1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sukhoi PAK-FA | Chiến đấu cơ thế hệ 5 của Nga !

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi doantrk, 10/07/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. 0anh89th

    0anh89th Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/05/2010
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    7
  2. gulfoil

    gulfoil Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/03/2003
    Bài viết:
    3.090
    Đã được thích:
    4
  3. 1voi1la2

    1voi1la2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2010
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Em chịu bác này về nập luận máy bay tàng hình ạ.
    Nếu máy bay gỗ là tàng hình thì máy bay làm bằng giấy và khung gỗ của anh em nhà Wright là đỉnh cao tàng hình bác ạ.
    Về đồ của Nga thì NGa bây giờ là tư bản, tham gia vào thị trường mở thế giới. Nên theo qui luật đồ rẻ tiền thì không có loại hảo hạng bác ạ. Chân lý đấy bác. Mỗi loại khác nhau sẽ được mua vì phù hợp với túi tiền và điều kiện. Em thấy Nga toàn bán đồ cho mấy nước nghèo tiền bác ạ. Dĩ nhiên là đồ Nga cũng dùng được thì người ta mới mua.
    Bác xem máy bay tàng hình đỉnh cao nhé
    [​IMG]
    [​IMG]
  4. 1voi1la2

    1voi1la2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2010
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    À bác bảo máy bay từ gỗ là tàng hình thì có con này là máy bay tàng hình to nhất từ trước tới nay bác ạ.
    Con Héc quyn này chế tạo ở Mỹ năm 1947 bằng gỗ to kinh khủng. Nó là cảm hứng khơi nguồn cho máy bay vận tải to nhất hiện nay An to nốp của Nga đấy ạ.
    [​IMG]
    Cái đuôi của nó đây bác ạ
    [​IMG]
    Bên trong toàn bằng gỗ, tàng hình xịn bác nhá!
    [​IMG]
    Từ năm 1947 mà đã to bằng Antonop Myria rồi bác ạ. Khủng ra phết!!
    [​IMG]
  5. napster90

    napster90 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/07/2006
    Bài viết:
    1.022
    Đã được thích:
    1
    Đùa chứ em vô cùng ấn tượng với các chiên da trên mạng kiểu này. Chưa bàn về kiến thức mà cái máy bay mới bay vài chuyến đã đem ra mổ RCS hình dáng tàng hình + hi sinh về hình dáng tàng hình cho khí động học đến đâu thì chị Oanh nên đi đọc thêm một ít để viết cho có tính thuyết phục
    mà đây mới mẫu thử đầu tiên, nếu có thời gian chị Oanh thử xem con T-10-1 với co giống nhau lắm không
    Nếu chj Oanh có nhã hứng RCS thì thử phân tích con F-22 xem ạ các bác pro-Ngố ở đây đang thắc mắc là cái mặt radar của F-22 to đùng thế tại sao RCS lại có 0.0(0.....)1m2
    Trong thực tế chiến đấu thì chả mấy khi có cái head-on nữa, máy bay bay đội hình 3-4 chiếc. Radar đặt dưới đất thì chắc các bác lái F-22 không bắt nó phải bay lên để F-22 có head-on RCS nhỉ
    Nhân tiện, đạn để cho S-300 tập bắn có RCS khoảng 0.001-0.0001m2 gì đó đấy ạ. Nhỏ lắm thế mà nó bắn rơi suốt ngày đến phát chán.
    Bác nào có tên của đạn bắn thử này cho em xin lại, lâu lắm rồi quên mất
  6. SilentEagle

    SilentEagle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    12/11/2009
    Bài viết:
    386
    Đã được thích:
    5
    Nga Mỹ thích thì cứ khoe F22 với Su T50 đi, nhưng đừng sướng vội vì theo tin mật của thông tấn xã Vỉa hè cơ xưởng hàng mã ở Hà Nội đang sản xuất một siêu chiến đâu cơ tàng hình kinh dị đảm bảo có đến ném bom ở Mosscow hay Nhà trắng thì hai cu này cũng chịu.
    Theo các chuyên gia nó làm bằng vật liệu gì
  7. 0anh89th

    0anh89th Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/05/2010
    Bài viết:
    360
    Đã được thích:
    7
    cái vụ T50 này tranh luận mãi rồi . đọc các bài cũ đi anh trai : về công nghệ tàng hình thì trước đây em tưởng nga nó vượt mẽo ( vì nghe cái vụ plassma) nhưng rồi mãi chả thấy đâu : nhin đây mà đánh giá này :

