sông Thao-Sông Lô) và từ Trung Hà (hạ lưu sông Đà) đánh lên Phú Thọ, Yên Bái nhằm phá hoại hậu phương chiến dịch của ta, hy vọng có thể buộc chủ lực ta phải quay trở lại và như thế, sức tiến công vào Tây Bắc sẽ giảm đi.
    Sa-lăng trao cho Đờ Li-na-rét, tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân cứu nguy mang tên Lo-ren này, lực lượng đông tới 30.000 tên.
    Ngày 3 tháng 11, quân Pháp chiếm thị xã Phú Thọ, ngày 9, nhảy dù chiếm Đoan Hùng và sau đó thọc lên Yên Bái, vẫn không gặp phản ứng gì lớn của ta.
    Trong những ngày địch hối hả mở cuộc hành quân Lo-ren, ồ ạt đánh lên hậu phương ta, thì các đơn vị chủ lực của ta vừa chiến thắng ở tả ngạn sông Đà vẫn tiếp tục chuẩn bị bước sang đợt hai của chiến dịch. Riêng trung đoàn 36 được lệnh quay trở về Phú Thọ.
    Mọi cuộc chia tay đều bịn rịn. Nhưng cuộc chia tay này không có kẻ ở người đi. Hôm ấy là nagỳ 9 tháng 11, cả đại đoàn đang dàn thành một tuyến dài từ Thu Cúc (Phú Thọ), qua Quang Huy (Sơn La) với những hoạt động sôi nổi khẩn trương, trận tuyến tấp nập như một ngày hội: có đơn vị sửa đường; có đơn vị tải gạo, cố chuyển 150 tấn gạo ra bờ sông Đà, v.v? Trung đoàn 36 đi ngược đường tải gạo. Hai bên gặp nhau reo hò vang động, chúc nhau ?ochiến thắng?. Ai cũng biết địch đã đề phòng ráo riết, nhưng ai nấy đều quyết tâm, cố gắng thực hiện đúng phương hướng chỉ đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch, nhất định sẽ giành thắng lợi lớn hơn đợt đầu chiến dịch, bởi vì quyền chủ động hoàn toàn thuộc về ta.
    Ngày 15 tháng 11 mở màn đợt hai của chiến dịch.
    Đại đoàn 308 cùng với các đại đoàn bạn nhanh chóng vượt qua sông Đà đánh vào khu vực phòng thủ của địch ở cao nguyên Mộc Châu.
    Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ xuyên thủng quãng giữa phòng tuyến Lăng-xát-đơ (phòng tuyến địch lập ra ở hữu ngạn sông Đà do tên quan năm Lăng-xát-đơ chỉ huy nhằm ngăn chặn ta từ tả ngạn đáng sang), đánh qua Mường Lụm ra đường số 41, cắt đứt liên lạc của địch giữa Yên Châu và Mộc Châu (những đơn vị hành chính ở miền núi tương đương với cấp huyện do địch lập ra ở Sơn La), đồng thời hình thành một lưới vây bắt gọn những tàn binh của cho đoàn Ru-két, khi chúng bị các đại đoàn bạn đánh bại ở Bản Hoa, Ba Lay và Châu Mộc.
    Cuộc hành quân ra bờ sông Đà thật gian nan vất vả. Đèo Phiêng Pan không cao lắm nhưng dốc ngược. Công binh đã cố gắng đào bậc, có chỗ làm cả tay vịn, nhưng bộ đội mang vác rất nặng nào súng đạn, nào gạo nước, lại còn lỉnh kỉnh những ống bương ngắn để làm phao cá nhân, những bó nứa để làm mảng chở vũ khí, lương thực, nên vượt Phiêng Pan như anh em nói ?olà cả một cuộc bò lên bằng hai chân hai tay và tụt xuống bằng mông là chính, trượt ngã mười lăm cái vẫn chưa phải là nhiều?. Cũng nơi này, anh em đã sửa lại câu hò quen thuộc ?ođèo cao thì mặc đèo cao, quyết tâm diệt giặc còn cao hơn đèo? thành một câu khác mà anh em bảo là ?onghe khí phách hơn?: ?oĐèo cao thì mặc đèo cao, ta leo đến đỉnh ta cao hơn đèo?. Qua Phiêng Pan tới bờ sông Đà, nơi chúng tôi chọn làm bến vượt sông là nơi hoang vu, chẳng có lấy một vệt đường mòn.
    Rạng sáng ngày 17 tháng 11, chúng tôi đến bờ sông Đà, thượng lưu con sông này, đoạn chảy qua Lai Châu và Sơn La vốn nổi tiếng hung dữ, lắm ghềnh nhiều thác. Lòng sông hẹp, độ sâu luôn luôn thay đổi tạo nên những dòng nước chảy xiết. Hai bêb núi cao đứng thành vại, kẹp lấy lòng sông. Thỉnh thoảng mới có một cái bến hẹp cập được đôi ba mạn thuyền mỏng manh đuôi cao vút, gọi là thuyền đuôi én. Những chỗ ấy nước chảy không hung dữ nhưng tất nhiên đấy là những nơi kẻ địch không rời mắt.
    Ngày 17 tháng 11, đúng ngày mở đầu đợt hai của chiến dịch Tây Bắc, có một sự phối hợp tuyệt đẹp giữa mặt trận Phú Thọ và mặt trận sông Đà. Trung đoàn 36 giành một chiến thắng giòn giã ở đường số 2, quàng Chân Mộng-Trạm Thản. Đòn bất ngờ và rất mạnh của trung đoàn 36, đánh suốt cả ngày 17 tháng 11 thu hút phần lớn máy bay địch về phía mặt trận ấy, nhờ đó mà ở sông Đà này chúng tôi có điều kiện thuận lợi được thảnh thơi, chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc vượt sông.
    Như đã kẻ ở phần trên, sau khi bị mất phân khu Nghĩa Lộ, Sa-lăng hoảng hốt, lệnh cho Đờ Li-na-rét đem 30.000 quân đánh lên vùng tự do Phú Thọ-Yên Bái nhằm kéo chủ lực ta phải quay về giữ căn cứ, sẽ cứu nguy cho tuyến phòng thủ còn lại của chúng ở Tây Bắc không bị uy hiếp tiến công.
    Nhưng cuộc hành quân tốn kém đó đã đánh vào chỗ không người. Ngày 14 tháng 11, Đờ Li-na-rét cho một mũi thọc lên Yên Bình-thị trấn này cũng trống không, thì cũng là lúc Bộ tham mưu quân đội Pháp nhận ra nguy hiểm, cấp tốc lệnh rút quân ngay, mặc dầu từ Yên Bình đến thị xã Yên Bái chẳng còn bao xa mà Yên Bái mới là cái đích phải tới của cuộc hành quân Lo-ren.
    Bộ Tổng tư lệnh đã biết trước ?onước cờ? mà địch phải đi, nên rất chủ động chỉ đạo các chiến trường nhịp nhàng hoạt động theo kế hoạch đã định. Nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ nhân thời cơ thuận lợi đẩy mạnh hoạt động. Tại Tây Bắc, các đại đoàn chủ lực đang đi vào giai đoạn chót của công việc chuẩn bị vượt sông Đà để làm nhiệm vụ đợt hai của chiến dịch. Cuộc hành quân Lo-ren không cứu nguy cho tuyến phòng thủ Tây Bắc, và bản thân nó càng gặp khó khăn về tiếp tế vì đã vào quá sâu vùng tự do của ta? Không có cách nào khác, buộc Sa-lăng phải hạ lệnh lui quân.
    Trưa 16 tháng 11, trung đoàn trưởng Hồng Sơn nhận được điện tối khẩn của Bộ Tổng tư lệnh: ?oĐịch bắt đầu rút, tìm cách đánh ngay?. Đồng thời một phái viên của mặt trận Phú Thọ đến gặp đồng chí Hồng Sơn cho biết tình hình cụ thể: Địch đã rút khỏi Yên Bình về Phủ Đoan. Lúc ấy, trung đoàn 36 đang giấu quân ở vùng Tăng Mỹ, phía nam Phủ Đoan. Đồng chí Hồng Sơn và chính uỷ Lê Linh bàn bạc chớp nhoáng cùng hạ quyết tâm phục kích đánh địch rút lui trên quãng đường Chân Mộng-Trạm Thản và phải gấp rút tổ chức để có thể đánh ngay từ sớm ngày hôm sau, nếu chậm sẽ mất thời cơ, để địch lọt qua Chân Mộng-Trạm Thản ta sẽ khó đánh vì dưới ấy địa hình trống trải.
