1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sự giúp đỡ của Mỹ đối *********?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi explorer, 12/02/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. explorer

    explorer Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/06/2001
    Bài viết:
    391
    Đã được thích:
    0
    Sự giúp đỡ của Mỹ đối *********?

    Có phải Mỹ là nước đầu tiên đặt quan hệ và giúp đỡ ********* trước khởi nghĩa? trong một chuyến đi tớ thấy một điều chưa từng được biết khá thú vị vì có một số cái trước chỉ được nghe nhưng giờ được tận mắt trông thấy!
  2. viser

    viser Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/01/2004
    Bài viết:
    1.877
    Đã được thích:
    25
    Thế những thứ kỳ quan đó là gì vậy?
    VM thì trước vẫn hoạt động bên TQ, cán bộ vẫn được LX đào tạo.
    Mẽo giúp VM về quân sự thời chống Nhựt.
  3. langxettu

    langxettu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    221
    Đã được thích:
    0
    Trong cuốn này ( bắt đầu từ chương 6) có phân tích rõ hơn: http://www.ttvnol.com/f_533/498780/trang-3.ttvn
    Cám ơn bác thainhi_vn một lần nữa.
  4. sanbatcuop

    sanbatcuop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/01/2006
    Bài viết:
    226
    Đã được thích:
    0
    Quan hệ Việt-Mỹ ở thế kỷ 19 : những dịp may bị bỏ lỡ
    Lần giở những trang sử cũ, người ta thấy khoảng một thế kỷ rưỡi sau khi Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ ra đời (4-7-1776), năm 1819 (cuối đời Gia Long), hai thương thuyền Hoa Kì cập bến cảng Sài Gòn để mua đường. Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt đã tiếp đãi tử tế thuyền trưởng John White và dành mọi sự dễ dãi trong việc mua bán. Năm 1831 (đời Minh Mạng), tổng thống Mỹ Andrew Jackson dự định đặt đại diện ngoại giao tại vương quốc Đại Nam và cử ông Shilluber làm lãnh sự, nhưng vua Minh Mạng đã từ chối. Năm 1832, tàu Pea**** chở phái đoàn sứ giả Mỹ, do hai ông Edmund Robert và Georges Thompson cầm đầu, cập bến Đà Nẵng xin trình quốc thư và thỉnh cầu được ký kết một hiệp ước thương mãi, nhưng vì quốc thư không ghi rõ danh hiệu của vua và quốc hiệu Đại Nam nên Minh Mạng không tiếp nhận. Vua chỉ truyền lệnh đón tiếp tử tế phái đoàn Mỹ ở Công quán và chỉ định cho họ chỗ đậu tàu là vụng Sơn Trà ở Đà Nẵng. Sau đó tàu Pea**** nhổ neo rời Đại Nam đi Xiêm La. Năm 1836, tàu Pea**** cũng với đặc sứ E. Robert trở lại Đà Nẵng với hi vọng ký một hiệp ước thương mãi, nhưng ông E. Robert bị bệnh, tàu Pea**** phải rời Đà Nẵng đi Macao đề cấp cứu; tàu cập bến Ma Cap thì ông E. Robert đã chết . Sau lần gặp gỡ bất thành này, quan hệ giữa Hoa Kì và Đại Nam bị gián đoạn trong gần bốn thập niên (1836-1873).
    Bùi Viện (1839-1878), nhà ngoại giao xuất sắc và một sự nghiệp lớn dở dangTừ giữa thế kỷ 19 đất nước ta lâm vào một tình thế nghiêm trọng : 1858 liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh chiếm bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng ; 1859 thành Gia Định bị chiếm, 1861 lần lượt mất Định Tường, Côn Lôn, Biên Hòa. Với Hòa ước 1862, triều đình Huế phải nhượng đứt cho Pháp ba tỉnh miền Đông. Đến tháng 6-1867 chúng ta mất toàn bộ sáu tỉnh Nam Kì. Trước tình hình đen tối ấy, nhiều danh sĩ cấp tiến, giàu lòng yêu nước, có óc thực tế, muốn sử dụng tri thức của mình vào công cuộc cách tân để cứu đất nước ra khỏi nguy cơ bị xâm lược. Đó là những Hoàng Phan