1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Súng bộ binh!!!

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi 272chip272, 04/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Cấu tạo của súng ngắn liên thanh Thompson.
    Thompson nặng trình trịch, đắt gấp 10 lần Sten, tầm bắn lại ngắn. Dĩ nhiên, nếu thị trường vũ khí Mỹ mở cửa thì Thompson không có chỗ đứng trước các loại súng như VMP, Suomi, MP34 ưu việt hơn, rẻ hơn. Tất cả mọi mặt giá cả, sức mạnh, độ bền chúng đều hơn. Thompson chỉ sống được vào thời Mỹ ngăn sông cấm chợ và người Mỹ cũng không có khẩu SNLT nào khác. Ở đây là nói về phát minh của Blish. Chúng ta cùng bàn về cái đó. Các bạn có thể tìm thấy rất nhiều chuyện hài trên internet: khóa nòng của Thompson M1921 không hề chạy.
    Nguyên lý khóa nòng của Blish là ma sát tĩnh. Ông quan sát được hiện tượng pháo lớn của tầu biển khi bắn liều lớn thì khóa nòng ren cắt rất chặt, nhưng khi bắn liều thấp thì nó xoay ra nhiều hơn. Ông dùng toán và vật lý tính ra được chi tiết quá trình này. Ma sát tĩnh là hiện tượng ma sát lúc đứng yên (bắt đầu chuyển động) lại cao hơn lúc đã chuyển động. Theo các phép tính của Blish, áp lực càng cao thì chênh lệch hệ số giữa ma sát tĩnh và động càng cao. Như vậy, có thể lợi dụng để làm khóa nòng đơn giản, khi áp lực lớn và tốc độ chuyển động của khóa nòng còn thấp, ma sát rất lớn, tốc độ tăng chậm. Khi áp lực đã giảm, tức đạn đã bay ra khỏi nòng, thì hệ số ma sát giảm đi và khóa nòng chuyển động nhanh hơn.
    Trong M1921, khóa nòng có hình chữ H, nó chuyển động được bởi một khe cắt kéo giữa khối lùi và vỏ máy súng. Khi khối lùi bị ấn mạnh, khe chéo trên vỏ máy súng và khối lùi hợp thành hình kéo cắt khóa nòng, đẩy khóa nòng chuyển động. Khi áp lực cao, hệ số ma sát tĩnh lớn, nó sinh ra tác dụng giữ khoá nòng lại, sau đó do áp lực lên khoá nòng tăng làm choo hệ số ma sát giảm dần, làm lực đẩy khóa nòng chạy thắng lực ma sát, khoá nòng sẽ chạy.
    [​IMG]
    Khoá nòng ma sát tĩnh hình chữ H của Thompson model 1921.​
    Đánh giá kết quả nghiên cứu: hài hước.
    Khi Thompson thiết kế súng tự động, ông đã chọn lựa các phương án khác nhau đã có lúc đó, gồm lùi ngắn, trích khí, và giải pháp không khó là lùi thẳng blowback.
    Ông đánh giá lùi ngắn là cả nòng lùi, đập mạnh, gây nứt vỡ, điều này có vẻ đúng, vì lùi ngắn trong TK20 chỉ dùng cho Pháp, số lượng phát bắn của chúng rất nhỏ so với súng tự động cầm tay, ví dụ mỗi đời nòng Pháp chỉ bắn 500-1000 phát, so với hàng vạn phát súng cầm tay liên thanh. Những ngày đó cũng có súng liên thanh dùng lùi, chúng cũng có mặt tồi, nhưng mặt tồi không giống như Thompson đánh giá, sau này MG42 của WW2 và MG3 của Đức nửa sau TK20 lại là những súng lùi rất tốt. Chủ yếu lùi như Fedorov avtomat là cấu tạo chưa hoàn thiện, súng mòn nhanh chứ không phải dễ nứt vỡ.
    [​IMG]
    Súng máy MG42 của Đức trong WWII.
    [​IMG]
    MG3 phiên bản do Pakistan sản xuất theo bản quyền của Đức.​
    Còn trích khí ông cho là quá phức tạp, điều này ông đã đánh giá phiến diện, khì chưa hoàn thiện các trích khí tốt, sau này trích khí là cơ cấu chủ lực của súng tự động, cả liên thanh lẫn phát một. Chúng có thể có nhiều bộ phận hơn lùi thẳng blowback, nhưng chỉ ngang lùi có hãm, và bền-tin cậy hơn nhiều vì không chuyển động lúc lực lớn, gây mòn.
    Lùi không hãm thì khó khăn khi bắn đạn có động năng lớn. Điều này thì ông đánh giá đùng, nhưng kết quả nghiên cứu của ông về khóa nòng lại làm súng ... thà dùng lùi không hãm còn hơn.
    Và ông đã tìm được Blish khi duyệt qua các phát minh về súng ống. Theo ông, kiểu khóa nòng này vừa cho một thiết kế đơn giản, vừa mạnh mẽ. Vấn đề là cần thử nghiệm để có được hình dáng kích thước khóa nòng để có lực ma sát vừa phải, không cản trở khóa nòng khi nó cần chuyển động và không đẩy khóa nòng đi khi nó cần khóa.
    Đến năm 1917, thì các thiết bị thử nghiệm đã được thực hiện đầy đủ với các cỡ đạn thông dụng lúc đó. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, năm 1917 các thử nghiệm gặp khó khăn lớn. Ban đầu, máy móc hoạt động tốt, nhưng sau một vài phát bắn máy bắt đầu kẹt. Câu giải thích dễ có: chuyển động trong khi áp suất lớn làm khóa nòng nhanh mòn, hệ số ma sát thay đổi. Một cách giải quyết là cứ mỗi phát lại tra dầu bôi trơn trước, cách này ban đầu không được chấp nhận vì khó dùng được trong điều kiện thực tế. Nhưng sau này, Oscar Payne đã thiết kế hệ thống tự bôi trơn trong súng, nó chạy được nhưng thêm phần phức tạp, đắt đỏ.
    Chính do máy móc không đạt thử nghiệm trong 1917 mà các nỗ lực dùng đạn to hơn được dừng lại, ưu tiên cho Thompson SMG dùng đạn nhỏ. Cũng là một câu chuyện hài.
    Nhưng chuyện hài nhất chính là ở chỗ, máy móc kiểu này chịu những lực rất lớn, đồng thời, tất cả các nhà thiết kế đều không chuyên về kết cấu, sức bền vật liệu, không tính được lực và không chọn được hình dáng hợp lý nhất. Vì thế mà súng nặng uỵch. Với khối lượng cỡ 5kg (hơn AK-47 đời đầu với 4.3kg nhiều), thì chả cần máy móc nào cả, cứ tương khối lùi 2kg vào máy lùi thẳng không hãm là xong. Chúng ta biết rằng đạn càng nặng, vận tốc lớn và nòng dài thì cần nhân khối lượng khối lùi lên. Nòng súng trường dài gấp đôi súng ngắn, đạn nặng như nhau, vận tốc gấp 3, vậy chỉ cần khối lùi gấp 6 là được. Vậy, so với các khối lùi của súng MP Đức, ta cho Thompson một khối lùi 2kg là bắn được đạn súng trường theo phương pháp lùi tự do blowback. Đó là chưa kể những thuận lợi như vỏ đạn súng trường dài hơn chẳng hạn. Vậy là, không hề áp dụng khóa nòng loại nào cũng có một khẩu súng trường, còn súng ngắn thì thà ném khóa nòng đi cho hay hơn.
