1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Súng bộ binh!!!

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi 272chip272, 04/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. F2communist

    F2communist Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    1.006
    Đã được thích:
    42
    Trẻ con mà đc vác súng chạy quanh thì súng đã được tháo băng đạn hoặc băng rỗng thì thì nhẹ là phải.
    PPsh với băng đạn 35 viên nặng hơn M16 với băng đạn 30 viên
    còn vác PPsh với băng đạn 71 viên thì quá nặng mà đạn càng nhiều trong băng thì càng dễ tắc. Cấu trúc băng dạng trống của PPsh như thằng trong ảnh cầm lại càng dễ tắc.
    PPsh hết đạn thì nạp khó khăn và mất thời gian hơn M16.
    Tóm lại chả có lí do gì mấy thằng lính Mẽo sử dụng PPsh từ thời thế chiến II, trong khi nó có dòng M16 hiện đại nhất.

  2. F2communist

    F2communist Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    1.006
    Đã được thích:
    42
    Hí hí! Chính uỷ điều tra ra được dòng giống Dothai của bác Shít ta lin chưa nhỉ, trưng ra đi chứ.
    Giáo trình quân sự nầu mà địch ở tầng trên thì mũi súng chúi xuống chân thế hở. Lại còn đứng ngửa cổ hóng lên nữa.
    Tư thế kiểu đó thì bọn ở trên chả cần dùng súng đạn chỉ cần thả bom là lãnh đủ. Chính uỷ nhể? hế hế!

  3. linhthuychung

    linhthuychung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/10/2005
    Bài viết:
    127
    Đã được thích:
    1
    Ối giời Bạn hiền nhìn thế lào mà bảo chú lính ấy chúi cái súng vào chân thế nhỉ , mí lại chú ấy di chuyển trong nhà như thế nếu cơ động lên cầu thang hoặc di chuyển ra khoảng trống mà không ngó lên qua sát thì bị chúng nó ở bên trên lấy đá ném vỡ đầu ra ấy chứ.
    Hình em giai tớ nè..
    [​IMG]
    Cầm súng nè
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được linhthuychung sửa chữa / chuyển vào 17:33 ngày 18/11/2009
  4. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Sao thấy giống e sốp???
  5. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Lời nói đầu: Chuyện súng trường cứ ỏm tỏi hết cả lên, nghe có vẻ rất là phức tạp. Nhưng thực tế ra, chả có gì phức tạp cả. Để tuyên truyền cho "giáo sư chuyên nghiên cứu về vấn đề liệt não" Mr.huyphuc cũng như mớ số liệu hỗn độn của lão. Em mạn phép rinh bài của lão về đây, em góp tí ti công biên tập, coi như là em được gắn tí tên vào bài của lão, nhằm rộng đường cho anh em chúng mình cùng nghiên cứu và thưởng thức. Nhắn huyphuc, ông viết hơi bị nhiều lỗi chính tả, câu cú thì lủng củng khó hiểu, kiểu như viết cho các giáo sư đọc. Vì vậy, tôi sửa thật lực, nhưng giữ nguyên ý, nội dung chính và thêm thắt chút ít cho dễ tiếp nhận. Có gì khiếu nại, xin pm cho tôi. Hoặc gọi vào số máy 0983.981.979, mong đừng gọi vào nửa đêm.
    Súng trường:
    Súng trường là súng dài, có vẻ đơn giản nhỉ? Nhưng thế nào là súng, thế nào được gọi là dài, thế nào được gọi là ngắn.
    Súng trong tiếng Hán Việt bao gồm đủ các loại súng to nhỏ, từ đại bác đến súng ngắn. Trong tiếng Hán Việt, vũ khí cầm tay là thương, trước đó là gậy gỗ, rồi đến giáo và nay là súng cầm tay, súng cá nhân, súng bộ binh.
    Súng trong tiếng Việt phân biệt với Đại Bác, nghĩa là thương trong tiếng Hán Việt, đây là hiện tượng của tiếng Việt, Nôm hóa Hán Việt. Vật thể "súng trường" là súng cầm tay, súng cá nhân có tính "trường" -dài. Cụ thể hơn nữa, súng trường phải là súng bắn đạn viên, B41 là súng cá nhân dài, nhưng vì không bắn đạn viên nên không phải là súng trường. Đương nhiên, súng đại liên to nặng dùng cho nhiều người nên cũng không phải là súng trường.