Thái, Nguyễn Tư Giản, Đặng Đức Thuận, Đinh Văn Điền, Nguyễn Lộ Trạch và xuất sắc nhất là Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Bùi Viện (1839-1878). Bùi Viện đáng được xem là một nhà kinh bang tế thế: có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra "Tuần dương quân" (lực lượng hải quân thường trực) gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến và lập ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển Đại Nam. Là nhà ngoại giao năng nổ, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Hoa Kì đề nghị đặt quan hệ chính thức và được viện trợ chống thực dân Pháp. Rời Đại Nam tháng 7-1873, Bùi Viện đến Hồng Kông rồi Hoành Tân (Nhật Bản), vượt trùng dương đến New York rồi Washington (1874). Sau gần một năm kiên nhẫn vận động, ông được tổng thống Ulysse Grant tiếp kiến và đã thuyết phục tổng thống chấp thuận lời yêu cầu đặt quan hệ ngoại giao và giúp đỡ Đại Nam chống Pháp, nhưng vì không có quốc thư đem theo nên chưa thể bàn cụ thể hơn. Năm sau (1875), Tự Đức ban cho Bùi Viện chức khâm sai đại thần, cầm đầu đoàn sứ giả mang quốc thư trở lại Hoa Kì. Nhưng thật không may, tình hình thế giới đã biến chuyển bất lợi cho Đại Nam, Hoa Kì đã thay đổi chính sách nên tuy tổng thống Grant vẫn niềm nở tiếp sứ bộ của ta, nhưng nêu đủ lí do để từ chối viện trợ cho Đại Nam chống Pháp. Buồn rượi, Bùi Viện tay không trở về tổ quốc. Đến Đà Nẵng mới hay tin mẹ mất, Bùi Viện ra Huế tâu vua về chuyến công du bất thành và xin về thọ tang mẹ. Tự Đức đã có lời phê đầy cảm khái : "Trẫm đối với ngươi chưa có ân nghĩa gì, mà ngươi đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi lo lắng, quỉ thần ắt cũng chứng cho". Ba tháng sau Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức thương chánh tham biện rồi chuyển sang chức chánh quản dốc nha Tuần hải. Việc bang giao giữa Đại Nam và Hoa Kì một lần nữa lại tạm gián đoạn. Chẳng bao lâu Bùi Viện mất đột ngột ở tuổi chưa đầy 40, để lại một sự nghiệp bộn bề mà dang dở, ghi dấu một cột mốc trong lịch sử bang giao Việt-Mỹ thời cận đại (1).Từ sau tháng 8-1945 đến tháng 12-1946, Hoa Kì là đồng minh của *********Nhà sử học Mỹ Cecil B. Currey, tác giả cuốn "Võ Nguyên Giáp - Chiến thắng bằng bất cứ giá nào", đã cung cấp cho chúng ta nhiều tài liệu và thông tin về một giai đoạn độc đáo của bang giao Mỹ-Việt từ sau tháng 8-1945 đến trước khi nổ ra chiến tranh Việt-Pháp (từ tháng 12-1946 đến tháng 7-1954) : Mỹ và cơ quan tình báo quân sự OSS của họ là đồng minh của phong trào *********. Vì vậy ở thời đó có nhiều người Mỹ đến làm việc tại Hà Nội. Đó là những đại úy Lucien Concin, thiếu tá Allison Thomas, thiếu tá Patti và nhóm của ông ta, còn tướng Philip Gallagher thì làm cố vấn cho tướng Tàu Lư Hán. Những sĩ quan Mỹ trong phái đoàn OSS đã chụp nhiều ảnh của Hà Nội sau tháng 8-1945, ảnh lễ chào quốc kì các nước Đồng Minh tại nơi ở của phái đoàn OSS ở Hàng Trống (nay là trụ sở báo Nhân Dân), ảnh Hồ Chí Minh chiêu đãi các vị khách Đồng Minh của mình : Hà Ưng Khâm (Tàu), Gallagher (Mỹ). Chính Gallagher đã điện về Washington ngày 20-9-1945 : ông Hồ là "một sản phẩm của Moskova, một người cộng sản" làm chấm dứt tuần trăng mật Hoa Kì-Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào buổi bình minh của chiến tranh lạnh tư bản - cộng sản (2) . Rồi một nhà sử học Mỹ khác, John Prados, mới đây đã cho ra đời cuốn Cuộc hành binh chim kền kền, dự án bí mật Mỹ ném bom nguyên
  5. explorer

