1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Súng bộ binh!!!

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi 272chip272, 04/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Theo em, nếu chạy quanh phố phường thì các bác nên chọn loại này. PPSh của LX cũ, cái này băng của nó tới tận 71 viên, ít kẹt đạn, mà trong phố thì M16 cũng chỉ đến thế là cùng.
    [​IMG]
    Lính Mỹ ở Falluja với súng ngắn liên thanh PPSh năm 2004.
    [​IMG]
    Xem ra PPSh còn gọn nhẹ hơn M16, cỡ đạn nhỏ, lính tha hồ mà mang theo nhiều đạn. Tốc độ bắn thì nhanh.
    [​IMG]
    PPSh do lính thuỷ đánh bộ Mỹ sử dụng ở Iraq. Trọng lượng có 3.63 kg, tương đương với AR-15 đời đầu (nhẹ nhất trong họ M16).
    Được 272chip272 sửa chữa / chuyển vào 20:05 ngày 12/11/2009
  2. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Súng M16 học lại kỹ thuật "chụm loạt cực nhanh" do Tokarev phát triển năm 1927.
    Súng máy (súng liên thanh), có hai chức năng chính, là bắn đối kháng và bắn diện tích. Trước khi có súng xung phong, thì súng máy chỉ đơn giản là bắn diện tích, bắn diện tích là để trợ chiến. Súng xung phong là súng cá nhân, ai cũng bắn diện tích trợ chiến thì trợ chiến cho ai đây, nên chức năng ưu tiên của nó là đối kháng. Đối kháng tầm gần và cực gần (giáp lá cà) là xung phong. Nhưng vì liên thanh, nên các súng xung phong cũng có chức năng bắn diện tích. Súng trường phát một thì chỉ thiên về đối kháng, nhưng kém xung phong và trợ chiến diện tích thì cực tệ. Thật ra, khẩu súng xung phong đầu tiên được sử dụng số lượng lớn là súng trường Fedorov, nhưng do súng trường khó làm và nhiều nguyên nhân khác, súng trường xung phong chỉ thật sự thay thế súng ngắn liên thanh (SNLT) bắt đầu từ AK-47.
    Súng trường xung phong do nhà phát triển Filatov đưa ra về mặt lý thuyết đầu TK20, nhưng ông chưa đủ điều kiện kỹ thuật để thực hiện. Trước đó, 2 mẫu súng của Mondragon và một người khác cũng có ý tưởng, nhưng không tính đầy đủ về lý thuyết chiến đấu cá nhân. Fedorov là người thực hiện súng trường xung phong thực tế đầu tiên, đã được sử dụng trong WWI và được đánh giá tốt, nhưng do chính quyền Nga Hoàng không chấp nhận một loại đạn mới nên khẩu Fedorov Avtomat không có tính năng loạt nhanh, và sau đó không phát triển tiếp.
    Cùng trong nhóm đó có Tokarev, ông đề nghị các súng trường liên thanh và phát một tự động, nhưng không may mắn được chấp nhận như Fedorov.
    Sau WWI, hai nước đi đầu về súng ống là Đức và Nga đều rất khó khăn (thực ra, sau 1930 thì súng cá nhân Nga đã vượt lên trước Đức, nhưng tính chung thì thứ tự Đức rồi đến Nga trong giai đoạn này hợp lý hơn). Vậy nên kỹ thuật chiến đấu mới không được phát triển. Đến sau 1935, cả Nga và Đức đều hướng tới súng trường xung phong, nhưng do sức ép chuẩn bị chiến tranh, việc thay đổi cỡ đạn sẽ làm tụt hẫng công nghiệp quốc phòng một thời gian, nên cả hai nước lại vẫn cố dùng đướng kính 7,62 (Nga) và 7,92 (hoặc cách gọi quen là 8mm ở Đức), nên khó và không có có đạn nhẹ đầy đủ tính năng súng trường trong WW2, trước khi AK-47 ra đời. Điều đó là đúng, vì sau này khi Nga dùng đạn nhỏ cho AK-74, họ buộc phải áp dụng các kỹ thuật tự động điện tử mới thì mới có thể có các dây chuyền nhỏ gọn cho ra đạn rẻ, điều tối cần thiết với súng trường chủ lực, dùng trong trường hợp sơ tán vì chiến tranh. Kỹ thuật tự động điện tử, đặc biệt là khâu đánh giá chất lượng đạn sản xuất hàng loạt, không thể thực hiện được trước WW2. Đạn AK-74 là loại đạn "chống trên mũi nhọn" nhưng là đạn phức tạp, chứ không đơn giản là đạn lõi thép vỏ mềm như M16 các đời, AK-47 đạn 7,62mm... Mặc dù đạn "lõi thép vỏ mềm" đã có một số cải tiến, như đổ thêm ít chì ở đuôi (M16) hoặc thêm cả lớp đệm giữa vỏ và lõi thép bằng chì hoặc bismut (ăng ti moan, AK-47), nhưng vẫn là những đạn có cấu tạo đơn giản, các đạn có cấu tạo phức tạp như AK-74 nếu không có công nghệ đúng, thì giá rất cao và không thể dùng làm đạn chủ lực, thường dùng làm đạn quý như bắn tỉa.