    Vậy thế nào là dài? Súng ngắn là làm ngắn cho gọn nhẹ, như súng của cảnh sát dắt lưng. Súng ngắn thì có tầm ngắn, vậy tầm thế nào là trường-dài? Giới hạn hiệu quả bắn phát một của súng bắn đạn viên là khoảng trên 300 mét, quá tầm đó thì súng bắn đạn viên khó chính xác và tiến đến ngưỡng không thể ngắm bắn được bởi con người. Vậy nên tầm súng trường phải là tầm đạt ngưỡng cực đại của con người, tức 300 mét trở lên, đó là súng trường.
    Súng ngắn là tầm 200 mét đổ xuống, kịch trần súng ngắn là khẩu PPSh có tầm là 200 mét, đây là tầm bắn hiệu quả, tức bắn phát một hầu hết đạn trúng mục tiêu cỡ người, chỉ trừ tỷ lệ nhỏ do các phát sinh đặc biệt như phân tán do đạn hỏng. Súng vừa là giữa hai khoảng đó, "súng vừa" hay đọc trong tiếng Việt là cạc bin-carbine. Khác với súng ngắn và súng vừa, hy sinh sức mạnh đổi lấy gọn nhẹ, súng trường là loại súng làm mạnh hết cỡ cá nhân có thể sử dụng được ở các tư thế cơ bản như đứng bắn, nằm bắn.
    Vậy, súng trường là súng cá nhân bắn đạn viên có tầm bắn hiệu quả trên 300 mét. Định nghĩa này là chính xác.
    Thế nào là súng trường đối kháng? Là loại súng trường bắn phát một. "Đối kháng" là tính chất đặc trưng của chúng, hai bên ngắm bắn kỹ càng rồi bóp cò. Nó không như súng trường liên thanh, có thể đối kháng, nhưng cũng có thể bắn diện tích hoặc bắn ứng dụng nhanh với khả năng diệt mục tiêu thấp khi xung phong.
    Nôm na, "súng trường đối kháng" là loại súng trường quân sự, là vũ khí chiến đấu chủ lực của bộ binh, bắn phát một. Ví dụ như Mauser K98, Mosin-Nagant, Lebel, SVT, M14 là những súng trường đối kháng điển hình.
    [​IMG]
    Hai chú lính dù của Đức Quốc xã với khẩu K98 và kính ngắm quang học 4x Zeiss ZF42.​
    Sơ qua về sử dụng.
    Đầu TK19 đến qua nửa TK19, súng trường hỏa mai tiến lên thành súng trường đối kháng. Súng trường hỏa mai có tầm bắn thấp hơn nhiều so với tầm con người 300 mét, nên chủ yếu dùng bắn diện tích, các hàng quân đối địch đứng trong đội hình ô vuông chĩa súng bắn vào nhau. Trong khoảng giữa TK19, chủ yếu do công của người Đức với hai nhãn hiệu đại diện là Dreyse M1841 và Mauser IG71, súng trường hỏa mai tăng độ chính xác và trở thành súng trường đối kháng. Trước đó, có nhiều loại súng có những tính năng như nạp đạn sau, có rãnh xoắn... từ TK15, TK16 nhưng chưa hội đủ các điều kiện để trở thành súng trường đối kháng.
    [​IMG]
    Khẩu Mauser IG71 của Đức, khẩu súng trường mang tính cách mạng.
    [​IMG]
    Khẩu súng Đức Dreyse M1841, vỏ đạn giấy, nạp đạn phía sau, thoát thai khỏi kiếp hoả mai nạp đạn đầu nòng.​
    Việc tăng độ chính xác được thực hiện bằng cách tạo rãnh xoắn trong nòng súng, mà nòng xoắn lại yêu cầu nạp đạn sau, nạp đạn sau lại yêu cầu đạn có vỏ. Dreyse M1841 là súng nạp đạn sau có vỏ giấy. Mauser IG71 là súng có vỏ đồng. Pháp áp dụng xoắn trên phiên bản copy Dreyse M1841 là súng trường Minié. Đó là những điểm nhấn khai sinh "súng trường đối kháng". Từ đó, đến G88 là khẩu súng có hộp đạn trong được chấp nhận ở Đức. Súng trường có đường đạn, vỏ đạn hiện đại xuất hiện dần, và khẳng định ở G98 (Mauser), Mosin (súng xuất hiện từ 1890, nhưng đến 1908 mới phát triển đầy đủ những tính năng hiện đại).