    explorer Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/06/2001
    Bài viết:
    391
    Đã được thích:
    0
    Trước đây tôi cũng có nghe đến chuyện Mỹ đã từng giúp đỡ VMinh nhưng chuyến đi vừa rồi tôi được xem rất nhiều ảnh chụp ghi lại cho thấy nước mỹ từng giúp ********* từ huấn luyện con người, cung cấp vũ khí, quần áo đồng phục, thậm chí còn lập cả sân bay và để lại cả máy bay rất hiện đại thời bấy giờ. Trong ảnh đồng phục và vũ khí của ********* toàn của Mỹ. Hồi đó TT Roosevelt đã bày tỏ một cách minh bạch là ông chỉ mong muốn chấm dứt chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương ngay cả khi cần phải trả giá bằng sự bất hòa với Anh, và làm gián đoạn mối quan hệ Mỹ - Pháp nên ông ủng hộ ********* và một quốc gia độc lập ở Đông dương , tiếc là sau khi ông chết TT Trurman ko làm được điều này và có quan điểm khác vì vậy mà quan hệ Việt Mỹ bị gián đoạn , sau này trở thành đối địch.
    Thật tiếc là chuyến đi quá ngắn mà lại quên ko mang máy ảnh để chụp lại post lên đây

    Được explorer sửa chữa / chuyển vào 21:19 ngày 12/02/2006
  6. mc_queen1

    mc_queen1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/12/2005
    Bài viết:
    4.151
    Đã được thích:
    4.157
    Âu cũng là một thời kì lịch sử đã qua. Nếu lúc đó chủ tịch Hồ Chí Minh và tổng thống Mĩ hiểu nhau hơn, có lẽ đất nước chúng ta đã không phải chịu nhiều mất mát to lớn như sau đó.
  7. mc_queen1

    mc_queen1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/12/2005
    Bài viết:
    4.151
    Đã được thích:
    4.157
    Đây là 1 đoạn trong cuốn sách " Tại sao Việt nam -Patti" :

    Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc tình hình chính trị thế giới, ông Hồ đã rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm tình của nước Mỹ. Ông đã xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí còn hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga ?oanh dũng? đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đã bị kiệt sức vì chiến tranh. Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông. Đối với những nước này thì chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng. Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đòi lại Đông Dương làm thuộc địa.
    Chỉ còn có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông. Nhưng đồng thời Mỹ cũng là một điều bí ẩn đối vối tâm tình của một con người đã được đào luyện chính trị ở Matxcơva. Ông Hồ đã phải vắt óc suy nghĩ để tìm ra những điều khá lạ lùng để dung hoà những đòi hỏi về lý thuyết và thực hành của ông. Ông cảm thấy người Mỹ rõ ràng là chống thực dân, bối cảnh lịch sử, thành tích trước kia và những lời tuyên bố mới đây, tất cả đều chứng minh điều đó. Nhưng Mỹ cũng vẫn là tư bản. Những cải cách kinh tế xã hội của họ chưa thực sự ?odân chủ?. Vô sản của họ thật chưa được ?otự do? và được ?ogiải phóng? như ở Nga. Nhưng chỉ còn có người Mỹ có lẽ mới chịu nghe và giúp đỡ phong trào của ông một cách có thiện cảm.

    Theo ý kiến chủ quan của tôi, chủ tịch Hồ chí minh đã có những nhận định hết sức sắc sảo về tình hình chính trị thế giới lúc đó và sau này, đặc biệt là về người bạn TQ của chúng ta. Tiếc rằng người Mĩ đã chỉ để ý đến quý khứ CS của chủ tịch HCM, mà không hiểu rằng độc lập dân tộc đối với người việt nam là trên hết.
  8. langxettu

    langxettu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    221
    Đã được thích:
    0
    Đầu chương 2 trong cuốn sách trên cũng đã ghi rõ lập trường của TT Franklin Delano Roosevelt. Dựa vào Mĩ lúc đó là một nước cờ đúng, nhưng bất hạnh cho cả dân tộc VN là Roosevelt lại mất vào năm 1944 , khi vừa mới được năm đầu nhiệm kì 3. Lão Truman bao nhiêu năm làm phó rồi nên có vẻ hơi quáng khi ngồi vào ghế của Roosevelt, đảo ngược tất cả đường lối chính sách đối ngoại của TT cũ. Roosevelt xem Nga như đồng minh thì Truman xem Nga như thù nghịch. Roosevelt chống đế quốc thì Truman ủng hộ thực dân. Roosevelt ủng hộ cuộc chiến dân chủ tự do chống độc tài phát xít thì Truman phát động thánh chiến với khẩu hiệu ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng của Nga. Chiến tranh lạnh là sản phẩm của lão ta (nhưng khi cần thì dám lão ta sẽ hâm nóng hết cỡ chiến tranh đấy, 8 tháng sau khi cầm quyền lão ta đã cho dân Nhật nếm tới 2 quả bom A luôn mà ).
    Vì vậy độc lập của Đông Dươngkhông còn quan trọng nữa. Thế giới đối với lão ấy có vẻ chỉ có 2 phe đồng minh và kẻ thù, thấy VM có liên quan đến CS là bật đèn xanh cho người Pháp luôn.
    Được langxettu sửa chữa / chuyển vào 06:30 ngày 13/02/2006
  9. langxettu

    langxettu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    221
    Đã được thích:
    0
    Mĩ huấn luyện, trang bị cho VM để có lực lượng hỗ trợ, cứu phi công Mĩ khi bi bắn rớt thôi. Chắc hình ảnh ấy chỉ là bãi xác máy bay. Chứ chuyện xây sân bay,để lại máy bay ( vậy sẽ phải đào tạo phi công..) cho ********* trong thời Roosevelt là không tưởng. Đọc hồi kí Patti cũng thấy rõ được cục diện và vị trí của VM trong mắt người Mĩ trước khi chiến tranh kết thúc rồi mà.
  10. explorer

    explorer Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/06/2001
    Bài viết:
    391
    Đã được thích:
    0
    Chuyện sân bay và máy bay để lại có thật đấy, trước khi đi tôi cũng nghĩ như bạn nhưng thực tế những gì ở đấy đã làm tôi ngạc nhiên, máy bay là có thật lại còn là hiện đại bậc nhất lúc bấy giờ nữa chứ.
    Được explorer sửa chữa / chuyển vào 01:17 ngày 13/02/2006

Chia sẻ trang này