1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sự quan tâm của các nước đối với văn hóa Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi dungsamtien, 16/01/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Sự quan tâm của các nước đối với văn hóa Việt Nam

    Thấy các bác cãi nhau về mấy cái vụ văn hoá Việt nam ta.hôm nay em post 1 số bài về cái gọi là : SỰ QUAN TÂM CỦA CÁC NƯỚC KHÁC ĐỐI VỚI VĂN HOÁ VIỆT NAM" mong các bác ủng hộ,xong cái topic này em sẽ quay về topic "54 dân tộc anh em" và "văn hóa tết" keke em đã thu thập được 1 số tài liệu rùi.nhưng mà đầu tiên em sẽ post 1 bài về trống đồng Việt nam đã.
    Trống đồng Việt Nam phân bố ở nhiều nơi trên đất nước ta, từ Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn... đến Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai, Sông Bé, Khánh Hòa, Vũng Tàu... vào tận vùng hải đảo xa xôi Phú Quốc. Ngoài ra, bằng con đường giao lưu văn hóa hoặc trao đổi, trống đồng Việt Nam vượt biên giới đến những nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thailand, Malaysia...
    Trống đồng Việt Nam có nhiều loại hình, nhưng tất cả khởi nguồn từ trống Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ. Trống đồng Việt Nam có niên đại khởi đầu khoảng thiên niên kỷ I trước Công nguyên cho đến một vài thế kỷ sau công nguyên. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ, cộng đồng cư dân đã chinh phục vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, một vùng đất chứa nhiều sản vật thiên nhiên nhưng cũng đầy thử thách. Tổ tiên ta đã vượt lên những khắc nghiệt của thiên nhiên bằng sự dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có đã tạo nên kỹ thuật luyện kim đồng thau bản địa, nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất Đông Nam Á.
    Trống đồng là biểu hiện tập trung nhất những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta - Nhà Nước Hùng Vương. Trống đồng và những hình khắc họa trên trống đã giúp chúng ta ngày nay hình dung được đôi nét về cuộc sống của người Việt cổ ở thời xa xưa ấy. Hoa văn trên trống đồng có nhiều loại, kiểu bố trí hợp lý trên các phần mặt, tang và thân trống. Nó được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, phân tích để làm một trong những cơ sở khoa học trong phân loại trống và khắc họa những nét sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hóa Đông Sơn thời bấy giờ.
    Trống Đồng Đông Sơn: là một loại nhạc cụ dùng trong các buổi lễ hay khi đi đánh nhau. Trống đồng được tìm thấy ở nhiều nơi trên đất Việt Nam, như Thanh Hóa (Đông Sơn, 24 trống), Hà Đông (9 trống), Bắc Ninh, Cao Bằng (mỗi tỉnh 3 trống), Hà Nam, Hà Nội, Hoà Bình, Kiến An (mỗi nơi 2 trống), Nam Định, Lào Cai, Sơn Tây, Yên Bái, Hải Dương, Nghệ An, Thủ Dầu Một, Kontum (mỗi nơi một trống). Ở Hoa Nam thì tìm thấy nhiều nhất, ở Vân Nam (5 trống). Các tỉnh khác thì Quế Châu, Quảng Tây, Tứ Xuyên (mỗi tỉnh tìm thấy 3 trống), Quảng Đông (2 trống). Tại Cam Bốt, Lào, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương cũng thấy nhiều trống đồng cổ. Riêng Thái Lan và Lào cũng như ở xứ Mường (thượng du Việt Nam) ngày nay người ta vẫn còn dùng trống đồng. Trống đồng đẹp nhất phải kể đến các trống Ngọc Lũ, Hoà Bình, và Hoàng Hạ.
    Trống Đồng Ngọc Lũ: tìm thấy ở chùa Ngọc Lũ (Hà Nam) vào năm 1901. Trống này cao 0,63 mét (1.8 ft), đường kính mặt trống 0,86 mét (2.5 ft), được trang trí bằng các hình chạm sâu xuống cả trên mặt trống lẫn tang trống. Chính giữa mặt trống là một hình ngôi sao (hay mặt trời) 14 cánh. Chung quanh ngôi sao này là 16 vòng tròn đồng tâm có trang trí bằng nhiều hình kỷ hà hay hình vẽ khác nhau. Giữa vòng thứ 5 và thứ 6 có khắc hình 2 căn nhà mái cong, có sàn, trong có người tóc dài ngồi. Trước nhà là 4 dàn trống và đoàn vũ nhạc nhảy múa, thổi khèn. Sau nhà có 2 người đang giã gạo. Xen kẽ với 2 nhà sàn trên là 2 nhà sàn mái tròn trong có người cầm kiếm. Trước nhà này có một người tay phải cầm kiếm, tay trái cầm một con chim. Sau nhà là một đoàn võ sĩ cầm lao, cầm kiếm đang múa. Giữa vòng thứ 7 và thứ 8 có chạm hình 2 đàn hươu (10 con mỗi đàn) và xen kẽ với 2 đàn chim đang bay (mỗi đàn 8 con). Giữa vòng thứ 8 và thứ 9 có khắc 18 con chim mỏ dài đang bay, xen kẽ với 18 con chim đang đậu dưới đất. Trên tang trống, phần phình ra có khắc hình thuyền trên có những người cầm lao, kiếm, cung, đang chuẩn bị chiến đấu, hoặc đang nhảy múa hoặc chèo thuyền. Trên phần thẳng đứng có những đường trang trí kỷ hà thẳng đứng hay nằm ngang đóng khung lấy những hình người cầm rìu và lá chắn....

    [​IMG]
  2. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Trống Đồng Hòa Bình: tìm thấy ở Mường Dâu, Hòa Bình. Trống này được gọi là trống Moulié (tên người mua được và tặng lại cho Viện Bảo Tàng). Trống này được tàng trữ trong Bảo Tàng Quân Đội Pháp, rồi được chuyển cho Bảo Tàng Viện Guimet (Paris).
    Trống Đồng Hoàng Hạ: tìm thấy ở làng Hoàng Hạ (Hà Đông), cao 0,615 mét (1.84 ft) và đường kính mặt trống là 0,78 mét (2.3 ft). Mặt trống đồng Hoàng Hạ cũng trang trí bằng các vòng tròn đồng tâm trong đó có khắc hình nhà sàn, người, chim bay. Tang trống chỗ phình ra cũng khắc hình thuyền. Các nhân vật trên thuyền tương tự như ở trống Ngọc Lũ, nhưng thứ tự bố trí hơi thay đổi một chút. Các trống đồng tìm thấy ở Hoa Nam, Lào, Cam bốt, Mã Lai tuy về hình thức (hình dáng và trang trí) có giống trống đồng Lạc Việt, nhưng những nét chạm trổ còn thô sơ vô cùng. Có thể đấy chỉ là những trống bắt chước trống Lạc Việt một cách vụng về mà thôi. Trống đồng Hoàng Hạ là một di vật rất quý.
    Trống là một cổ vật của chung miền Nam Á, gồm cả Tầu, Việt, Miên, Thái, Phi, Miến, Mã Lai, Nam Dương... mà trung tâm phát xuất lớn nhất là Việt Nam. Trống đã xuất hiện lu bù ngay từ thời khuyết sử, dưới rất nhiều hình thức như trống đất, trống gỗ, trống đồng, trống cầu mưa, trống sấm, trống vu hích, trống cầm canh... kể ra không hết. Huyền thoại có nói đến trống da quì (giao long) của Hoàng Đế, trống một chân của nhà Hạ (túc cổ), trống có lỗ thông giữa của nhà Thương (doanh cổ)... lịch sử Tư Mã Thiên có nhắc tới vụ vua nhà Chu cho Tần Mục Công một chiếc trống đồng vào năm 623 trước công nguyên. Riêng với Việt Nam, năm 43, lúc Mã Viện sang đánh Trưng Nữ Vương đã thu hết trống đồng đưa về tặng bạn bè, hoặc phá ra đúc ngựa mẫu. Từ đấy, trống bị quên lãng dần dưới ách ngoại bang... Trong Lĩnh Nam Trích Quái, có truyện "Minh chủ Đồng cổ sơn thần truyện" nhắc tới trống theo khía cạnh này. Đến thời Pháp thuộc, vào lối 1885-1895, thực dân mới nhận ra trống đồng là một di vật rất quý, nên tìm mua khắp nơi. Xin ghi lại đây mấy chiếc nổi tiếng. Trước hết là 2 chiếc loại thời danh nhất: Một do Moulié lấy được của bà góa quan lang người Mường ở miền Sông Đài tỉnh Hoà Bình. Chiếc này được đem trưng bày ở Hội Chợ Quốc Tế Paris 1889 rồi mất tích. Đến năm 1936 thấy xuất hiện ở bảo tàng viện Guimet. Hai, là chiếc trống Khai Hóa, do Gillet lấy được ở một tù trưởng Miêu tộc trên Vân Nam, cũng đưa đi đấu xảo ở Paris, rồi mất tích. Sau thấy xuất hiện ở bên Đức, tại bảo tàng viện dân tộc học thành Vienne. Chiếc trống đồng thứ ba là trống Ngọc Lũ của chùa Long Đại Sơn, làng Ngọc Lũ, tỉnh Hà Nam. Năm 1901, trường Viễn Đông Pháp đã nhờ trung gian chánh sứ Phủ Lý lấy trống ấy về Viễn Đông Bác Cổ, nay ở Hà Nội. Chiếc trống thứ tư là trống Hoàng Hạ, tìm được vào năm 1932, nhân lúc khai sông gần làng Hoàng Hạ, tỉnh Hà Đông. Trống được trao cho trường Viễn Đông Pháp, để ở bảo tàng viện Finot, nay cũng ở Hà Nội. Đó là cặp trống đẹp nhất, cổ nhất, hơn cả 2 trống Sông Đà và Khai Hóa... Có thể kể ở đây chiếc trống thứ năm, gọi là Trống Hà Nội, được Anderson mua, đưa về Stockhom. Và chiếc thứ sáu là trống Lào, tìm được bên đường cái Oubon bên Lào vào năm 1924. Theo Goloubew, chiếc trống này rất đẹp, cũng vào hạng cổ nhất, vì ít bị kiểu thức hóa. Mặt trống rộng 86 cm, cao 54 cm. Vòng 1 có 5 cặp vật giống giao long châu đầu vào nhau. Có nai và cả cá nữa. Về loại to nhất có trống Đông Hiếu (Nghệ An) rộng 89 cm, hiện ở Hà Nội. Theo Goloubew, còn một chiếc trống rộng tới 1 mét (3 ft) của một tay chơi người Pháp tên là Nelson trước ở Bắc Xế, Lào. Nghe nói ở bên Mỹ có một trống to cả thước mặt, hay là chiếc trống nói ở đây chăng? (Chúng tôi thấy có một trống rất lớn ở bảo tàng Chicago. Hay là chính nó?). Phân Loại Trống Đồng Bên Tây Âu có dấu vết đã biết về trống đồng từ năm 1682 (xem Asie du Sud Asiatique, Tome II Le Vietnam, L. Bezacier, Paris, Picard 1972). Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng như Hirth (1890) mà ông cho là bởi Tầu. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Tộc. Ông Franz Heger, một học giả người Đức làm cố vấn trong hội nghị nghiên cứu về Viễn Đông ở Hà Nội năm 1902 đã cho xuất bản tại Leipzig 2 quyển về trống đồng cổ ở Đông Nam Á. Sách in khổ lớn, có 45 hình và một bản mục lục về tất cả các diễn đề. Ông Heger chống lại ý kiến của Hirth cho trống đồng là sản phẩm của Tầu, ủng hộ ý kiến của Grooth cho là của Việt Tộc, quả quyết trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải là ở Bắc Việt, và xin người Pháp chú ý đến di vật đầy tính chất văn hóa này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy thành 4 loại. Vì sự phân chia này được các học giả công nhận, nên chúng ta cần duyệt qua để có một ý niệm khái quát: Loại I thường lớn, thân trống hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới để trống, mặt trên có hình sao đúc nổi với 12 cánh. Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao, như trống Quảng Xương. Hoặc 14 cánh như trống Ngọc Lũ, Sông Đà, Thượng Lâm. Hoặc 16 cánh như trống Hoàng Hạ, Salayar. Loại I này tìm được nhiều nhất ở Việt Nam, tiêu biểu nhất là trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, và Sông Đà. Loại II thân trống chỉ có 2 phần, không có hình người hay vật nữa, thay vào đó toàn là hoa văn hình học. Trên mặt trống thường có hình khối 4 con cóc, đôi khi 6 con. Mặt trời có 8 tia. Loại này tìm thấy nhiều ở Việt Nam cũng như mạn Nam Trung Hoa. Loại III quai nhỏ đẹp. Mặt trời có 12 cánh. 4 góc mặt có cóc, thường là 3 con chồng lên nhau thành 12. Trang trí toàn bằng đồ án hình học và hoa văn. Dưới chân có đoàn voi đúc nổi đi chung quanh cây "đời sống". Đôi khi ốc thay voi. Người ta tìm thấy loại này ở Miên. Loại IV riêng của Tầu như được chứng tỏ bằng hồi văn gẫy khúc. Kích thước thường nhỏ, không có cóc. Ngôi sao bao giờ cũng 12 tia, nhiều khi nói rõtên 12 con vật địa chi. Loại này cũng như loại III, đều xuất hiện muộn, nhưng chưa xác định được niên đại. Ngoài 4 loại trên có thể kể thêm loại trống Trấn Ninh (Vân Nam) mới tìm được hồi năm 1955, trên mặt có những khối hình người và thú (bò, ngựa, chó) diễn lại những cảnh sống: săn, chiến, lễ... Loại này khác hẳn ở chỗ thân trống cao, trên mặt thêm nhà cùng hình khối, quai là 2 con hổ.(sưu tầm)
    [​IMG]
  3. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    sự quan tâm của người Nhật với Văn Hóa Việt Nam
    Do vị trí địa lí của mình,Việt Nam từ lâu nay đã là ngã ba đường nhân chủng và văn hóa của cả Đông Á và Nam Á, nhưng trong ba nền văn hóa lớn của châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, không hiểu sao ảnh hưởng của văn hóa văn minh Nhật Bản đối với Việt Nam không nhiều. Do khoảng cách địa lí ? Do sự có mặt khắp nơi của đạo Phật ? Do thế áp đảo của đạo Khổng, chữ Hán, mô hình chính trị đến từ phương Bắc ... ( trước đây ) đối với xã hội và văn hóa Việt Nam truyền thống ? Thật ra giữa Nhật Bản và Việt Nam từ nhiều thế kỉ đã có nhiều mối quan hệ, nhiều điểm đối sánh rất đáng nêu ra. Ngày nay không phải Việt Nam không biết số lượng, chất lượng cao của văn học, mỹ thuật, âm nhạc, kịch nghệ, điện ảnh Nhật Bản ... qua các tài liệu Vô tuyến truyền hình rộng khắp, các sách báo và bách khoa toàn thư, các đại hội liên hoan, các Hội chợ quốc tế mà Việt Nam tham dự đều đặn, nhưng có lẽ cái hấp dẫn nhất đối với Việt Nam là sự giàu có quá lớn lao của cường quốc thế giới nầy qua hàng trăm địa chỉ kinh tế của Nhật Bản ngay trên đất nước chúng ta. Nhưng bên cạnh các quan hệ kinh tế, cái quan trọng hơn có lẽ là các quan hệ văn hóa mà chúng ta cần tìm hiểu, để thấy rằng thật ra Việt Nam với Nhật Bản rất gần gũi nhau trong lãnh vực này.
    Một tiếp cận đối sánh Nhật Bản - Việt Nam khái quát và cụ thểChỉ với khoảng 130 triệu dân ( hơn Việt Nam vỏn vẹn 50 triệu đầu người, so sánh chi với con số tỉ và hơn tỉ của Ấn Độ , Trung Quốc), sống trên một tổng diện tích 337.835 km2 ( chỉ hơn Việt Nam có vài ngàn km 2 ), lại bị chia cắt thành 4 hòn đảo lớn và hàng ngàn hòn đảo nhỏ bé ( trong khi Việt Nam là một nước kéo dài liền khoảnh, nếu không kể Phú Quốc, Côn Đảo, Hoàng Sa, Trường Sa), với những điều kiện thiên nhiên khó khăn hơn Việt Nam rất nhiều ( núi lửa, động đất, sóng thần, đất đai khô cằn, kém phì nhiêu, v.v... ), Nhật Bản có một GDP cao tới 3,15 ngàn tỉ USD ( năm 2000) - trong lúc Việt Nam đứng thứ 130 khi khảo sát GDP bình quân đầu người ( năm 2002) ở 175 quốc gia. Thảo nào, cách nay vài tháng, khi đưa ra những con số chính thức trên đây, giáo sư Nguyễn Lân Dũng, nhà sinh học hàng đầu của Việt Nam, đã phải day dứt : " Cuối năm Quí Mùi (2003) tôi có mặt tại Nhật Bản. Những ngày tại xứ sở hoa anh đào, tôi suy nghĩ rất nhiều về sự chênh lệch còn quá xa về trình độ khoa học, công nghệ, về quản lí trật tự xã hội và về mức sống giữa nhân dân Nhật Bản và nhân dân ta (...) Truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta có thua kém gì nhân dân Nhật Bản. Nhưng để phát huy được truyền thống ấy (...) có nhiều điểm chúng ta cần khiêm tốn học hỏi nhân dân xứ sở hoa anh đào "
    Nhận xét chí lí của giáo sư Nguyễn Lân Dũng đầu năm 2004 này cần được bổ sung bằng ý kiến đánh giá của giáo sư Yoshiaki Ishizawa, giám đốc Viện Văn hóa Á châu Đại học Sophia, quyền trưởng đoàn đại biểu Nhật Bản tham dự Hội thảo quốc tế về đô thị cổ Hội An tổ chức tại TP Đà Nẵng tháng 3-1990: " Việt Nam với một lịch sử lâu đời và quang vinh, với một di sản và truyền thống văn hóa phong phú, đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành nền văn hóa của khu vực rộng lớn ở Đông Nam Á. Nhờ những đặc tính độc đáo và có ảnh hưởng sâu rộng đó, đất nước tuyệt vời của các quí vị đã thu hút được nhiều học giả và chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới trong một thời gian dài " Đến từ một trí thức Nhật có uy tín, ý kiến này phải được coi trọng. Và có lẽ đã đến lúc cần đưa ra vài ví dụ cụ thể, vài trường hợp tiêu biểu để chứng minh rằng người Nhật Bản, hơn một lần, đã tỏ lòng ái mộ văn hóa văn minh Việt Nam.
    Đã có một cuộc chung sống hòa bình tốt đẹp giữa người Việt và người Nhật vào cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVIINgày 11-9-2003, tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tổ chức tại Hà Nội hội thảo khoa học : " Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản : quá khứ, hiện tại và tương lai ", với sự có mặt của đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Hattori Norio và đông đảo chuyên gia người Việt và người Nhật nghiên cứu so sánh văn hóa, lịch sử, kinh tế Việt- Nhật để thảo luận các vấn đề : quá trình quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong quá khứ, quan hệ giữa hai nước trong 30 năm gần đây (1974-2003), thực trạng của quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong giai đoạn hiện nay, triển vọng của mối quan hệ này trong tương lai Người Nhật tại Hội An thế kỉ 16-17Qua cuộc hội thảo mới mẻ và bao quát này cũng như qua một số cuộc hội thảo và hội nghị khoa học trước đây, ví dụ Hội thảo quốc tế về Hội An tháng 3-1990 nêu trên hay Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất tại Hà Nội, tháng 7-1998, chúng ta thấy trong buổi hình thành và bước đầu phát đạt tại Đàng Trong nước Đại Việt vào cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVII, Hội An của xứ Quảng ở phía nam Thuận Hóa đã là nơi hội tụ của cư dân của nhiều nơi trong nước mà cũng là nơi tụ hội của nhiều thuyền buôn và kiều dân nước ngoài, trong đó có đông đảo người Nhật Bản và người Trung Quốc. Họ đông (nhiều trăm ?, hàng ngàn ?) đến nỗi hồi kí của cố đạo người Ý Cristophoro Borri (và một số tài liệu ghi chép khác sau ông) xác nhận Hội An đầu thế kỉ XVII có một khu phố Nhật và một khu phố Khách (Hoa) : "Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật, người Tàu chọn một địa điểm để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán. Thành phố này là Faifo, một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có đến hai thành phố, một phố người Tàu và một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng, có thị trưởng riêng và sống theo tập tục riêng. Người Tàu có luật lệ và phong tục của người Tàu, và người Nhật cũng vậy" (4).Quan hệ giao lưu kinh tế và văn hóa giữa Đại Việt , ( Đàng Ngoài và nhất là Đàng Trong) với Nhật Bản được bắt đầu từ cuối thế kỉ XVI. Nhiều tàu buôn Nhật chở tới Hội An vàng, bạc, đồng, vũ khí... bán cho Đàng Trong và mua lại tơ tằm, gốm sứ, đường, san hô, ngà voi, trầm hương, kì nam... đưa về Nhật. Đầu thế kỉ XVII, thương nhân Nhật, do làm ăn phát đạt tại Hội An, đã mua 20 mẫu ruộng đất, xây dựng phố xá, buôn bán, làm ruộng, cưới vợ Việt, xây chùa (Tùng Bổn Tự), dựng bia, đúc chuông và tượng Phật. Trong khi người Nhật ở đầu đường phía mặt trời mọc của Hội An, thì người Tàu lập phố ở cuối đường phía mặt trời lặn thuộc làng Cẩm Phô và Thanh Hà. Từ phố Nhật lên chợ Cẩm Phô và phố Tàu phải qua một con khe nên người Nhật đã xây dựng một chiếc cầu gọi là Cầu Nhật Bản. Đây là thời kì cực thịnh của phố Nhật ở Hội An nên người phương Tây gọi Hội An là "Đô thị Nhật Bản" và ông thị trưởng đầu tiên của phố Nhật được chúa Nguyễn công nhận năm 1618 là một nhà buôn kiêm chủ tàu tên Furamoto Yashishiro. Có những thị trưởng Nhật có uy tín và ảnh hưởng lớn ở Đàng Trong. Thời kì Đàng Trong bài đạo Thiên Chúa gay gắt, giáo sĩ Alexandre de Rhodes được một thị trưởng Nhật tại Hội An che chở và can thiệp để chúa Nguyễn ban đặc ân cho De Rhodes không bị đàn áp