    Mauser K98 trở thành loại súng trường đối kháng thành công nhất, nó chiếm gần trọn địa cầu với những nước lớn như: quê hương là khối Bắc Âu, Mỹ với bản nhái ".3003" và ".3006", Tầu Tưởng. Mosin là loại súng có thời gian sống lâu hơn, mặc dù "diện tích phủ sóng" nhỏ hơn, do quan điểm của Nga thiết kế súng thô, to, dễ chế tạo bằng máy móc lạc hậu, bù lại là đường đạn tốt hơn, có thể xuất phát từ quan điểm cho rằng người Nga khổ to hơn. Đường đạn của NATO 7,62x51 sau này copy đường đạn của các phiên bản súng Mosin Nga M1908, M1936/42/45.
    Trên cơ sở nòng và đạn súng trường, người ta làm các súng khác như cạc bin (chế ngắn nòng đi cho gọn), súng máy dùng một người (súng máy cá nhân, trung liên), súng máy dùng nhiều người (súng máy đa năng, đại liên)... Từ những biến thể của súng trường ta thấy, súng trường là súng cơ sở của quân đội. Từ nó mà phát triển ra nhiều nhánh khác nhau.
    Ngày nay, súng trường đối kháng đã được thay bởi súng trường xung phong. Chức năng súng trường đối kháng vẫn được dùng ở dạng súng bắn tỉa, nhưng không còn là vũ khí chủ lực nữa. Tuy vậy, các đạn súng trường đối kháng vẫn là loại đạn quan trọng thứ 2 trong trang bị và sử dụng, với các đại diện là tiêu chuẩn đạn Mosin Nga và NATO 7,62x51.
  6. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Định nghĩa cơ bản về súng trường.
    Ở một góc nhìn khác, súng trường là loại súng cá nhân dài bắn đạn viên, tác dụng sát thương bằng động năng. Dáng súng có nòng dài, báng tì vai dài, ốp lót tay trước nằm trên nòng súng phía trước máy súng (receiver, hộp khóa nòng), có cò và thước ngắm, đầu ruồi để có thể bắn đúng cả vị trí và thời điểm. Hiện nay, súng trường là vũ khí chủ lực của bộ binh, bộ binh là binh chủng vừa nòng cốt vừa chủ lực của quân đội. Thời đại súng trường thống trị bắt đầu từ đầu Thế Kỷ 19 ở Châu Âu.
    Lưỡi lê luôn đi kèm với súng trường, cũng là một đặc điểm làm súng trường khác các súng khác. Ban đầu, súng chỉ là bộ phận phụ và yếu gắn trên gươm đao, công dụng của "lưỡi lê" là chính. Sau này, lê càng ngày càng bé lại và phần súng càng ngày càng to ra.
    Phân biệt với các súng khác.
    Súng trường có sức sát thương và các loại tầm bắn lớn hơn súng ngắn, nhỏ hơn các loại súng bắn điểm xạ lớn như súng trường chống tăng cổ và các loại pháo, cũng nhỏ hơn súng máy hỗ trợ. Vì được sử dụng để bắn chính xác tầm xa nên ngoài các đặc điểm trên, súng trường hiện đại bao giờ cũng bắn với bịt đáy nòng đóng. (Khi bắn từ bịt đáy nòng mở như một số súng máy, động tác đóng bịt đáy nòng làm rung súng trước khi đạn nổ và giảm chính xác.)
    Có một thời gian quân đội dùng súng ngắn bắn liên thanh với số lượng nhiều, đó là trong WWII, thực ra, điểm này có do chiến tranh "nhỡ" xảy ra quá nhanh, người ta không kịp hoàn thiện súng trường theo yêu cầu mới. Ngày nay súng ngắn bắn liên thanh vẫn là súng được dùng nhiều trong cảnh sát, quân cảnh, một số bộ đội ví dụ như công binh, pháo binh... Súng ngắn bắn liên thanh có tầm bắn và kích thước nhỏ hơn súng trường. Yếu nhưng lại tiện dụng, sử dụng trong phạm vi nhỏ hẹp hoặc trong những trường hợp phòng vệ, cần nhanh chứ không cần phải uy lực nhiều.
    Súng trường nhẹ hơn các súng máy bắn hỗ trợ khác như trung liên, đại liên. Súng trường là vũ khí phục vụ cuộc chiến của mỗi cá nhân, còn súng trợ chiến dùng bắn giúp đỡ những người lính khác cầm súng trường. Súng máy hỗ trợ dùng cá nhân (trung liên) thường có cùng cỡ đạn súng trường và cũng dùng bởi một người, nhưng nặng nề hơn không thuận tiện cơ động, khó để mang vác khi xung phong. Súng trường luôn luôn cần bắn chính xác, còn súng máy ưa bắn diện tích. Có một số súng máy hỗ trợ có chức năng súng trường, ví dụ súng máy hỗ trợ cầm tay RPK kiêm chức năng trung liên và súng trường, nhưng nặng hơn súng trường thường kém cơ động. Các súng trường cổ không bắn loạt được như súng máy, và ngày nay, tuy súng trường bắn liên thanh nhưng vẫn ưa băng hộp lò xo chứ súng trường không bao giờ dùng băng dây.