    Sau này, các súng quân sự làm đúng như vậy. Bỏ khóa nòng đi, lại giảm chịu lực vỏ máy súng, còn khối lùi của Thompson thì đã đủ nặng để bắn rồi.
    Phiên bản cải tiến M1A1 còn có một ưu điểm bất đắc dĩ nữa. Nó dùng kim hỏa cố định, các súng dùng kim hỏa cố định có một ưu điểm là giảm rung nhiều, do đạn nổ trước khi khối lùi đập về phía trước. MP Đức do dùng khối lùi rẻ tiền to, nên dùng kim hỏa rời như Thompson ban đầu để tránh phát nổ trước. Suomi, MP19, MP34 có bịt đáy nòng và ống nạp đạn nhỏ, dùng kim hỏa cố định. Sten to nhưng cũng cố định vì nó tệ. PPSh cũng to, nhưng không to lắm, lại có đạn dài và khối lùi hình khối, nên cũng là ống nạp đạn tin cậy, thậm chí còn rất tin cậy.
    Thompson đời trước M1A1 có ống nạp đạn nhỏ tin cậy, nhưng lại có kim hoả rời cho thêm ... rung.
    Sản xuất không chuyên nghiệp.
    Khóa nòng của Thompson nguyên thủy tạo một lực ép lớn lên thành súng, đặc biệt các mặt chuyển động của khóa chữ H có lực rất mạnh đến 6-7-8 tấn, và chuyển động trong lúc chịu lực như thế, chứ không đứng yên. Chính vì thế chúng cần yêu cầu kết cấu vỏ súng (receiver) cứng, vững, dầy và nặng.
    Riêng các mặt chuyển động liên quan đến khóa nòng ở khối lùi, khóa nòng và vỏ máy súng bị mài mòn khủng khiếp. Vì súng chuyển động bằng ma sát, nên khi các mặt này mòn, chỉ cần một chút, chúng làm thay đổi lớn chuyển động máy súng. Chính vì thế, nhưng chỗ này cần loại kim loại tốt, quý hiếm. Nhưng các nhà thiết kế không phải là chuyên gia cơ khí chuyên nghiệp, nên họ quyết định làm toàn bộ máy súng làm bằng tốt quý hiếm (có phí quá không nhỉ).
    Chỉ ở các mặt chuyển động này, trước vỏ máy súng, là lực phát sinh mạnh, nhưng toàn bộ vỏ máy súng lại có độ dầy như nhau thế, và có hình dáng to dài, đó là đặc điểm chính làm cho súng quá nặng. Cả vỏ máy súng và khối lùi to, dài, dầy, làm bằng hợp kim tốt quý hiếm chỉ để chịu lực ở vài mặt nhỏ, nên súng đắt và nặng quá bất hợp lý.
    Một điểm nữa làm nó đắt thêm là nó cũng dùng bịt đáy nòng nhỏ, cái chỗ này thì phải đặc biệt tốt quý hiếm. May là cái bịt đáy nòng này rời, nên khối lùi cần tốt quý hiếm kém hơn chút cũng được.
    Phiên bản quân sự bỏ khóa nòng đi, bịt đáy nòng xỏ vào một lỗ có đáy, bắt chặt bằng một vít ngang. Việc chuyển sang sản xuất số lượng lớn, lại ở công ty mới, không thạo về cơ khí, nên quyết định đơn giản chỉ là thay hợp kim rẻ hơn mà vẫn to dài dầy nặng như cũ. Nhưng không vì thế mà việc chuyển sang hợp kim kém hơn lại có thể rẻ hơn, nên súng sản xuất lớn mà vẫn đắt.
    Kết luận là, Thompson làm bởi các nhà cơ khí không chuyên, chọn kết cấu sai, nên quá nặng và đắt. Sau đó lại được sản xuất lớn bởi những nhà công nghiệp không chuyên cả về quân sự lẫn cơ khí, nên vẫn nặng như thế, mặc dù đáng ra khi dùng lùi thẳng blowback, nó phải rất rẻ và nhẹ.
  2. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Thompson bố tuy là tướng, nhưng lại chỉ là tướng ngành hậu cần, không phải là chiến binh chuyên nghiệp. Súng chỉ được phát triển cho thị trường dân sự, nên đánh giá về mặt quân sự càng không chuyên nghiệp. Thompson là dân làm hậu cần nên nhìn thấy thời đại đạn công nghiệp rất nhiều, đó mới chính là sức mạnh của súng, chứ bản thân cấu tạo súng không mạnh.
    Bắn vãi đạn mới là thế mạnh.
    Nhìn trên ảnh quảng cáo, Thompson thiên về bắn diện tích, như vậy, tốc độ bắn 1500 phát/phút của nó quá cao, bắn 100 viên chỉ chụm trong một vùng nhỏ và làm địch khiếp sợ được trong 4s. Chính vì thế các súng dân sự yêu cầu giảm tốc độ bắn xuống còn 600 phát/phút, điều này lại làm súng nặng hơn một chút do bổ sung khối lượng cho khối lùi.
    Bắn đối kháng mờ nhạt.
    Thompson không chuyên quân sự, nên tuy bắn diện tích, nó vẫn có khả năng súng trường. Nhưng ốp lót làm rất bất tiện cho cả hai chức năng điểm cầm trước xa về trước của súng trường và giáp lá cà: nó chỉ có nửa dưới với tay cầm chưa xa lắm. Thêm nữa, tầm bắn hiệu quả của loại đạn 0,45" quá gần, nên khả năng đối kháng mờ nhạt. Chính vì thế, sau kinh nghiệm thực tiễn, người ta giảm hẳn tốc độ bắn để ưu tiên cho bắn diện tích.
    Xung phong tệ hại.
    Súng nặng đến 5kg, cồng kềnh, nên xung phong không hay ho gì. Thêm nữa, khả năng xung phong càng tệ hơn khi không thể cầm chắc nòng bằng ốp lót chỉ bao được nửa dưới nòng, mà cầm lỏng lẻo bằng tay cầm trước dùng cho tư thế bắn loạt dài diện tích. Thiếu và kém các khả năng này, tính xung phong của Thompson tệ hơn MP28/II Đức và các súng nhái theo MP18 như Sten. Thompson còn kém xa các MP34 Áo, MP Đức sau, PPSh, Suomi trong tất cả các tình huống chiến đấu.
    Đạn vô lý.
    Nhìn chung, đạn súng ngắn hy sinh tầm đổi lấy nòng ngắn bằng cách làm đạn to ra và ngắn lại, nên đem ra tiền duyên chiến đấu là vô lý. Nhưng cả MP Đức và PPSh đều có cải tiến lại để khắc phục. Nhưng đạn 0,45" của Thompson không có cải tiến gì. Trong số các đạn không cải tiến gì để chuyển từ súng ngắn lên tiền duyên, thì đạn 0,45" tệ hơn 9x19mm Luger.
    Theo các đánh giá của quân đội Mỹ từ 1930, thì đạn chỉ có tầm hiệu quả tốt 50 mét, sau đó cả độ chính xác và sức sát thương giảm nhanh. Tầm bắn hiệu quả của Thompson chỉ nằm trong khoảng 50-100 mét, cao hơn Grease một chút nhưng thấp xa hơn các MP Đức. Tầm bắn này được đánh giá tệ hại ở Liên Xô, nước dùng Thompson bên cạnh PPSh.
