1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Súng bộ binh!!!

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi 272chip272, 04/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Để ngắn gọn, tốt nhất la bác nào quan tâm nên vào đây để xem về external ballistic:
    http://www.artilleria.narod.ru/glava06.htm#032
    Đây là khi đạn vừa ra khỏi nòng chịu lực thế này:
    [​IMG]
    Nhưng do nòng pháo tạo cho đưowngf đạn hưowngs đi lên nên sau đó lực tác động lên đạn như thế này:
    [​IMG]
    tổng hợp cac lực tác động lên đạn khi bay:
    [​IMG]
    Nếu đạn không quay:
    [​IMG]
    Nếu đạn quay, ngoài lực cản tác động có hưowngs từ dưới đẩy lên trên có lực ngang do sự quay của đạn:
    [​IMG]
    Khi đó đạn sẽ bay như thế này:
    [​IMG]
    Sự ngoáy của đạn:
    [​IMG]
  2. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    Như vậy ở đây gọi là hiệu ứng con quay chống trên trọng tâm thì đúng hơn
  3. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    MÌNH vẽ hình như thế này
    [​IMG]
    http://ttvnol.com/forum/quansu/1192051/trang-61.ttvn#16054214
    Bác gà ngon nói cũng đúng, nhưng thằng Đức nó tính được cái này, thì nó được đặt tên, ai có con người ấy được đặt tên mà. Phong tục khoa học lâu nay vẫn vậy, trừ cái bọn gọi Krnka là Minie.
    Mấy lị, theo mình, thằng Đức nó không phải là không có lý. Do phần lớn đạn nằm trong chân không, chỉ phầm mũi nằm trong không khí, sinh ra lực có xu thế đẩy mũi đạn về sau, như phản lực của mặt bàn với con quay thường, nên nó gọi là chống trên mũi nhọn. Con quay trong không khí hơi khác con quay trên mặt bàn, vì không khí không cứng, nên con quay trên mặt bàn múa Ba Lê, đứng trên mũi chân, còn con quay trong không khí là anh nông dân lội ruộng, ngập cả cẳng chân trong bùn.
    Nói đúng hơn là, lực cản, tức như là phản lực mặt bàn, không đứng trên đầu chóp mũi nhọn như ta dễ hình dung, mà nằm trong phần tam giác đầu nhọn, tại vì không khí không được cứng cho lắm nên mới bùn lầy như vậy.
    Khổ thân đạn dược, làm việc trong điều kiện sâu hoắm lầy lội.
    Vì vận tốc dài lớn hơn nhiều vận tốc quay, nên buồng chân không không thay đổi hình dáng, kích thước và luôn bám theo mũi đạn khi mũi đạn ngoáy, điều này làm cho mũi ngoáy, nhưng các hiện tượng giống như mũi cố định mà khối tâm ngoáy, vậy nên mình mới vẽ như vậy.
    NHìn cái tranh này mình lại nhớ lại trong 4r này có nhỏ Cà Sáy.
    Mình đang nói đến M16 cố định trục, khi bắn lên cao thì nó hạ đuôi xuống. Nhỏ này liên đưa hình trên ra: đau đâu đâu. Không biết thằng nào gà mờ, đưa hình đạn Nga ra để... khoe M16.
    Mình chán, thôi không tham gia nữa. Ẻm đắc chí, khoe đạn M16 kinh lắm, được thử bằng cách bắn vào quả lắc. (phương pháp đo đạn chì từ thời chưa có máy đo sơ tốc).
    Thật đúng là trên đời một tỷ thằng liệt não, chả thấy thằng nào giống thằng nào.
    Chắc ẻm mới học tiếng anh, đọc được những thể loại viết cho trẻ em, dạng giới hạn trong một ngàn từ phổ thông. Hồi em còn bé, bố mẹ em chê chữ nghĩa nên không mua sách cho em, em mới đói ăn. Khi em lớn, internet miễn phí nhiều, lại có gà mờ hướng dẫn, nên em mới như chết đói năm Dậu, nốc lấy nốc để phân vịt nuôi cải. Phần lớn liệt não hiện nay đều có nguyên nhân như thế.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 16:42 ngày 13/12/2009
  4. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    [​IMG]
    [​IMG]
    Hai hình này nói lên một đặc điểm khó khắn khi thiết kế đường đạn chống trên mũi nhọn, đó là, nếu không lường hết các tình huống, thì đạn sẽ lộn đuôi lên đi trước. Nó không lộn hẳn mới khiếp, nó nỗ lực liên tục quăng đuôi lên.