    Trong biên chế, súng máy hỗ trợ thường mang cùng đạn súng trường hoặc mang đạn nặng hơn, vài người mới có một khẩu, thông thường, loại súng máy hỗ trợ nhỏ nhất là trung liên có một khẩu ở Tiểu đội Bộ binh. Trong khi đó, súng trường là vũ khí cơ bản trang bị cho mỗi người.
    Các loại súng trường dùng nhiều trong quân đội.
    Trước đây, từ Thế Chiến II về trước, loại súng trường hạng nặng bắn phát một, còn gọi là súng trường chiến đấu đối kháng, tiếng Anh là battle rifle. Nguyên lý chiến đấu chính của loại súng này giống như cuộc đấu đối kháng tay đôi, hai bên đứng trong công sự, ngắm bắn kỹ nhau. Vi nguyên lý chiến đấu (concept) này, mà ưu thế thuộc về loại súng đạn nặng, nòng dài, bắn phát một chậm, tầm xa. Mosin (Nga) và Mauser (Đức) là hai loại súng này. Từ loại súng này, người ta thấy rằng bộ binh bắn chính xác ở mức phần lớn các phát đạn trúng mục tiêu là bia số 4 (bia bán thân) cố định ở 300 mét , tuy các súng đều có thước ngắm và khả năng sát thương ở 1500-2000 mét, nhưng khả năng bắn trúng không giảm nhiều đến 300 mét, mà qua đó giảm nhanh đến 600 mét và sau đó trở nên rất thấp. Qua kết quả thực tế đó, người ta gọi tầm bắn 600 mét là tầm bắn xa của súng bộ binh, tầm bắn 300 mét là tầm bắn hiệu quả.
    Loại súng trường đầu tiên như thế là loại súng trường "khai hậu", chỉ có một đạn, bắn xong mỗi phát phải tháo vỏ, nạp đạn, lên cò. Loại tiếp theo là "súng trường kéo khóa nòng" (bolt action) có hộp đạn trong, khi bắn chỉ cần kéo đẩy khóa nòng là thực hiện nhanh các động tác tháo vỏ, nạp đạn từ hộp dự trữ sẵn trong súng, lên cò. Mosin-Nagant (Nga) và Mauser K98 (Đức) là hai loại súng này.
    Cuối TK19 thời kỳ của các Hội Đồng Súng Trường, mỗi nước thành lập một hội đồng này, thiết kế đánh giá một mẫu súng và chấp nhận là súng trường phục vụ, khẩu súng chủ lực sẽ dùng cho quân đội. Thông thường, loại súng này được quản lý bản quyền công cộng sao cho dễ dàng huy động toàn bộ công nghiệp vào việc chế súng thật nhanh, tốt trong chiến tranh. Thiết kế, chất lượng của các súng trường phục vụ cũng được đánh giá phức tạp, công phu để sao cho hoàn hảo nhất, vừa dễ chế tạo, vừa bền, vừa sử dụng thuận tiện-mạnh mẽ-dễ dàng. Loại súng trường kéo khóa nòng thành công nhất là của nhà sản xuất Mauser Đức. Mauser là một nhà thiết kế súng lừng danh, nhưng ban đầu, ông không tham gia mạnh vào Hội Đồng, mặc dầu vậy, khẩu súng Hội Đồng đầu tiên là G88 mang nhiều nét Mauser. Mauser nhanh chóng nhận ra ưu thế của Hội Đồng và súng Mauser trở thành súng hội đồng ngay sau đó, đầu 189x. Đến 1898 thì hình dáng đạn ổn định, súng gọn nhẹ hơn, là loại K98k tiêu cuẩn Đức cho đến tận sau này. Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc là hai nước sản xuất số lượng loại súng này với rất lớn (nhái ). Mỹ thiết kế lại đạn riêng và mua bản quyền làm M1903 bắn đạn ".3006". Trung Quốc vừa mua vừa nhái các bản khác nhau, kể cả bạn hiện đại những năm 193x, đều dùng đạn chuẩn Mauser. Ngoài ra, còn nhiều nước khác sử sụng các phiên bản Mauser khác nhau.