    Chân Mộng-Trạm Thản, một khu vực phục kích lý tưởng trên đường số 2. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 36 từng đi lại nhiều lần trên quãng đường này. Hai rặng núi và đồi thắt lại hai đầu bọc kín một cái thung lũng hẹp và dài gần bốn kilômét, những cánh rừng già lấn đến ven đường cái, những nương sắn xanh um mọc la liệt trên các vạt đồi là những tấm màn nguỵ trang kín đáo che chở cho bộ đội mai phục. Nhưng chính nơi đây địch cắm ba cứ điểm Vân Mộng, Chân Mộng, Năng Yên án ngữ các ngả đường đi tới mà trung đoàn 36 chỉ có một đêm để dàn thế trận. Cái khó lớn nhất là tìm ra đường đi tránh được các cứ điểm địch và phải đi nhanh, đến ngay đúng nơi cần đến. Song ta có dân nên cái khó ấy lại chẳng thành vấn đề.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    5 giờ 17 tháng 11, trung đoàn 36 chiếm lĩnh xong trận địa phục kích, nằm gọn trong phạm vi ba đồn địch: Vân Mộng, Chân Mộng, Năng Yên.
    Ngày 17 tháng 11, địch rút khỏi Phủ Đoan. Đến Chân Mộng chúng dừng lại xem xét tình hình cái ?othung lũng nguy hiểm?, sục sâu vào các khu rừng một cách dè dặt và rất thận trọng.
    Bộ đội ta chấp hành mệnh lệnh rất nghiêm. Địch sục vào đến đâu thì ở đó lặng lẽ lùi lại, tránh ra, tuyệt đối không nổ súng. Sở chỉ huy trung đoàn đặt ở phía sau trận địa tiểu đoàn 89 cũng bị một toán địch mò vào sát sườn, phải rút lên cao. Tiểu đoàn 89 căng thẳng nhất. Địch quay được một tổ cảnh giới của tiểu đoàn, chúng nổ súng. Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Chương và chiến sĩ Lê Văn Hiến bị bắt. Anh em tiểu đoàn 89 trông thấy địch tra khảo các đồng chí của mình ngay trên mặt đường số 2. Chương bị thương nặng, địch đánh thế nào cũng lặng thinh, đau quá ngất đi. Địch vứt Chương lên xe rồi uy hiếp Hiến. Chúng chỉ muốn biết một điều, có phải Hiến ?olà quân của đơn vị chủ lực mới từ Nghĩa Lộ trở về Phú Thọ không??. Nhưng không, bao nhiêu quả đấm, cái đá, bao nhiêu đòn hiểm của chúng giáng vào thân hình bé nhỏ của Hiến đều chỉ bật ra một lời: ?oTao là du kích xã Năng Yên này?.
    Các đồng chí Nguyễn Văn Chương, Lê Văn Hiến đã giữ vững lời thề ?oKhi ra trận nếu bị quân địch bắt được thì dù cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng trung thàn với sự nghiệp giải phóng của toàn dân, không bao giờ cung khai phản bội?. Các đồng chí ấy là những người lập công đầu tiên trong trận Chân Mộng-Trạm Thản ngày 17 tháng 11 năm 1952.
    Suốt từ 7 giờ 30 phút đến 9 giờ, tên đại tá Kéc-ga-ra-vát vẫn rất thận trọng chỉ huy cuộc lùng sục chung quanh thung lũng Chân Mộng-Trạm Thản, tình hình vẫn yên tĩnh, không thấy dấu hiệu gì nguy hiểm, hắn nhảy lên xe, cho lệnh hành quân. Ngoài đường số 2, xe nổ máy ầm ầm, bộ binh địch lúc nhúc bám theo xe. Đơn vị đầu tiên của địch vào thung lũng Chân Mộng còn thận trọng, Kéc-ga-ra-vát và cơ quan chỉ huy của hắn cũng đi với đơn vị ấy. Tiếp đến tiểu đoàn lê dương. Bọn này yên trí ?ođầu đi đuôi lọt? chẳng phòng bị gì. Lính ngồi trên xe phì phèo thuốc lá. Lính đi bộ lộn xộn chỗ hàng hai hàng ba, chỗ túm tụm vừa đi vừa đùa. Nhưng chỉ mấy phút sau, đội quân đó đã bị chặt ra từng mảnh, chúng đạp lên nhau mà chạy để dồn nhau vào chỗ chết, vào chỗ bị bắt làm tù binh.
    Suốt ngày 17 tháng 11, tại Chân Mộng-Trạm Thản, trung đoàn 36 đánh thắng hai trận, diệt hơn 400 địch, phá huỷ 44 xe, tạo điều kiện tốt cho ta bước sang đợt hai chiến dịch giải phóng Tây Bắc.
    Lú trung đoàn 36 đánh thắng trận thứ hai trong ngày, đuổi địch trên một chặng đường dài 8 kilômét từ Trạm Thản xuống tới Phú Hộ, thì ở mặt trận chính Tây Bắc, quân ta đang vượt sông Đà thắng lợi.
    Các đơn vị vượt sông Đà khắc phục mọi khó khăn, chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh chiến đấu của Bộ Tổng tư lệnh. Liên tiếp trong ba ngày 17, 18 và 19 tháng 11, ta đã phá tan phòng tuyến hữu ngạn sông Đà của địch.
    Sáng 19 tháng 11, Bộ chỉ huy đại đoàn họp nhận định: phòng tuyến sông Đà của địch đã bị phá tan. Thế trận của địch đang bị rung chuyển mạnh mẽ, có thể chúng rút bỏ Yên Châu, Chiềng Đông, kéo lên phía Sơn La.
    Đại đoàn quyết định:
    -Trung đoàn 88 phải gấp rút tiến lên bao vây Yên Châu, tiến tới công kích tiêu diệt cứ điểm này.
    -Trung đoàn 102 chẹn giữ các ngả đường từ Mường Lụm đến Na Ngà, Bản Thìn bắt hết những toán tàn quân của hai chi đoàn Ru-két và Bét-thơ-nô đã bị tan vỡ.
    Đêm ấy trung đoàn 88 vất vả nhất, đặc biệt là đại đội 219 phải đi vòng lên phía bắc Yên Châu đóng một cái nút. Trung đoàn phó Nam Hà giao nhiệm vụ cho đại đội 219: Hoan nghênh tinh thần truy kích của 219. Các đồng chí đã vượt lên trước, đánh tan một đại đội địch, dẫn đầu cuộc truy kích tới đây. Tinh thần địch đang suy sụp, Yên Châu là một cứu điểm lớn, nhưng có khả năng địch sẽ bỏ chạy. Bởi lẽ đó 219 phải vòng lên phía bắc Yên Châu chẹn đường rút lui của địch?
    Đại đội 219 lên đường ngay.
    Đêm hôm đó, sáng trăng, đường số 41 thênh thang, quân ta chạy rầm rập suốt quãng đường từ Na Ngà lên đến nam Yên Châu. Ai cũng muốn đến Yên Châu cho sớm. Tiếng súng của đại đoàn 316 từ dưới Mộc Châu vọng tới càng thôi thúc đại đoàn 308 tiến gấp lên Yên Châu kẻo bỏ lỡ thời cơ. Nhìn đoàn quân đêm nay đi dưới trăng, nườm nượp súng to súng nhỏ, chúng tôi lại nghĩ đến những đoàn quân Tây tiến năm xưa xuất phát từ Xuân Mai, cũng cuốc bộ ngược đường số 6 lên trấn giữ Sơn La, nhưng đoàn quân nghèo nàn thiếu thốn, chỉ thấy người mà ít thấy súng, chỉ có một loại súng trường thôi mà dài ngắn khác nhau đủ kiểu cổ lỗ. Bảy năm đã trôi qua, ta lớn lên vùn vụt.