    Sơ tốc với đạn hồi đó trên nòng 16 in (nòng cho các phiên bản phát một), cỡ nòng dài 10" của phiên bản quân sự thấp hơn một chút.
    .45ACP 190gr JHP Super Vel 275 m/s
    .45ACP 230gr JHP Win Black Talon & Reg 259 m/s.
    Thompson nằm trong vùng tầm bắn hiệu quả tệ nhất, xếp cạnh M3 Grease (mặc dù súng này tệ hơn Thompson chút về tầm bắn do thiết kế ẩu).
    Kết luận chung.
    Thompson được thiết kế bởi các nhà cơ khí không chuyên, quân sự không chuyên, và được sản xuất lớn bởi một nhà tài chính không chuyên cả về súng ống. Chính vì vậy, nó tốn nguyên liệu quý, cấu tạo nặng và khi cải tiến thì lại giữ nguyên nhược điểm của cấu tạo đó. Súng đắt, nặng và chiến đấu kém. Mặt mạnh duy nhất của súng là chắc chắn và bền.
  3. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Các phiên bản súng ngắn liên thanh Thompson.
    1. Phiên bản đầu tiên được gửi sang châu Âu là Annihilator I.
    2. Phiên bản tiếp theo là M1919, súng không có báng như ảnh trên, đầu ruồi liền, thước ngắm đơn giản một mức, có ống bao nòng đục một vài lỗ nhỏ. M1919 có tốc độ bắn 1500 phát phút, bán được vài chục khẩu, có một số nòng thử nghiệm các loại đạn khác nhau.
    [​IMG]

    3. M1921 là loại dân sự phổ biến do Colt sản xuất 15.000 khẩu. Chọn chế độ bắn liêh thanh-phát một. Tay kéo đặt trên nóc, nòng có gờ tản niệt, chọn chế độ bắn và khóa an toàn rời đặt bên trái, trên vòng cò, băng thẳng 20-50 viên, bằng trống 50-100 viên, băng cắm vào cổ cắm băng ngắn. Đầu ruồi hình tấm, thước ngắm có khung dựng lên (như thước ngắm B40), có thanh ngang như thang kéo trượt đến 500 yard. Tốc độ bắn liên thanh 1000 phát phút. (Từ ảnh này xuống dưới là ảnh từ world.guns.ru vừa update giữa tháng 9/2009. Rất thuận tiện để phân biệt các đời).

    [​IMG]
    4. M1928 hải quân là chế lại từ M1921, tay cầm trước hơi to hơn, giảm tốc độ bắn xuống 600 phát phút. Thêm dây đeo.
    [​IMG]
    5. M1923 là phiên bản quân sự không sản xuất lớn. Súng dùng một loại đạn riêng ".45 Remington-Thompson",đầu đạn 250-grain (16,2 gram), sơ tốc 440 m/s, tầm bắn thước ngắm 50 yard. Có lê, giá 2 chân, nòng dài.

    [​IMG]
    6. M1927 là phiên bản phát một của M1921, có thể thay nòng dài 16".
    7. M1927A1 dùng đạn "Thompson Semi-Automatic Carbine, Caliber .45M1".
    8. M1927A3 dùng đạn .22"
    9. M1927A5 dùng đạn .45ACP có vỏ máy nhôm, hiện nay vẫn được sản xuất.
    10. M1927A1 TA5 là phiên bản mới của M1927 do Kahr Arms sản xuất từ 1998.
    11. M1928A1 là phiên bản gần giống M1928 hải quân nhưng bán cho quân đội Mỹ. Từ M1928 có Cutts , thiết bị chụp đầu nòng, ban đầu dùng để giảm giật, sau này dùng để bù nẩy. Ban đầu,M1928A1 vẫn như M1921, nhưng đến WW2 nó dùng nòng có bề ngoài trơn và thước ngắm không hiệu chỉnh cho rẻ. M1918A1 có thể dùng tay cầm trước hay chỉ ốp lót dưới.
    [​IMG]
    Phiên bản M1928A1 trong Chiến tranh Thế giới II.
    [​IMG]
    12. M1 SMG là phiên bản rẻ tiền năm 1942, bỏ khóa nòng, làm khối lùi rẻ tiền. Các phiên bản quân sự chiến tỷ lệ lớn gần như tuyệt đối là M1 và M1A1.
    M1 có tay kéo bên phải. M1 chỉ dùng ốp lót dưới. M1 dùng thước ngắm đơn giản cố định một mức.
    [​IMG]
    M1A1 là phiên bản rẻ nữa từ M1. Kim hỏa trước là rời, có hoạt động như MP Đức, tức là khi khối lùi chưa dừng thì lò xo đẩy kim hỏa về sau tránh phát nổ bậy. Đến M1 chỉ còn là mẩu thép thò lên trên đỉnh bịt đáy nòng tạo hình bằng gia công cắt gọt, ưu điểm của kim hỏa cố định là đạn nổ trước khi khối lùi đập về trước nên giảm rung.

    [​IMG]
    M1928&M1

    [​IMG]
    BSA Thompson là phiên bản sản xuất ở BSA, dùng đạn Mauser 7,63x25 để tăng tầm, số lượng ít.
    Trên xuống dưới là Lanchester, MP28/II và Thompson BSA.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Chọn chế độ bắn và khóa an toàn.
    [​IMG]
  4. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Một số thông tin xung quanh thú vị.
    Thompson có tầm bắn hiệu quả rất thấp, chỉ khoảng 50 mét, rộng ra từ 50-100 mét là đạn tản mát. Cái này thì mình đã dẫn từ trang của nhà sản xuất, do đạn quá tản mát và giảm sức xuyên sau 50 mét. Ở 100 mét đổ ra, đạn xuyên rất yếu và thường bắn cả băng mới may ra trúng.
    M1921 nặng 4,69 kg, M1928 nặng 4,9 kg (do tăng khối lượng khối lùi và tay cầm), M1 nặng 4,78kg.
    M1921 dài 830 mm, M1928 852 mm, M1 811 mm
    Tốc độ bắn M1919 là 1500 phát/phút. Thật ra M1921 cũng vẫn còn nhanh, 1100 phát/phút. Còn các súng đời sau 600 phát/phút.
    M1921 có các băng thẳng 20, 30 viên, trống 50,100 viên, M1928 chung băng với M1921. M1 có các băng thẳng 20-30 viên. Đáng tiếc là do thiết kế và sản xuất bởi những người không chuyên, các đời Thompson đều là băng một hàng, về sau này do cổ xẻ, nên việc chuyển sang hai hàng khá đơn giản, trong khi không cần nghĩ thêm nhiều thì đã có hai hàng từ lâu. Thompson không dùng cổ dài như MP18 ban đầu, mà dùng một gờ sau băng để lắp vào rãnh ray trước vòng cò, xẻ đoạn lắp băng như Suonmi (và PPSh, PPD-40 học theo Suomi), nhờ đó tránh được cổ dài như MP18. Ban đầu, vào thập niên 192x thì băng một hàng còn chấp nhận được, nhưng sau quá lạc hậu. Băng đạn một hàng quá dài, may là đạn cỡ nhỏ không như đạn súng trường nên không cần làm cong. Nếu không thì không biết là hài hước đến độ nào.