    Thật ra, chỉ Mauser và Mosin đầy đủ nghĩa súng trường phục vụ. Anh và Pháp thì quá nhiều loại súng khác nhau không có loại nào chủ lực lúc đó. Mỹ và một số nước khác thì không thực hiện được khái niệm quốc hữu bản quyền, nên các súng của các hãng có nhiều nét của độc quyền, thiết kế gây khó sản xuất và giảm khả năng hoàn thiện, súng đắt mà không tốt. Các nước khác thì lúc đó số lượng súng nhỏ, ít ảnh hưởng.
    Mosin-Nagant Nga ra đời năm 1891, đến năm 1898 ổn định tiêu chuẩn vỏ đạn và 1908 ổn định hình dáng đầu đạn, đến năm 1930 và trong 193x súng lại được cải tiến lần nữa cả súng lẫn đạn, kiểu sản xuất nhiều sau cùng là M1944. Mosin không chau chuốt như Mauser, cồng kềnh hơn, vỏ đạn có gờ móc lạc hậu không hoạt động trơn tru trong các súng máy sau này... nhưng đạn mạnh mẽ chính xác hơn, súng rất rẻ và bền, đậm tính Nga, số lượng sản xuất Mosin vì thế tăng rất nhanh. Do đường đạn tốt nên Mosin sau WWII vẫn được sản xuất rất nhiều ở các nước mới nổi, các nước tiên tiến vẫn hoàn thiện súng làm súng trường tầm xa, bắn tỉa, đi săn... Đồng thời, đạn Mosin được dùng làm một tiêu chuẩn đạn Nga, cải tiến nhiều lần, các súng khác sử dụng đạn này thừa hưởng tính mạnh mẽ chính xác. Đến ngày nay, các phiên bản Mosin vẫn sử dụng trong quân Nga và nhiều quân đội khác, sau 120 năm.
    [​IMG]
    Mosin-Nagant phiên bản M1944 của người Nga.
    [​IMG]
    Mauser K98 Kurz của người Đức.
    Súng cạc bin-carbine là một loại súng trường, thường ngắn nhỏ hơn các súng trường cùng dòng, cùng thời điểm. Súng cạc bin còn được gọi là súng kỵ mã, đến nay vẫn dùng cho các binh chủng bận bịu không tiện mang súng to, như công binh, pháo binh. Trước WWII, thông thường người ta chung đạn cạc bin với súng trường, làm cac binh ngắn nòng nhẹ hơn, ngày nay vẫn nhiều súng như vậy. Nhiều cạc bin thửa riêng loại đạn nhỏ. SKS (xê ca xê) được gọi là cạc bin vì dùng đạn nhỏ, súng nhỏ nhẹ so với Mosin, thế nhưng khi AK là súng trường, thời thế đổi thay, thì súng SKS lại nòng dài hơn AK cùng đạn.
    Hoặc một ví dụ nữa, các Mosin và Mauser ban đầu đều có bản súng dài cho bộ binh và ngắn hơn chút. Ví dụ, Mosin năm 1891 có 3 bản bộ binh, long binh và kỵ binh. Bản bộ binh (пе.о,ная) dài 1306mm, bản súng trường long binh (д?агfнская вин,овка) dài 1234mm, bản kỵ binh (Cô-dắc) dài bằng bản long binh chỉ khác không có lê, bản kỵ và long binh là cạc bin. Thế nhưng từ 1930, người ta bỏ bản dài và bộ binh dùng bản ngắn. Sau này, bản M1944 còn giảm 20cm nữa. Khẩu Mosin M1944 và M1938 được gọi là cạc bin, nhưng trong quân đội lúc đó, nó to nặng dài bậc nhất, dùng đạn to hơn những súng trường khác nhu AK, xê-ca-xê SKS. Cũng như vậy, phiên bản M1930 chính là bản kỵ mã (cạc bin) cũ, nhưng so với các "súng trường hạng nặng" cùng thời như SVT thì vẫn to lớn hơn nhiều, nòng dài hơn, dùng chung đạn. Các cạc bin trước đây trở thành súng trường hạng nặng dài sau này.