    Đêm hôm đó, đối với hầu hết anh em trong đại đoàn chúng tôi, là lần đầu tiên đặt chân lên đường 41. Nhưng với đồng chí chính uỷ đại đoàn thì đã có nhiều kỷ niệm khó quên về con đường này. Lúc từ Mường Lụm đi ra, vừa đặt chân lên đường 41 tôi thấy đồng chí đứng sững lại nhìn đất, nhìn trời, nhìn quang cảnh hai bên đường, vẻ mặt xúc động. Được biết năm 1940 đồng chí bị sa lưới bọn mật thám Pháp ở Nam Định, sau đó chúng đẩy đồng chí lên nhà ngục Sơn La, xuống Hoà Bình, qua nhà lao Hà Nội rồi lên nhà pha Chợ Chu-Thái Nguyên. Thế là đã 10 năm qua, nay lại gặp đường 41. Đồng chí Song Hào nói: ?oCũng trên con đường rất vắng vẻ này bọn Pháp đã giải từng đoàn tù chính trị hai tay xích chặt, lê từng bước chân nứt nẻ đẫm máu. Hồi ấy chúng tôi vẫn luôn luôn nghĩ tới một ngày mai thắng lợi, tươi sáng. Nhưng ai có thể hình dung ra cái cảnh tượng hùng vĩ như hôm nay, quân ta đuổi địch với cái thế chẻ tre như thế này??.
    Đêm hôm đó, thật là một đêm khó quên, trăng rực sáng mừng đêm hội chiến thắng đợt hai chiến sĩ Tây Bắc. Hệ thống phòng thủ của địch trên đường só 41 rung chuyển dữ dội. Phía cuối đường, trung đoàn 174 của đại đoàn 316 tiêu diệt cứ điểm Mộc Châu. Phía trên trung đoàn 165 của cánh quân vu hồi chiến dịch từ Lai Châu do đồng chí Bằng Giang, tư lệnh trưởng khu Tây Bắc chỉ huy đánh thốc xuống Tuần Giáo đang phát triển xuống Thuận Châu, Sơn La. Ở quãng giữa, trung đoàn 88 đã áp sát Yên Châu.
    Ta tiến công tiêu diệt, tàn quân địch số bị bắt, số cắm đầu cắm cổ rút chạy như ong vỡ tổ.
    Địch rút về tập trung ở Nà Sản-nam thị xã Sơn La 20 kilômét. Đó là một cáu thung lũng rộng một kilômét, dài hai kilômét, giữa có một sân bay và 24 ngọn đồi bao nọ chung quanh.
    Quá trưa ngày 23 tháng 11, tiểu đoàn 322 dẫn đầu đội hình truy kích vượt qua Hát Lót với Nà Sản. Anh em quan sát thấy địch tập trung trong thũng lũng này khá đông, lều vải căng la liệt, quân lính đi lại lộn xộn, lại thấy có nhiều chuyến máy bay vận tải lên xuống sân bay. Một câu hỏi được đặt ra: Địch co lại đây để rút về Hà Nội hay cụm lại chống giữ? Cuộc trao đổi giữa các đồng chí chỉ huy trung đoàn 88 và tiểu đoàn 322 nhanh chóng thống nhất ý kiến: Địch đang ở thế bại. Ta cần tranh thủ đánh ngay, đánh để điều tra thực lực và ý định của chúng. Ngay đêm ấy, được sự hướng dẫn của đồng chí tỉnh uỷ viên Sơn La và một số cán bộ địa phương, tiểu đoàn 322 chia làm ba mũi tiến công vào Nà Sản, đánh đến gần sáng tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên địch mà thấy chúng vẫn còn đông nhung nhúc. Cán bộ ta hỏi cung tù binh: quân Nà Sản có bao nhiêu? Mấy tiểu đoàn? Ở đâu tới? Máy bay lên xuống suốt ngày chở những gì? Đứa trả lời tất cả, đứa nói được vài câu, tổng hợp tất cả những lời khai của tù binh, lúc đó chúng tôi hiểu về tình hình địch ở Nà Sản như sau:
    Địch có khoảng sáu đến bảy tiểu đoàn từ Cò Nòi, Sơn La tập trung về, từ Hà Nội tăng viện lên. Máy bay từ Hà Nội lên chở đồ tiếp tế, lúc về chở lính bị thương và gia đình bọn nguỵ. Như vậy, địch không rút mà co quân lại, tăng viện thêm thiết lập ?opháo lũ Nà Sản? ta goi là tập đoàn cứ điểm Nà Sản.
    Nhớ lại mới hôm nào chúng tôi vừa rời Mậu A sang hữu ngạn sông Hồng đã phải thận trọng như đi vào đất địch, chỉ tháng trước tháng saui thôi mà phần lớn đất đai của miền Tây Bắc rộng mênh mông đã trở về ta. Tin vui đến dồn dập. Hồi đánh trận ở Cao Bằng, Bác Hồ chỉ thị ?oTrận này chỉ cho đánh thắng?. Quân ta đã thắng rất to, song tại nhiều nơi do sức chấn động của đòn Cao Bằng, thế địch rung chuyển phải tháo chạy, quân ta đuổi cũng không kịp chứ chưa nói đến chuyện nắm thời cơ, lợi dụng cơ hội ấy mà phát huy thắng lợi. Nhưng đến thu đông năm 1952, chấp hành mệnh lệnh của Bác Hồ ?otiến quân vào giải phóng Tây Bắc? ngay trận đầu ở Nghĩa Lộ mở cửa ngõ Tây Bắc, quân ta đã vượt hết khó khăn trở ngại, khôn khéo giành yếu tố bất ngờ giáng cho địch một đòn choáng váng, rồi đánh dồn dập không cho địch kịp trở tay, đuổi kịch liệt, không cho chúng kịp thở.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đợt một của chiến dịch, ta bắt sống phần lớn lực lượng địch bị ta vỡ ở bên tả ngạn sông Đà.
    Đợt hai của chiến dịch, do ta thực hiện bao vây, chia cắt tốt, truy kích mạnh mà quây bắt được hầu hết quân địch bị tan vỡ ở phía nam Nà Sản. Riêng một tiểu đoàn của trung đoàn 102 quét ở khu vực Mường Lụm bắt hơn 650 tù binh, trong đó có viên quan tư Ru-két chỉ huy trưởng đoạn phòng ngự cứng nhất của phòng tuyến sông Đà. tại Yên Châu, trung đoàn 88 đánh tan tác tiểu đoàn nguỵ số 55, Bruy-nô viên quan ba chỉ huy tiểu đoàn này cũng một số luồn rừng chạy trốn, bọn hắn định tạt sang châu mai Sơn rồi cùng đồng bọn rút về Nà Sản, nhưng trung đoàn 88 thọc nhanh đến bao vây Nà Sản trước, Bruy-nô cùng bè lũ phải nộp súng xin hàng. Ngày 18 tháng 11, thị xã tiến công đồn Ba Lay (nằm trên đường Vạn Yên, Mộc Châu). Sau 40 phút, ta diệt gọn đại đội 10 Ma-rốc và đại đội 295 nguỵ Thái. Tên quan ba Bai-út chỉ huy đồn khét tiếng gian ác đã bị bắt sống. Khi ta vào đồn, một lính Thái bị bắt làm tù binh, khóc lóc kể lại số phận chua chát của những người đồng ngũ của anh ta: cách đây bảy hôm có 20 lính Thái định bỏ đồn ra hàng bộ đội, quan đồn biết đã bắn chết 16 người rồi chôn xuống cùng một cái hố và bắt vợ con những người chết này mang cho lính Tây ở đồn cao hãm hiếp rất dã man? Thực ra đấy chỉ là một trong nhiều chuyện bi đát của những người lính đánh thuê mà chúng tôi đã được nghe kể kế hoạch vượt sông Đà vào giải phóng Tây Bắc.