    Từ năm 1636 chính quyền Nhật Bản ban hành lệnh cấm xuất ngoại làm cho quan hệ buôn bán giữa Hội An và Nhật Bản sa sút dần và số người Nhật cũng giảm dần. Cùng lúc đó, số người Hoa vốn có mặt ở Hội An từ trước không ngừng tăng lên. Đến giữa thế kỉ XVII, người Hoa thay thế người Nhật và chiếm ưu thế. Đến cuối thế kỉ thì người Nhật gần như đã hết vai trò: họ chỉ còn lại khoảng 4 hay 5 gia đình. Thương trường dần dần chuyển sang tay người Hoa, họ tràn sang phố Nhật (Từ thế kỉ XVIII, người Nhật vắng mặt ở Hội An, nhưng tại Nhật Bản họ vẫn còn giữ nhiều kỉ niệm, văn vật và sử liệu quí báu có thể giúp cho người Việt Nam hiểu rõ thêm lịch sử và văn hóa của mình
    [​IMG]
    (TẦU NHẬT BẢN CẬP CẢNG HỘI AN)
    [​IMG]
    THƯƠNG NHÂN NHẬT BẢN DÂNG LỄ VẬT CHO CHÚA NGUYỄN TẠI HỘI AN
  4. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Những văn vật ghi dấu quan hệ giao lưu văn hóa Việt-Nhật tốt đẹp ở thời trung đại
    Tàn phá của nội chiến Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn đã làm mất đi bao nhiêu chứng tích lịch sử và văn hóa của thời đại Đại Việt nhưng Nhật Bản vẫn còn tàng trữ nhiều văn kiện ngoại giao liên quan đến vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn ở các thế kỉ XVI - XVII - XVIII . Đó là các bộ sưu tập đồ sộ : Rekidai hôan (Lịch đại bảo án: Những tư liệu quí báu qua các đời) tập hợp các văn thư trao đổi giữa vương quốc Lưu Cầu của Nhật Bản với Trung Quốc, Triều Tiên và các nước Đông Nam Á (từ 1424 đến 1867), trong đó có Đại Việt ; Gaiban Tsuusho (Ngoại phiên thông thư, văn thư trao đổi giữa Nhật Bản với 11 nước và hai khu vực, gồm 27 quyển : từ quyển 11 đến 14 nhan đề "An Nam quốc thư" gồm 56 bức thư trao đổi giữa chính quyền Mạc Phủ Đức Xuyên với các chúa Trịnh, chúa Nguyễn (Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Trăn, Nguyễn Phúc Chu, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng...) liên quan đến hoạt động các tàu Châu Ấn (Shuinsen) của Nhật Bản và quan hệ buôn bán Việt-Nhật ở Đàng Trong, Đàng Ngoài Đại Việt, qua đó người ta thấy chúa Trịnh, chúa Nguyễn tuy chống nhau nhưng đều mưu cầu thông giao với Nhật Bản và đều xưng mình là "An Nam quốc vương" với chính quyền Nhật (7). Một điều rất có ý nghĩa đối với lịch sử văn hóa Việt Nam là các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho chúng ta biết : hiện nay trong các viện bảo tàng cũng như trong các bộ sưu tập của tư nhân Nhật Bản có nhiều đồ gốm sứ của Đại Việt được đưa vào Nhật Bản từ giữa nửa đầu thế kỉ XIV ( từ những năm 1330 thời Trần). Các chuyên gia gốm sứ Nhật Bản, như giáo sư Hasebe Gakuji thuộc Viện Bảo Tàng Quốc Gia Tokyo, thừa nhận vào thời ấy kĩ thuật sản xuất đồ gốm Nhật Bản còn kém xa so với đồ gốm sứ Đại Việt : "Nghe nói sứ men ngọc, sứ trắng rất nổi tiếng [ở Đại Việt] đã được sản xuất vào thế kỉ XI [đời Lý]. Còn ở Nhật Bản ở thế kỉ XIV-XV kĩ thuật quét lớp men nung ở nhiệt độ cao chỉ có ở vùng Seto tỉnh Aichi, còn ở nhiều nơi khác chỉ mới làm được loại gốm nung màu xám hoặc màu đỏ thẫm chưa có men. [...] Sứ [Đại Việt] thế kỉ XV-XVI được đưa nhiều vào Nhật Bản. [...] Sang thế kỉ XVII các tàu buôn đến [Đại Việt] mua tơ sống, hàng lụa, hương liệu và các loại tạp hóa, đồng thời còn mua một khối lượng lớn đồ gốm sứ Đại Việt. Điều này có thể chứng minh bằng nhiều di vật còn nguyên vẹn hiện nay vẫn cất giữ ở Nhật Bản. Loại đồ sứ Đại Việt tiêu biểu là lọ hoa xanh có hình rồng, vật sở hữu của gia đình tướng quân Tokugawa. Loại sứ nổi tiếng thứ hai là loại chén trà An Nam hồng hoa xanh lam có điểm thêm màu đỏ và xanh lục rất lộng lẫy, bên trong chén có vẽ chữ "thọ". [...] Vào khoảng thế kỉ XVII các gia đình thương nhân giàu có, các gia đình phái Trà đạo đều có giữ các đồ sứ [Đại Việt]" (8).
    Những hình ảnh đẹp đẽ của đô thị Đại Việt tiếp đón và dung nạp người Nhật cách nay 300 nămNếu Samuel Baron, tác giả cuốn Một miêu tả về vương quốc Tonqueen, tức là Đàng Ngoài của Đại Việt (nguyên bản tiếng Anh), viết vào khoảng 1685, đã để lại cho chúng ta 5 bức vẽ của một (hay nhiều) họa sĩ người Việt vẽ các quan cảnh : Thăng Long cuối thế kỉ XVII ven sông Hồng, vua Lê ngự triều, chúa Trịnh thiết triều, cuộc thi đình, lễ Tế giao, thì một vài (hay nhiều) họa sĩ Nhật Bản đã cống hiến cho đời sau hai kiệt tác hội họa : tranh Vượt biển buôn bán thông thương với nước Giao Chỉ (Giao chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ) và tranh Thác kiến Quan thế Âm.
    Cả hai bức hiện tàng trữ tại chùa Jomyo ở thành phố Nagoya, một đô thị-cảng lớn với 2,5 triệu dân ở miền Trung Nhật Bản và được xem là hai báu vật quốc gia.
    Tranh "Vượt biển..." là một bức tranh màu nước đồ sộ : cao 78 cm, dài 498 cm. Tranh bị mất một phần không rõ nhiều hay ít, phần còn lại cho thấy bốn cảnh quan : cảnh thuyền Châu Ấn rời Nagasaki đi Giao Chỉ và cập bến Hội An (Đàng Trong của Đại Việt), cảnh thương nhân Nhật dâng lễ vật cho một người hình như là chúa Nguyễn ; cảnh phố Nhật ở Hội An; cảnh trong đất liền có ngôi nhà lớn (hội quán ? ). Bức tranh này (dù bị mất một phần) vẫn có giá trị lớn về lịch sử và mỹ thuật vì nó miêu tả sinh động cảnh quan một đô thị cảng của Đại Việt với một phố Nhật đầu thế kỉ XVII. Tranh "Thác kiến Quan thế âm" là bức tranh vẽ tượng Phật nổi tiếng, tương truyền đó là món quà của "An Nam quốc vương" tặng cho thuyền Châu Ấn của dòng họ thương nhân Chaya khi thuyền đến Hội An. Điều đó cũng góp phần chứng minh cho sự thịnh hành của đạo Phật ở Đàng Trong thời các chúa Nguyễn (9).
    Từ cuối thế kỉ XIX đến nay ngành Việt Nam học đã hình thành và liên tục phát triển tại Nhật BảnKhởi đầu từ cuốn An Nam lịch sử đại cương của nhà sử học Hikita Toshiaki ( người đã khai thác triệt để bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn thế kỉ XIX và đã dịch ra tiếng Nhật bộ Đại Việt sử kí toàn thư của các sử quan triều Lê thế kỉ XVII) đến cuốn Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1845-1885 của nhà sử học Tsuboi Yoshiharu xuất bản lần đầu tại Paris rồi được dịch, xuất bản và tái bản ở Việt Nam (1990, 1992) được giới sử học và bạn đọc Việt Nam hoan nghênh, hàng chục công trình sử học về Việt Nam đã được xuất bản tại Nhật Bản. Từ sau khi bộ Từ điển chữ Nôm của Y. Takeuchi được xuất bản năm 1968 tại Tokyo , nhiều nhà nghiên cứu và chuyên gia công nghệ thông tin của Nhật Bản đã tỏ lòng ưu ái đối với chữ Nôm của cha ông ta và một đóng góp lớn lao của họ là sự kiện Viện Mojikio của Nhật Bản đã thành công nghiên cứu chế tạo phần mềm chữ Nôm với khoảng 9.000 mã chữ và đã trân trọng tặng Viện Nghiên cứu Hán-Nôm của Việt Nam món quà văn hóa này vào năm 2000.
    Trước đó, tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội (ngày 15-17/1998) giáo sư Furuta Motoo, của Đại học Tokyo, đã đọc bản báo cáo : Tại sao ở Nhật Bản có nhiều nhà Việt Nam học ? Nhìn lại quá trình phát triển Hội Nhật Bản Nghiên Cứu Việt Nam cho chúng ta biết : Hội nghiên cứu Đông phương học lớn nhất của Nhật Bản là Hội Nhật Bản Nghiên Cứu Lịch Sử Đông Nam Á với trên 400 hội viên trong đó có 86 người nghiên cứu Inđônêxia, 67 người nghiên cứu Thái Lan và 65 người nghiên cứu Việt Nam. Như vậy Việt Nam học đã chiếm vị trí thứ 3 trong nghành nghiên cứu Đông Nam Á ở Nhật Bản; còn Hội Nhật Bản Nghiên Cứu Việt Nam (thành lập năm 1987) nay đã có hơn 100 hội viên. Giáo sư Furuta Motoo cho rằng Việt Nam là một nước có nền văn hóa rất gần gũi đối với người Nhật Bản ; từ rất sớm ngành sử học Nhật Bản đã quan tâm đến lịch sử Việt Nam : những điều đó trở thành thế mạnh của ngành Việt Nam học tại Nhật Bản (10).
    Từ năm 1970 đến nay, người Nhật Bản luôn luôn bày tỏ niềm ái mộ đối với văn học nghệ thuật Việt NamNăm 1970 có lẽ là một thời điểm quan trọng đánh dấu sự quan tâm và ái mộ mà người Nhật Bản liên tục dành cho văn học nghệ thuật Việt Nam: lần đầu tiên một đoàn nghệ thuật truyền thống Việt Nam do giáo sư Nguyễn Hữu Ba dẫn đầu đã biểu diễn ca múa nhạc cung đình Hueá trên sân khấu lớn của Expo Quốc tế Osaka 70 và đã được hoan nghênh. Trước hết hãy nói đến sự quan tâm của Nhật Bản đối với văn học Việt Nam. Trước khi làm quen với văn học Việt Nam hiện đại, người Nhật đã biết đến văn học Việt Nam truyền thống qua những tác phẩm và kiệt tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu ... qua các bản dịch tiếng Nhật ra đời trước 1945. Cũng tại Hội nghị Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất ( Hà Nội 1998 ), nhà nghiên cứu Izumi Takahashi thuộc cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản ở Tokyo, trong bài tham luận rất dài gồm nhiều số lượng thống kê nhan đề Các tác phẩm Văn học hiện đại của Việt Nam đã được dịch và xuất bản ở Nhật Bản, sau khi khẳng định rằng văn hóa truyền thống Việt Nam, với tính tự trọng dân tộc, tính nhân bản và tính cộng đồng cao, chứa đựng nhiều điểm tương tự với văn hóa Nhật Bản và văn học là nhịp cầu văn hóa nối liền hai dân tộc, đã cho biết là việc dịch thuật văn học hiện đại ở Việt Nam đã phát triển rất mạnh tại Nhật Bản ở hai thời kì : 1965 - 75 và từ sau 1992 đến ngày nay. Theo những thống kê mà Takahashi đã thực hiện, trong thời gian từ 1962 đến 1997 tại Nhật Bản đã được dịch và xuất bản tổng cộng 131 tác phẩm (truyện dài, truyện ngắn, thơ, kịch...) của 114 lượt tác giả Việt Nam. So với các nước khác ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, phải chăng đây là bằng chứng về lòng ưu ái và quí trọng hiển nhiên của bạn đọc và giới văn hóa Nhật Bản đối với văn học và văn hóa Việt Nam ?