    Sau này, có súng trường tự động, người ta dùng một phần năng lượng của phát bắn để đẩy khóa nòng chạy, súng trường hạng nặng thường có lẫy bắn phát một để đảm bảo không bắn liên thanh (cò hai chiều, lẫy ngăn bắn liên thanh là lẫy ngược), nhiều súng trường tự động có khả năng bắn liên thanh-có lẫy chọn hai chế độ liên thanh và phát một. Loại súng trường tự động đầu tiên được trang bị lớn là súng Mondragon, tên một vị tướng Mexico thiết kế ra súng vào thậo niên 189x, được Mexico, Đức, Thụy Sỹ sản xuất, dùng và xuất khẩu, có một số phiên bản dùng các loại đạn khác nhau và có bản súng máy liên thanh. Loại súng máy hỗ trợ nhẹ cũng giống súng trường và nhiều khi có chức năng súng trường, hoặc bắn phát một từ khóa nòng mở không giống lắm... dễ mang theo bộ binh hơn súng máy Maxim nặng nửa tạ, dễ di chuyển vào tầm bắn hiệu quả súng bộ binh để trợ chiến... cùng ra đời lúc đó và trở thành trung liên-anh em gần của súng trường. Khẩu trung liên đầu tiên được trang bị rộng là Madsen Đan Mạch, mang tên Bộ Trưởng Chiến Tranh đã hỗ trợ súng phát triển. Khái niệm trung liên của tiếng Việt cũng khác nhau ở nhiều thứ tiếng. Tiếng Nga là RP (súng máy cá nhân, súng máy xách tay, như RPK là súng máy xách tay Kalashnikov), tiếng Đức thì không phân biệt súng máy trung và đại, thường dùng MG (súng máy của quân đội). Tiếng Anh tường dùng từ LMG (súng máy nhẹ), có vẻ không chính xác lắm, tiếng Anh thường khá bừa bãi trong các khái niệm, thiếu khoa học, LMG (light machine gun) là trung liên còn SMG (sub machine gun) lại tương đương súng ngắn bắn liên thanh của Nga và Đức.
    Súng trường tự động được hoàn thiện nhiều trong khoảng giữa hai Thế Chiến. Liên Xô có khẩu SVT được thiết kế từ thập niên 192x nhưng đến năm 1938 mới được chấp nhận sử dụng, bên cạnh đó là khẩu AVS. Đức có khẩu G-43. Mỹ có khẩu M1 Garand. Các súng trường tự động được chấp nhận sử dụng lớn, thay thế dần súng trường kéo khóa nòng trong thập niên 193x.
  7. nhoccongsan

    nhoccongsan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/03/2007
    Bài viết:
    1.551
    Đã được thích:
    101
    Link nguồn của tác giả HP đây : http://www.vndefence.info/modules.php?name=Forums&file=viewtopic&t=1662&postdays=0&postorder=asc&start=0
    Không biết chip đã xin phép tác giả chưa
  8. tphat2009

    tphat2009 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    02/08/2009
    Bài viết:
    3.456
    Đã được thích:
    4
    Bác có thể hỏi người em bác coi theo kinh nghiệm của anh ta trong 1000 viên đạn thì bị kẹt đạn (vì bụi bậm, đạn lép) bao nhiêu lần. Cám ơn bác trước.
    Hỏi luôn coi khi ra trận có quyền muốn xài thứ súng nào cũng được (trừ trường hợp mất súng hay súng hư) hay là cho súng nào dùng súng đấy.
  9. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Trong Thế Chiến II, người ta dùng song song hai loại: súng ngắn bắn liên thanh (MP tiếng Đức, YY tiếng Nga, SMG tiếng Anh), và súng trường chiến đấu đối kháng (súng trường hạng nặng). Cả hai loại đều có mặt trội và thiếu sót.
    + Súng ngắn bắn liên thanh mang được nhiều đạn, dùng thuận tiện khi xung phong, nhưng tầm bắn ngắn. Người Đức từ những năm 193x đã gọi MP (Maschinen Pistole) là STG, tức Sturm gewehr, súng bộ binh bão tố. (Gewehr là súng bộ binh, ví dụ, Maschinen gewehr MG là "súng máy của bộ binh"). Trung Hoa Dân Quốc và sau đó Trung Mao dập khuôn tên này thời điểm đó, gọi là "xung phong thương". Chữ thương với gewehr trong tiếng Đức và Trung khá giống nhau, đều là vũ chính của khí bộ binh, có thể là giáo hay súng. Hitler chính thức hóa cụm viết tắt STG ngày 6/4/1944, quyết định này xác định 3 loại súng chủ lực của quân Đức, là súng trường G-43, MP-43 được gọi chính thức là STG-44, và MG-42.
    + Súng trường hạng nặng có tầm bắn tốt nhưng bắn chậm, không thích hợp với động tác xung phong, vừa chạy vừa tiêu diệt nhanh các mục tiêu xuất hiện đột ngột ở tầm rất gần, khi giáp là cà hay trong hào chật thì coi như súng trường hạng nặng chỉ dùng được lê, không bắn được.