    PAK-FA Sukhoi T-50 PAK-FA Sukhoi T-50

    - wing 14,2; S=78,8 m2 - Cánh 14,2; S = 78,8 m2
    - length 22 - Chiều dài 22
    - height 6,05 - Chiều cao 6,05
    Weight (kg): Trọng lượng (kg):
    - max 37000 - Tối đa 37.000
    - normal 26000 - Bình thường 26.000
    - empty 18500 - 18.500 sản phẩm nào
    Fuel (kg): 10300 Nhiên liệu (kg): 10.300
    Combat load (kg): Combat tải (kg):
    - max 7500 - Tối đa 7.500
    - AA max 2260 conformal - AA tối đa 2.260 giác
    Speed (km/h): Speed (km / h):
    - max 2100; M2,0; - Tối đa 2100; M2, 0;
    - rate of climb 350 m/s - Tốc độ lên cao 350 m / s
    - min 0 OVT - Min 0 OVT
    - cruise 1300 - Hành trình 1.300
    Alt (m): 20000 Alt (m): 20.000
    Flight range (km): 4000/5500 (2x2000kg) Chuyến bay tầm (km): 4000 / 5500 (2x2000kg)
    - supersonic 2500 - Siêu âm 2500
    Runway (m): 350 (w/o OVT) Đường băng (m): 350 (w / OVT o)
    G-force (g): 10-11 G-lực lượng (g): 10-11
    RSC: 0,05 m2 RSC: 0,05 m2
    Wing overload (kg/m2): Wing quá tải (kg/m2):
    - max 470 - Tối đa 470
    - normal 330 - Bình thường 330
    Thrust-to-weight ratio: Lực đẩy-to-trọng lượng tỷ lệ:
    - max 0,84 - Tối đa 0,84
    - normal 1,19 - Bình thường 1,19
    Fuel rate: 2,55 kg/km Tỷ lệ nhiên liệu: 2,55 kg / km
    Flight time: 3,3 h Thời gian bay: 3,3 h
    Engine: AL-41F (117C on first prototypes) Động cơ: AL-41F (117C trên nguyên mẫu đầu tiên)
    - thrust 2x15500(18000?)/2x9800 - Lực đẩy 2x15500 (18.000?) / 2x9800
    - compressor: diameter 932mm, 3 steps - Nén: đường kính 932mm, 3 bước
    - weight 1350 kg - Trọng lượng 1.350 kg
    - pressure increase 4,2-4,5 - Áp lực tăng 4,2-4,5
    - life time 4000 hours - Cuộc sống thời gian 4.000 giờ
    - overhaul life 1500 hours - Sửa chữa lớn cuộc sống của 1.500 giờ
    - nozzle: - Ống hút:
    weight: 380 kg trọng lượng: 380 kg
    deviation angle +-16 deg in any direction, +-20 deg flat độ lệch góc + -16 ° theo hướng nào, + -20 ° phẳng
    deviation speed: 60 deg/sec độ lệch tốc độ: 60 ° / sec
    Electronics: Điện tử:
    N050(?)BRLS IRBIS AFAR/AESA N050 (?) BRLS xa IRBIS / AESA
    Armament: ? Vũ khí:? 1(2?)x30mm gun 1 (2?) X30mm súng
    Hardpoints: 10 (conf.), possible 2*4 external Giá treo vũ khí: 10 (conf.), có thể có 2 * 4 bên ngoài
    VS
    F-22 Raptor F-22 Raptor
    Ngày triển khai: Năm 2002, đơn vị chi phí: $ 92.400.000