    Hai loại đạn vấp phải chuyện đó, hết sức nổi tiếng, đó là, Lebel và M16A1. Đó là nguyên nhân châu Âu thà cắt ngắn nòng NATO 7,62x51 đi để xung phong còn hơn dùng đạn này. Những người biết thì đã đành, những người không biết cũng đã có gương Lebel.
    Cả hai nguyên nhân này do làm đuôi quá dài, khi hết chống trên mũi nhọn, tức buồng chân không bé hơn đạn, lực cản đuôi lớn quá, quá tính quay không hao mấy vẫn còn, thế là đạn nỗ lực quăng đuôi lên, nhưng hiệu ứng mũi tên lại đuổi đuôi xuống, hai hiệu ứng tranh nhau làm đạn quẫy.
    Chính vì thế các đạn dài của Mauser, Mosin đều có cái đuôi ngắn hơn đầu, khi buồng chân không bé hơn đạn, mà đạn lại nhiêng, thì lực cản lại dồ lên đầu, lại có con quay.
    Lebel thì sau khi thấy cái băng súng sắn làm nhiều anh mù mắt cụt tay quá, thì cắt bớt đầu đi cho... bằng.
  5. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Có nhiều cách để ổn định đường đạn.
    Cách cổ nhất là mũi tên. Mũi tên có cánh đuôi, khi nó nghiêng so với hướng đường bay, thì lực cản đuôi nằm sau trọng tâm, bẻ đuôi này vè đúng đường bay. Cái dở của loại đường đạn này cũng như là tầu thuỷ, bạn bẻ bánh lái, thế là nó đi vòng tròn. Tức là, sai số được tích luỹ chứ không được bù. Sai số chế tạo như bẻ bánh lái thì có thể bù bằng cách quay chậm, tất nhiên quay nhanh quá thì nó lộn đuôi lên trước, nhưng quay chậm như đạn cối là được. Còn các đạn cao hơn thì ngại, cái tầu đang đi bị đẩy lệch bởi nguyên nhân ngoài, thì nó giữ lại hướng lệch, không tự bù.
    Đường đạn chống trên mũi nhọn tự bù theo hướng bay, tức theo hướng quán tính, theo hướng đường đạn.... là đường đạn chính xác nhất. Một cái tầu thuỷ thuỷ được bù sai số chế tạo theo hướng nào đấy, nhưng khi gặp lệch, nó lại bẻ theo lệch, nhớ sai số chứ không bù sai số. Ví dụ, một mũi tên nghiêng mũi sang trái, thì không khi đẩy nó sang trái, hướng bay mới của nó là hơi trái một tí, trước khi đuôi nó được đưa về một hướng mới. Nhưng đạn chống trên mũi nhọn không thế, cái hay là càng bẻ nó lệch thì nó bù càng khoẻ, còn chống trên mũi nhọn là còn không quan tâm đến hướng khí động, vì toàn bộ đạn nằm trong chân không trừ mũi, chỉ tuân theo quán tính. Tức là, đạn chống trên mũi nhọn không có hiệu ứng lái tầu, không bị cái gì lái cả trừ quán tính (khối lượng và quán tính là một, vật lý nghiêm túc nói vậy).
    CHính vì thế mà Bismarck cố sao cho lực cản chỉ tập trung ở mũi. Đạn súng trường thiếu tiền không làm được như thế, thì phải chấp nhận cái mũi kha khá, không được như ý.
    Những đạn như M16, Lebel là đạn lai. Nhưng nếu bắn chúng trên cạc bin của chúng, như M4 hay là mút cơ tông, thì chúng hoàn toàn mất chống trên mũi nhọn. Khi đó, người ta làm đầu đuôi có hình dáng như nhau, để khi đạn bay ngang ở vận tốc thấp, không có buồng chân không, thì tâm khí động trùng với tâm khối lượng, đạn không bị hiệu ứng mũi tên hay con quay đảo đầu đuôi, yên tĩnh hướng bằng hiệu ứng đĩa bay, cố định trục.
    [​IMG]
    Để dùng những đạn như Lebel, M16A1.... vấp phải thời điểm trung gian, các hiệu ứng mũi tên và con quay vẫn còn, tranh nhau, đạn quẫy.
    Đến M16A2 cải tiến lại, đạn chuyển tức thời từ thời chống trên mũi nhọn ngắn ngủi sang cố định trục, tránh được đoạn đạn quẫy.