    Có một điểm trống khi dùng súng ngắn bắn liên thanh là khoảng từ tầm bắn xa (600 mét), đến hiệu quả của súng trường (300 mét), cho đến tầm hiệu quả của súng ngắn bắn liên thanh, thì nó rất yếu. Súng ngắn bắn nhanh tốt nhất đầu chiến tranh là PPSh-41 Liên Xô chỉ có tầm bắn hiệu quả 200 mét, M3 Grease Mỹ 50 mét. Đặc biệt, dưới 300 mét thì pháo ngừng hỗ trợ và bộ binh chỉ còn trung liên có tác dụng, người lính đang xung phong mất khả năng đối kháng và do đó Thế Chiến II thương vong rất lớn khi tấn công. Đây là thời kỳ ngắn ngủi mà có hai súng cùng trên vị trí chủ lực, sản xuất với số lượng nhiều mỗi nước lớn đến hàng triệu khẩu trong có vài năm 1939-1945.
    Khoảng trống này sinh ra do vội vã lấy đạn súng ngắn đem ra đại chiến, khi chưa có gì thay thế, ví dụ, MP-18 Đức dùng đạn súng ngắn Mauser C96 (Maode, Mao Sắt, Pạc hoọc...) hay PPSh Liên Xô dùng loại đạn tương tự kích thước ngoài Tokarev TT-33 (Nga và Liên Xô mua nhiều C96 dùng, sau tự làm đạn). Súng trường hạng nặng nếu liên thanh thì giật rất mạnh và không đủ sức mang đủ đạn nặng, yếu khả năng xung phong.
    Do đó, người ta chế ra súng trường xung phong. Loại súng này đến nay vẫn là súng trường chủ lực. Súng trường xung phong thỏa mãn hai đặc điểm. Một là, nó đảm bảo tác dụng đầu đạn như súng trường hạng nặng trong tầm bắn xa 600 mét, ưu thế trong tầm bắn hiệu quả 300 mét, (độ chính xác và sát thương). Hai là, nó có khả năng như súng ngắn bắn liên thanh: bắn nhanh ưu thế ở tầm rất gần vài chục mét và giáp lá cà, đạn nhỏ mang được nhiều đạn. Việc đạn nhỏ mà lại giữ uy lực của súng trường là một thách thức lớn, nên tiến trình thiết kế súng trường xung phong ở các nước rất chậm. Tất nhiên, ngoài hai khả năng đó, súng trường xung phong còn có khả năng chọn hai chế độ bắn thích hợp với hai khả năng trên, chọn chế độ bắn phát một và liên thanh, một số súng là loạt ngắn và liên thanh.
    Nga là nước thiết kế và sản xuất súng trường xung phong đầu tiên trên Thế Giới, cũng là loại súng trường tự động đầu tiên của họ, khẩu Fedorov Avtomat được thiết kế những năm đầu TK20, Hội Đồng Súng Trường Nga thừ nghiệm từ 1909-1911 và sau đó cấp vốn cũng như đặt các yêu cầu phát triển mới, súng hoàn thành năm 1913. Năm 1915, súng được chấp nhận trang bị vì nó thỏa mãn những yêu cầu chiến thuật của hội đồng, những yêu cầu này là những điểm xương sống của nguyên lý súng trường tấn công. Vladimiar Fedorov về sau trở thành nhà chế súng nền tảng của Liên Xô, số đông các nhà chế súng lớn nhất Liên Xô coi ông là thầy, nhưng khẩu súng trên quá đi trước thời đại, do không chủ động được đạn do Anh và Nhật sản xuất, Hồng Quân sau cách mạng lại rất thiếu máy móc để sản xuất đạn không gờ móc quá khác đạn Mosin, nên súng được sản xuất ít. Lần cuối cùng dùng trong Chiến Tranh Phần Lan 1940, ngay trước Chiến Tranh Giữ Nước Vĩ Đại.
    Sau đó vài năm, trước thực tế chiến tranh, năm 1943 Liên Xô ước lượng loại đạn mới và phát động chiến dịch thiết kế súng cá nhân lớn nhất, tập trung nhiều nhà khoa học, nhiều nguồn lực nhất trong lịch sử chế súng, cho ra AK-47. Một vài mẫu súng đầu tiên của chiến dịch này được thử nghiệm trong thực tế chiến tranh quý báu. Một tác dụng của các kinh nghiệm từ các khẩu súng này, đạn được đặt các yêu cầu thiết kế mới, nhỏ hơn nhưng mạnh hơn. Loại đạn mới chính là kiểu đạn mang tên M43 dùng cho AK-47 sau này.