    Nòng đều dài 10" (256mm), tổng chiều dài nòng 267mm. Riêng phiên bản bắn phát một có một số nòng dài 16" (40cm), một số phiên bản bắn phát một làm sau WW2 có thay đổi vỏ máy súng để không thể lắp máy cò đời trước. Người ta quảng cáo phiên bản nòng dài có hiệu quả như súng trường, nhưng với sơ tốc của đạn "0.45CAP" hiện đại cỡ 260 m/s thì chỉ có tầm hiệu quả 50-100 mét, còn kém xa các loại súng nửa hỏa mai cổ đại như M1841 Phổ.
  5. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Câu trả lời về vấn đề PPSh nằm trong tay lính Mỹ ở Iraq.
    [​IMG]
    Đây là thực hay ảo, có phải là tác phẩm của photoshop không?
    1. Nguyên nhân: Đây là vinh quang của PPSh-41, 60 năm tuổi, già cốc đế nó vẫn tung hoành trong tay đội quân giầu nhất quả đất. Thật ra, vinh quang này là bất đắc dĩ. Hồi 2003, Mỹ còn do dự chưa muốn mua súng Nga, nay thì hợp đồng AK đầu tiên 70 ngàn khẩu đã chạy gần xong. Thông thường Mỹ đợi Đức phát triển rồi mua kỹ thuật, ví như M16A2 của Bỉ. Nhưng các công ty SIG, FN, Nobel... ở các nước xung quanh Đức từ lâu đã thành cửa khẩu xuất kỹ thuật súng bộ binh Đức vì Đức mấy lần bị bắt làm tù binh, chịu lệnh cấm nên không được phép công khai bộc lộ thân phận, AT-4 của Nobel. Súng MP7 Đức hiện Mỹ vẫn chưa quyết, vì Đức hiện không còn là tù binh nữa, nó chơi khệnh, yêu cầu Mỹ mua phải trả giá khá cao, thậm chí phải mua thành phẩm hay bán thành phẩm sản xuất từ Đức. Nhìn chung trong tương lai thì Mỹ mua MP7 là điều gần như chắc chắn, hiện này khá nhiều ông lớn bên Mỹ đang mở chiến dịch quảng cáo MP7, nhưng vấn đề là phải cải tiến luật để nhập bán thành phẩm mức nào ở Đức, hoặc nhập bán dân sự chơi bời trước làm thị trường. So với MP2000 Nga hay MP7 Đức thì đúng là PPSh đã quá cổ lỗ rồi, nhưng quân Mỹ vẫn chưa có đồ hiện đại để sánh bằng với nó.
    Thật ra cũng chỉ có 4 loại súng đại gia đạt mức "triệu phú": nghèo nhất là MP Đức 1 triệu, tiếp là Thompson cải tiến cũng 1 triệu, tiếp theo là Sten 4 triệu (theo thống kê chính tức là 3,6 triệu trong chiến tranh, nhưng rộng rãi tính thêm Landchester và hàng nhái). Đương nhiên giầu nhất là PPSh trong chiến tranh 5 triệu, sau đó là chục triệu (không tính số 5 triệu trên, chỉ theo thống kê chính thức thì Tầu và Đông Âu cũng đã đạt mốc chục triệu, nhưng Tầu thường giấu bớt sản lượng và còn một ti tỷ các nước khác vẫn làm cho đến gần đây, Việt thì làm và gọi là K50). Có thể M3 Grerase cũng còn có số lượng lớn ở Tầu Tưởng, nếu như Tầu Mao không chiếm Thẩm Dương, biến Đông Bắc Quân Xưởng tại Thẩm Dương của Tầu Tưởng thành NORINCO của Tầu Mao khi Tam Thất Thức (năm thứ 37 là 1948) chưa đầy tuổi tôi: cũng năm 1948. Hầu hết số bán thành phẩm này được sản xuất tiếp và chuyển cho Vịt Ngan, cái này mình đề cập sau. M3 kém vì đạn, chỉ có tầm bắn hiệu quả 50 mét, Sten là bản nhái kém chất lượng của MP28/II (năm 1923), thậm chí còn băng ngang một hàng và chưa có dáng súng trường. MP38 (40,41,41II...) Đức ngon hơn hai thể loại trên, nhưng vẫn là sản xuất kiểu tấm mỏng dập kéo nhiều, gia công nguội, chính vì thế sau Stalingrad 1942 thì Đức mới không tăng sản lượng loại MP này trong khi tất cả các sản phẩm khác như súng trường, máy bay, xe tăng, đạn dược.... tăng vọt. Chính vì thế, tuy "lãnh tụ phụ trách công nghiệp chiến tranh" của đảng Nazi lần lượt do các nhà thiết kế và sản xuất MP nắm, mặc dù đi trước các súng khác, mặc dù ban đầu được khoe là niềm tự hào của chiến tranh hiện đại.... thì MP Đức vẫn nghèo nhất trong số các triệu phú, vì đúng giai đoạn làm giầu khiếp nhất là sau 1942 thì súng đã thất sủng rồi.
    [​IMG]
    K50M của Vịt, băng đạn 35 viên, cỡ đạn 7.62x25mm TT Tokarev (đạn súng ngắn Tokarev - K54)​
    2. Chế tạo: PPSh có nhiều điểm không hay, nó làm bằng vật liệu rẻ tiền, chỉ đạt tính tin cậy chứ không bền. Nước Phần Lan rất nghèo, lạc hậu, đã chọn thiết kế rất bền là Suomi. Suomi có thể mất 7 năm để chọn công nghệ chế tạo, nhưng toàn bộ súng trừ nòng làm bằng thép không rỉ, mỗi năm nước này sản xuất chi một ít súng, thì 10 năm, 20 năm, súng vẫn chưa rỉ và khi chiến tranh đến thì súng tích lũy đủ để đánh nhau. Thật ra Phần Lan quá nghèo và lạc hậu, cho đến Chiến tranh Mùa Đông thì cũng không đủ Suomi, còn trong WW2 thì Đức và Thụy Điển cho vay nợ (sau đó Phần Lan đương nhiên chả xù cũng không phải thanh toán), mục tiêu chỉ là ngăn ảnh hưởng của Hồng Quân, để bảo đảm trung lập cho Thụy Điển và ngăn một hướng đánh vào nước Đức. Hồng Quân cũng không muốn đánh nhau to thêm với anh em một nhà, nên sau khi Đức bại thì Suomi cũng không phải bắn nhiều. Nòng Suomi rỉ do không dùng kiểu nòng nikel Đức, thật ra kiểu nòng nikel Đức cũng chỉ nên dùng cho súng pháo trên biển bắn phát một, khả năng chống rỉ và chịu áp lực cao, nhưng để chịu nhiệt liên thanh thì còn xa. Nhìn chung, các súng liên thanh hồi đó đều ưa thay nòng, nên việc nòng Suomi không cần chi thêm tiền chống rỉ, lại có thay nhanh, là hợp lý nhất.
    Nhược điểm của Soumi là bịt đáy nòng nhỏ. Cũng là bịt đáy nòng nhỏ bằng hợp kim tốt như Suomi, MP34 của Aó cũng dừng sản xuất năm 1940/41 vì quá đắt. Một số người lý sự đó là do sức ép của Erma muốn giành xưởng cho MP40, nhưng không thể chối rằng bịt đáy nòng nhỏ khó làm. Đến giầu như Mỹ cũng phải cải tiến Thompson, quá chuối bịt đáy nòng nhỏ trong những năm nước sôi lửa bỏng đó, thì có thể thấy nhược điểm của Suomi. Suomi chưa bao giờ sản xuất lớn, cả Đức và Mỹ đều ngán bịt đáy nòng nhỏ khi số lượng sản phẩm tăng lên, thì khả năng sản xuất lớn-tính phổ thông của Suomi kém thế nào cũng không phải bàn cãi nữa.