    [​IMG]
  5. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Niềm ái mộ đặc biệt của khán giả Nhật Bản dành cho nghệ thuật truyền thống Việt NamSau khi đoàn nghệ thuật truyền thống Việt Nam được tiếp đón nồng nhiệt tại Expo Quốc tế Osaka 70, nhất là từ sau 1975, nhiều đoàn nghệ thuật truyền thống Việt Nam: chèo, ca trù, quan họ, múa rối nước, nhạc cung đình, nhạc cổ điển Việt Nam... đã được mời sang biểu diễn tại Nhật Bản. Qua dư luận phản ánh trên báo chí, hay trên diễn đàn các hội thảo, hội nghị khoa học, người ta thấy nghệ thuật truyền thống Việt Nam đã được người Nhật Bản đón nhận với niềm ái mộ đặc biệt. Sau đây là một vài kỉ niệm và chứng tích văn hóa khó quên. Mùa xuân 1995, Nhật Bản mời giáo sư Hà Văn Cầu, nguyên giám đốc Nhà Hát chèo Việt Nam, cùng một số nhà nghiên cứu chèo và Đoàn chèo tỉnh Thái Bình, sang biểu diễn và sau đó tham dự cuộc Hội thảo khoa học về chèo do phía Nhật Bản tổ chức tại Trung tâm Văn hóa Đông Nam Á ở Tokyo. Sau khi đoàn chèo Thái Bình biểu diễn 4 đêm (không đêm nào còn vé) đã diễn ra cuộc Hội thảo qui tụ hơn 200 nhà nghiên cứu Nhật Bản quan tâm đến nghệ thuật chèo. Giáo sư Hà Văn Cầu trình bày bản tham luận "Giới thiệu thêm về nghệ thuật chèo ". Sau khi nhiều nhà nghiên cứu Nhật Bản trình bày về chèo, đến lượt các nhà nghiên cứu và nghệ nhân chèo Việt Nam được mời trả lời rất nhiều câu hỏi từ phía Nhật Bản: Quả thừu lựu được nhắc đến trong một vở chèo là quả gì ? Tên khoa học của nó ? Thế nào là học chèo theo lối "truyền nghề" ? Trong chèo, thế nào là hát nói và nói hát ? Có điệu chèo nào khi vui cũng hát, khi buồn cũng hát không ? Chèo hiện nay có phản ánh những vấn đề đương đại không ?... Đoàn Việt Nam đã trả lời suôn sẻ nhưng thú thật cũng đã toát mồ hôi hột! Kỉ niệm sâu sắc nhất của giáo sư Hà Văn Cầu về chuyến đi năm 1995 ấy là "thái độ khiêm nhường, ham học hỏi và đặc biệt trân trọng văn hóa các dân tộc khác của người Nhật" (12).
    Từ Dự án phục hồi Nhã nhạc cung đình Huế do sự đề xướng của Nhật Bản đến sự kiện UNESCO công nhận Nhã nhạc cung đình Huế là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.Mùa xuân 1994, UNESCO và Việt Nam đã tổ chức tại Thành phố Huế một cuộc tọa đàm quốc tế về bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể vùng Huế. Tham dự cuộc tọa đàm này có bà Noriko Aikawa, giám đốc Vụ văn hóa phi vật thể của UNESCO, và hai giáo sư âm nhạc học Tokumaru Yoshihiko và Yamakuti Osamu. Trong khi hội thảo có trình diễn nhã nhạc cung đình Huế. Sau khi xem các nghệ nhân lúc đó đã trên 70 tuổi mà còn giữ được truyền thống nhạc cung đình, các nhà văn hóa Nhật Bản đã ưu ái đưa ra một Kế hoạch phục hồi âm nhạc cung đình Việt Nam . Ngay sau đó họ lại biến kế hoạch này thành một Dự án phục hồi Nhã nhạc với sự tham dự của đại diện bốn nước có truyền thống nhạc cung đình : Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Phía Nhật Bản chịu trách nhiệm tài trợ cho dự án: Cơ quan văn hóa Arion Edo mời đoàn nghệ thuật ca múa nhạc cung đình sang biểu diễn tại Nhật Bản, đài truyền hình NHK thu âm, ghi hình và phát lại chương trình biểu diễn trên sóng cho toàn dân Nhật xem ; quĩ Toyota Foundation tài trợ cho đoàn nghiên cứu nhạc học và chuyên viên kĩ thuật Nhật Bản đến Huế thu âm ghi hình Nhã nhạc cung đình làm thành một Hồ sơ nghe nhìn đồ sộ tàng trữ tại hai đại học Tokyo và Osaka ; quĩ Japan Foundation tài trợ cho lớp Đại học Nhã nhạc cung đình Huế (1997-2000). Sau Hội thảo quốc tế về Nhã nhạc cung đình lần đầu tiên tổ chức tại Huế (8-2002), bà Noriko Aikawa và giáo sư Trần Văn Khê, với sự hỗ trợ của các giáo sư Nhật Bản, Đại Hàn, đã giúp phía Việt Nam chấn chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hồ sơ Nhã nhạc cung đình Huế trình UNESCO. Kết quả là ngày 7-11-2003, tại Paris, nhà văn hóa Nhật Bản Koichiro Matsura tổng giám đốc UNESCO đã tuyên bố: Nhã nhạc cung đình Huế, cùng với 27 kiệt tác của 27 nước, được tuyên dương là di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (13).
    Sáu năm trước đó (1997), khi giới thiệu quyển Âm nhạc cung đình triều Nguyễn của nhà nhạc học trẻ Trần Kiều Lại Thủy , giáo sư Trần Văn Khê đã nhấn mạnh : " Đến nay chưa có quyển sách nào bằng tiếng Việt viết về đề tài này. Tôi rất mong công trình của Trần Kiều Lại Thủy được in ra để cho các nhà nghiên cứu âm nhạc có dịp đọc và bổ sung về một loại nhạc được các nhà nhạc học Nhật Bản đánh giá cao, rất độc đáo của dân tộc Việt Nam ... ) (14).
    Tháng 12-2002, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam và Viện Âm nhạc Việt Nam lại xuất bản tập Kỷ yếu Hội thảo quốc tế âm nhạc cung đình Huế (260 trang), và đoàn đại biểu Nhật Bản, qua tiếng nói của các nhà văn hóa, nhà nhạc học ưu tú (bà Noriko Aikawa, giáo sư Yoshiaki Ishizawa, Oshio Satomi) lại có dịp bày tỏ lòng ưu ái và lòng quí trọng di sản văn hóa Việt Nam.
    Quan hệ giao lưu văn hóa Việt-Nhật đẹp đẽ quá Đúng như lời giáo sư Yoshiaki Tokumaru đã nói cách nay 14 năm khi ông tham dự Hội thảo quốc tế về đô thị cổ Hội An: " Mặc dù có thể đã có những sự kiện đáng buồn trong lịch sử quan hệ Nhật - Việt, nhưng cũng đã có những sự trao đổi mang tính chất hòa bình và xây dựng (...) (15). Và có lẽ còn hơn thế nữa: Sau khi người Nhật đã dừng chân chiêm ngưỡng và góp phần thúc nở đóa hoa Nhã nhạc cung đình Việt trong vườn ngự của Văn minh Nhân loại, trong mấy năm gấn đây, quan hệ giao lưu văn hóa nghệ thuật Việt-Nhật đã ghi thêm nhiều nét son tươi thắm . Trong khi nhiều nữ du khách Nhật Bản tung tăng trong chiếc áo dài duyên dáng trên đường phố Sài Gòn, thì Festival Văn Hóa - Du Lịch Việt Nam được tổ chức tại nhiều thành phố Nhật ( 2001) . Để đáp lễ nhau, Nhật Bản gửi đoàn nghệ thuật Nhật Bản Kuna Uka tham dự biểu diễn tại Festival Huế 2002, bên cạnh các đoàn nghệ thuật của Lào, Campuchia, Đại Hàn, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Pháp, trong mùa xuân 2002. Cuối năm 2003, ngành thời trang Việt Nam đã cử hành một "Cuộc hiến dâng ở Đền Thiêng" : tại ngôi đền cổ Kiyomizu ở cố đô Kyoto, trước 100 vị khách tiếng tăm của Nhật và hàng ngàn du khách quốc tế nhà thiết kế thời trang Minh Hạnh đã để cho 60 thiếu nữ Việt và Nhật trình diễn 60 bộ trang phục kết hợp hài hòa giữa văn hóa Việt Nam và văn hoá Nhật Bản. Chị Minh Hạnh đã nói : " Tôi cảm thấy rất vinh dự vì mình là người Việt đầu tiên biểu diễn thời trang tại một ngôi đền được người Nhật Bản tôn kính. Điều này thể hiện người Nhật rất yêu quí Việt Nam. Xuất phát từ tình cảm trân trọng này tôi đã lấy ý tưởng từ đường nét của tà áo dài truyền thống của Việt Nam và chiếc áo kimono cùng những hoa văn truyền thống của Nhật để tạo nên bộ sưu tập mang tên "Trở lại thiên đường" .
    Mùa xuân 2004, Liên hoan văn hóa Nghệ thuật Dân gian Việt Nam được tổ chức tại Công viên Thống Nhất, trước Dinh Độc Lập cũ tại Sài Gòn, gồm năm khu : Khu Văn hóa lễ hội, Khu Trò chơi dân gian, Khu Sài Gòn - TP HCM "Hòn ngọc tỏa sáng", Khu triển lãm nhạc cụ và trang phục VN, Khu ẩm thực dân gian. Bảy đoàn nghệ thuật châu Á đã tham dự Liên hoan Folklore lớn này: đó là đoàn nghệ thuật dân gian Nhật Bản bên cạnh các đoàn của Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Myanmar, Thái Lan và Trung Quốc ( từ 27 đến 30 tháng 4 ).