    Song song với việc hoàn thiện đạn và thử nghiệm, chiến dịch thiết kế súng vẫn tiếp tục. Ban đầu, các mẫu thử tham gia một cuộc đua lớn gồng số đông những nhà thiết kế súng giỏi nhất Liên Xô, sau đó, các điểm mạnh được sát nhập vào các tái bản của 2-3 loại súng, mỗi loại nhiều mẫu thử khác nhau. Khi AK đã được sản xuất khá lớn và đưa vào trang bị rộng thì nó vẫn tiếp tục giành giật vị trí số một, sau đó, Liên Xô quyết định cơ cấu lại hoàn toàn trang bị bộ binh với cốt lõi là AK-47. Từ AKM 195x thì AK mới thật sự là súng chủ lực. khi Liên Xô quyết định dừng thời đại ngắn ngủi của SKS (xê ca xê). Những năm 196x và đầu 197x, AK lại phải canh tranh với hàng loạt các mẫu súng khác và ra phiên bản AK-74.
    Nước Đức thiết kế súng trường xung phong đầu tiên của họ từ thập niên 193x, đặt tên là MKb-35 (cạc bin liên thanh), có 2 mẫu súng của hai hãng được chọn thử nghiệm. Nhưng sau khi phái Hitler nắm quyền, xu hướng này bị bóp méo. Các súng STG sau đó tách biệt chứ không sát nhập vào súng trường, ví dụ, đạn STG-44 yếu, súng cũng không làm vị trí cầm trước, (ốp lót trước hoặc tay cầm) lui về đầu nòng để bắn xa, do đó không phải là súng trường. STG-44 vẫn được người Đức gọi là MP, nó dù có là súng ngắn mạnh nhất lúc đó thì vẫn là súng ngắn. Hướng sai này có nhiều nguyên nhân, trong đó, ngay từ đầu các yêu cầu chiến thuật của MKb-35 đã thiếu hẳn khả năng xung phong, mà chỉ chú ý đến yêu cầu giữ được khả năng bắn súng trường ở tầm 600 mét. Cụ thể hơn, người ta chỉ muốn chế tạo một súng trường nhỏ nhẹ hơn, nhưng vẫn giữ nguyên lý cũ, do đó, súng ngắn bắn liên thanh vẫn không thể thiếu.
    Súng bắn tỉa có nguyên lý chiến đấu giống như súng trường chiến đấu đối kháng, nhưng súng đạn làm tốt để đường đạn chính xác hơn, nhờ đó bắn xa rốt hơn, cũng như có kính ngắm xa. Trước đây, trong thời súng trường chiến đấu đối kháng, súng bắn tỉa chưa khác biệt nhiều và đa phần chỉ là một cách đánh, không phải một loại súng riêng. Đến WWII thì súng bắn tỉa đã được thiết kế riêng, nhưng đa phần trên cơ sở một súng trường thường, ví dụ loại SVT có thêm giá trượt để lắp kính ngắm. Đến thời súng trường xung phong, do đạn súng trường nhỏ đi nên khả năng bắn trúng ở tầm xa giảm đi, do đó người ta thiết kế những loại súng bắn tỉa khác biệt với súng trường thường, đồng thời, chúng được ghép nhiều kỹ thuật tiên tiến.
    Trong Thế Kỷ 20, những loại súng trường được sản xuất và sử dụng nhiều nhất là Mosin (Nga) và Mauser (Đức). Thời sau đó đến lượt AK (Liên Xô), khẩu AK trở thành khẩu súng thành công nhất mọi thời đại. Hiện nay có nhiều loại súng trường được sản xuất và sử dụng khá nhiều của Mỹ, Trung Quốc và châu Âu, nhưng vẫn đang là thời đại của AK. Trong Chiến Tranh Việt Nam, Mỹ chấp nhận khẩu súng trường của hãng Colt là AR-15 (do hãng Armalite thiết kế) với tên trong quân đội là M16, đến khoảng 1980 thì NATO thiết kế lại khẩu này, tăng động năng đầu đạn, chuyển sang tiêu chuẩn hệ mét và chấp nhận sử dụng M16A2, tuy nhiên, các nước NATO châu Âu mạnh vẫn dùng súng riêng của mình. Nhiều nước châu Âu và ở các nơi khác dùng FN FAL, súng khá tốt, dùng đạn NATO 7,62x51.
  10. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Không thấy tớ phải tương thêm lời nói đầu một cách đàng hoàng à!

Chia sẻ trang này