    Do súng trường xung phong khó thực hiện, mà chiến tranh gây áp lực, nên Nga và Đức đi theo hướng súng ngắn xung phong. Súng này thực hiện được ngay tắp lự do kỹ thuật chế tạo đơn giản, nhưng tầm quá ngắn, dẫn đến tuổi đời trên chiến tuyến của chúng cũng quá ngắn. Súng MP18 Đức là loại súng rẻ tiền, không đúng cả về thiết kế phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu, nhưng nhanh chóng gây tiếng vang, đơn giản chỉ là thời đại công nghiệp, sản xuất hàng loạt, cho ra nhiều đạn mà thôi, chứ các súng này không khó làm. Súng MP19 có hình dáng và chế độ làm việc y như MP18, nhưng làm bằng vật liệu tốt, công nghệ tốt, bền, tin cậy.
    Sau MP18 và MP19, MP18 phát triển thành MP28 và dừng lại, một nhánh là VMP35 sản xuất số lượng nhỏ, phiên bản rẻ tiền của MP28 là Sten và Lanchetster của Anh. Súng MP19 của Đức còn phát triển thành súng MP34 Áo.
    Các dòng MP18 và MP28 trên đều không thay đổi nhiều tính năng chiến đấu cũng như sản xuất, sớm được thay thế bởi VMP, phát triển bởi chuyên gia gia công tấm mỏng số một thế giới lúc đó là Vollmer. VMP sản xuất nhiều đầu tiên là "thập lục thức" của Tầu, sau đó là các phiên bản cho quân phát xít Tây Ban Nha thường gọi chung là VMP35, cùng một số nước Nam Mỹ, cuối cùng là MP38/40/41. VMP cũng có mẫu gửi sang Liên Xô, nhưng Tokarev đã đánh giá súng chưa cải tiến nhiều theo hướng đối kháng tầm xa trên chiến tuyến, tức là vươn xa hơn súng ngắn, hướng đến tầm súng trường, do đó, Tokarev đề ra loạt cực nhanh cho phép chụm nhiều viên thành một chùm trong thời gian ngắn, tác dụng như 1 viên, tăng tầm. Tuy nhiên, phiên bản thử nghiệm năm 1927 của Tokarev lại cho thấy đạn cần cải tiến nhiều. Sau một thời gian thiết kế đạn, thì phiên bản được chấp nhận lại là PPD của Degtriarev, nhà thiết kế súng máy cá nhân hàng đầu Liên Xô lúc đó, thật ra, PPD chỉ đơn giản là hạ thấp yêu cầu của Tokarev và cải tiến một chút thiết kế của MP28 Đức, các cải tiến là tốc độ bắn cao 900 phát phút, máy móc tin cậy, khe hở tay kéo nhỏ, khóa trong máy cò, kiểu dáng của súng trường và thay đổi lớn nhất là đạn Tokarev.
    Phiên bản 1927 Tokarev có tốc độ bắn 1100 phát phút, có dáng súng trường của VMP, nhiều người sau này chỉ trích quyết định chuyển sang PPD của Hội Đồng. Đạn Tokarev có tầm xa hơn nguyên mẫu Mauser 7,63x25mm bằng kỹ thuật thuốc đạn mới đang phát triển, cùng việc cải tiến đầu đạn. Nó nặng cả vỏ gần như đạn AK-47 7,62mm sau này, nhưng tầm gần hơn nhiều. Cải tiến thuốc giữ nguyên áp lực tối đa để bắn trên súng cũ, nhưng kéo dài thời gian cháy cho phép dùng nòng dài, đây là hướng tiên tiến và khác biệt với việc Đức cải tiến tăng áp đạn 9x19 Luger.
    PPD được chấp nhận như một quyết định thỏa mãn việc coi thường SNLT của Liên Xô, đầu tư ít và chấp nhận một phát triển nửa vời, số lượng sản xuất rất ít cho các mục đích không quan trọng.
    Trong khi đó, Phần Lan cải tiến MP19 nhưng theo các hướng phát triển của VMP và Tokarev. Từ phiên bản đầu M26 đến phiên bản chính thức KP31, thì Suomi đã du nhập kỹ thuật loạt của Tokarev, đồng thời bổ sung hàng loạt các kỹ thuật mới, như đầu nòng bù nẩy, giảm rung bằng đệm khí nén, nhưng do điều kiện nước nhỏ, khó độc lập về đạn, nên dùng các loại đạn cải tiến quá áp Đức, mà không dùng đạn mới của Tokarev. Đồng thời, Suomi có cổ băng và cấu tạo băng tin cậy, băng thẳng 2-4 hàng chứa nhiều đạn, đặc biệt là băng trống giảm chấn động của hàng đạn đập ngang súng, làm việc tin cậy chứ không như các băng trống đương thời, các băng này yêu cầu kiểu cổ băng đặc biệt, gọi là cổ gài xẻ rộng sau sẽ dùng cho súng PPSh và các dòng súng AK.