    Giữa tháng 4-2004, các cơ quan truyền thông VN đưa tin : Bộ Văn hóa và Bộ Ngoại giao đã quyết định hỗ trợ và Saigontourist cùng Vietnam Airlines đã quyết định tài trợ cho một đoàn điện ảnh Nhật Bản thuộc hãng phim truyền hình Asahi đến Việt Nam thực hiện, từ 18-4 đến 18-5, bộ phim truyền hình dài 10 tập (tổng cộng 300 phút) mang tên Việt Nam Mến Yêu . Ông Masao Omadaka, giám đốc sản xuát phim, cho biết : Truyện phim xoay quanh hành trình của cô Yuko - do diễn viên Nishida nổi tiếng đóng - đến VN tìm người yêu Việt của anh trai mình. Trong thời gian rong ruổi trên các cung đường từ TP. HCM đến Tiền Giang, Mũi Né, Hội An, Huế, Hà Nội, Bắc Ninh... Yuko và các bạn người Nhật của cô sẽ khám phá những nét hấp dẫn của thiên nhiên, phong cảnh, sự độc đáo của nền văn hóa lâu đời, sức hấp dẫn của nền ẩm thực cùng sự hồn nhiên , đôn hậu, thân thiện của người Việt. Nhà điện ảnh Masao Omadaka nhấn mạnh : " Việt Nam Mến Yêu (10 tập) có lẽ là phim truyền hình dài hơi nhất của Nhật quay tại VN nhằm quảng bá văn hóa du lịch VN với công chúng Nhật. Phim sẽ được công chiếu vào " giờ vàng " tại Nhật: các buổi trưa thứ bảy hàng tuần từ tháng 10 đến đến tháng 12-2004 trên các kênh truyền hình Asahi, NHK, ... Đối với du khách Nhật, đặc biệt giới trẻ, VN đang trở thành điểm đến hấp dẫn ... Tôi tin chắc hàng năm sẽ có hàng triệu du khách Nhật đến Việt Nam ... (16)
    Nói như nhà thơ Malherbe thời Phục Hưng Pháp : "Et les fruits passeront la promesse des fleurs" (Rồi trái sẽ vượt xa lời hoa hẹn nguyền).
    Chú thích và tham khảo(1) Nguyễn Lân Dũng, Kinh nghiệm Nhật Bản, tập san Kiến Thức Ngày Nay, thành phố Hồ Chí Minh, số Xuân Tết 2004, tr. 26-29.
    (2) Yoshiaki Ishizawa,Phát biểu bế mạc, Đô thị cổ Hội An, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế , Đà Nẵng, 22/23-3-1990, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1991, tr. 381.
    (3) Thu Hằng, Thông tin về Hội thảo khoa học : Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản : Quá khứ, hiện tại và tương lai, tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, Hà Nội, số 6-2003.
    (4) Critophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 92.
    (5) Vũ Ninh Giang, Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An ; Đỗ Bang, Quan hệ và phương thức buôn bán giữa Hội An với trong nước, Đô thị cổ Hội An, Kỉ yếu Hội thảo , sách đã dẫn, tr. 205-215, 231-245.
    (6) Phan Huy Lê, Hội An : lịch sử và hiện trạng , Đô thị cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo, sách đã dẫn, tr. 23-24.
    (7) Vĩnh Sính (giới thiệu và chú giải), Một văn thư vương quốc Lưu Cầu gởi sang Việt Nam vào đầu thế kỉ XVI, tập san Diễn Đàn, Paris, số 127, tháng 3-2003, tr. 29-32 ; Kunie Kawamoto, Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Gaiban Tsuusho (Ngoại Phiên Thông Thư), Đô thị cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo , sách đã dẫn, tr. 169-178.
    (8) Hasebe Gakuji, Tìm hiểu mối quan hệ Nhật-Việt qua đồ gốm, sứ, Đô thị cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo , sách đã dẫn, tr. 81-83.
    (9) Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Lối xưa xe ngựa, tập I và II, Nxb An Tiêm, Paris.
    Oguro Sadao, Về bức tranh Giao Chỉ quốc Mậu dịch độ hải đồ, Đô thị cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo , sách đã dẫn, tr. 193-200.
    (10) Furata Motoo, Tại sao ở Nhật Bản có nhiều nhà Việt Nam học ? , Việt Nam học, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15/17-7-1998, tập I, tr. 204-205.
    (11) Izumi Takahashi, Các tác phẩm văn học hiện đại của Việt Nam đã được dịch và xuất bản ở Nhật Bản, Việt Nam học, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, sách đã dẫn, tập II, tr. 428-444.
    (12) Trần Chính, Trò chuyện với giáo sư Hà Văn Cầu: Chèo ta đi Nhật, báo Nhân Dân, Hà Nội, số 12 (320), ngày 19-3-1995, tr. 9, 15.
    (13) Lê Văn : Năm 2003, Việt Nam hai lần được vinh danh : Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng và Nhã Nhạc Cung đình Huế, di sản của nhân loại , Chim Việt Canh Nam, báo Online, số 16 18 - 05 - 2004
    (14) Trần Kiều Lại Thủy, Âm nhạc cung đình triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1997, Lời giới thiệu của giáo sư Trần Văn Khê tr. 5-6.
    (15) Yoshiaki Ishizawa, Hội An và cư dân Nhật trước đây, Đô thị cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo .... Sđd, tr. 30. (16) Chúng tôi yêu Việt Nam, Ông Masao Omakada trả lời phỏng vấn của nhà báo Nguyễn Tiến Đạt, T.s. Tuổi Trẻ Chủ Nhật (TP.HCM) số 17-05 ra ngày 2-5-2004, tr. 26
  6. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Sự quan tâm của Bỉ và Áo với văn hoá Việt nam
    Bỉ và Áo : hai nước nhỏ, văn hóa lớn Nói đến nước Bỉ ở Tây Âu và nước Áo ở Trung Âu, có thể người ta nghĩ đó là hai nước nhỏ. Thực ra vương quốc Bỉ và Cộng hòa Áo chỉ nhỏ về diện tích và số dân: Bỉ rộng 30.500 km2 và có 10 triệu dân với cộng đồng nói tiếng Hà Lan (đa số), nói tiếng Pháp (ít hơn) và nói tiếng Đức (thiểu số) ; còn Áo rộng 84.000 km2 với 8 triệu dân nói thuần tiếng Đức. Về mặt lịch sử, chính trị và văn hóa, đây là những nước không nhỏ. Tuy vương quốc lập hiến của Bỉ chỉ ra đời vào năm 1831 nhưng người Bỉ có mặt trong lịch sử châu Âu từ thế kỷ 9. Từ thế kỷ 15 đến nay Bỉ đã đóng góp cho châu Âu và thế giới nhiều tài năng văn hóa nghệ thuật nổi tiếng như các danh họa Van Eyck, J. Bosch, Bruegel, Rubens, Van Dyck... ; các văn hào, nhà thơ G. Simenon, M. Maeterlinck... Bỉ cũng có nhiều thành phố nghệ thuật nổi tiếng như Anvers, Bruges, Gang, Liège... Đặc biệt thủ đô Bruxelles (Brussel) là một trong hai thủ đô của Liên Hiệp Châu Âu - cùng với thành phố lớn Strasbourg của Pháp.
    Còn tiểu quốc Áo đã có mặt từ đầu thế kỷ 9, thời hoàng đế Charlemagne. Từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, Áo là một vương quốc cường thịnh ở Trung Âu dưới tên gọi Đế chế Áo, rồi Đế chế Áo-Hung (empire Austro-Hongrois). Chỉ từ năm 1919 , sau Đại chiến thế giới I, cộng hòa Áo mới trở thành một nước nhỏ ở Trung Âu. Nhưng Áo đã đóng góp cho văn hóa nghệ thuật châu Âu và thế giới những tên tuổi lẫy lừng : những nhà văn, nhà thơ R-M. Rilke, S. Sweig... ; những nhạc sĩ J. Haydn, W-A Mozart, J. Strauss, F. Schuman, R. Strauss, người cha của ngành phân tâm học S. Freud... Áo cũng có những thành phố nghệ thuật có tiếng : thủ đô Vienne, Salzburg, Linz, Innsbruck...
    Đặc biệt là vương quốc Bỉ và cộng hòa Áo có những di tích lịch sử văn hóa lâu đời và đẹp đẽ, những thư viện lớn, những viện bảo tàng lịch sử, mỹ thuật, dân tộc học, phong phú không thua các nước lớn ở Âu, Á, Mỹ, Phi. Ở Bỉ và Áo có thể tìm xem vô số hiện vật mỹ thuật và dân tộc học quí hiếm của các nước châu Á, trong đó có hàng ngàn hiện vật của Việt Nam.Bỉ và Áo quan tâm đến văn hóa nghệ thuật Việt Nam Chỉ trong vòng 20 năm gần đây, Bỉ và Áo đã lần lượt tổ chức 5 cuộc triển lãm quan trọng về văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Đó là:
    1. Tiếng nói của những cổ trống, Việt Nam ?" Indônêxia?" Thái Bình Dương, tổ chức từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1983 tại Viện bảo tàng hoàng gia Mariemont (Morlanwelz) , Bỉ.
    2. Việt Nam thế kỷ 20, Nghệ thuật tạo hình và nghe nhìn từ 1925 đến nay: tổ chức tại Không gian Phương Nam (Espace Méridien), Bruxelles, Bỉ, từ 9-10 đến 31-12-1998.
    3. Những nền mỹ thuật Việt Nam, Hoa đào và Chim xanh, tổ chức tại Viện bảo tàng hoàng gia Mariemont (Morlanwelz), Bỉ, từ 20-4 đến 18-8-2002.
    4. Việt Nam, Mỹ thuật và những nền văn hóa từ thời tiền sử đến ngày nay, tổ chức tại Viện bảo tàng hoàng gia Mỹ thuật và Lịch sử Bruxelles, Bỉ, từ 17-9-2003 đến 29-2-2004.
    5. Sự quyến rũ mê hồn của Việt Nam, Thần linh, Anh hùng, Tổ tiên, tổ chức tại Cung điện Mới, thành phố cổ Leoben, Áo, từ 3-4- đến 1-11-2004 (1).Triển lãm Nghệ thuật và Văn hóa
    Việt Nam,
    Bruxelles 2003/2004Triển lãm Việt Nam thế kỷ XX,
    1925-1998
    tại Bỉ, 1998Triển lãm Sự quyến rũ mê hồn
    của Việt Nam,
    Léoben, 20041983 : nền văn minh Đông Sơn được vinh danh tại BỉTừ mùa xuân 1983 (18 tháng 3) đến mùa thu ( 18 tháng 9), Viện bảo tàng hoàng gia Mariemont, tỉnh Morlanwelz, đã có sáng kiến khởi xướng một cuộc triển lãm quan trọng và độc đáo : "Tiếng nói của những cổ trống, Việt Nam - Indônêxia - Thái Bình Dương " , tập hợp hơn 100 hiện vật quí hiếm và tranh ảnh độc đáo của bốn viện bảo tàng Bỉ, Pháp và của nhiều bộ sưu tập tư nhân (collections particulières). Theo nhà bảo tàng học Bỉ Catherine Talon-Noppe, người phụ trách tổ chức triển lãm và là một trong hai tác giả quyển Catalô giới thiệu cuộc triển lãm, viện bảo tàng hoàng gia Mariemont muốn sử dụng chủ đề Trống Đồng - hiện vật tiêu biểu nhất của văn minh Đông Sơn mà những người Việt cổ đã sáng tạo ra trong những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ 1 trước công nguyên - như một sợi chỉ đỏ dẫn đạo để giới thiệu miền Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, "những thế giới xa xôi và chưa được biết đến".
    Qua lời nói đầu của quyển Catalô, người ta dễ dàng thấy thâm ý của ban tổ chức triển lãm là vinh danh "nền văn minh Đông Sơn và sự tỏa rạng của nó" từ lục địa Đông Nam Á đến quần đảo Indônêxia và những đảo xa xôi của châu Đại Dương (Océanie).