    Ở phía bắc Nà Sản, cánh quân vu hồi chiến dịch đã làm nên một chuyện thần kỳ, chỉ có mấy ngày quét sạch địch trên một đoạn dài gần 200 kilômét, suốt dọc đường 41, từ nam thị xã Lai Châu qua Tuần Châu, Tuần Giáo Thuận Châu xuống đến bắc Nà Sản, diệt hơn một nghìn tên địch, lại phóng một mũi thọc sâu vào giải phóng Điện Biên Phủ tiêu diệt một tiểu đoàn nguỵ, bắt sống viên quan tư Giăng Xi-ca, chiếm lấy cánh đồng Mườg Thanh lớn nhất miền Tây Bắc.
    Chiến dịch Tây Bắc kết thúc ngày 10 tháng 12 năm 1952.
    Đầu xuân năm 1953, tại hậu cứu của đại đoàn ở vạt rừng Phú Thọ, gần đường số 2, quãng Chân Mộng-Trạm Thản (nơi mà hồi trung tuần tháng 11 năm 1952, trung đoàn 36 đã lập công xuất sắc, góp phần đánh bại cuộc hành quân Lo-ren của địch), chúng tôi được hưởng một ngày vui lớn: Bác Hồ đến thăm.
    Bấy giờ, Tết âm lịch vừa qua được một tuần, đại đoàn đang họp hội nghị cán bộ để tổng kết chiến dịch Tây Bắc, thì Bác Hồ đến, vào lúc nửa đêm.
    Bác không báo trước, xuống xe ở đường số 2, rồi theo đường tắt, Người chống gậy vượt đồi đi vào.
    Tất cả chúng tôi lúng túng vì bị bất ngờ và nhất là vì xúc động, không biết mình phải làm gì lúc đó. Ngoài trời rất tối rét, buốt lại kèm theo mưa dầm nặng hạt. Bác xắn quần đến đầu gối, tay chống chiếc gậy trúc, bùn đất bắn đến nửa ống chân.
    Biết tôi đang lúng túng, Bác chủ động kéo tôi ngồi xuống. Bác cháu ngồi quanh đống lửa, rồi Bác hỏi thăm tình hình đại đoàn?
    Sáng hôm sau, Bác Hồ dậy sớm như thường lệ, suốt cả buổi, bác nghe chúng tôi báo cáo tình hình bộ đội, và đặt ra cho chúng tôi những câu hỏi rất cụ thể: Nói bộ đội ăn khá là như thé nào? Ngủ tốt là thế nào, giường làm bằng gì, lán làm có cao ráo không? Bộ đội có ngại đi chiến đấu ở rừng núi không? Đi đánh xa có ngại nữa không??
    Người cho chúng tôi biết miền Tây vẫn là hướng địch sơ hở và yếu, mà chúng lại không thể bỏ được. Người chỉ thị cho chúng tôi phải nghiên cứu cách đánh tập đoàn cứ điểm?
    Buổi chiều, Bác Hồ đi thăm chỗ ăn, chỗ ở của cán bộ và chiến sĩ trong cơ quan đại đoàn bộ. Người lại hỏi:
    -Ở dưới trung đoàn, tiểu đoàn, lán của chiến sĩ có tốt, ấm cúng như ở đại đoàn bộ không?
    Người gật đầu hài lòng khi nghe chúng tôi báo cáo:
    -Thưa Bác, có nhiều lán của tiểu đội còn tốt hơn, lại đẹp hơn nữa, vì chiến sĩ khéo tay lắm.
    Rồi Người lại nhắc:
    -Bác muốn các nơi đều được như nhau, cũng ấm cúng, tốt, đẹp cả?
    Tù buổi sáng, các cán bộ dự hội nghị tổng kết đã xì xào truyền nhau tin: Bác đến, Bác đang làm việc với Bộ chỉ huy đại đoàn? ông cụ đã 63 tuổi, hơi gầy, tóc bạc nhiều, nhưng khỏe mạnh lắm, bước đi vẫn nhanh hẹn, v.v?
    Hôm ấy hội nghị không làm việc tập trung, mà thảo luận ở các tổ, ai nấy cứ ngong ngóng đợi có lệnh triệu tập lên hội trường, vì có lệnh đó là chắc chắn được gặp Bác. Anh em nhắc đến lần trước, sau chiến dịch Biên Giới, Bác đến gặp đại đoàn ngay tại chiến trường, tại Thất Khê vừa mới được giải phóng. Lần này, ai cũng nghĩ: chắc Bác sẽ giao cho đại đoàn một nhiệm vụ gì đây.
    Đúng là đại đoàn chúng tôi sắp nhận một nhiệm vụ quan trọng. Bác Hồ đến trực tiếp nắm tình hình bộ đội và chỉ thị cho chúng tôi phải nhanh chóng có kế hoạch khắc phục những điểm yếu về tư tưởng, về tác phong chỉ huy và về kỷ luật chưa thật nghiêm, v.v? Nhiệm vụ cụ thể còn tuyệt đối giữ bí mật. Với bộ chỉ huy đại đoàn, Bác cũng chỉ nói: Phải chuẩn bị ngay cho bộ đội có thể hoàn thành nhiệm vụ trong điều kiện khó khăn, phức tạp hơn Tây Bắc.
    Tối hôm ấy, hầu hết cán bộ trong đại đoàn từ cấp đại đội trở lên được đón Bác Hồ với những bài hát do các đồng chí Nguyễn Thành và Ngô Sĩ Hiền mới sáng tác. Trên một bãi cỏ rộng bên đồi chè quen thuộc của đất Phú Thọ, chúng tôi quây quần quanh Bác Hồ, hát rất say sưa:
    ?o? Qua miền Tây Bắc, núi vút ngàn trùng xa; suối sâu, đèo cao bao khó khăn vượt qua, bộ đội ta vâng lệnh Cha Già??.
    ?o? Miền Tây Bắc tưng bừng tin chiến thắng
    Chiến công đầu dâng Cha Già kính yêu??.
    Bác cười đôn hậu, gật đầu theo nhịp hát.
    Bài hát kết thúc trong tiếng vỗ tay vang xa, phá tan bầu không khí yên tĩnh của khu rừng cọ.
    Bác nói: giờ văn nghệ đã hết ta chuyển sang việc khác. Nói rồi Bác ngồi vào bên ngọn đèn dầu tự chế bằng sắt đồ hộp chiến lợi phẩm, không được sáng lắm. Bác bắt đầu nói chuyện.
    Giọng đầm ấm, đầy tình thương yêu trìu mến, Bác nói:
    -Chiến dịch Tây Bắc ta thắng to. ?oTrung ương Đảng, Chính Phủ và Bác bằng lòng các chú, lần này chưa phải hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước?. ?oCác chú đã thấm nhuần quyết tâm của Trung ương Đảng, đã đưa quyết tâm ấy làm cho chiến sĩ thấm nhuần và ra sức tiêu diệt sinh lực địch. Các chú đã vui vẻ chịu đựng gian khổ, khắc phục được nhiều khó khăn?.
    Tiếp đó Bác nêu những khuyết điểm mà đại đoàn đã mắc phải trong chiến dịch này. Khác với lúc sáng, khi làm việc với Bộ chỉ huy đại đoàn, bác nhiêm khắc phê phán những khuyết điểm. Nét mặt hiền từ chỉ lộ vẻ không bằng lòng với những thiếu sót, nhưng mỗi lần nhắc đến một khuyết điểm, Người thận trọng hỏi lại: có phải thế không? Các chú có thế không?
    Liền sau đó, Bác lại ôn tồn nêu cho chúng tôi ba phương hướng sửa chữa:
    1.Phải cố gắng học tập, sự học và vô cùng. Hoàn cảnh xã hội ngày một phát triển, ngày một có những cái mới. Không học sẽ lạc hậu. Già như Bác vẫn còn phải học.
    2.Phải nêu cao tinh thần trách nhiệm với bất cứ việc lớn việc nhỏ của Đảng và Chính phủ giao cho.
    3.Phải cố gắng tự phê bình và phê bình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm?