    Tokarev dùng cổ gài, Thompson SMG dùng cổ xẻ rộng cho băng trống và không gài mà cắm, nhưng cả hai súng này chưa có cải tiến lên lò xo băng trống, cổ băng nhiều hàng tin cậy. Miệng băng 2 hàng ngày nay rộng hơn đường kính đạn, nhưng có góc gập hợp lý để đạn không bị đẩy ra bởi lò xo, mà được móc lấy đạn đẩy dọc viên đạn về trước, trong khi đó khi lắp đạn lại ấn ngang viên đạn qua cửa băng được, cái dáng này trước Suomi khá khó hiểu. Băng 4 hàng hay băng trống có cơ chế chuyển 4 hàng hoặc 1 hàng thành 2 hàng cho cửa băng loại này. Thêm một cải tiến của Suomi là cơ chế lên lò xo, khi ấn vào thả lò xo yếu cho dễ, sau đó lên lò xo để sử dụng. Cơ chế này cũng bù lại việc lò xo yếu dần theo tuổi thọ, trước đó, các lò xo cả băng thẳng và băng trống đều quá căng và chỉ dám lắp một phần đạn mới đủ độ tin cậy. Cũng trước đó, dùng cửa băng 1 hàng không cho đạn qua được, lắp rất khó, hoặc phải dùng cửa băng lệch một bên, một bên là móc ngược lên lưng đạn, móc đạn từ băng vào nòng không đủ tin cậy. PPSh dùng đạn có tỷ lệ dài / rộng lớn hơn, nên đạn ít quay ngang ngửa và dễ làm cho tin cậy hơn. Nhưng MP19, Suomi, MP34 Áo, Thompson lại dùng hợp kim đắt tiền để làm ống đẩy đạn vào nòng nhỏ, tin cậy. Thêm một chút là PPSh thừa kế EMP36 kiểu băng nghiêng làm truc viên đạn hướng về tâm ống nạp đạn, cũng tin cậy hơn, (EMP là Erma MP, tên VMP sau khi Vollmer về công ty Erma). Phát triển đầy đủ nhất là AK, cổ xẻ lắp nhiều loại băng, cửa hai hàng, cũng nghiêng lên, đồng thời ống nạp đạn nhỏ và chiều dài đạn súng trường rất thoải mái.
    Đầu nòng bù nẩy và băng trống được Thompson SMG ứng dụng, nhưng đầu nòng bù nẩy của Thompson là một thiết kế sai, ban đầu theo hướng giảm giật chiều thẳng-rất sai, sau mới thành bù nẩy không hoàn chỉnh, đầu nòng bù nầy của Suomi là lỗ, sau được cải tiến thành tube chỉnh được cho AKM và từ AK-74 kiêm luôn giảm chớp đầu nòng. Việc đưa đầu nòng bù nẩy hoạt động mạnh cộng thêm tốc độ bắn cực cao vào dẫn đến rất chụm loạt, lợi cho đối kháng, nhưng hại cho bắn loạt kiềm chế. Chính vì thế các nhà thiết kế và sử dụng Suomi đã cãi nhau điểm này và đưa đến quyết định đầu nòng bù nẩy rời, có thể tháo bỏ hoặc lắp cái khác để thay đổi độ chụm. Chỉ đến AKM đời sau mới có tube hiệu chỉnh được bằng cách xoay đầu nòng, AKM đời đầu chụp bù nẩy có hình chém vát đơn giản.
    [​IMG]
    Súng Thompson đời M1928A1 với đầu nòng bù nẩy.
    [​IMG]
    PPD-34/38 ở trên và PPD-40 ở dưới.
    [​IMG]
    PPSh-41 đời đầu.
    [​IMG]
    SNLT MP40 của Đức.
    [​IMG]
    Suomi của Phần Lan làm người Nga khiếp sợ sau cuộc chiến tranh Nga-Phần Lan 1939-1940.
    [​IMG]
    Sten MkIII của Anh, đơn giản thế này thì quân giới Vịt cũng làm được.
    [​IMG]
    M3 Grease của Mỹ.​
    Được 272chip272 sửa chữa / chuyển vào 01:06 ngày 13/11/2009
  3. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Sau Chiến tranh Phần Lan 1939-1940, Liên Xô quá choáng súng Suomi của Phần Lan. PPD được cải tiến cấp tốc và cải tiến gần như duy nhất của PPD-40 là cổ băng Suomi. Súng PPD tăng vọt tốc độ sản xuất và sản lượng chủ yếu ở giai đoạn rất ngắn nửa năm trước khi đợi PPSh-41 đi vào sản xuất. Súng PPSh-41 có tốc độ bắn đúng bằng M16 sau này, dùng đạn dài của Tokarev, hơn Suomi ở chỗ có thể sản xuất lớn, PPSh là SNLT sản xuất lớn nhất trên Thế giới, cũng là một trong những súng bộ binh sản xuất lớn nhất trong lịch sử, ngang bằng hoặc hơn M16 (do sản lượng Trung Quốc khó đánh giá), và chỉ sau 3 súng Mauser, Mosin và AK-47. PPSh-41 vì lý do sản xuất lớn bỏ đi các ưu thế vượt trội của Suomi như đệm khí giảm rung, đầu nòng bù giật hoạt động mạnh, cũng như hợp kim nickel giá đắt, cũng như các phương pháp gia công chậm như mài.
    Cái cổ băng và băng trống mà PPD-40 học của Suomi truyền lại nguyên cho PPSh. Nhờ đó, trong chế độ bắn tốc độ cao, súng có thể dùng được băng 71 viên mà không giật, rất đủ. Băng trống của súng Thompson SMG 100 viên, tốc độ 1500 v/p, nhưng nó không hề được thiết kế cho đối kháng, thiếu dáng súng trường và quá nặng, đồng thời băng 100 viên không có các tiến bộ quan trọng của Suomi để tin cậy nên sớm phải thay bằng băng thẳng 20-30 viên ở M1, đồng thời giảm tốc độ bắn xuống còn 600 v/p.