    Nói chuyện về việc bịt đáy nòng nhỏ tuy quý phái nhưng kém tính phổ thông thể hiện việc PPSh không dùng tính quý phái đó cũng là một hợp lý. Thompson kiểu bịt đáy nòng nhỏ ở một nước giầu và hòa bình cũng chỉ làm được số lượng nhỏ. PPSh có thuận lợi là đạn dài nhỏ và nhọn hơn chút, nên khắc phục đôi chút nhược điểm của bịt đáy nòng to, lại cải tiến hình dáng kích thước bịt đáy nòng một chút, lại dùng khối lùi hình khối không tròn: chấp nhận mòn ray khá nhiều mà đường đi bịt đáy nòng vẫn đủ chính xác, băng đạn lại cải một chút so với Suomi, hơi nghiêng lên... rất nhiều những giải pháp, mỗi giải pháp một chút khắc phục hoàn toàn nhược điểm của bịt đáy nòng to rẻ.
    Một tiến bộ lớn của PPSh là lúc đó hàn điện ở Liên Xô rất phát triển, Viện Paton ( Paton Electric Welding Institute in Kiev) đã trở thành viện hàn điện lớn nhất Thế giới mà sản phẩm lừng danh là tháp pháo T-34 hàn. Trong khi ta thấy trên, Sten là hàn hơi. Hàn điện cho khả năng ngăn cách không khí, nên dùng được nhiệt độ cao (3000 độ) và hợp kim như ý mà không cháy, điều này làm mạch hàn ngấu, to , đồng đều, kết tinh tốt, khử ứng suất trước. Hàn điện cũng cho khả năng dùng xỉ để lọc các tạp chất mà hàn hơi hay có như phốt pho, lưu huỳnh... và đương nhiên, ngày nay hàn hơi Sten chỉ phục vụ tính lịch sử. Việc hàn điện cho phép các kết cấu có cường độ cao dùng được hàn. Ví dụ, Suomi có cải tiến sau này cho rẻ, chỉ dùng hợp kim ngon ở phần cổ nhỏ khối lùi, còn thân khối lùi hàn vào bằng hợp kim rẻ hơn. Trước đó, nếu dùng phuơng pháp hàn hơi thì không cho phép chịu lực 6 tấn ở đây.
    Hàn điện cho phép PPSh được rèn phần lớn là thủ công, chỉ đến hoàn chỉnh súng mới cần nhiều máy móc, tránh xa dùng kim loại quý. Tính phổ thông này của PPSh khó thể hiện ở ngoài các nước như Nga, hay Mauser Đức, Phần Lan... vì nó không có "vùng kín" (bí quyết công nghệ đặc biệt) nào trong toàn bộ công nghệ để một công ty nào trội lên khi cạnh tranh: như tấm mỏng của MP Erma, đúc chính xác phôi nhỏ của MG-42, G43, MP19. "Vùng kín công nghệ" là thế mạnh riêng của các công ty sở hữu chúng, đảm bảo việc công ty đó quyết tâm sản xuất lớn mà không có ai nhái được, một điểm quan trọng quyết định vũ khí trở thành đại gia. Không một công ty nào nhận được đơn đặt hàng PPSh mà bảo vệ được license, tránh được việc bị copy ngoài việc dùng luật, vì toàn bộ công nghệ PPSh đơn giản, nếu không kể luật thì một nhà máy nhỏ cũng làm được PPSh. Cũng chính vì thế mà PPSh trở thành SNLT được sản xuất và sử dụng nhiều nhất quả đất.
    Một giải pháp hay được dùng để nhái PPSh sau này là dùng hàn điện đắp lên đầu khối lùi rẻ tiền một hợp kim tốt, ủ khử dự ứng lực, rồi mài. Trong chiến tranh điều đó không hiểu có thử nghiệm không nhưng không sản xuất. Hồi chiến tranh, hàn điện tuy tiến bộ nhiều nhưng vẫn chưa có loại thuốc hàn ổn định và máy hàn tự động điều chỉnh để hàn cơ động nhỏ. Hồi đó hàn điện phải cần những điều kiện khá "phòng khuê" ở nhà máy lớn.
    Về cấu tạo, PPSh khắc phục được những nhược điểm lớn của các súng đương thời, đồng thời kết hợp được những đặc điểm tốt. Duy một điều là nó rỉ nhanh, cái này thì quá thua Suomi-cô gái thông minh xinh đẹp nhất quả đất, nhưng ngày nay chả súng nào làm bằng thép không rỉ như Suomi cả, nên cô gái quý phái đó hơi... cổ điển. PPSh có khối lùi hình khối, có kim hỏa tĩnh, có cổ nạp đạn tin cậy, rẻ, sản xuất lớn, dáng cầm súng trường chắc chắn, nòng dài, đạn có tầm vượt trội.
  6. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    3. Nguyên lý bắn: Do cải tiến đạn hợp lý mà PPSh có tầm vượt trội, do rèn loại thép chịu mài mòn tốt hơn nên bền, do sản xuất lớn nên mạnh...
    Như mình đã nói, nguyên lý chiến đấu của Suomi, PPSh là do Tokarev phát triển trong mẫu thử PPT 1927. Sau đó ông cải tiến đạn để nâng cao tầm bắn (Suomi không được hưởng). Súng phải có dáng súng trường, điều này Liên Xô hoàn toàn ủng hộ Vollmer, các mẫu thử VMP được Liên Xô nhập về đánh giá trong chương trình của Tokarev trước khi nó được sản xuất lần đầu (Thập lục thức của Tầu Tưởng năm 1927). Yêu cầu ban đầu của Tokarev là tốc độ bắn 1100-1200 phát phút, nhưng ông chưa thể hoàn thiện súng vì đến năm 1930 ông mới hoàn thiện được thiết kế đạn. Cho đến nay, yêu cầu tốc độ bắn này của Tokarev vẫn chỉ được thử nghiệm ở một vài súng như AN-94 (Nga), G11 (Đức). Còn PPSh, Suomi và M16 khiêm tốn dừng ở 900.
    Điều cốt lõi ở nguyên lý của loại súng này là giảm rung loạt liên thanh và bắn tốc độ cực cao để chùm liên thanh chụm có tác dụng đối kháng với mục tiêu điểm. Nhờ đó nâng cao được tầm bắn hiệu quả. Về giảm rung Suomi có đệm khí hai đầu, có đầu nòng bù nẩy, xứng đáng vị trí chau chuốt hàng đầu. PPSh thì đơn giản chỉ là cái đệm gỗ nhân tạo đằng sau kém hiệu quả hơn. Về tốc độ bắn thì tất cả các súng khác thời đó, ngoài Suomi và PPSh, đều không đạt được. Thompson ban đầu cũng có tốc độ bắn như vậy, nhưng đấy là phiên bản được thiết kế chủ yếu là bán lẻ cho dân sự, dân chơi không cần nghiên cứu kỹ, nên về sau tốc độ cao bị bỏ đi (đã nói rõ ở bài truớc).