    Maximum Speed: Mach 1.8/Supercruise speed Mach 1.5 Tốc độ tối đa: Mach 1.8/Supercruise tốc độ Mach 1,5
    Range (km): 3704 km Range (km): 3.704 km
    Combat Radius 1400 km Bán kính chiến đấu 1.400 km
    Power Plant : Two Pratt Whitney F119-PW-100 engines. Nhà máy điện: Hai động cơ Pratt Whitney F119-PW-100 động cơ.
    Bypas ration 0.2:1; Intermediate power 116 kN; Augmented power 173 kN Bypas suất ăn 0.2:1; Trung cấp điện 116 kN; tăng cường sức mạnh 173 kN
    Thrust: 35,000 lbst Lực đẩy: 35.000 lbst
    Dimensions (m): 13.56 x 18.92 x 5.05 Kích thước (m): 13,56 x 18,92 x 5,05
    Horizontal Tailspan: 8.84 Tailspan ngang: 8,84
    Wing Area: 78.0 m2 Wing Diện tích: 78,0 m2
    Weight (kg): 27,200/36,300 kg Trọng lượng (kg): 27.200 / 36.300 kg
    Crew: 1 Phi đoàn: 1
    Manufacturers: Builders: Boeing and Lockheed Martin. Nhà sản xuất: Nhà Xây dựng: Boeing và Lockheed Martin.
    Contractors: Northrop Grumman, Texas Instruments, Kidde-Graviner Ltd., Allied-Signal Aerospace, Hughes Radar Systems, Harris, Fairchild Defense, GEC Avionics, Lockheed Sanders, Kaiser Electronics, Digital Equipment Corp., Rosemount Aerospace, Curtiss-Wright Flight Systems, Dowty Decoto, EDO Corp., Lear Astronics Corp., Parker-Hannifin Corp., Simmonds Precision, Sterer Engineering, TRW, XAR, Motorola, Hamilton Standard, Sanders/GE Joint Venture, Menasco Aerospace. Nhà thầu: Northrop Grumman, Texas Instruments, Kidde-Graviner Ltd, Đồng Minh-tín hiệu Aerospace, Hughes Hệ thống Radar, Harris, Quốc phòng Fairchild, Hệ thống điện tử GEC, Sanders Lockheed, Điện tử Kaiser, Digital Equipment Corp, Rosemount Aerospace, hệ thống bay Curtiss-Wright , Dowty Decoto, EDO Corp, Astronics Lear Corp, Parker-Hannifin Corp, Precision Simmonds, Kỹ thuật TRW Sterer,, XAR, Motorola, Standard Hamilton, Sanders / GE Công ty liên doanh, Aerospace Menasco.
    Inventory Objectives: 76 ? Mục tiêu hàng tồn kho: 76?
    Armament: Two AIM-9 Sidewinders six AIM-120C Advanced Medium-Range Air-to-Air Missiles (AMRAAM) Trang bị vũ khí: Hai AIM-9 Sidewinder AIM-120C sáu Advanced Medium-Range Air-to-Air Tên lửa (AMRAAM)
    one 20mm Gatling gun một súng Gatling 20mm
    two 1,000-pound Joint Direct Attack Munitions (JDAM) hai 1.000-pound Joint Direct Attack Munitions (JDAM)
    lấy thông tin từ trang nước ngoà đấy không lại bảo nhà báo vịt ''''liệt não''''
  8. anhtuan133