    Cuối cùng Bác vui vẻ báo tin:
    -?oLần này 308 được giải thưởng của Bác, 308 phải luôn luôn giữ danh dự đó, quyết thi đua giết giặc lập công nhiều hơn nhưng không được tự kiên tự mãn??.
    Trước chiến dịch Bác đến động viên, căn dặn phải ?oquyết tâm?. Sau chiến dịch Bác đến chia vui chiến thắng với cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn. Bác chăm lo mọi thứ cho đại đoàn.
    Tôi thay mặt anh em đứng lên hứa với Bác: Thực hiện đúng các điều Bác dạy. Khi được lệnh ra trận, bất cứ ở nơi nào cũng quyết tâm chiến đấu tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, lập nhiều chiến công để xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, của Bác và của nhân dân.
    Bác nhận lời hứa, trao cho tôi 9 ngôi sao đỏ bằng hổ phách trong suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô vừa tặng Bác, Bác tặng lại đại đoàn 308 làm giải thưởng thi đua.
    Đúng đại đoàn 308 ?olần này chưa phải hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước? như Bác đã nhận xét.
    Vẫn còn những khuyết điểm, nhưng đã bớt đi cái bệnh quá say chiến thắng như trong chiến dịch Biên Giới; bớt đi cái bệnh chủ quan, giản đơn trong tổ chức chiến đấu như trận Non Nước, Chùa Cao trong chiến dịch Hà Nam Ninh và trận Pheo trong chiến dịch Hoà Bình.
    Ba tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, mỗi cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn đã như đi dự một khóa học-mà người thầy giỏi nhất là thực tế, giúp cho mình lớn lên rất nhiều về ý chí-quyết tâm, về thực hành tốt các chiến thuật bôn tập thọc sâu, về bao vây xa kết hợp với bao vây gần tiến công diệt cứ điểm, về truy kích, vu hồi trong đánh địch rút chạy, chọc thủng phóng tuyến địch.
    Bài học của chiến dịch Tây Bắc này thực sự là cái đà nâng bước đại đoàn 308 chúng tôi tiến lên hoàn thành các nhiệm vụ tiếp sau của cuộc chiến đấu?
  4. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    Nhưng quả thật Vĩnh Yên là 1 cơ hội để giải phóng miền bắc sớm hơn khi mà mẽo còn đang sa lầy ở Triều Tiên, Stalin đang còn sống và chưa muốn làm hoà với phương tây. 1 Hội nghị Geneva vào thời điểm này sẽ làm khác hẳn lịch sử mà chúng ta biết ngày hôm nay.
    Thực sự thì tớ cũng không đồng tình với ý kiến này lắm! Cái gì đạt được là nó đã xảy ra, còn giả sử nó vẫn chỉ là giả sử. Lịch sử cũng chỉ đạt được các biến cố khi các tình huống tạo cho biến cố đó đã chín muồi. Ngay tại Vĩnh Yên mà ta đã gặp nhiều khố khăn như vậy rồi thì chắc chắn nếu quân đội Pháp có rút khỏi Miền Bắc trong giai đoạn ấy, sau đó họ quay lại thì chưa chắc họ đã phải ký Hiệp định Geneve theo các điều khoản có lợi cho ta. 1 cuộc CT không phải là 1 ván cờ giữa 2 người (có thể có thêm 1 vài người chầu rìa nữa), các nhà chính trị họ không thể ra các quyết định theo ý riêng của họ, mà còn rất nhiều sức ép nữa, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh lúc đó, chắc chắn người Pháp họ không dễ bỏ cuộc chỉ vì họ nghĩ là đối thủ của họ đang mạnh hơn họ (và đã xảy ra như vậy-chỉ khi họ thấy không còn cơ hội sau ĐBP). Cái khẩu hiệu ?othắng không kiêu, bại không nản? cũng được đúc kết từ thực tế, nhưng thực hiện không dễ đâu. Trong CT, tớ nghĩ chỉ có thể đánh giá thành công hay thất bại trên toàn cuộc, chứ từng chiến thắng hay TB cụ thể nhiều khi chỉ có ý nghĩa để giành lại thế trận, hay để thăm dò đối phương, thử khả năng của mình, vì thế họ mới phân ra ý nghĩa chiến thuật, chiến dịch và toàn cục. Năm 1975 sai lầm rút bỏ Cao nguyên Trung phần một cách hỗn loạn chỉ góp phần đẩy nhanh lên, chứ chiến thắng mùa xuân 1975 phải là kết quả của 20 năm đánh Mỹ và cả 9 năm kháng chiến chống Pháp nữa... (vì vẫn những con người ấy, không có sự hy sinh trước thì làm gì có chiến thắng sau)
  5. Quake3Arena

    Quake3Arena Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/01/2004
    Bài viết:
    926
    Đã được thích:
    0
    Thực tế trước năm 54 và trong năm 54, ta ko có khả năng tác chiến qui mô lớn ở đồng bằng, vũ khí nặng có rất ít, lại là lợi thế cho quân Pháp triển khai thế mạnh hỏa lực và sự cơ động của mình, cho nên có thêm những thắng lợi lớn như Điện Biên Phủ cũng chưa thể tiến xuống đồng bằng ngay được.
    Trước có đọc ký sự của sư đoàn 308 thời đánh Pháp, dày đến 600 -700 trang , nói trước khi thành lập sư đoàn, một số đơn vị của sư đoàn còn trang bị giáo mác cho chiến sĩ công đồn địch, cứ vài người cầm súng thì có vài người cầm mác, bộ đội ko có giày dép, đi chân đất đánh giặc.
    Còn bây giờ sư đoàn 308 là sư đoàn được trang bị tốt nhất của VN và cũng có thể nói đó là sư đoàn mạnh nhất, được đóng sát Thủ đô
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mặt trận Điện Biên Phủ
    Thu đông năm 1953, cuộc chiến tranh bước vào giai đoạn sôi động nhất. Nhiều chiến dịch lớn, nhiều đợt hoạt động quân sự dài ngày diễn ra cùng một lúc, phối hợp nhị nhàng trên quy mô toàn quốc, cuối cùng kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, buộc chính phủ Pháp phải ký Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
    Cứ mỗi lần mùa thu đến, cán bộ, chiến sĩ đại đoàn lại rộ lên cuộc tranh luận rất sôi nổi về những vấn đề quen thuộc:
    -Năm nay ta đánh đâu?
    -Đâu là hướng chính?, v.v?
    Thu đông năm nay anh em khẳng định: xuống trung du, về đồng bằng. Vì lúc ấy nhiều đại đoàn chủ lực vẫn áp sát vùng này, và hàng ngày bộ đội tập luyện đều tập đánh các căn cứ boong-ke, loại công sự địch mới chỉ xây dựng ở tuyến phòng thủ trung du và đồng bằng. Có người đoán nếu hướng chính là Vĩnh Yên thì một trong hướng phụ phải là Hải Dương, ta cắt đường 5, quân và dân đồng bằng tranh thủ thời cơ nổi dậy mạnh mẽ như hồi đầu năm 1952 đánh Đờ-lát, thì địch ở Hà Nội rối loạn? Cứ theo đà tự do phán đoán này, có đồng chí đã nghĩ đến ngày về lại Thủ đô không còn xa nữa.
    Nhưng mọi phán đoán ấy đều trệch hướng, vì chỉ dựa vào những mong muốn chủ quan đơn thuần. Định hướng cho một chiến dịch, một đợt hoạt động quân sự phải căn cứ vào sự phân tích hình thái chiến tranh giữa ta và địch trên toàn chiến trường, vào các mối quan hệ giữa các yếu tố quân sự, chính trị và kinh tế, v.v? Rõ ràng sự chỉ dạo chiến tranh của Đảng ta rất linh hoạt. Năm ngoái, tháng 9, cán bộ đại đoàn, trung đoàn đã lên Bộ Tổng tư lệnh nhận nhiệm vụ đi chuẩn bị chiến trường. Năm nay sang tháng 10, cán bộ, chiến sĩ vẫn lăn lộn trên các bãi tập.