    Các hiện vật được chia thành ba nhóm, cũng là ba phần lớn của cuộc triển lãm : Việt Nam, Indônêxia, Thái Bình Dương. Đó là những trống, thạp, chuông đồng, tượng mồ, sừng ma thuật (corne à magie), bộ phận trang trí mặt tiền kiến trúc (ornement de façade), đồ trang sức, tượng đàn ông, đàn bà bằng đồng và bằng đá, mảnh gỗ trang trí hình người dùng làm khiên, mộc, đồ dùng bằng tre, đất nung, hộp gỗ, thắt lưng bằng vỏ cây, vũ khí bằng đồng (dao găm, mũi tên...), bằng gỗ (chùy...), v.v. của người Việt cổ, của các sắc dân Tây Nguyên (Việt Nam), của nhiều sắc dân Indônêxia và hải đảo trên Thái Bình Dương ngày nay - cho thấy ảnh hưởng của văn minh Đông Sơn đã tỏa rạng trên toàn vùng Đông Nam Á cổ đại và cận hiện đại.
    Cuốn Catalô Tiếng nói của những cổ trống... chỉ vỏn vẹn 100 trang kèm theo 100 ảnh minh họa, nhưng tác giả Catherine Talon-Noppe đã dành cho Việt Nam 30 ảnh và 50 trang viết về 12 chủ đề : cái nhìn bao quát địa lý ; những giai đoạn tiến triển của tình hình dân cư ở miền Bắc ; cuộc Nam tiến ; Dân tộc Việt Nam, một ngoại lệ ; một bức tranh ghép mảnh (mosaique) những sắc dân và những ngôn ngữ ; lịch sử và triển vọng của công cuộc nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam ; Văn minh Đông Sơn và sự tỏa rạng của nó : bảng tổng hợp văn minh Đông Sơn, khung cảnh khảo cổ và biên niên, khung cảnh lịch sử ; phong cảnh Việt cổ, ngôi nhà Đông Sơn, chiến tranh, vũ khí, những nét hoa mỹ; trống đồng : tôn giáo và chính trị ; một nghệ thuật đồ đồng ngoại lệ ; Đông Sơn và những người đồng thời ; Những mối quan hệ với Trung Quốc và sự cáo chung của văn minh Đông Sơn ; các sắc dân vùng Tây Nguyên: kèm theo 5 phụ lục (những tài liệu sử học và văn hóa dân gian liên quan đến trống đồng)
    Tính đến 1983, thời điểm của cuộc triển lãm, đây là những trang viết phong phú và nghiêm túc về văn hóa người Việt cổ, lấy cảm hứng từ những nghiên cứu của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp cùng những nghiên cứu mới nhất của L. Bezacier, Nguyễn Phúc Long, Hà Văn Tấn... những năm 70-80.
    Viện bảo tàng Hoàng gia Mariemont - được sự hỗ trợ đóng góp của các Viện bảo tàng Hoàng gia Nghệ thuật và Lịch sử Bruxelles, Viện bảo tàng dân tộc học Anvers (Bỉ), Viện bảo tàng Cernushi (Pháp) cùng nhiều mạnh thường quân ở châu Âu - đã làm được một công hai việc : vừa vinh danh văn minh Đông Sơn, văn hóa Việt cổ, vừa khơi gợi cho thế giới biết về một nền văn minh liên hoàn Đông Nam Á đất liền và hải đảo, đâu đâu cũng thấp thoáng bóng dáng đẹp đẽ của thiên tài Đông Sơn mà Việt Nam là kẻ kế thừa chính đáng.1998 : hội họa và điện ảnh Việt Nam được giới thiệu tại BỉNăm 1998, Ủy ban Liên Hiệp Châu Âu đã phối hợp cùng bộ văn hóa Pháp thoại của Bỉ và hội đồng quản trị vùng Bruxelles đứng ra tổ chức cuộc triển lãm "Việt Nam thế kỷ 20, Nghệ thuật tạo hình và nghe nhìn 1925-1998", từ ngày 9-10 đến 31-12-1998.
    Bộ văn hóa thông tin Việt Nam đã đồng ý cho các viện bảo tàng mỹ thuật, các họa sĩ có tên tuổi, các nhà sưu tập tư nhân (Phan Kế An, Bùi Đức Minh, Phạm Văn Bổng, Nguyễn Văn Lâm...) cho mượn tác phẩm. Một đoàn chuyên gia Việt Nam (Trịnh Hương Lan, Trần Văn Thủy... cũng đã đến Bruxelles tiếp tay những chuyên gia Bỉ thực hiện cuộc triển lãm.
    Trong số 105 tác phẩm của 44 họa sĩ Việt Nam thuộc các thế hệ khác nhau từ 1925 đến 1998 được trưng bày trong cuộc triển lãm này, có nhiều kiệt tác, nhiều tác phẩm đáng mến mộ. Người xem có dịp tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm để đời của những danh họa xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, từ thế hệ Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân... đến thế hệ Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm...và một số họa sĩ đàn em, đàn con, đàn cháu tài ba từ sau 1945 đến nay, những Lưu Công Nhân, Lê Thanh Đức, Đinh Ý Nhi...
    Ngành điện ảnh non trẻ của Việt Nam, với chủ đề "Việt Nam thế kỷ 20" cũng đã gặt hái được nhiều khích lệ đáng kể qua Cô gái trên sông, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ lai, Một cõi tâm linh, Đường dây sông Đà, Chìm nổi sông Hương... của những Đặng Nhật Minh, Trần Văn Thủy, Lê Mạnh Thích...
    Khách xem tranh xem phim đã giữ những kỷ niệm tốt lành về Việt Nam, đất nước và con người (2). Nguyễn Tiến Chung, 1940, Đi chợ xuân
    Triển lãm VN tk XX, 1925-1998 tại BỉLê Văn Đệ, Thiếu nữ, 1945
    Triển lãm VN tk XX, 1925-1998 tại Bỉ2002 : mượn Hoa đào và Chim xanh của Nguyễn Du để vinh danh mỹ thuật Việt Nam
    Vẻ chi một đóa yêu đào
    Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh
    ("Truyện Kiều", câu 503-504)
    Với tư cách là một trong hai người đứng ra tổ chức triển lãm "Các nền mỹ thuật Việt Nam, Hoa đào và Chim xanh", Jean-François Hubert, sau khi đọc được câu thơ Kiều (lời Kiều nói với Kim Trọng), đã quyết định mượn hình tượng Hoa và Chim ấy làm nhan đề phụ cho cuộc triển lãm lần thứ nhì, từ tháng 4 đến tháng 8-2002, mà Viện bảo tàng hoàng gia Mariemont dành riêng cho Việt Nam (3).
    Phong phú hơn hẳn lần trước, Jean-François Hubert và Catherine Noppe đã tập hợp được 200 tác phẩm và hiện vật từ 5 viện bảo tàng Bỉ (Viện bảo tàng hoàng gia Mariemont, Viện bảo tàng hoàng gia Nghệ thuật và Lịch sử Bruxelles), Pháp (Viện bảo tàng Cernushi, Paris), Việt Nam (Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội) và từ nhiều bộ sưu tập mỹ thuật của tư nhân ở một số nước châu Âu và Việt Nam, liên quan đến nhiều thời đại, thời kỳ, loại hình mỹ thuật và sắc dân.
    Cuốn Catalô, do C. Noppe và J-F. Hubert chủ biên, đã được 13 chuyên gia Bỉ, Pháp và Việt tham gia viết bài nghiên cứu về các đề tài : sự hình thành Việt Nam ; văn hóa Đông Sơn ; đồ đồng và đồ gốm Giao Chỉ (thời Bắc thuộc) ; gốm sứ các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn ; kiến trúc và điêu khắc của người Việt ; mỹ thuật và tôn giáo Champa ; Victor Tardieu và Trường Mỹ Thuật Đông Dương ; nghệ thuật trang phục các sắc dân thiểu số.
    Lần đầu tiên các tác phẩm và hiện vật tiêu biểu như gốm sứ Hậu Lê, đồ trang sức và kim loại quí hiếm của Champa được phân tích bằng những kỹ thuật hóa học và vật lý học hiện đại nhất, kể cả sử dụng máy gia tốc cộng hưởng (cyclotron)
    sưu tầm
    Được dungsamtien sửa chữa / chuyển vào 21:39 ngày 16/01/2006
  7. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    2003 : "Những nền mỹ thuật của Việt Nam", một tác phẩm xuất sắc của hai tác giả Bỉ, Pháp
    Sau khi tổ chức thành công cuộc triển lãm "Hoa đào và Chim xanh" tại Viện bảo tàng hoàng gia Mariemont (xuân-thu 2002) và cho phát hành cuốn Catalô đẹp đẽ của cuộc triển lãm, Catherine Noppe và Jean-Franois Hubert đã cùng biên soạn một công trình văn hóa khác nhan đề Arts du Vietnam (Những nền mỹ thuật của Việt Nam), do nhà xuất bản Parkstone Press Ltd ở New York ấn hành vào mùa xuân 2003 và ngay sau đó bản nguyên tác tiếng Pháp đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Sách dày 271 trang, khổ lớn, được minh họa bằng 287 hình ảnh, 3 bản đồ, một bản biên niên so sánh mỹ thuật thế giới Trung Quốc-Việt Nam-Champa.
    Hai tác giả đã lần lượt giới thiệu một cách sinh động : Dẫn nhập vào Việt Nam, Đất và Nước ( 27 tr.); Văn Lang và Âu Lạc những vương quốc đầu tiên (11 tr.); Sự thống trị của Trung Quốc và gia tài của nó (10 tr.); các triều đại quốc gia: Từ Hoa Lư đến Thăng Long, Kiến trúc Phật giáo, Gốm sứ Lý và Trần (19 tr.); Vương quốc Champa (30 tr.); Triều Lê: Hội An, Kiến trúc Phật giáo, Khổng giáo và tuyên ngôn của nó, các ngôi đình, Gốm sứ Lê (37 tr.); Huế và triều Nguyễn: Hoàng thành, sứ Nguyễn (bleu de Huế) 24 tr.; sự có mặt của Pháp: kiến trúc thuộc địa, Hội họa Việt Nam ở thế kỷ XX (48 tr.); Mỹ thuật các sắc dân thiểu số (16 tr.)
    Sau khi công trình của C. Noppe và J-F. Hubert được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng, mặc dù chưa hoàn hảo, các nhà Việt Nam học và Đông phương học đã đồng ý cho đây là một cuốn sách lịch sử mỹ thuật không thể thiếu trong các thư viện công cộng cũng như trong tủ sách của những ai muốn tìm hiểu những vấn đề văn hóa nghệ thuật của người Việt và các sắc dân khác ở Việt Nam.
    Nhìn cấu trúc cuốn sách, người ta thấy hai tác giả đã lướt nhanh qua các thời đại Hùng Vương, Lý-Trần và nền mỹ thuật các sắc dân thiểu số ở Việt Nam. Bù lại họ đã dừng lâu hơn và đã nghiên cứu khá kỹ lưỡng mỹ thuật các thời Hậu Lê và Nguyễn. Mỹ thuật thời Pháp thuộc được giới thiệu phong phú và công phu nhất bên cạnh những trang đẹp đẽ về nền mỹ thuật Champa rực rỡ, cũng như những trang sắc sảo về gốm sứ Việt ở các thời Bắc thuộc, Lý, Trần, Lê, Nguyễn với nhiều thông tin quí hiếm và hình ảnh minh họa rất đẹp. Về kiến trúc và điêu khắc, rất tiếc là đã thiếu vắng nhiều pho tượng Phật, tượng Tổ và La Hán nổi tiếng ở các chùa (Mía, Tây Phương, Bút Tháp...) và rất nhiều kiệt tác chạm khắc gỗ vô cùng độc đáo ở các đình làng (Tây Đằng, Chu Quyến, Thổ Hà...).