    Tuy nhiên, vấn đề loạt chụm cực nhanh lại làm giảm khả năng bắn trợ chiến, tức bắn diện tích ở một tầm nào đó. Bắn diện tích cần thời gian bắn lâu, diện tích bắn lớn, đạn được bắn rải ra trong một thời gian dài. Còn bắn chụm loạt là bắn loạt trong thời gian ngắn và diện tích nhỏ không hợp. Chính vì thế Suomi xảy ra mâu thuẫn giữa nhà thiết kế và quân đội về tính năng và cấu tạo chụp đầu nòng bù nẩy. Đây là vẫn đề Suomi đi tiên phong nên việc do dự là đương nhiên. Giải pháp đạt được là quân đội mua chụp đầu nòng bù nẩy ngoài thiết kế như một thứ đồ lắp thêm (option). Mình không biết có phiên bản chụp đầu nòng bù nẩy của Suomi có khả năng điều chỉnh như AKM và các AK về sau không, nếu có, mình sẽ bổ sung vào mục Suomi. Song song với AKM, các SIG, FN cũng bỏ đi chức năng bù nẩy như báng thẳng, chụp đầu nòng... mà trước đó đang là xì tin, cũng như Suomi, các súng của các hãng này sau đó dùng chụp đầu nòng bù nẩy lắp thêm, khi cần xòe chùm thì bỏ đi.
    Một yêu cầu của việc chụm loạt cực nhanh là nó phải nhiều đạn trên băng, loạt cực nhanh thì tốn, mà thay băng nhiều lần khi đang đối kháng thì khác gì... biếu cái mạng. Băng thì như đã nói, PPSH không phải học, mà đúng nghĩa đen sao y bản chính Suomi. Băng 71 viên cho phép bắn hơn chục loạt cực nhanh (thường là 6 viên mỗi loạt), kích thước ngang mục tiêu khi đối kháng là một người 40 phân, với loạt này thành hơn mét ở 200 mét, tăng vọt hiệu quả. Trung bình mỗi đời lính chỉ diệt được 0,5 địch, vậy một trận đối kháng 10 loạt có lẽ là đủ thành tích một đời.
    PPSh và Suomi có băng trống khá cồng kềnh, đặc biệt khi xung phong, nên đều có băng hai hàng thẳng, và 4 hàng (không tin cậy nên ít dùng). Một nhược điểm khi bắn tốc độ cực cao là lò xo băng phải khỏe, vì vậy băng trống PPSh và Suomi mới có lên lò xo. Lò xo khỏe thì súng rung, còn gì là loạt chụm, băng thẳng thì mấy kg đạn lao lên đập ngang súng, rất tệ, vậy nên tuy gọn nhưng thường lính mang cả 2, một vài băng thẳng và một băng trống, thẳng để xung phong tầm rất gần cho gọn, trống để bắn kiềm chế và đối kháng tầm xa. Sau này các trung liên hiện đại còn có băng trống đôi, hai bên quay ngược nhau giảm rung hơn là PPSh và Suomi. Băng trống đơn như Suomi và PPSh thật ra đã là giảm rất nhiều rồi, vì đạn chuyển động trong đó theo các chiều ngược nhau chứ không đấm ngang thân súng một phát nặng mấy kg. Khi đạn chỉ còn 1/4 vòng để đấm ngang thì nó cũng nhẹ hều, không cần nghĩ.
    Các súng thử nghiệm trong hiện đại như G11 làm băng chính xếp dọc, lại có buffer riêng cho loạt cực nhanh, lại thả luôn súng chuyển động tự do trên ray lùi thẳng khi bắn loạt ngắn... Nhìn chung, càng ngày người ta càng đánh giá cao việc chụm loạt ngắn và việc hiệu chỉnh xòe chụm như ý vì thế càng khó.
    PPSh còn có phiên bản cải tiến PPSh-2 rất giống thiết kế K50M của nhà ta, mình sẽ đề cập sau. Ngoài các chi tiết hình học, về nguyên lý PPSh-2 thể hiện những cái mẫu thuẫn của PPSh, tác giả muốn hạ tốc độ bắn xuống và nhờ đó có thể kết hợp chiến đấu đối kháng với xung phong. Nhưng kết quả là: tốt nhất dùng một băng trống và vài băng thẳng, nếu cần xung phong thì thay băng thẳng, và đương nhiên là PPSh-2 không vượt qua thử nghiệm năm 1942 và không được sản xuất. PPSh-2 còn có tên khác là PPSh-42. Thử nghiệm PPSh-2 một lần nữa cho thấy những ưu thế, yêu cầu và khó khăn của nguyên lý chiến đấu chụm loạt cực nhanh.
    [​IMG]
    PPSh-41 với băng thẳng 35 viên.
    [​IMG]
    PPSh với băng trống 71 viên.​
    Cái hài nhất là M16 chính học nguyên lý trên. Nguyên bản hướng thiết kế ban đầu của M16 không thiên khả năng xung phong như AK, PPSh, MP18... mà là đối kháng, riêng điều này đã sai với nguyên tắc "súng trường xung phong". Tuy nhiên, khi đối kháng bằng loạt cực nhanh thì M16 chỉ có 20 viên, chỉ đủ cho 3 loạt. Sức chiến đấu này ngang "mút cơ tông giáp 3" và thua "mút cơ tông giáp 5" thời 189x. M16 cải tiến theo AK để bắn loạt 3 viên (burst), nhưng AK 3 viên để bắn chậm, AK không phải là súng thích loạt cực nhanh. Ngoài ra với loạt cực nhanh, thì 3 viên quá ít. Ví dụ, ở 300 mét, M16A2 cả tản mát đường đạn và rung súng có vòng chụm đạn 2,5 mét, giá súng thật chắc vẫn là 1,5 mét, trong vùng 1,6 mét đó để trúng người 40 phân tốt cần đến loạt 10 viên và hơn nữa (bia số 8 thật ra nhỏ hơn 40 phân, tỷ lệ của bia số 8 cần hơn cả băng của M16. Bia số 4 là 40x40 chí ít cũng cần nguyên băng M16) . Điểm khác của AK là trong tầm đó thì nó có đường đạn "chống trên mũi nhọn" để chuyển sang bắn phát một hoặc bắn trợ chiến liên thanh tốc độ chậm. Spitzgeschoss = "chống trên mũi nhọn" thường được tiếng Anh gọi tắt nhưng thiếu là spitzer, tức là đường đạn con quay chính xác của súng trường mà M16 không có.
    Nếu M16 lắp băng trống để giảm rung và nhiều đạn thì sao?? Thì quá hài, chàng có cái cổ lắp băng chả khác gì của Sten cổ lỗ do MP18 thực hiện từ M1920 cả. Vấn đề cổ băng được Suomi và PPSh đặc biệt coi trọng, thậm chí, trong lô sản xuất cuối cùng-lớn nhất của PPD, lô đệm đợi thiết kế PPSh, thì cổ băng là cải tiến quan trọng nhất. Vì không có băng trống giảm rung nên chỉ nên lắp 20 viên thôi, 30 viên tạm được, chứ 70 viên thì nặng 1kg, khi bắn chụm loạt mà hàng đạn cứ nện liên miên các cú đấm hơn 1kg hoặc 2-3 kg ngang súng thì còn gì là hướng súng với đường đạn. Tốc độ của hàng đạn bao nhiêu, dễ tính ra, đường chuyển động 1cm, tốc độ bắn 15 viên / giây, thời gian băng đẩy đạn lên vị trí sẵn sàng cho móc đạn từ băng hoạt động chỉ được 1/10 chu kỳ bắn, tức 1/150 giây, đi 1/150 giây hết 1cm thì khối 1kg phải có lực đẩy 45 kg, vận tốc tối đa 3m/s bằng rơi từ độ cao 0,45 mét xuống. Cứ tưởng tượng mỗi phát bắn chú M16 có băng 70 viên sẽ lĩnh một cú đấm bằng thả một vật nặng 1kg từ độ cao 0,45 mét xuống, chả phải nghĩ về chụm với xòe loạt nữa nhẩy.