    Nhược điểm của cố định trục như hình trên, việc này làm phát sinh nhiều nhiễu loạn không khí, nên đạn mũi hết không thể chính xác. Đó là nguyên nhân của việc, điểm bỏ nòng AK đúng bằng điểm lý thuyết cao nhất của M16A2.
    Nhìn chung, việc dịch các sách vở Đông Âu sang tiếng Anh sẽ là một cuộc tổng tiến công làm sụp đổ hệ thống liệt não toàn cầu, nên điều này bị cấm kỵ. Những có vẻ hiện nay nhiều dân nói tiếng Anh biết đọc tiếng Nga hay sao ấy, có vẻ Đông Âu hơi lộ hàng. Hiện đang có cuộc tổng khởi nghĩa của các LWRC, XM8.... chống lại M16.
    Ở đây, ta xem lại những giải pháp quay đạn.
    Súng cối do người Tầu phát minh thời Hồng Vũ, đại diện là Oản Khẩu Pháo. Nhưng pháo đó còn sơ khai. Cò Hum và Vô Băng cải tiến lại, ban đầu để hộ thành. Người Nga thấy cối Cò Hun hay hay, học về cuối k17. Từ đây, có một chuyện hài. Chuyện hài này bắn đầu ở thời đạn thường là đá, sang là gang đúc, nòng đồng đúc, sai số hàng phân.
    Lúc đó, đạn sẽ nẩy tưng tưng trong nòng thế này, đây là pháo, mình chỉ làm minh hoạ
    [​IMG]
    Cối Cò Hum và Vô Băng đều có buồng đốt củ chuối hẹp miệng, Nga cải tiến đợt một thành buồng hình phễu. Nhưng sau đó buồng hình phếu này chỉ dùng ở lựu pháo.
    [​IMG]
    Cái cải tiến hài nhất của Nga là buồng đốt lệch lên trên
    [​IMG]
    ?? rõ ràng, buồng đốt này dìm đạn xuống, bù sai nòng, không cho nẩy. Và cái hài nhất là đạn xoáy mà nòng chả ....xoắn tí tẹo nào. Đây là loại đạn quay được phổ cập đầu tiên. Trước đó, nòng xoắn đã có nhưng chả ai dùng.
    Tất nhiên, đạn quay kiểu này còn nhiều nhược điểm, nhưng nó đã bù sai nòng và có quay, ít nhiều cũng là có quay, không đạt yêu cầu như ngày nay nhưng ngày đó có quay là hơn không quay.
    Cái hài nhất là Pháp chỉ dùng hồi cách mạng 1794, sau cả gần trăm năm, còn Anh-Mỹ không bao giờ dùng. Đó là vì một câu chuyện hài. Người Nga lưu truyền một chuyện giễu cợt, đó là một tác phẩm của một nhà quân sự.... chắc là hơi chập mạch, chỉ vì thân cận với Piotr mà được dùng, nên người Pháp, Anh, Mỹ rất chi là.... xấu hổ khi nói đến đạn xoắn.
    Lớp đạn xoáy thứ hai là thế này.
    Chả cần nhĩ nhiều, đây là giải pháp thời đại đồ mài.
    [​IMG]
    Cái này là cách mạng Pháp dùng. Pháo cách mạng pháp là pháo cải tiến theo nòng Nga tk18, rất nhẹ và cơ động. Những pháo này xuất khẩu sang Anh-Mỹ được gọi là pháo Napoleon. Còn cái đa giác này thì công nhận rằng Nga nó không dùng. Người Pháp thực hiện đa giác thời còn mài, chưa có cắt gọt, đương nhiên là chỉ cho pháo. Mà tỷ lệ dùng cũng ít.
    Còn đây là cối Nga M1867. Đây là nòng pháo hiện đại đầu tiên, đạn của nó là chống trên mũi nhọn, nó là nòng côposite hai lớp đấy. Thật ra, cái đang hiện đại của nó không phải là gờ hay rãnh, mà là công thức thiết kế nòng do một giáp đốc quân xưởng thực hiện.
    Các bạn đừng so niên đại bằng cái máy lùi-đẩy về bên dưới, nó xuất hiện từ 188x. Còn nòng thì các đời M1867 không thay đổi gì, ảnh bảo tàng VladimirVostok. Thật ra, nòng hiện đại đầu tiên seri này phải là lựu pháo 1863, nhưng nó mới có hìng dáng, chứ chưa có công thức thiết kế như cối M1867. Seri M1867 về mọi mặt đều là khai sinh ra pháo hiện đại, có điều nó được chính phủ hạ cố ăn cắp nhiều quá, chỉ có hơn 60 khẩu được sản xuất đến 1906, không đủ thử nghiệm chứ đừng nói sử dụng.