    Trong khi sách giới thiệu về văn hóa nghệ thuật Việt nam với cái nhìn của người nước ngoài và bằng tiếng nước ngoài còn hiếm hoi, công trình của hai chuyên gia Bỉ và Pháp vừa có giá trị biên khảo vừa có giá trị thẩm mỹ như bộ sách Arts du Viẽt Nam này là một thành tựu rất đáng nâng niu trân trọng.2003 và 2004 : hai cuộc triển lãm về văn hóa nghệ thuật Việt Nam lớn nhất tại Bỉ và ÁoTrong hai năm 2003 và 2004, hai nhà văn hóa học Bỉ và Áo, Miriam Lambrecht và Christopher Schicklgrüber, đã thực hiện hai cuộc triển lãm về văn hóa nghệ thuật Việt Nam có lẽ lớn nhất từ trước đến nay. Đó là :
    - Cuộc triển lãm "Việt Nam, mỹ thuật và những nền văn hóa, từ tiền sử đến ngày nay" tại thủ đô Bruxelles, Bỉ, từ 17-9-2003 đến 29-2-2004, với 442 tác phẩm và hiện vật.
    - Cuộc triển lãm "Sự mê hoặc của Việt Nam, Thần linh, Anh hùng, Tổ tiên" tại thành phố cổ Leoben, Áo, từ 3-4-2004 đến 1-11-2004, với 802 tác phẩm và hiện vật.
    Từ nhiều năm qua, các nhà văn hóa học, bảo tàng học, chuyên gia lịch sử nghệ thuật châu Á tại các viện bảo tàng hoàng gia Bỉ và các viện bảo tàng mỹ thuật và dân tộc học Áo đã có ý định hợp tác dàn dựng một cuộc triển lãm toàn cảnh và tương đối đầy đủ về văn hóa văn minh Việt Nam. Cuối cùng ước muốn này đã trở thành hiện thực... sau 10 năm quyết tâm và kiên nhẫn. Đó cũng là thời khoảng kỷ lục mà ít có những nhà văn hóa phương Tây có thể chờ đợi và chấp thuận.
    Công lao đầu tiên là của nữ tiến sĩ Miriam Lambrecht, người Bỉ, thuộc Viện bảo tàng hoàng gia Nghệ thuật và Lịch sử Bruxelles. Nhưng công lao lớn nhất có lẽ thuộc về tiến sĩ Christian Schicklgrüber, người Áo, thuộc Viện bảo tàng dân tộc học Vienne. Cả hai cùng là trưởng ban tổ chức và đồng chủ biên cuốn Catalô đồ sộ của hai cuộc triển lãm được viết bằng bốn thứ tiếng (Pháp, Hà Lan, Đức, Anh).
    Trả lời nhà báo Việt Nam, hai vị này cho biết họ đã làm việc ròng rã trong suốt 10 năm trời, từ 1993 đến 2003, với các đối tác Việt Nam, đã lặn lội đến nhiều viện bảo tàng, nhiều đình chùa đền cổ xưa ở Hà Nội và nhiều địa phương để lùng tìm và phát hiện những tác phẩm mỹ thuật và hiện vật dân tộc học tiêu biểu chưa được quần chúng phương Tây biết tới. Phải chờ đến năm 2000 những cuộc tiếp xúc với các đối tác Việt Nam mới thu được những tín hiệu khả quan (4).
    Hai vị đại sứ Bỉ và Áo cũng đã phải nhập cuộc thương thuyết, đàm phán để ước muốn của các nhà văn hóa học Bỉ và Áo trở thành hiện thực. Cuối cùng phía Việt Nam đã chấp nhận sửa đổi luật lệ, cho phép mượn và đưa cổ vật ra nước ngoài ; phía Bỉ và Áo đã đồng ý chi trả số tiền bảo hiểm lên đến gần 6 triệu USD, đó là chưa kể đến những chi phí khác cũng tốn hàng triệu euros.
    Khi được hỏi lý do tổ chức cuộc triển làm này, nữ tiến sĩ M. Lambrecht khiêm nhường cho biết : "Sở dĩ có cuộc trưng bày này là vì các Viện bảo tàng hoàng gia Bỉ (Bruxelles và Mariemont) đang sở hữu một bộ sưu tập có một không hai về đồ đồng Việt cổ và gốm sứ Việt Nam từ thế kỷ 14 trở về trước...", khoảng 3.000 tác phẩm và hiện vật.
    Ban tổ chức Bỉ-Áo nhấn mạnh : "Chúng tôi mong muốn trình bày cho bằng được một bộ mặt khác của Việt Nam. Để thực hiện điều đó, chúng tôi đã phải tập hợp những cổ vật từ nhiều nguồn, chẳng những từ Việt Nam (13 bảo tàng) mà còn từ 8 bảo tàng lớn ở châu Âu (London, Paris, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ) và từ nhiều bộ sưu tập tư nhân ở châu Âu".
    Tiến sĩ C. Schicklgrüber cho biết ông đã đến Việt Nam tháng 5-2000 với bản đề cương cuộc triển lãm tại Bỉ và Áo và tìm gặp các đồng nghiệp Việt Nam đề nghị họ góp ý. Sau đó ông đã để ra ba năm (2001-2003) đi thăm các bảo tàng Việt Nam để tuyển chọn, đàm phán mượn tác phẩm và hiện vật. Phải chờ đến tháng 6-2003 những cổ vật đầu tiên của Việt Nam lên đường sang Bỉ (5).Tổng cộng có tất cả 416 tác phẩm thuộc các thời kỳ tiền sử và lịch sử, các nền văn hóa nghệ thuật nhiều sắc dân của Việt Nam : đồ đồng, gốm, sứ, tranh tượng, y phục, nhạc khí? mà Việt Nam đã cho Bỉ và Áo mượn.
    Người xem đến từ nhiều quốc gia châu Âu và du khách quốc tế đã vô cùng thích thú khi ngắm nhìn những trống đồng Hoàng Hạ, Ngọc Lũ, Vienne (trước đây quen gọi là trống Gillet) tượng trưng cho văn minh và tâm hồn người Việt cổ. Những tác phẩm gốm, sứ các thời Lý, Trần, Lê (Bát Tràng, Chu Đậu) được trưng bày hài hòa với những pho tượng Chăm điêu luyện, bên cạnh những tác phẩm hội họa cổ điển và dân gian vô cùng đa dạng của các sắc dân Việt Nam? mà hình ảnh được ghi lại đẹp đẽ trong tập Catalô in ấn công phu, chân xác.
    Nội dung khoa học và thẫm mỹ của cuốn Catalô phong phú này có được là nhờ sự đóng góp của 13 nhà văn hóa, nhà nghiên cứu Bỉ, Áo, Anh, Pháp, Việt có uy tín. Những chủ đề lớn đã lần lượt được đề cập tới là : lịch sử Việt Nam từ cội nguồn đến ngày nay ; thương mại và trao đổi trong lịch sử Việt Nam ; dẫn nhập vào lịch sử văn hóa Việt Nam ; âm nhạc và kịch nghệ ở Việt Nam ; các tôn giáo, tín ngưỡng và sự thờ cúng ở Việt Nam ; Việt Nam một đất nước đa sắc tộc, đa văn hóa, làng Việt Nam giữa truyền thống và hiện đại...
    Tuy vậy, trong cuộc triển lãm "Việt Nam, mỹ thuật và những nền văn hóa, từ tiền sử đến ngày nay" tại thủ đô Bruxelles (Bỉ) có một nốt nhạc sai. Đó là những người tổ chức đã dành cho phần đầu của triển lãm quá nhiều hình ảnh về chiến tranh, bạo lực, tàn phá và chết chóc tại Việt Nam khiến một số người xem cho đó là một việc làm "lạc đề", "lên gân" hay "tuyên truyền" không cần thiết, không đúng chỗ trong một không gian trưng bày rộng 150 m2. Sự bất bình này đã được thể hiện khi xem, rồi trong cuốn Sổ Vàng góp ý của cuộc triển lãm.
    Nhạy bén trước phản ứng của những người xem chỉ muốn tiếp xúc với "nghệ thuật và các nền văn hóa của Việt Nam" ấy, ban tổ chức cuộc triển lãm "Sự mê hoặc của Việt Nam, Thần linh, Anh hùng, Tồ tiên" ở Áo đã rút kinh nghiệm và thực hiện những điều chỉnh cần thiết để phù hợp với nội dung một cuộc triển lãm về văn hóa và nghệ thuật đúng nghĩa.
    Về địa điểm, lúc đầu cuộc triển lãm được dự định tổ chức tại thủ đô Vienne, nhưng nhân dịp thành phố cỏ kính nhất của Áo là Leoben vừa tròn 1.100 tuổi (904-2004), ban tổ chức đã quyết định đưa về Lâu Đài Mới (Neue Hofburg) của thành phố cổ Leoben, nơi tọa lạc Thư viện quốc gia và Viện bảo tàng mỹ thuật của thành phố. Từ đó cuộc triển lãm hoành tráng về văn hóa nghệ thuật của Việt Nam đã được đưa lên hàng đầu danh mục 100 sự kiện tiêu biểu nhất trong năm 2004, năm sinh nhật thứ 1.100 của thành phố Leoben, với hội chợ, dạ hội, diễn hành, sinh hoạt văn hóa và lễ hội đa dạng.
    Cuốn Catalô "Sự mê hoặc của Việt Nam...", lần này được in bằng tiếng Đức và Anh, trình bày rất mỹ thuật, trong đó có ba bài viết mới của tiến sĩ thị trưởng Leoben, giáo sư tổng giám đốc Các viện bảo tàng dân tộc học Vienne, và bài dẫn nhập của tiến sĩ C. Schicklgrüber vinh danh đất nước và văn hóa Việt Nam đồng thời đề cao giá trị những bài viết của các nhà bác học và chuyên gia Bỉ, Áo, Anh, Pháp, Việt khác viết trong Catalô.
    Cuộc triển lãm tại Áo đã qui tụ hàng chục vạn người xem. Người Áo đã thực sự quan tâm đến văn hóa Việt Nam và cuộc gặp gỡ "Thần linh, Anh hùng và Tổ tiên" của Việt Nam trên đất Áo, với 416 tác phẩm đến từ Việt Nam cộng với 386 hiện vật của 8 Viện bảo tàng nổi tiếng của châu Âu (6), là một vinh dự hiếm có và cũng là niềm tự hào chính đáng dành cho Việt Nam văn hiến ngàn năm.
    Lê Văn Hảo (Paris)
    Chú thích (1) ) - Catherine Talon-Noppe và Françoise Fauconnier (biên soạn), La Voix des Tambours, Vietnam-Indonésie-Pacifique, Musée Royal de Mariemont, 1983, 99 tr.
    - Nhiều tác giả, Bertrand de Hartingh chủ biên, Vietnam 20e siècle, Arts Plastiques et Visuels de 1925 à nos jours, La Lettre Volée, Bruxelles, 1998, 216 tr.
    - Catherine Noppe và Jean-François Hubert (chủ biên), Arts du Vietnam, la Fleur de pêcher et l?TOiseau d?Tazur, nhà xuất bản La Renaissance du Livre và Musée royal de Mariemont, 2002, 196 tr.
    - Miriam Lambrecht và Christian Schicklgrüber (chủ biên), Vietnam - Art et Cultures de la préhistoire à nos jours, Bruxelles, nhà xuất bản Snoeck, 2003, 272 tr.