    Thực tế còn cao hơn nhiều vì khi đạn chuyển động lên vị trí sẵn sàng cho móc đạn thì móc đạn nằm trên khóa nòng chỉ chuyển động một quãng đường rất ngắn sau băng, con số 1/10 chu kỳ bắn cần nâng tỷ lệ. Nếu như là 1/20 thì lực đẩy là 180kg, phi lý, không thể băng nào đạt được và đạn nào chịu được, nên M16 nằm trong giới hạn của mọi sự và vì vậy rất chóng hỏng, rất hay tự làm bẹp đạn cong băng gây kẹt hỏng.
    [​IMG]
    Hai cái cổ băng, một của PPD-34 thì lỏng lẻo (trên), một của PPD-40 nằm sâu vững trãi (dưới).
    [​IMG]
    Lính thuỷ đánh bộ Mỹ xách khẩu PPSh-41 để đánh cận chiến trong nhà.
    Khi xung phong, nhất là chiến đấu trong nhà như trên, thì đương nhiên M16 quá cồng kềnh, quá ít đạn. PPSh đạn yếu tầm gần, nhưng trong nhà thì chuyện tầm gần thành muỗi. Trong chiến tranh Iraq, ngoài súng chính ra, lính Mĩ còn sử dụng đám PPSh-41 tịch thu từ kho vũ khí của Hussein râu ria, PPSh-41 được sử dụng để đánh cận chiến trong thành phố, gọn nhẹ, đạn nhiều, hỏa lực manh, hơn hẳn chú M4, khẩu này 60 năm vẫn chạy tốt, đáng nể đáng nể.
    Vậy nên hơn 60 năm tuổi đời, lão già cốc đế PPSh vẫn xung phong dũng mãnh hơn chàng Yanky trẻ người non dạ.
    Được 272chip272 sửa chữa / chuyển vào 01:30 ngày 26/11/2009
  7. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    4. Khẩu súng: Tất nhiên là PPSh chả cần phải so sánh với ai cả, nó là SNLT tốt nhất của WW2, tốt về mọi mặt, cả khả năng sản xuất cũng hơn MP Đức, tính năng thì súng chỉ kém Suomi của Phần Lan một chút những đã có đạn mạnh hơn để bù đắp.
    Ta sẽ nói về PPSh sau, mình nói chuyện Suomi để các bạn đỡ chán và có cái so sánh với MP Đức. Sản lượng lớn nhất trong WW2 là PPSh. Nhưng Suomi là người anh của PPSh. Sau khi choáng Suomi ở Chiến tranh Mùa Đông, PPSh cấp tốc ra đời thay thế PPD. Bản thân PPD cũng cấp tốc cải tiến cái dễ học nhất là băng Suomi. Về nguyên lý chiến đấu (concept), thì PPSh bê nguyên xi Suomi. PPSh cũng là khối lùi có kim hỏa liền và không quay, nhưng mặt này nó khác khá nhiều.
    Liên Xô hồi sức rất chậm trong thập niên 1920, lúc đó, một số SNLT được đề nghị nhưng không súng nào được chấp nhận. Đến thập niên 193x, lãnh đạo cơ sở sản xuất súng máy lớn nhất Liên Xô đề nghị đưa một số súng trước đó đã thành tiêu chuẩn trang bị chính thức, đó là các PPD. Có nhiều đời PPD (SNLT của Degtriarev), một số súng không được chấp nhận chính thức xuất hiện trong những năm 192x, lúc đấy vẫn còn chưa có khái niệm "thống nhất" và "chính thức" đo Hồng Quân rất nghèo (Có mà bắn là tốt rồi).
    PPD-34 là súng đầu tiên được chấp nhận, bản cải tiến là PPD-40 học một số thứ ở Suomi. Bản tiếp theo là PPSh-41 lừng danh. Sau đó là PPS-43 của nhà khoa học đoản thọ Sudaev, ông đi tiên phong trong việc thiết kế AK sau đó nhưng mất trước khi công việc hoàn thành. PPD-34 được cải tiến thành PPD-34/48. PPD-34 là bản copy không thay đổi nhiều của MP18, MP28 Đức. Súng có băng chống xuống dưới thuận tiện cho tư thế bắn súng trường, báng được kép dài cho chức năng ốp lót. Súng có nhiều nhược điểm, quan trọng nhất là băng không chắc chắn và cồng kềnh, ít đạn. PPD-34/38 có cải tiến nhiều ở băng, lắp băng chắc chắn hơn và có băng trống 70 viên, nhưng băng trống này cũng như các băng trống khác lúc đó, trừ băng của Suomi, không đáng tin cậy. Máy của PPD giống máy của MP Đức cổ MP28/MP38. . Bản 38 cố gắng khắc phục nhược điểm cố hữu của MP Đức là động tác nạp đạn từ băng vào nòng, nhưng cải tiến này chưa hiệu quả nhiều. PPD-34/38 còn một số cải tiến nữa phục vụ sản xuất thuận tiện.
    [​IMG]
    Súng ngắn liên thanh PPD-34 của Degtriarev.
    [​IMG]
    Súng ngắn liên thanh PPS-43 của Sudaev.​
    Thêm một điểm nữa là Liên Xô chưa khoái lắm phương thức chiến đấu hiện đại của các súng xung phong. Quân Đức thuận tiện hơn Liên Xô khi có nhiều thông tin về chiến tranh Tây Ban Nha và xem xét cẩn thận các báo cáo về chiến tranh giai đoạn đầu WW2, trước 6-1941. Số lượng sản xuất của PPD-34 và PPD-34/38 rất thấp, chỉ 4174 khẩu trước khi Chiến tranh Mùa Đông bắt đầu. Những nhược điểm của súng này lại bộc lộ trong chiến tranh dẫn đến việc Liên Xô tạm dừng sản xuất, việc tái khởi động lại cũng không lâu và chuyển sáng mẫu mới PPD-40 có nhiều điểm học từ Suomi.
    Phần Lan bắt được chỉ 178 súng PPD-34 và PPD-34/38, gọi tên Phần Lan là "7,63 mm kp M/venäl" (SNLT 7,63mm Nga). Dùng luôn đạn Mauser 7,6mm. (không cần cải tiến). Cuối WW2 thêm, đưa lên tổng cộng là 600 súng.
    PPD-40 lập tức thay thế PPD-34/38 sau Chiến tranh Mùa Đông, cải tiến quan trọng nhất là băng và chỗ lắp băng cắt báng cụt, sao chép y nguyên Suomi không sai chút nào.