    anhtuan133 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    352
    Đã được thích:
    102
    Theo tui suy luận thì antenna là phần thử hấp thu sóng, nó chuyển các dao động của photon thành dao động điện. Antenna thu dạng chảo có miền hội tụ ở tâm, là nơi đặt sensor nên lượng phản xạ ngược lại nguồn phát là thấp.
    Về sau này dùng AESA thì kích thước module rất nhỏ R tầm 2-3cm, antenna đặt hướng bề mặt lên phía trên nên nếu gặp sóng phương ngang đến thì các viền giữa các antenne sẽ phản xạ lên trời (chắc sẽ thu bằng vệ tinh !!! ).
    Vật liệu phi kim khi gặp điện trường phát ra từ radar sẽ phản xạ ít hơn. Nên xu hướng tàng hình sẽ là composite. Ngoài ra cấu trúc khung thân, các tấm ốp trong thân máy bay cũng phải được tính mô hỏng sao cho nó hoạt động tương tự 1 cái antenna và độ phản xạ sóng là thấp nhất. Trên T50 có thấy các đinh tán bố trí khác với các máy bay đời trước cũng vì mục đích đó, trong thân có các tấm xốp hình tổ ong.
    Vật liệu tàng hình thì nghe nói có tiến sỹ gì đó của ta cũng chế được bằng cách trộn bột ferrite với sơn, nhưng để có RSC 0.0001m2 thì phải đợi hàng vạn năm nữa.
    Các nước cũng rất thèm muốn được diện kiến F22 để xem nó tàng hình thế nào, nhưng có lẽ còn lâu mới có chuyện đó. Vậy nên cách đánh F22 giờ vẫn còn trên giấy.
    F117 có RSC lớn hơn F35, cũng tung hoành mạnh ở các chiến dịch irac, nam tư ... Hẳn là nhiều nước cũng tìm mua thông tin về hiển thị của "stealth fighters" trên radar ra sao. Chú Nga và China chắc rất quan tâm (có thể sứ quán china có cái gì đó nên ăn "nhầm" 1 trái tên lửa (HARM?) trong chiến dịch iraq. Tới nay chỉ có 1 chú F117 rớt vì bị đối phương bắn hạ. F117 cũng đã nghỉ hưu năm vừa rồi.
    Nghe nói buồng lái phi công là nỗ lực khó nhất để tàng hình.
    Tàng hình kô làm máy bay biến mất hoàn toàn, mà làm cho khả năng quan sát của đối phương giảm xuống. Từ đó máy bay tàng hình chủ động tấn công trước, dễ dàng luồn lách tránh radar hơn để đột kích.
    Trong các thử nghiệm phòng không ở ta, sử dụng máy bay mô hình loại nhỏ. (nghe nói tầm 200M cho 1 con), bay chậm nhưng có RSC thấp để làm mồi cho tên lửa. Nghe đồn thì hiện tại ta bắn trăm phát trăm trúng (mừng nhé). Chưa ai thử nghiệm dùng tên lửa bắn tên lửa.
    S300 cũng như S400 cũng cỡ chục triệu $/quả. Cả hệ thống cũng cỡ trăm triệu $. Hiện tại vẫn có thành tích bắn thử (nhưng bắn ít thôi), chưa có nước nào có thành tích chiến đấu nên cũng chưa biết thực có như tưởng kô. Chiến dịch Gruzia vừa rồi kô thấy có sự tham gia của S300 nên có thể hàng chục năm nữa mới có S300 bắn chơi.
  9. 1voi1la2