    Đó là lịch sử của chức năng loạt chụm của súng M16. Sau chiến tranh, việc thu bé đạn lại chưa hợp lý, nên Liên Xô vẫn giữ nguyên lý luận quân sự Đức và Nga trước chiến tranh là giữ nguyên đường kính đạn, nhờ đó, thừa kế được lực lượng sản xuất đã được xây dựng công phu trước đó. Cả hai nước này đặc biệt khác Mỹ ở chỗ, đã là súng chủ lực phải dễ dàng tổ chức sản xuất quy mô lớn trong điều kiện khó khăn.
    M16 là một đống cóp nhặt các đặc điểm chưa được đánh giá kỹ của các súng lừng danh trước đó, một số đặc điểm học theo kiểu "râu ông nọ cắm cằm bà kia", như tốc độ bắn cao của súng Tokarev nhưng lại đi với cổ băng không ổn định của súng MP38, hay khóa nòng hành trình ngắn nhưng lại có cửa mở của M3 Grease, (trong khi chỉ cải tiến chút khóa nòng là chính nó làm cửa như Thompson, bớt đi cái cửa rất dễ hỏng gây tắc súng).
    Điều hài hước là M16 học súng PPSh-41 tốc độ bắn, nhưng lại không học được cấu tạo cổ băng. Hiện nay cổ băng cắm thường được gọi là kiểu M16, nhưng thật ra đó là cổ băng của MP18 thừa kế từ băng súng ngắn Luger. Do ưu tiên công nghệ tấm mỏng của Vollmer mà MP38-40-41 học lại, không theo Suomi và PPSh. Suomi không chú ý sản xuất lớn nhưng PPSh dùng rèn, không cần tấm mỏng, vẫn sản xuất lớn. MP38 không dùng băng gài, nên giảm tốc độ bắn xuống 600, Thompson không hoàn thiện băng trống chuyển sang băng dài cũng giảm từ 1500 xuống 600. Còn M16 kết hợp tốc độ cao của Tokarev với băng nhỏ 20-30 viên. Vì vậy, M16 có tốc độ bắn của Suomi và PPSh, nhưng lại không có băng 71 viên, mà sùng băng 20-30 viên, chỉ đủ cho 3-4 loạt, trong khi dòng súng AK là 10 loạt 3 viên hay 15 loạt 2 viên và tăng lên khi dùng băng 45, 75 viên, đồng thời ở tầm xa, AK chuyển sang phát một.
    Cấu tạo cổ băng xẻ, gài có tầm quan trọng đặc biệt đến mức trong lô sản xuất cấp tốc PPD-40, gần như cải tiến duy nhất với PPD-34/38 chỉ là cổ băng và băng. Cổ băng này quyết định việc lắp băng lớn, tin cậy. Băng cắm của MP38 mà M16 học theo thật ra là hậu duệ của băng súng ngắn cầm một tay cổ, dạng pistol Luger, băng đút trong tay cầm. MP38 cố giữ chỉ vì dễ dàng thực hiện bằng dập cho sản xuất lớn và nhờ thế, Erma của Vollmer có ưu thế cạnh tranh. Người ta thường lý sự rằng cắm sâu chắc hơn, đó là sai, khi bị lực tác dụng quá lớn làm biến dạng, thì cổ cắm biến dạng trước băng vì nó ở gốc-lực bẻ lớn, khi muốn chống lại lực này thì không làm thép dập được mà phải làm rèn-hàn như Sten hay MP18 và vì thế làm cho súng thêm nặng. Trong khi đó, cổ gài khi gặp lực lớn thì băng biến dạng, vứt băng đi và thay băng khác, súng vẫn nổ tốt, đóng góp một phần cho độ tin cậy tuyệt vời của AK.
    Nhưng đương nhiên, nhược điểm lớn nhất của cổ cắm là khi dùng băng trống, thì cái trống có cái cổ dài như cổ ngỗng và không ai chấp nhận được, trừ vài trường hợp: Luger quá sơ khai, MP18 phải theo Luger vì vội vàng. Thompson không làm cổ mà làm sống lưng-kết hợp cách lắp cắm vào cổ xẻ => sớm phải thay bằng băng dài cắm. Băng cổ dài đã một hàng là một hàng, hai là hai. Cổ xẻ gài có thể dùng nhiều loại băng, 1, 2, 4 và băng trống tin cậy, là mấu chốt để súng lắp nhiều đạn trong các trường hợp chiến đấu khác nhau. Băng thẳng 4 hàng của AK và Suomi có thể lắp nhiều đạn, nhưng hàng đạn đập thẳng vào súng giảm tính đối kháng (khi lắp đầy, nó không thể chụm loạt được nữa và chỉ có tác dụng viên đầu khi đối kháng), điều này cần băng trống.