    Giữa tháng 10 năm 1953, Na-va mở cuộc hành quân ?oHải âu? huy động 6 binh đoàn cơ động, 9 tiểu đoàn pháo và 3 tiểu đoàn thiết giáp đánh ra vùng tây nam Ninh Bình và còn tuyên bố sẽ chiếm Thanh Hóa nữa. Cả phó tổng thống Mỹ Ních-xơn cũng theo quân Pháp đến tận chợ Ghềnh ?otác động tinh thần các chiến hữu?. Đối phó với cuộc hành quân này, Bộ giao nhiệm vụ cho đại đoàn 320 cùng với các lực lượng vũ trang địa phương khác đóng đâu ở yên tại đó, tiếp tục tập luyện. Na-va định đánh lừa ta, buộc chủ lực ra phải bị động đối phó, dốc lực xuống Ninh Bình. Nhưng qua 20 ngày hành quân liên miên, bị đánh trước đánh sau, thiệt hại mấy nghìn quân và mất khá nhiều trang bị, phải bị động khéo về. Một lý do nữa khiến cuộc hành quân ?oHải âu? phải kết thúc vội vã là Na-va giật mình vì các nguồn tin tình báo: chủ lực ********* chưa có ý định đánh vào châu thổ Bắc Bộ. Đại đoàn 316 đang rời bỏ miền đồng bằng để tiến ngược lên Lai Châu, v.v?
    Từ tháng 5 năm 1953, sang Đông Dương thay chân Sa-lăng, Na-va lo bị mất miền thượng lưu sông Mê Công, với các tỉnh Luông Pha-băng, Viên Chăn, Pắc Xan, vì từ đó đối phương sẽ tiến vào hành lang con sông này uy hiếp miền nam Nam Đông Dương; và như vậy chiến cuộc sẽ rối lên như canh hẹ, kế hoạch giành thắng lợi 18 tháng hết cơ sở thực hiện. Lo như vậy, nên Na-va đã bỏ tập đoàn cứ điểm Nà Sản, để củng cố chỗ đứng còn lại ở Thượng Lào và dự trù đến đầu năm 1954 sẽ mở cuộc hành quân xuất phát từ Lai Châu vào thung lũng Nậm Hu (Thượng Lào) để kiểm soát vùng Điện Biên Phủ đã trở nên một địa điểm quan trọng.
    Vào những ngày đầu tháng 11 năm 1953, có thêm nhiều tin tức tình báo địch phán đoán ?o********* sẽ đánh chiếm Lai Châu và Bắc Lào?, thế là Na-va vội vã quyết định ném quân xuống chiếm Điện Biên Phủ?
    Hôm ấy là 20 tháng 11 năm 1953, tại cơ quan Bộ Tổng tư lệnh đang có cuộc họp cán bộ cao cấp để nghe Bộ phổ biến kế hoạch hoạt động Đông Xuân. Cuộc họp chuyển sang trầm lắng, với những ý kiến thảo luận thận trọng, nghiêm túc về các vấn đề tổ chức chỉ huy chiến đấu, thì đồng chí Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái đến báo tin: địch đã nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.
    Kế hoạch cuộc họp bỗng nhiên nhộn nhịp khẩn trương, nét mặt những người dự họp rạng rỡ niềm vui, râm ran cười nói và sôi nổi bàn tán về sự chỉ đạo chiến tranh của Trung ương Đảng là tài tình: ta đã điều địch lên vùng rừng núi; ta đã gọi được rắn ra khỏi hang, v.v?
    Hội nghị vẫn làm việc như chương trình đã định. Nhưng ngày hôm đó, chấp hành mệnh lệnh của Bộ, đồng chí Chu Huy Mân, chính uỷ đại đoàn 316 thôi dự họp, cấp tốc lên đường đuổi kịp đơn vị đang hành quân, tổ chức bộ đội lên Lai Châu nhanh hơn nữa, với nhiệm vụ cụ thể là:
    -Trước hết phải cắt đứt con đường Lai Châu-Điện Biên Phủ.
    -Sau đó bao vây Lai Châu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc diệt địch ở thị xã này như kế hoạch đã được Bộ giao.
    Đồng chí đại tướng Tổng tư lệnh và chúng tôi tiễn chân đồng chí Chu Huy Mân. Buổi tiễn đưa rất đơn giản nhưng thắm tình đồng chí. Đồng chí Tổng tư lệnh xiết chặt tay đồng chí Chu Huy Mân và nói:
    -Đại đoàn 316 phải khẩn trương lên trước, các đơn vị khác tiếp sau. Diệt xong địch ở Lai Châu, có thể đánh lớn ở Điện Biên Phủ?
    Cuối tháng 11 năm 1953, đại đoàn 308 phấn khởi lên đường tham gia chiến đấu, mặc dù lúc này chưa ai biết hướng chiến dịch là đâu? Và mục tiêu chiến dịch nhằm đạt tới là gì?
    Buổi lên đường ra trận được tiến hành nhanh gọn, không một ai thắc mắc vấn vương, là kết quả của quá trìng học tập chính trị và rèn luyện nghiêm túc về ý thức tổ chức kỷ luật. Tất cả cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn từ lâu đều có chung một nếp nghĩ-một nếp nghĩ trở thành truyền thống: đã là mệnh lệnh thì chỉ có nhiệm vụ chấp hành, chỉ được hỏi những điểm chưa rõ để quán triệt, chấp hành tốt hơn, chứ không thể và không được đặt điều kiện, bởi lẽ hoạt động quân sự là hoạt động có tổ chức, rất khẩn trương và rất bí mật. Không nhất thì bao giờ cũng nói rõ ý định trước khi tổ chức thực hiện, vì như thế sẽ gây chậm trễ, lỡ việc, mất thời cơ, lộ bí mật, sẽ mất quyền chủ động, sẽ dẫn đến thất bại là điều khó tránh.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Từ Thái Nguyên, đại đoàn nhận lệnh quay lại phía tây. Đường hành quân lại qua những địa danh còn in đậm dấu ấn chiến công. Qua Sơn Dương-nhớ đến mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào-nơi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Qua bến Bình Ca, nhớ về chiến công diệt tàu chiến địch trên sông Lô hồi thu đông 1947. Mỗi đoạn đường là một kỷ niệm về sự tích anh hùng tiếp thêm sức mạnh cho đoàn quân tiến bước.
    Vượt bến Bình Ca, đi một đoạn nữa, bắt gặp đường số 2 ở đoạn cây số 5, đại đoàn ngoặt lên phía bắc chứ không vòng xuống tây nam như mọi người đoán định. Đi một đoạn nữa lại bỏ đường số 2 rẽ trái vào đường Bến Hiên-sông Chảy theo hướng chính tây. Luồng tư tưởng đang thuận chiều, bắt đầu rẽ ngoặt từ khúc quanh này. Từ sôi nổi phấn khởi đến trầm lặng-băn khoăn: Tại sao lại đi về phía tây, về nơi còn rất ít địch? Đảng uỷ và Bộ chỉ huy đại đoàn rất thông cảm với những băn khoăn đó của anh em, song lúc này chưa thể nói thẳng ra được những điều mà chúng tôi đã được Bộ phổ biến cụ thể. Bởi như thế sẽ phạm vào nguyên tắc bí mật.
    Tuyên Quang-Bến Hiên-Yên Bái, đại đoàn đang đi trên con đường liên tỉnh, đang nhích gần về phía có địch, thì chính trên đoạn nđường này anh em lại thắc mắc, lo không được lập công. Cái phức tạp của tư tưởng đồng thời cũng là cái khó của công tác lãnh đạo lúc này. Phải làm sao trong nhận thức của mỗi người vẫn có quyết tâm cao, hăng hái nhiệt tình thi đua giết giặc lập công nhưng biểu hiện ra ngoài lại phải kín đáo, tuyệt đối giữ bí mật. Thật là khó, nhưng cái khó không bó cái khôn mà cái khó đó đã cho cái khôn. Trong công tác lãnh đạo tư tưởng, nhiều sáng kiến nảy nở, nâng tốc độ hành quân. Chính trị viên đại đội 267, Đỗ Đình Sửu trên đường hành quân đã thủ thỉ với chiến sĩ: ?oCấp trên cho biết địch đang theo dõi chúng ta, vì vậy không ai được bàn tán gì hết về đường này hướng nọ. Ta đi đâu, ngược-xuôi-ngang dọc là theo mệnh lệnh chiến đấu. Đời chúng ta là cuộc đời chiến đấu. Đâu có giặc là ta cứ đi!?.