    Cái mà Liên Xô học được nhiều nhất qua chiến tranh này không phải là cổ băng Phần Lan, mà là tầm quan trọng của phương thức chiến đấu bằng súng xung phong rất hiện đại. Số lượng SNLT quá ít là điểm Liên Xô yếu, trong khi đó Đức đã biết điều này và tăng vọt sản lượng SNLT trước đó. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm Hồng Quân chạy tụt dép trước quân Đức giai đoạn đầu Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ Đại. Liên Xô có một bản súng xung phong mạnh mẽ đúng đắn hơn là Fedorov Avtomat kiểu 1915, dùng rất hữu hiệu. Nhưng súng đắt, không có đủ đạn, và máy súng cũng đã quá cổ. Chỉ có SNLT mới giúp làm tăng vọt tỷ lệ súng xung phong và hỏa lực cho Hồng Quân một cách nhanh chóng trong điều kiện chiến tranh thiếu thốn. Vậy nên chỉ một thời gian ngắn, gần 90 ngàn PPD-40 được sản xuất, trước khi PPSh-41 thay thế.
    Phần Lan tóm được vài trăm PPD-40 trước khi WW2 kết thúc và chuyển nòng sang dùng đạn 9x19. Điều này thuận tiện vì Đức cũng có các chương trình chuyển nòng cho PPD và PPSh. Thêm nữa, Đức còn sản xuất nhái cả PPSh nên phụ tùng khá đủ. Cả PPD-34 và PPD-40 đều có concept gần giống Suomi, là tăng khả năng đối kháng bằng tư thế súng trường và loạt cực nhanh. Đây là điểm hoàn toàn khác các nguyên mẫu MP-xx của Đức, tốc độ bắn đạt 800 phát/phút, gấp đôi súng Đức, nhưng ngược lại băng 25 viên thì các súng này gặp cái luẩn quẩn của M16 sau này, đấy mới là chưa nâng lên như Suomi và PPSh. Các thiết kế khác lạc hậu làm súng khó sản xuất, rung mạnh và không tin cậy.
    Việc cả hai nước Nga cũ là Bạch vệ và Hồng Quân đều cải tiến SNLT theo hướng này cho thấy trình độ quân sự chung của họ cao hơn. Thật ra, EMP35 và các VMP đã có theo súng trường, nhưng chính Erma lại thích dập nguội mới lắm tiền, nên người Đức mới nhầm lẫn điểm này. và chính Erma mới bịt mắt người Đức để cải lui VMP.
    Về băng, PPSh-41 dùng lại băng của PPD-40, sau này mới có phiên bản cải tiến cái ruột băng chia nhiều khoang, còn băng PPD-40 sao y bản chính Suomi. PPSh là kết quả chạy đua với những ưu điểm của súng Suomi Phần Lan bên phía Liên Xô. Súng có nguyên lý chiến đấu (concept) như Suomi. Tuy nhiên, súng PPSh và không một súng nào hồi đấy có các cơ chế giảm rung như Suomi để bắn chụm loạt cả. Thế mạnh của PPSh là đạn nhỏ đầu đạn nhẹ, ít rung và lợi cho tầm xa. Theo người Phần Lan, PPSh còn có một vài nhược điểm. PPSh không có băng thẳng. Sau này PPSh cũng có băng thẳng nhưng băng nhỏ. Nguyên nhân theo người Phần Lan là khó sản xuất. Điều này khó tin vì băng thẳng rẻ hơn băng trống, các nguyên công ít hơn, dễ sản xuất lớn hơn. Có thể, theo kế hoạch thì các băng trống dùng cho PPD-40 nên PPSh không thay đổi các kế hoạch sản xuất. Thiếu băng thẳng nên một ứng dụng quan trọng của SNLT là súng cho những lực lượng tăng-pháo không thuận tiện, băng trống đánh nhau thì tốt nhưng xếp thì cồng kềnh (xếp súng lắp sẵn băng).
    Phần Lan tóm được 2500 PPSh trước khi chiến tranh WW2 kết thúc. Phần lớn súng được chuyển nòng, trong thời gian chưa chuyển nòng thì phổ biến dùng đạn Mauser. Việc sử dụng PPSh rất thuận tiện vì Đức có chương trình thay nòng, rồi sau đó là nhái PPSh. Tuy nhiên,Phần Lan cũng chủ động thay nòng tại Tikkakoski Oy. Súng Liên Xô được Phần Lan thích nhất là PPS-43. Cái này thì Liên Xô cũng vậy chứ chả phải chỉ có Phần Lan. PPS-43 trang bị chính thức trong quân Phần Lan bởi tên KP-M/44, thay nòng 9x19. Súng này có số lượng rất ít và về sau được các nhà sưu tập đặt hàng, thu thập rồi bán cho Interarmco.
    Người Phần Lan và cả người Đức ngay lập tức đánh giá được PPSh. Súng Đức thì vật liệu tồi do công nghệ nguội. Phần Lan tốt do vật liệu quý nhưng không làm được nhiều. Liên Xô vật liệu rẻ, nhưng tốt và làm được nhiều. Thật ra chả phải bí quyết gì. Lúc này, Liên Xô rất phát triển kỹ thuật hàn, thậm chí giáp T-34 cũng được hàn. Mỗi hàn chất lượng cao cho phép PPSh làm được tù nhiều mảnh ghép. Số lượng các khối rất ít và chủ yếu được làm từ các lò rèn. Một lò rèn không cần máy đắt tiền lắm cũng làm được khối lùi của PPSh. Kỹ thuật rèn cho phép dùng các vật liệu bền, chịu mài mòn, chịu gỉ, chịu va đập mà rất rẻ, đó là gang cầu (như dùng cho bánh và ray tầu hỏa). PPSh cũng có kim hỏa liền như Suomi.
    Tính năng chiến đấu của toàn bộ các SNLT trong WW2 có Suomi và PPSh là đỉnh nhất. PPSh vượt lên Suomi ở chất đại gia, dễ dàng tăng vọt số lượng sản xuất. Khả năng chiến đấu của hai súng này lừng danh mãi đến sau này. M16 phát triển nữa, tốc độ bắn cao hơn cả PPSh và Suomi, nhưng băng 20 viên và thành chuyện cười của châu Âu 40 năm qua.
  8. werty98

    werty98 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    8.164
    Đã được thích:
    5.561
    Ối cụ chip sinh năm 1948 à
  9. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Em mới tầm 3x tuổi thôi, chưa già. Chắc bác đang thắc mắc đoạn: "chưa đầy tuổi tôi", nói về khẩu M3 Grease của Tầu Tưởng bị gián đoạn sản xuất năm 1948 do bị Tầu Mao chiếm quân xưởng Thẩm Dương chứ gì.
    Báo cáo bác, cụm từ ấy là từ cổ, nó có nghĩa là chưa đầy một tuổi, hay còn có ý là quá ít tuổi. Kính bác!
  10. 272chip272

    272chip272 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/11/2007
    Bài viết:
    1.717
    Đã được thích:
    3
    Một vài hình ảnh thú vị xung quanh Shapagin.
    [​IMG]
    Shapagin, khẩu súng ngắn liên thanh của Liên Xô cũ.
    [​IMG]
    Papasha, tên gọi thân mật của PPSh-41, cách gọi nhại theo tiếng nổ của súng.
    [​IMG]
    Georgii S. Shpagin, cha đẻ của PPSh-41.
    [​IMG]
    Poster của người Nga về Shapagin.
    [​IMG]
    PPSh của người Nga dùng để bắn ở các góc phố, cái này học của người Đức.
    [​IMG]
    PPSh với thiết bị ngắm quang học và kính nhìn đêm.
    [​IMG]
    PPSh với thiết bị giảm thanh, hài phết nhỉ.
    [​IMG]
    PPSh-2 bản thử nghiệm thất bại.

Chia sẻ trang này