    Chức năng xung phong thì súng trường thừa kế từ SNLT khá nhiều. Phát đập khi băng đẩy cả hàng đạn ngang súng tương đương với hàng kg rơi từ độ cao cả mét, làm súng rung rất mạnh. Sau này Đức đưa ra băng trống đôi, hai trống hai bên quay ngược nhau, đẩy 1 hoặc 2 hàng mỗi bên nhập thành 2 hàng lên cổ, giảm rung đi rất nhiều nhưng quá cồng kềnh. G11 siêu hiện đại thì làm băng nằm trên và dọc theo nòng, chỉ rung dọc ít ảnh hưởng. AK cũng có băng 75 viên một hàng, hay hơn 100 viên 2 hàng, cong veo đến mức khi lắp đầy thì cong ngược lên đến nòng, thành ra chuyển động trung bình cũng là dọc nòng, thích hợp cho RPK, tuy nhiên mang vác khá khó chịu. Sự rung này trong súng tốc độ bắn cao và băng thẳng như M16 lại càng mạnh, nên M16 không thể mang được nhiều đạn, vì lúc đó nó rung quá, chứ không ai cấm lắp băng to cho nó cả, mỗi giây lĩnh 15 phát đập tương đương 1kg rơi từ 1 mét thì còn gì là bắn loạt chụm, có mà như vãi mạ.
    [​IMG]
    AK-47 với băng 100 viên cong tớn.
    [​IMG]
    Giải pháp giảm rung của người Đức, hai băng trống di chuyển ngược chiều (dùng đồ Air để miêu tả hình dạng).
    [​IMG]
    Cái cổ ngỗng của băng trống súng MP18.
    [​IMG]
    Cổ băng đôi của súng MP40.
    [​IMG]
    Thompson băng trống đời M1928.
    [​IMG]
    Súng Thompson băng gài đời M1A1.
    [​IMG]
    Từ trái qua phải: Cấu tạo của băng trống loại 40 rồi 71 viên do Lahti thiết kế, băng thẳng 50 viên do Schillstrom thiết kế.
    Được 272chip272 sửa chữa / chuyển vào 01:09 ngày 13/11/2009
  4. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Một vẫn đề nữa là kẹt băng, tạm gọi là kẹt kiểu Lanchetster 50 viên. Gọi như thế vì súng này có cái băng ngang dài vĩ đại vì chỉ có 1 hàng, ngần ấy viên, thẳng tắp, và các xạ thủ truyền nhau rằng muốn sống sót thì nên chỉ lắp 30 viên mà thôi, không nó thì kẹt. Kẹt này là lực lò xo quá mạnh, đẩy hàng đạn cong lên, ép vào thành băng mạnh, và dễ kẹt khi có biến dạng hay dị vật.
    Vấn đề này liên quan đến cấu tạo lò xo, lò xo tốt, đàn hồi tốt, dài mà xếp gọn nhẹ, thì chênh lệch lực đẩy khi rỗng và đầy đạn không chênh nhiều, hay nói cách khác là khi đầy đạn thì lò xo vẫn không căng lắm. Kiểu lên băng của Suomi, PPSh và AK (thật ra nguyên bản là của Suomi, các chú khác chỉ học theo). Cũng có thêm một cách giải quyết vấn đề này là phải làm độ căng lò xo dư ra khi mới để bù khi nó đã cũ. Nhưng các nguyên nhân này thì súng nào cũng đầu tư giải quyết được.
    Cái vấn đề mà các súng khác nhau là độ côn của đạn và độ cong của băng thiếu, vừa, đủ so với độ côn vỏ đạn. Đạn côn đem đến nhiều nhược điểm, như băng 50 viên 1 hàng (hay 100 viên hai hàng) rất chuối khi mang vác vì nó cong đến tận nòng súng. Nhược điểm lớn nhất là không dùng được tốt các kiểu máy lùi, nên các đạn SNLT đều không côn mạnh như AK. Đạn côn làm băng cong, nhưng người ta có thể làm độ cong băng hơn kém độ cong đúng vừa độ côn. Ví dụ, Lanchetster, MP38 đều thẳng trong khi đạn hơi côn, tức độ cong thiếu so với độ côn. Sterling côn hơi quá, AK cũng hơi quá. Đạn côn và làm băng cong quá côn làm băng quá cong, lò xo không đẩy thẳng mà đẩy đạn hơi ép vào lưng băng, khi gặp mắc, đạn có thể tiến lui xoay sở lọt qua mắc dễ dàng mà lò xo đẩy không quá mạnh. Đồng thời, xu thế hàng đạn cong theo chiều dọc ra sau, chứ không theo chiều ngang hai bên, ép vào lưng băng rất chắc chứ không vào hai má băng mỏng.
    Nếu quan sát kỹ băng AK-74 5,45mm thì thấy độ cong băng nhựa đã được giải quyết hợp lý nhất. Đoạn cuối băng cong nhiều, càng gần miệng băng càng ít cong. Tưởng như là cách bớt độ cong đi cho ... đẹp, thật ra là thiết kế lại cho hợp lý. Cong quá côn thì đạn trong đó dư nhiều chỗ trống, tuy dễ thoát kẹt khi có dị vật thì cũng xộc xệch dễ gây kẹt kiểu khác, đơn giản như va đập làm biến dạng băng, hay có viên bị dồn nghiêng quá cũng dễ kẹt. Xác suất kẹt ở gần miệng ít hơn, khi đầy đạn thì đạn phía sau lấy đà thúc, khi ít đạn thì lò xo đã nhẹ và tấm đẩy mặt lò xo chuyển động theo ray vỏ băng đã chính xác, vậy nên xác suất kẹt ở gần miệng giảm và vì vậy, làm giảm độ cong đi cho đỡ xộc xệch.