    Bấy giờ đoàn văn công Tổng cục Chính trị cùng lên đường đi chiến dịch với đại đoàn. Các đồng chí cũng có tâm trạng như cán bộ, chiến sĩ đại đoàn: sao cứ đi về phía xa mặt trận. Câu giải thích của đồng chí chính trị viên đại đôị 267 và những bước chân đi rộn rã của đoàn quân, đã gợi ý nhạc sĩ Đỗ Nhuận cảm hứng sáng tác. Và đồng chí Đỗ Nhuận đã sáng tác kịp thời ngay trên đoạn đường hành quân này bài hát Hành quân xa.
    ?oHành quân xa dẫu có nhiều gian khổ.
    Vai vác nặng, ta đã đổ mồ hôi.
    Mắt ta sáng, chí ta bền, bảo vệ đồng quê ta tiến bước.
    Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi??.
    Những câu hát trầm hùng đầy khí phách lạc quan, nhịp điệu dồn dập thúc giục đó bắt đầu được cất lên từ đại đội 267 lan rất nhanh trong tất cả các đơn vị đại đoàn, đi rất ca, theo bước các chiến sĩ Quân Tiên Phong vượt sông Chảy, sông Thao, sông Đà, lên Sơn La, sang Thượng Lào, trở về Điện Biên Phủ, v.v? Bất cứ ở đâu, dù khó khăn mấy, nếu ở đấy có giặc là đại đoàn hành quân tới, quyết đi tới chiến đấu, lập công, góp phần vào chiến thắng chung của dân tộc.
    Khi qua Nà Sản, đại đoàn tranh thủ tổ chức nghiên cứu cái tập đoàn cứ điểm-mà địch gọi là ?opháo luỹ?, trước sự lớn mạnh của ta đã phải rút bỏ. Cả đại đoàn dừng lại ở đây một buổi để nghiên cứu công sự và cách bố phòng của địch, tích lũy những nhận thức mới về cái mà địch đang coi là một sáng kiến duy nhất để đối phó với một trận tiến công lớn của ********* trên vùng rừng núi. Hôm ấy, tuy đang trong cuộc hành quân xa vất vả, nhưng ai nấy đều rất phẩn khởi được ?otham quan? Nà Sản. Anh em nói: thế mới đúng là ?ođi một ngày đàng học một sàng khôn?, ta chưa diệt được một tập đoàn cứ điểm nào, song cái hiểu hôm nay rất cần cho chiến thắng ngày mai.
    Ngày 7 tháng 1, đại đoàn vừa qua thị xã Sơn La, đang chuẩn bị vượt đèo Pha Đin, một đèo cao và dài phải đi trọn một đêm mới hết, thì được tin địch rút Lai Châu dồn về Điện Biên Phủ. Đồng chí phó tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái kiêm tham trưởng mặt trận Điện Biên Phủ lệnh cho đại đoàn:
    -Cho ngay một trung đoàn bằng đủ mọi cách đi băng rừng vượt núi cấp tốc đến đóng chốt ở Pom Lót trên đường từ Điện Biên Phủ sang Thượng Lào đề phòng địch từ Lai Châu co về Điện Biên Phủ rồi kéo nhau chạy cả sang Luông Pha-băng.
    -Hai trung đoàn khác gấp rút hành quân theo đường số 41 lên Tuần Giáo tiến vào bao vây rộng ở phía đông bắc Điện Biên Phủ?
    Toàn đại đoàn chuyển động khi nhận được lệnh chiến đấu của Bộ chỉ huy mặt trận.
    Cán bộ, chiến sĩ phấn khởi chờ đón nhiệm vụ cụ thể.
    Bộ chỉ huy đại đoàn họp nhanh chóng nhất trí về những công việc trước mắt:
    -Anh Cao Văn Khánh chỉ huy bộ đội tiếp tục hành quân nhanh chóng tới địa điểm chiến đấu do Bộ quy định.
    -Tôi cùng một số cán bộ tham mưu, các đội quân báo vượt lên trước đội hình hành quân, đến Điện Biên Phủ nắm địch và nghiên cứu địa hình để bộ đội đến, có thể chiến đấu được ngay.
    -Trung đoàn 36 được giao nhiệm vụ đóng chốt ở Pom Lót.
    Chúng tôi hoàn toàn yên tâm về khả năng hoạt động độc lập của trung đoàn này, chỉ nhắc lai lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận vừa giao trước khi trung đoàn lên đường với ý nhấn mạnh:
    -Bảy ngày sau khi nhận lệnh phải có mặt ở Pom Lót.
    Nhưng ngày thứ sáu chúng tôi vui mừng đến sửng sốt khi nhận được điện báo cáo của đồng chí trung đoàn trưởng Hồng Sơn:
    -Chốt Pom Lót đã hình thành trước thời gian quy định một ngày.
    Đây lại là một biểu hiện rất đẹp về tinh thần nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của cán bộ, chiến sĩ đại đoàn. Không có con đường nào tới Pom Lót, dù chỉ là đường mòn. Tất cả chỉ còn một cách dựa vào bản đồ, địa bàn mà tìm lối đi. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 36 cứ thẳng đường chim bay mà xẻ núi, băng rừng đi tới với khẩu hiệu: ?oĐạp bằng mọi trở ngại, quyết nhanh chóng tiến vào Điện Biên Phủ!?. Cùng ngày, trung đoàn 88 và trung đoàn 102 cũng vừa tới đông bắc Điện Biên Phủ, thực hành bao vây xa.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đại đoàn đã dàn xong thế trận.
    Điện Biên Phủ đã nằm trong vòng vây của quân ta.
    Nhưng toàn mặt trận vẫn yên tĩnh.
    Mỗi cán bộ, chiến sĩ thường có nhiều suy nghĩ và nhiều mơ ước trước giờ nổ súng. Riêng tôi cái thời gian yên tĩnh này lại nhớ về buổi lên Bộ nhận nhiệm vụ trở lại miền Tây Bắc lần thứ hai. Hôm ấy đồng chí đại tướng Tổng tư lệnh nói ngắn nhưng rất đủ, rất rõ về sự chỉ đạo đầy mưu lược của Trung ương Đảng: giải quyết xong Lai Châu phải nhanh chóng kìm chân địch ở Điện Biên Phủ. Na-va cố tránh chọi nhau với chủ lực ta ở Bắc Bộ trong Đông Xuân 1953-1954 là để có thời gian xây dựng lực lượng cơ động mạnh đến cuối năm 1954 sẽ phản công ta. Nhưng ta quyết không cho chúng điều kiện ấy.
    Đúng là những bước đi của đại đoàn 308 và các đại đoàn bạn đã và đang thực hiện có hiệu quả sự chỉ đạo mưu lược ấy của Trung ương Đảng và của Bộ Tổng tư lệnh, buộc Na-va phải đương đầu với ta ở Điện Biên Phủ, từ chối cũng vẫn bị buộc phải chấp nhận. ?oCuộc hành quân xa? của đại đoàn đã góp phần cài thế, dồn địch lao sâu vào thế bị động đối phó.
    Nếu không giữ được bí mật ý đồ chiến dịch, không nhận thức đúng đắn ?ođâu có giặc là ta cứ đi? thì làm sao ta buộc được Na-va phải đương đầu với ta ở Điện Biên Phủ-một quyết chiến điểm có lợi cho ta, bất lợi cho địch.
    Ngày 14 tháng 1 năm 1954, tại hang Thẩm Púa gần Điện Biên Phủ, đại tướng Võ Nguyên Giáp triệu tập hội nghị các tư lệnh đại đoàn tham gia chiến dịch, phổ biến kế hoạch tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ?