    [​IMG]
    So
    Mình chỉ khoe 2 lớp M1867 chút thôi, còn cái chính là bên phải, cối đúc đồng, M185x Nga. Các bạn đã biết tác dụng của gờ xoắn nhỏ chưa. Cái M1867 bên trái là thép, màu là sơn của bảo tàng. Cái gờ trái chính là giải pháp ....nòng đồng điếu đúc. Còn bên phải là rãnh xoắn hiện đại cắt gọt rồi.
    Nòng xắn không mòn rộng ra theo hướng bán kính nhiều, mà mòng theo chu vi, tức theo chiều rộng gờ xoắn, vận nên súng pháo hiện đại mới làm gờ rộng. Nhưng gờ rộng lại không làm khuôn đúc được, không làm đạn nạp miệng được như đa giác hay gờ hẹp.
    Cả nòng đa giac svaf đạn đa giác đều mài được, cũng như thế, cả nòng gờ nhỏ và đạn gờ nhỏ đều đúc dễ. Đạn hình trục, có đai, trên đai có các lõm cho gờ, tất cả đều dễ gia công và dễ nạp miệng nòng.
    [​IMG]
    Sao lại mài vào đúc, Whitworth , nội chiến Mỹ
    [​IMG]
    Kết hợp của mài và đúc vào cắt gọt. Đặc sắc hơn nữa, lai những.... hai giải pháp khác nhau cho nạp miệng vào đạn nạp sau có vỏ. Thật là hàm chứa quá nhiều chữ nghĩa tri thức.
    Sau nửa thế kỷ ăn cắp được mài đa giác, nay thấy Đông Âu có gờ nhỏ. Liệt não mới tưởng gờ nhỏ này là ưu việt cho đường đạn, chứ không phục vụ việc dễ đúc đồng điếu, nên kết hợp cả những cái ưu việt của Đông Âu vào.... hoa, 1860.
    Martini-Henry
    [​IMG]
    ?????????????/
    Kết luận: những con khỉ bắt chước.
    Hoa đẹp quá nhẩy, nó được sản xuất đến 189x lận, nửa thế kỷ sau khi M1841 định hình rãnh chữ nhật cuối 184x.
    Thế mà ngày nay vẫn có liệt não tung hô nòng đa giác, vỏ giấy....
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    nhưng liệt não không thời nào ít.

    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 11:37 ngày 14/12/2009
  6. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Anh Mỹ mới chớm bắt đầu đoạn một của cách mạng súng trường đã bỏ dở. Họ dừng lại ở bước đầu tiên trên đường vòng 3 bước của Nga, Áo-Hung, mới chỉ là súng hoả mai có vỏ, chưa có quy lát, quan trọng nhất là chưa có máy móc vỏ đạn.
    Pháp lai căng với Gras. Kể ra, cùng là cơ sở M1841, thì Gras cũng tốt. Đây là giai đoạn hoàng kịm nhất của súng trường quân dụng Pháp, khi nó cúi đầu học hoàn toàn Đông Âu. Sao nó lại cúi đầu, đương nhiên do bà đầm có những cảm giác mới lạ khi bị thằng Phổ hung ác nó cưỡng bức năm 1871.
    Hầu hết các súng Đông Âu như Berdan Nga các đời M1869, M1872, IG71 Phổ (Mauser) và M1872 Áo Hung (Früwirth), đều dùng thiết kế M1841 nhưng theo kiểu cải tiến của M1866 Pháp. Hoàn toàn có thể cho phép cô công chúa già tự hào điều này, có điều, cũng nhiều khả năng đó là các thiết kế Đông Âu. Thật ra, đó là thiết ké Áo-Hung , thậm chí có cả băng vào 186x, nhưng chưa được chấp nhận do giá cả, của chính Früwirth. Phương án thiết kế này rút kinh nghiệm từ thực tế sử dụng và sản xuất M1841 sau 20 năm.
    Như mình đã nói, M1841 là thiết kế tiên phong, do đi đúng đường thẳng, nên rất thoài mái ứng dụng, thử nghiệm các tiến bộ đúng. Ví dụ, đi đường vòng thì Ng và Áo-Hung luyến tiếc rãnh tam giác để nạp miệng, cũng như sau khi có bước trung gian "điểu đầu vỏ đồng", thì tiếc tiền làm quy lát và máy móc vỏ đạn. May cho Đông Âu, học có sức để vượt qua điều đó, trong khi Anh-Mỹ dừng lại.