    M16 gặp vấn đề "nên lắp ít đạn" y như Lanchetster, nó côn ít và làm băng cong thiếu.... cho gọn (kiểu như 1 băng thẳng vát đáy hay sau này là 2 băng thẳng vát đáy nối vào làm 1 ). Ban đầu, thay thế cho độ cong băng là đạn nghiêng dần đi cũng y chang Lanchetster và Sten, chỉ khác là hai hàng với cửa hiện đại, với cái đế băng vát chéo rất đặc trưng của M16A1 và cả một số súng Mỹ khác. Thật ra, đây là ý tưởng tỵ nạnh chê AK cong là xấu, chứ cái thẳng này chả đem lại lợi lộc gì và các súng Châu Âu đều theo Sterling, băng đạn súng Châu Âu có độ cong trung bình gần ngang băng của AK-74 5,45mm, nhưng cũng chưa thấy làm giảm dần độ cong. Do đường kính vỏ nhỏ nên độ côn của AK-74 5,45 không thể tớn lên như AK-47 7,62. Do đó, châu Âu và AK cong gần như nhau là giải pháp chung. Nói chung là châu Âu chả thấy M16 hay ho tẹo nào hết. Sau này thì M16 cũng cong tớn lên, chả xấu đẹp gì cả. Việc M16 có tốc độ bắn cao làm lò xo phải mạnh hơn, và vấn đề kẹt kiểu này tăng lên. Đấy là cái hài, một súng (AK) thì hợp lý đến điệu nghệ rồi, một súng (M16) vẫn trẻ con ưỡn ẹo.
    Nhiều bạn nhiễm cái bùa điển hình mà các cỗ máy PR như wiki chế tạo, đó là AK cộng kềnh nặng nề, M16 nhỏ gọn (ví dụ như ngay trên đây có bài của bạn Colt1911)
    Thực chất, AK chỉ nặng nề khi so AK-47 đời đầu với M16 đời đầu. Khi M16 được chấp nhận chính thức năm 1967, thì nó đã phải so với AKM năm 195x. AK đời đầu 1949 (thường gọi là AK-47, đúng ra phải là AK-49 và đúng hơn là AK 7,62mm), nặng 4,3kg có băng không đạn, AKM nặng 3,14 kg cũng cân trong điều kiện đó. M16A1 nặng 2,89kg không băng, băng 30 viên đầy nặng 3,6 kg (băng hiện đại). M16A2 3,77/4,47 (không băng và có băng 30 viên đầy). Như vậy, so M16A1 và AMK thì AK nặng hơn chút, tính cả 30 đạn thì AKM 7,62mm nặng 3.620 gram, nhưng AK gọn hơn, ngắn hơn 13 cm. Còn so AK-74 và M16A2 thì AK vừa gọn, vừa nhẹ. AK-74 nặng 3,07kg có băng không đạn, lắp đầy đủ đầu nòng loại nặng, kiêm chức chắn lửa và bù giật chỉnh được, thêm băng gập ngang đặc, là 3,4kg, có đủ 30 viên là 3,77kg. AK-74M dùng báng đặc gập ngang nên nặng và dài hơn chút, AK-74S báng rỗng các loại nặng có băng rỗng 2,97kg, cộng 370 gram 30 viên đạn là 3,34 kg.
    M16A2 băng 30 rỗng không đạn vừa khoảng 4kg. Như vậy, AKM đã nhẹ hợn M16 khá nhiều và AK-74M thì nhẹ hơn đến 1kg, AK-74S nhẹ hơn M16A2 1,13 kg khi mang 30 viên đạn (các bạn chú ý là khối lượng này là gần 100 viên đạn chưa lắp vào băng đấy nhá).
    Do cái đầu nòng bù nẩy kiêm loa che lửa mà AK-74 dài hơn 7 phân (87 phân lên 94 phân), nhưng vẫn ngắn hơn M16A1 (986 mm) và M16A2 (1,04 mét). Báng đặc gập ngang làm AK-74M dài hơn 2mm là 942mm vẫn cứ gọn hơn M16A1 và M16A2.
    Như vậy, cái huyền thoại "M16 gọn nhẹ" là hão huyền, do cái máy tuyên truyền thông tin bậy và quy mô lớn kiểu như wiki đẻ ra. AK nhẹ hơn M16 một khối lượng có 1 kg là ít nhất.
    [​IMG]
    AK-74M với cái băng cong giảm dần về phía trên.
    [​IMG]
    M16A1 với cái băng thẳng "sáng tạo" của người Mỹ.
    [​IMG]
    M4A1 với cái băng cong kiểu như 2 băng thẳng nối liền nhau. ​
  5. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Đạn cũng vậy, đạn AK-47 7,62x39mm nặng cả vỏ ban đầu 25 gram (bằng đạn Mosin, thời trước 1948 khi vỏ đạn thử nghiệm có cỡ 7,62x41mm), khi trang bị chính thức AK-47 dùng đạn nặng 16 gram. Đạn NATO 5,56x45mm ban đầu cũng xấp xỉ (15 gram), tuy có nhẹ hơn đạn AK-47 7,62x39mm chút, nhưng lại nặng hơn đạn AK-74 5,45x39mm. Sau này, NATO 5,56x45mm nặng 12,31 gram với đạn phổ biến có đầu đạn 4,02 gram (M855 trang bị chính thức 198x).