    1voi1la2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/04/2010
    Bài viết:
    108
    Đã được thích:
    0
    Làm gì có tàng hình Plasma trên thực tế hả bác. Nếu Nga có thì nó cần gì chế tạo PAKFA, chỉ cần đặt plasma lên mấy con Su cũ là tàng hình tất. bác ạ. Mấy bác Pro Nga hay nói plasma để tự mình tự hào thôi.
    Về máy bay thì xét ra Nga đi sau Mỹ nhiều bác ạ.
  10. anhtuan133

    anhtuan133 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    352
    Đã được thích:
    102
    Cái này là thông tin bổ xung về RSC, thấy hay nên tui chép lại (của bạn Tazadenperla)
    Nếu chỉ coi F117A, B2, Raptor là máy bay tàng hình thì chỉ có 1 chiếc F117A bị bắn hạ ở Nam Tư năm 1999, một chiếc B2 rơi ở Guam năm 2008, một chiếc Raptor bị rơi trong khi bay luyện tập ở Calif. năm ngoái.
    RCS của F117 theo Airforce-Technology là "được ước đoán từ 10 cm2 đến 100 cm2. Con số ước tính trên đây cũng được khẳng định ở AboveTopSecret. Tuy nhiên, theo Ausairpower thì "The RCS of the aircraft has been estimated in the range of 0.001-0.01 square metres, which is incidently between 1% to 10 % of the RCS of a typical chicken [1] (subsequently released information indicates it to be closer to 0.001-0.0001 m2)"
    RCS của B2 Spirit, do chiếc máy bay này đang trong thời gian phục vụ, nên những con số đưa ra hầu như không có căn cứ xác thực nào cả. Cho nên, mọi con số ước đoán được đưa ra đều dựa theo kết quả tính toán bằng máy tính theo nhiều phương pháp khác nhau. Tôi chỉ trích dẫn một con số ước trong số đó: do giáo sư A. Chatterjee - Viện Công nghệ Bombay - công bố trong công trình Finite Volume Time Domain (FVTD) Computations for Electromagnetic Scattering là 0.0001 m2.
    F22A Stealth Ở đây có 2 vấn đề: all aspect (mọi góc độ) và wideband (dải băng tần rộng)
    - Mọi góc độ: RCS của F22A cũng thay đổi theo góc, nhưng trong một khoảng biến thiên mà người ta cho là từ 0.0001 tới 0.0065 m2. Ngay cả ống xả cũng có một lưới chắn radar bên trong.
    - Wideband: Wideband ở đây khó xác định là từ đâu tới đâu. Như về nguyên tắc vật lý, thì bước sóng cỡ trên dưới chục mét chắc chắn thấy được, dù có độ phân giải thấp.
    Một điều khác: dù Raptor có RCS thấp, nhưng nếu công suất radar càng mạnh, ở khoảng cách càng gần thì càng có nhiều cơ may phát hiện. Đấy là lý do mà mỗi hệ thống S300PMU của Nga cơ bản gồm các thành phần:
    - Radar 1L119 Nebo SVU dùng sóng VHF để làm stealth surveillance. Khi tìm được một mục tiêu khả nghi trong một thể tích, thì vùng khả nghi được đưa sang cho radar kế tiếp:
    - 64N6 Big Bird dùng S-band để làm volume search và nhận định bạn thù. Khi xác định mục tiêu là thù, nó sẽ tiếp tục khoanh vùng và chuyển thông số cho radar kế tiếp;
    - 30N6E1 Flap Lid / Tomb Stone dùng tới 10''000 phần từ thu phát X-band để dẫn bắn bằng command link (cập nhật mục tiêu từ mặt đất) hoặc track via missile (cập nhật từ radar trên tên lửa).
    Ở Iraq và Serb, các trạm radar cảnh giới hầu hết đứng yên một chỗ, lại có diện tích chồng lấn nhỏ, nên bị UAVs lẫn phi cơ thâm nhập tiền sát ghi nhận lại. Nhờ đó các phi đội tấn công ban đầu có thể vạch ra một kế hoạch thâm nhập dựa vào vùng phủ của các trạm này và lên phương án thâm nhập sao cho số trục đe doạ là thấp nhất.
    Như thế, khác với cách suy nghĩ của người ngoài, cứ cho rằng các phi đội bay tràn vào như phim ảnh. Thực tế phương án không tập bao giờ cũng phải dùng Wild Weasels (chuyên tấn công radar) để đánh sập một vài trạm quan trọng để tạo ra lỗ hổng, rồi từ đó tràn vào đánh sân bay trước. Cũng từ lỗ hổng này, mà các đội Wild Weasels mới tiếp cận các trạm radar /vị trí tên lửa khác ở vị trí tấn công an toàn, tiến tới đánh sập hoàn toàn các hệ thống phòng không mặt đất.
    Quan sát cách không lực Mỹ khoét lỗ trong hệ thống phòng không, người Nga mới đưa ra doctrine mới về phòng không tích hợp liên tầng (IADS). Nguyên lý của nó là bố trí các trạm radar/tầm bảo vệ của tên lửa chồng phủ lên nhau, trao đổi thông tin với nhau, bù trừ năng lực cho nhau. Cách bố trí này buộc các phi đội tấn công ban đầu luôn phải đối mặt với ít nhất là 2-3 trục đe doạ. Hơn thế nữa, do toàn bộ hoặc một phần của hệ thống được đặt trên xe di động, nên các máy bay thâm nhập sâu phải đánh bằng phương án cơ hội tức thời, chứ không đánh được bằng phương án định sẵn.
    Sơ qua như thế để thấy teens series (F15/16/18) của Mỹ khó có cơ may thâm nhập một IADS hiện đại như của TQ. Ngay cả F35 cũng thế, vì F35 dễ bị phát hiện ngay cả bằng radar dẫn bắn dùng X-band từ nửa thân sau. Khi đã bị phát hiện thì không chạy được, một mặt vì thiếu tốc độ để chạy, một mặt chạy thì phơi mông - là chỗ dễ thấy nhất ra trước radar dẫn bắn.
    F22A có nhiều cơ hội nhất, vì giả sử nó bị phát hiện bằng radar VHF, thì chắc chắn RWR của nó nhận biết bị quét, và nó vẫn đủ thời gian để đổi hướng chạy trước khi bị tìm kiếm bằng Tombstone. Ngay cả trong trường hợp xấu nhất là RWR báo đã bị lock-on, nó vẫn có sức cơ động để phá khoá, hoặc tăng tốc tối đa bứt tầm trước khi tên lửa đuổi kịp.

Chia sẻ trang này