    - Miriam Lambrecht và Christian Schicklgrüber (chủ biên), Faszination Vietnam, Gưtter, Helden, Ahnen, Leoben, nhà xuất bản Snoeck, 2004, 277 tr.
    (2) Văn Ngọc, "Triển lãm Việt Nam thế kỷ 20, 1925-1998", tạp chí Diễn Đàn, Paris, số 80, tháng 12-1998.
    (3) Catherine Noppe và Jean-François Hubert, Arts du Vietnam, Parkstone Press, New York, 2003, 271 tr.
    (4) Nguyễn Hữu Thái, "Đưa phố cổ Hà Nội sang châu Âu", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 4, 2004.
    (5) Trần Đức Anh Sơn, "10 năm cho một triển lãm Việt Nam tại Áo", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 14, 2004.
    (6) Tại Bruxelles, số lượng tác phẩm và hiện vật trưng bày là 442, tại Leoben ban tổ chức đã nâng con số này thành 802 nhờ sự đóng góp của Viện bảo tàng dân tộc học Vienne (Áo), nơi tàng trữ hàng trăm hiện vật Việt Nam
    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG]
  8. dungsamtien

    dungsamtien Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    02/11/2005
    Bài viết:
    2.909
    Đã được thích:
    59
    Sự quan tâm của người Pháp đối với văn hóa Việt Nam
    --------------------------------------------------------------------------------
    Người Việt và người Pháp, Việt Nam và nước Pháp đã có những mối quan hệ lịch sử - văn hóa lâu đời. Từ cuối thế kỉ 16, nhiều giáo sĩ và thương nhân người Âu đã đến Đàng Trong và Đàng Ngoài vương quốc Đại Việt. Họ không chỉ làm công việc truyền đạo hay buôn bán, họ còn giúp đỡ, phục vụ hay cố vấn cho chúa Nguyễn, chúa Trịnh với tư cách là bác sĩ, kĩ sư, nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà thực vật học, nhà sử học, nhà văn ... João da Cruz giúp chúa Nguyễn thành lập xưởng đúc súng thần công, mở các trường pháo binh, kị binh, tượng binh. Võ vương sử dụng bác sĩ riêng là Jean Koffler, tác giả của Historica Cochinchinae Descriptio (Mô tả xứ Đàng Trong qua lịch sử) và các cố vấn khoa học là nhà toán học Xavier de Monteiron, nhà vạn vật học Jean de Loureiro, tác giả Flora Cochinchinensis (Thực vật chí xứ Đàng Trong), v.v. Những tác phẩm của Cristoforo Borri, de Rhodes, Chapman, P. Poivre, S. Baron ... đều là những tài liệu quí báu về đất nước, con người, văn hóa Đại Việt thời Trịnh-Nguyễn.
    [​IMG]
    Sự có mặt của các giáo sĩ và thương nhân Bồ Đào Nha, Hà Lan,Tây Ban Nha, Ý, Pháp ... thời ấy đã đánh dấu một bước ngoặt của lịch sử Việt Nam : đó là sự tiếp xúc đầu tiên với văn hóa, văn minh, khoa học, kỹ thuật, kinh tế, thương mại và tôn giáo phương Tây, góp phần làm giảm ít nhiều ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo.
    Để truyền đạo dễ dàng hơn, các giáo sĩ phương Tây đã hợp tác với người Việt để sáng chế ra chữ quốc ngữ. Sự ra đời và hoàn thiện dần của chữ quốc ngữ trong các thế kỉ 17, 18 và 19 là thành quả tốt đẹp nhất của sự gặp gỡ giữa văn hóa văn minh Việt Nam với phương Tây, trong đó có sự đóng góp to lớn của người Pháp.
    Chữ quốc ngữ, một sáng tạo và tiếp biến văn hóa đẹp đẽ trong lịch sử
    Từ cuối thế kỉ 16 - đầu thế kỉ 17, nhiều giáo sĩ châu Âu đã bắt đầu nỗ lực trong sự nghiệp truyền đạo Công giáo. Để làm đẹp lòng giáo dân tân hông, họ ra sức học tiếng Việt và nghĩ cách ghi âm nó bằng chữ cái latinh thay cho chữ Nôm quá khó khăn phức tạp đối với họ.
    Có công lớn nhất trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ là các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ như Gaspar do Amaral tác giả Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha (thất truyền) , Antonio Barbosa tác giả Từ điển Bồ Đào Nha - An Nam ( cũng thất truyền), Ornofre Borges tác giả Nhập môn tiếng Đàng Ngoài và nhất là Francisco de Pina, tác giả ưu tú của một loạt công trình tiên phong : Chuyên luận về từ vựng và các thanh tiếng An Nam, Ngữ pháp tiếng An Nam, Tập chuyện cổ tích An Nam, Tuyển tập các bài viết hay ở Đàng Trong. Sau khi ông De Pina mất, giáo sĩ Pháp Alexandre de Rhodes đã kế thừa công trình đó của thầy mình và đã vinh danh thầy trong lời nói đầu cuốn Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha - La tinh như sau : " (...) Ngoài những điều tôi học được ( về tiếng An Nam ) nhờ chính người bản xứ trong suốt gần hai mươi năm tôi lưu trú tại hai xứ Đàng Trong (Cochin) và Đàng Ngoài (Tunkin) thì ngay từ đầu tôi đã học với cha Francisco de Pina (...) là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng An Nam và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng đạo bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn. Tôi cũng đã sử dụng những công trình của nhiều cha khác cùng Dòng Tên, nhất là cha Gaspar do Amaral và cha Antonio Barbosa,cả hai cha đã biên soạn mỗi ông một cuốn tự điển, ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ Đào Nha nhưng cả hai ông đều mất sớm. Sử dụng công khó của hai cha tôi đã thêm tiếng La-tinh (...)" (1).
    Qua đoạn văn trên đây chúng ta thấy giáo sĩ De Rhodes (1591-1660) là người có may mắn lợi dụng được công lao của nhiều giáo sĩ tiền bối và sự giúp đỡ hợp tác của người Việt để hoàn thiện thêm một bước việc sáng tạo chữ quốc ngữ trong nửa đầu thế kỉ 17
    [​IMG] [​IMG]
    (Trang bìa cuốn Tự điển Việt-Bồ-La nổi tiếng của A. de Rhodes, xb tại Roma 1651Trang 1 cuốn Tự điển Việt-Bồ-La )
    Ngày nay chúng ta có cả một kho tàng ngôn ngữ học và từ điển học từ Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa của bà Pháp Tính ở thế kỉ 17 với 3.394 từ, từ điển của Petrus Ký (1884) với 20.000 từ, từ điển của Paulus Của (1895-1896) với 25.000 từ, từ điển của Đào Duy Anh, Đào Đăng Vỹ, Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ, Đào Văn Tập. cho đến Đại Từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như YÙ chủ biên (1999) với hơn 120.000 từ và nhóm, chúng ta vẫn không thể quên ơn những người Âu ( trong đó đa số là người Pháp ) đã có những đóng góp to lớn vào kho tàng đó, từ những công trình của Do Amaral, Barbosa, De Pina, Borges (đã thất truyền) , rồi Từ điển An Nam - Bồ Đào Nha -La tinh của Alexandre de Rhodes (1651) với 8.000 từ, hai Từ điển An Nam - La Tinh, La Tinh -An Nam của Pigneau de Béhaigne và Taberd (1772, 1838), Từ điển Legrand de la Liraye (1868) với 15.000 từ, Từ điển Génibrel (1898) với 30.000 từ, Từ điển Gustave Hue (1937) với 35.000 từ cho đến Từ điển Eugène Gouin (1957) với 50.000 từ (2). ; được giáo sĩ J.L. Taberd chỉnh lý bổ sung, xb tại Ấn Độ năm 1838Trang đầu Cuốn Tự điển Việt - La tinhCó một điều rất đáng tiếc là, suốt hơn 250 năm, một công cụ sáng tạo và phổ biến văn hóa đầy hiệu quả như chữ quốc ngữ lại chỉ được duy trì và bảo toàn trong nội bộ cộng đồng Công giáo Việt Nam mà thôi. Oái oăm hơn nữa chữ quốc ngữ, do sự áp đặt có tính toán của người Pháp, đã bắt đầu và dần dần phát triển mạnh ở thời kỳ thuộc địa cuối thế kỉ 19. Có lẽ tục ngữ cách ngôn Pháp nói đúng: " A quelque chose malheur est bon " ( điều không may cũng có cái hay ).
    [​IMG]
    (Trang đầu cuốn sách dạy giáo lí (Catéchisme) "Phép giảng tám ngày " của giáo sĩ A. de Rhodes, soạn và xb tại Roma (1651)2 tác phẩm quan trọng của giáo sĩ Alexandre de Rhodes giữa tk XVIII)
    [​IMG] [​IMG]
    (Trang bìa Cuốn Tự điển Việt - La tinh do giáo sĩ P.J. Pigneaux de Béhaine khởi soạn năm 1772)(sưu tầm)
  9. tdna

    tdna Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/12/2001
    Bài viết:
    2.268
    Đã được thích:
    0
    Người nước ngoài trước có quan tâm đến văn hóa VN nhưng cũng chỉ gói gọn trong số nhỏ những nhà nghiên cứu , các học giả ...
    Bây giờ có đỡ hơn nhưng cũng ko ăn thua gì . 1 số trường đại học ở Nhật , Hàn có khoa dạy về tiếng Việt . Ở Mỹ có cả ngành Việt Nam học ở 1 số trường . Cái họ quan tâm hơn cả là biết tiếng Việt để qua VN làm ăn , ngoài ra thì tìm hiểu văn hóa VN ngày nay cũng chỉ giới hạn trong giới nghiên cứu học giả .
    Như ở châu Âu thì nhiều người Âu vẫn tưởng là VN mình vẫn đang chiến tranh , nói chung họ biết rất ít về VN chứ đừng nói tới văn hóa
  10. Teen_Titans

    Teen_Titans Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2004
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    0
    em đồng ý, nói thẳng ra là chỉ có giới học thuật thôi, mà đúng là chẳng ăn nhằm gì cả.
    em xin phép nói bao quát ở Mĩ, nếu nhắc đến châu Á là chũng nó nghĩ đến Nhật và Tàu. Sau đó, cố thêm chút nữa thì có Hàn với Ấn. Còn Việt Nam nhà mình á Ngay cả bây h vào tìm sách trong thư viện cũng hẩm hiu. Có lần em rỗi việc + tò mò, vào trong thư viện trường tìm sách về văn hoá Việt Nam thì được 2,3 quyển mỏng mỏng do 1 bác người Việt viết bằng tiếng Pháp chắc xuất bản từ hồi đầu thế kỉ với vài quyển tiểu thuyết của mấy bác Việt kiều viết tiếng Anh. Ngay cả sách lịch sử cái trước thế kỉ 20 cũng lèo tèo. Vào web của mấy trường khác search cũng chẳng khá khẩm hơn. Em nghe nói có cái trường dưới Texas chỗ trưng bày nhật kí của bác Đặng Thuỳ Trâm là có khoa VN học, ko biết đúng ko. Trừ bên Harvard có 1 bác giáo sư gốc Việt thì còn thêm được 1, 2 lớp về tôn giáo, văn hoá, còn lại thì dừng ở các lớp dạy tiếng Việt.
    ở bên châu Âu em ko rõ, nhưng có vẻ cũng ko sán lạn hơn. mà Pháp thì có thể là khác đấy ạ.

Chia sẻ trang này