    Đạn AK-74 5,45x39mm nhẹ hơn đạn NATO chút, nhưng đầu nặng và trọng tâm lùi sau, là biểu hiện của sự ưu việt trong công nghiệp quân sự, loại đạn đầu rỗng, có lõi cứng, đệm mềm dầy này là đạn có cấu tạo phức tạp. Ngoài AK-74 thì đối với các súng khác đây là loại đạn quý giá dùng cho bắn tỉa, không dám dùng làm đạn chủ lực, đạn phổ thông. Loại đạn này làm bền nòng (AK 4 rãnh, M16 là 6 rãnh nhưng vẫn lột vỏ cả khi bắn đạn M16A1 trên súng M16A2). Độ chính xác của đạn súng AK-74 5,45x39mm trong tầm hiệu quả cực cao (ở 250 mét, 3 viên AK 5,45x39mm chui qua một vòng 18mm, nhưng sau đó độ chính xác giảm đi nhanh hơn đạn M43 của súng AK-47 7,62x39mm và Mosin-NATO 7,62 ), sức phá thịt hơi giảm so với đạn súng AK-47 7,62x39mm (nhưng vẫn cao gấp rưỡi đạn súng M16). Đặc biệt là sức xuyên giáp tăng vọt, cải tiến này cũng được áp dụng cho đạn cũ 7,62mm. Sức xuyên giáp tăng do đạn có cấu tạo phức tạp như của đạn AP, có lõi cứng nặng, đệm giữa mềm nhẹ, vỏ dai, trọng tâm lùi sau, có đệm đầu lõi mềm dai, đạn 7N22 bắn tầm gần vài chục mét vào M113 thời chống Mỹ có tỷ lệ xuyên qua vỏ sườn kha khá.
    Giải thích cho bạn một cái bậy bạ trên wiki: đạn 5,56x45mm là đạn do Remington Arms thiết kế. Đó là sản phẩm "trí tuệ", đây là đạn FN SS109, cả nòng và đạn M16A2 đều là NATO, tức FN SS109.Thông tin bậy bạ, quy mô lớn là đặc trưng của các cỗ máy tuyên truyền kiểu Mỹ như wiki. Đạn M16A1, còn gọi là M193, mới là đạn Mỹ. Ở đây, một điều nữa là súng AK đầy đạn nặng hơn M16, nhưng trong đó AK 1946 có đạn nặng 3,8kg, nhẹ hơn AK-47 rỗng đến 0,5kg.

    Còn đây, 4kg khi lắp băng 30. Đây mới là tham số băng ban đầu của M16, cả băng và 30 đạn 1,1kg, so con số này thì chênh lệch M16 năm 1967 với AKM 195x còn cao hơn nhiều con số trên và đương nhiên, AKM nhẹ hơn, trên tính AKM hơi nặng hơn là số liệu của trang web World.guns.ru không có số liệu loại băng và đạn ban đầu của M16, dùng khối lượng băng hiện đại lắp vào súng cổ. Tuy nhiên, World.guns.ru đáng tin cậy hơn trang FAS nên mình lấy để các bạn so sánh, còn việc mình trưng ra con số do chính mình cân AKM đời 1973, AK "thức 56" Tầu, AR-15 và M16, đạn Tầu (M43/49) và đạn Nga (M43/67).... thì các bạn bảo ... không có link chứng minh (huyphuc nói ).
    Về chuyện đạn thì đó là chuyện cười ra nước mắt. Người Mỹ thấy rằng, súng trường càng hiện đại thì đạn càng nhỏ. Như trước đây dùng đạn 13mm, rồi giảm xuống 11mm, rồi 9mm , rồi 7,9 mm, rồi 7,62mm. Như một con khỉ bắt chước, người Mỹ từ đó cho rằng đạn nhỏ thì hiện đại. Việc chuyển sang đạn nhỏ yêu cầu cải tiến rất nhiều công nghệ để đạn nhỏ nhưng vẫn có sức công phá như đạn to, không ai lấy đạn săn vịt ra săn người cả.
    Đạn Remington ".223" chính là đạn 5,56 Mause được phát triển trong thập niên 192x, khi nước Đức bị cấm sản xuất một số loại súng săn người. Nhờ giảm nhỏ đường kính, mà Đức xuất khẩu được một số súng "săn người dân sự". Tuy nhiên, đạn nhỏ đem đến nhiều vấn đề. Một là, nó nhẹ yếu, muốn nó mạnh, thì một là phải nặng. Nhỏ mà nặng thì ắt là phải là dài. Và vì thế nòng phải dài, mà nòng dài thì súng cồng kềnh, đồng thời lại cần thuốc công nghệ cao cháy chậm và lâu. Hai là đuôi đạn dài thò ra khỏi buồng chân không đạn đạo, làm mất hiệu ứng "chống trên mũi nhọn", tất nhiên làm đạn phân tán giảm chính xác. Chính vì thế mà các súng cỡ này chỉ là cạc bin nhẹ, chủ yếu dùng săn vịt. Ưu điểm của chúng là vịt không bị banh xác ra như khi săn bằng AK.