    Ngày 25 tháng 1, tất cả các đơn vị tham gia chiến đã chiếm lĩnh xong trận địa tiến công quanh thung lũng Mường Thanh. Đại đoàn 308 được vinh dự nhận nhiệm vụ làm mũi đột phá chủ yếu từ phía tây khe Hồng Lếch đánh thẳng vào sở chỉ huy Đờ Cát-tơ-ri.
    Công tác chuẩn bị chiến đấu đã căn bản hoàn thành.
    Tất cả các hướng đang hồi hộp chờ hiệu lệnh nổ súng.
    Nhưng thật bất ngờ. Sự chờ đợi của tất cả mọi người đã không diễn ra.
    Đúng 17 giờ 20 phút chiều hôm đó, đại đoàn nhận được điện thượng khẩn của Bộ chỉ huy mặt trận đình chỉ tiến công, đưa ngay bộ đội trở ra khu vực tập kết chờ lệnh mới.
    Vì sao vậy? Chúng tôi phân vân suy nghĩ: Vì sao tốn bao công phu dàn trận nay lại kéo ra? Xây mà phá thì tiếc lắm! Tiếc cái công phu đưa hàng bạn quân vào tiếp cận địch mà vẫn an toàn; tiếc là bao công việc bề bộn đã hoàn thành tốt trong thời gian rất ngắn như đào công sự, xây dựng trận địa pháo cao xạ, làm hầm chỉ huy, hầm thông tin, v.v? Tất cả đều diễn ra cạnh nách địch mà địch không hay biết. Nhưng những suy nghĩ, phân vân ấy diễn ra không lâu; chúng tôi nhanh chóng xác định: đã là mệnh lệnh thì phải chấp hành, phải tổ chức việc lui quân cũng tốt như lúc đưa quân vào. Khó mấy cũng phải làm và làm thật nghiêm chỉnh?
    Hôm sau vào lúc 14 giờ 30 phút, đồng chí Tổng tư lệnh gọi điện thoại hỏi tôi về tình hình chấp hành mệnh lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận:
    -Đại đoàn thu quân xong chưa?
    -Báo cáo, chúng tôi đã hoàn thành, bộ đội đang ở khu tập kết an toàn.
    -Tốt! Bây giờ anh giở bản đồ ra để theo dõi khu vực chiến đấu mới mà đại đoàn sẽ đảm nhiệm.
    Một phút yêm lặng để chuẩn bị, đại tướng nói tiếp, giọng nhấn mạnh vào sau từng vấn đề:
    -Để bảo đảm chiến dịch Điện Biên Phủ chắc thắng, được sự đồng ý của Bộ chỉ huy Quân giải phóng Pa-thét Lào, đại đoàn phối hợp với lực lượng của bạn tiến công vào phòng tuyến Nậm Hu? Phải hành động hết sức nhanh chóng, tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch, thu hút lực lượng bộ binh và không quân địch về phía đại đoàn càng nhiều càng tốt. Lực lượng sử dụng bao nhiêu, tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp lương thực của đại đoàn mà quyết định cho thích hợp, miễn sao bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ là được!
    Toàn đại đoàn như một guồng máy chạy đều và ăn khớp. Tham mưu lo kế hoạch tổ chức hành quân; hậu cần lo bảo đảm lương thực, thực phẩm; chính trị lo tổ chức quán triệt quyết tâm chiến đấu của Đảng uỷ đại đoàn xuống các đơn vị và tổ chức phát động thi đua lập công, v.v?
    Đảng uỷ đại đoàn họp. Tôi báo cáo dự kiến quyết tâm thực hiện nhiệm vụ mới: Bộ chỉ huy mặt trận lệnh cho đại đoàn ta phối hợp với lực lượng vũ trang của bạn vận động tiến công vào phòng tuyến Nậm Hu địch vừa mới xây dựng nhằm làm cái cầu nối Điện Biên Phủ với Luông Pha-băng. Làm nhiệm vụ này chúng ta gặp nhiều khó khăn, địch tình và địa hình chưa nắm được; lương thực thực phẩm phải tự lo lấy. Cấp trên cho phép ta được toàn quyền quyết định sử dụng lực lượng, có thể từ một tiểu đoàn, trung đoàn hoặc toàn đại đoàn. Nhưng ta chỉ được phép quyết định với ý thức trách nhiệm cao. Đưa một tiểu đoàn khó ít, đưa một trung đoàn khó nhiều, đưa toàn đại đoàn đi hoạt động xa thì vô cùng khó khăn. Nhưng như thế mới có lực mạnh để tạo thế mạnh, mới thu hút được bộ binh địch và không quân địch. Khó khăn là một việc không thể tránh khỏi. Không cần phải bàn, vấn đề là tìm cách khắc phục, quyết tâm vượt qua thì có thắng lớn, vì đây là hướng sơ hở của địch, ta có điều kiện đánh một đòn có ý nghĩa chiến lược. Hơn nữa, địch dang theo dõi đại đoàn ta, một khi thấy 308 rời Điện Biên Phủ , địch sẽ cho rằng ta đã thay đổi hướng tiến công chủ yếu, buộc chúng phải-một mặt bị động đối phó với đại đoàn ta, mặt khác chúng sẽ mắc sai lầm, cho ta không đủ khả năng đánh vào Điện Biên Phủ, càng tạo cho các lực lượng ở đây có thời gian chuẩn bị tốt để thực hiện một trận quyết chiến thắng lợi?
    Cuộc họp diễn ra khẩn trương và rất hào hứng. Thẳng thắn nên hết khó khăn nhưng cũng rất có trách nhiệm bàn bạc biện pháp khắc phục. Những vấn đề về quyết tâm, về phương thức chiến thuật, về tổ chức chỉ huy, Đảng uỷ nhất trí nhanh, còn lại chỉ là vấn đề lương thực.
    Đưa một đại đoàn đi chiến đấu, mồi ngày cần phải có 5.000 kilôgam gạo. Con số tuy lớn, nhưng chia ra cho hàng vạn con người thì chỉ là nhu cầu tối thiểu. Lúc đầu cuộc họp lắng xuống về con số này, nhưng ý kiến sôi nổi trở lại, dần dần nhớ lại những khó khăn tương tự đã giải quyết nay mang ra rút kinh nghiệm và bổ sung thêm biện pháp khắc phục phù hợp với tình hình mới. Cũng thời gian này năm ngoái đại đoàn cùng với Quân giải phóng Pa-thét Lào đuổi địch từ Sầm Nưa xuống Xiêng Khoảng, giải phóng một vùng rộng lớn, là nhờ gạo thóc của nhân dân nước bạn ủng hộ và cho vay. Năm ta nay ta cũng sẽ theo con đường đó, nhưng để đảm bảo chiến đấu dài ngày thì không thể trông cậy vào những cối giã gạo nhỏ của nhân dân được.
    Như vậy khó khăn khác lại được đặt ra, biến thóc thành gạo?
    Về khó khăn này, mới đây trong những ngày vây hãm địch ở Điện Biên Phủ, hậu cần đại đoàn đã có sáng kiến tổ chức đóng cối xay, làm chày giã nhờ đó mà đại đoàn có đủ gạo ăn. Tất cả những kinh nghiệm, những sáng kiến nảy ra trong thực tiễn là cơ sở tin cậy để Đảng uỷ đại đoàn ra nghị quyết: tổ chức một đội làm công tác vận động nhân dân cho vay thóc, gạo; lập các đội xay giã gạo và các đội vận chuyển.
    Nội dung tuy nhiều và phức tạp, nhưng Đảng uỷ họp bàn rất nhanh gọn và đạt tới sự nhất trí cao về những vấn đề sau đây:
    -Quyết tâm đưa cả đại đoàn đi chiến đấu.
    -Phương châm hành động là tự lực và gấp rút:
    +Tự lực khắc phục khó khăn, tìm địch mà đánh.
    +Chuẩn bị gấp rút, hành quân gấp rút, tổ chức tiến công gấp rút nhưng chắc thắng.
    Cả đại đoàn chuyển động triển khai thực hiện nghị quyết Đảng uỷ đại đoàn.

Chia sẻ trang này