    Vấn đề đạn yếu cần thuốc mới thì Mỹ không tự chủ được, nên đạn Remington ".223" khi chuyển thành đạn M16A1 phải dùng thuốc chung NATO 7,62x51. Do đó, cũng phải đuổi theo yêu cầu chiều dài nòng của đạn này, và thế là tỷ lệ chiều dài nòng trên chiều dài súng của M16 quá lớn, đó là nguyên nhân nó cồng kềnh.
    Vấn đề chính xác thì M16A1 chấp nhận, không chữa nổi. Điều này dẫn đến cái nhục lớn nhất của súng trường Mỹ, mặc dù Mỹ là người cung cấp súng cho Tây Âu, nhưng 30 năm trời, cho đến 1980, Châu Âu không thèm dùng cả súng lẫn đạn dở người này, tất cả các nước Châu Âu và các nước đồng minh quan trọng nhất với Mỹ khác như Nhật, Úc, Canada.
    M16A2 là một sự thỏa hiệp, Mỹ dùng đạn nòng Châu Âu, nhưng lại đòi giữ nguyên đường kính đạn để không thay đổi năng lực sản xuất. Đây là điều hài hước nhất quả đất, vì với thiết bị tự động điện tử mới, thì việc sản xuất dao, khuôn... thay thế dễ dàng hơn nhiều so với thời Nga và Đức giữ đường kính đạn ở WW2. Cái kiểu học như con khỉ nó như thế. Lấy đạn M855 của M16A2 bắn trên súng M16A1 thì đến 90 mét phần lớn đạn đã lộn nửa vòng, tầm bắn hiệu quả chỉ 70 mét. Lấy đạn M193 M16A1 bắn súng M16A2 thì đạn bị lột vỏ và tầm bắn giảm còn tệ hơn nữa-đồng thời chỉ vài loạt là hỏng súng, cả hai trường hợp đều không đủ tầm súng ngắn. Cái thỏa hiệp này làm Châu Âu ngậm đắng nuốt cay mà không dám cãi. Yếu thì phải chịu. Mỹ chấp nhận nhiều thứ để đổi lấy ưu thế kho đạn dự trữ. Kết quả lừa đảo thế nào: M193 là loại đạn áp cao, nòng dầy. M855 hay FN SS109 tiên tiến nòng dài. Để bắn được cả hai loại đạn thì M16A2 nòng phải vừa dầy vừa dài, nên mới nặng hơn AK 1 kg, tương đương bằng 80 viên đạn nhỏ, 60 viên đạn to, mà lính mang theo người. Còn Châu Âu đều tất nhiên chả đứa mịe nào dùng M16 các loại, nên chúng chấp nhận dài nhưng kiếu cái dầy, thế mới chó đểu. Súng SIG của Thuỵ Sỹ nặng 3,0kg. Súng T86 của Đài Loan (phiên bản nòng dài bằng M16A2) cũng nặng 3,0kg. Súng G36 của Đức 3,3 kg. Đến thằng Indonesia nghèo nàn lạc hậu súng của nó cũng chỉ nặng có 3,3 kg.
    Nói về cổ băng trống của M16. Không ai chấp nhận băng trống có cổ dài như cổ ngỗng, trừ M16 và Luger 100 năm trước, thế mà cái wiki chết tiệt bảo cổ ngống gọn và... chắc. Thật ra, các loại băng này dùng cho một số loại súng khác lắp lẫn được băng với M16, chứ không ai vác cổ ngỗng đi đối kháng cả. Ở Iraq thì đơn giản là lính Mỹ ném mịe nó M16 đi mà dùng PPSh trong cận chiến, tuy cổ lỗ gần 70 năm tuổi, nhưng nó vẫn gọn gàng và có băng trống không cổ ngỗng.
  6. werty98

    werty98 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    8.164
    Đã được thích:
    5.561
    Bạn chip không cần phải thỉnh thoảng lại giải thích "huyphuc nói vậy" đâu, mọi người biết cả rồi mà
  7. tphat2009

    tphat2009 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2009
    Bài viết:
    3.456
    Đã được thích:
    4
    Các bác rành súng ống quá mà không ai chịu tham gia đoán à ????
  8. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    [​IMG]
    Ruger KP89DC bắn đạn 9mm, hàng xịn quá bác tphat2009. Double action with de****er. Màu thép không rỉ.
    [​IMG]
    Không bôi bôi xoá xoá thì nó như thế này, Ruger P89 DC! Con này mầu Blue Aluminum.​
    Có phải không bác tphat2009. Bác có thể kể vài giai thoại về khẩu súng này cho anh em nghe đưọc không?
    Được 272chip272 sửa chữa / chuyển vào 23:10 ngày 13/11/2009
  9. taisaolainhuvay

    taisaolainhuvay Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    11/06/2006
    Bài viết:
    641
    Đã được thích:
    17
    Nghiện HP thì sang vndefence mà đọc đê, lão ấy mới làm một đống về súng đó, đọc theo muốn lử người
  10. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Nói đi nói lại cũng chỉ có ngần ấy vấn đề. Mà lão cũng không có phương pháp trình bầy nên đọc chút thôi. Muốn dùng khả năng trình bầy của mình để tóm lược những vấn đề về súng bộ binh chỉ trong một topic cho anh em cùng thưởng thức. Lão có viết vài chục topic thì cuối cùng cũng na ná như nhau cả mà. Hi hi

Chia sẻ trang này