    Pháp tiến theo Đông Âu. Hay nói đúng đắn nhất là sau khi bị thằng Phổ hung tàn bạo ngược nó cưỡng bức năm 1871, bà Đầm cúi đầu theo Đông Âu, đạt được thời hoàng kim nhất trong sử súng trường. Điều đó là đỉnh cao, không như năm 1949, MAS-49 cùng được chấp nhận một năm với AK 7,62mm.
    M1974 tuy muộn màng, nhưng cũng đẩy súng ống Pháp vượt xa vời súng không có máy móc vỏ đạn Anh-Mỹ trong 20 năm, trước khi đoạn hai cách mạng có sản phẩm.
    Nhưng cũng nói thêm là, lúc đó bà Đầm khốn khổ sao chép nguyên si Đông  đến cả cái tay kéo vẫn không thèm gập xuống.
    Đến đoạn hai, bà đầm đồng bóng lại lâu không bị ai cưỡng bức, bà lại ngứa, và lại phát minh súng ống.
    Cái bà phát minh ra là cái gì ? Chúng ta giải thích chút
    À, từ Berdan Nga, IG71 Phổ, M1872 Áo-Hung.... là súng 1 đạn, tiến lên có bằng thì có khâu... cái móc đạn từ băng trong quy lát. Cái này nó phải sâu vào băng, mà như thế, có vẻ khó dùng khoá quay kiểu M1841 nhẩy.
    Vì thế, sản phẩm đầu tiên của đợt hai cách mạng là M1885 Áo Hung do Mannlicher thiết kế. Cái này được đăng ký phát minh bên liệt não là Lee mình nói rồi. Họ dùng cái khoá đẩy sang trái, không cần quay.
    Thật ra, cái thiết kế Thuỵ ĐIển mà Đông Âu dùng sau này trong DP là xuất hiện ở một bản không được chấp nhận của Ao-Hung thời này, lúc này súng máy nhỏ quá chưa cần thiết, cùng một tác giả.
    [​IMG]
    Bà Đầm
    Mauser và Mosin đưa ra khoá quay hai tai, có cái móc vỏ đạn riêng, có cái gờ dốc rất đặc biện đẩy đạn cúi lên cúi xuống, để lại cho AK thừa kế chúng ta biết rồi. Sau này cả thế giới dùng cái đó.
    Ở đây, xem bà Đầm lâu không bị ai cưỡng bức, bà chế ra cái gì. Đó là bịt đáy nòng không quay dùng cho khoá nòng quay. Chả cần nghĩ nhiều, Lebel có cái trục quay cho cái quái thai này kĩnh thước hoành tráng, trục 3 phần, lõi là kim hoả, giữa là quy lát, ngoài là.... bịt đáy nòng không quay trên khoá nòng quay. Cái kết cấu này Lebel chỉ tự hào khi đào mỏ bà Đầm trinh tiết với tỷ đời chồng, chả ai buồn học, nó mỏng mảnh hay kẹt thế nào thì các bạn tự chế mà thử nghiệm.
    [​IMG]
    Cái khe xoắn sườn phải đằng sau quy lát, một đặc điểm quan trọng của máy súng đây vẫn M1872 Áo Hung do Früwirth thiết kế.
    http://www.hungariae.com/Fruwirth.htm
    [​IMG]
    Thêm nữa,
    http://armesfrancaises.free.fr/FR%20Mle%201886%20M93.html
    Thêm là băng đạn súng săn và cái tay kéo vẫn chưa thèm gập xuống lần nữa. Thêm là đạn đầu bằng... rất nhiều cái thêm.
    Thêm chút nữa nữa
    http://www.quansuvn.net/index.php?topic=656.msg142004#msg142004
    Trong "triển lãm vũ khí thô sơ tự tạo", có cái quái thai đó. Hoá ra, liệt não cũng khà đông và tồn tại cả hơn trăm năm sau M1886 Lebel.
    LỊch sử cái "khối bịt đáy nòng quay ba trục ***g nhau" ấy có từ đâu
    Gras M1874
    http://armesfrancaises.free.fr/fusil%20d%27infanterie%20Mle%201874.html
    [​IMG]
    Chassepot M1866
    http://armesfrancaises.free.fr/fusil%20d%27infanterie%20Mle%201866.html
    [​IMG]
    [​IMG]
    Để khẳng định cái khe xoắn sau quy lát của Mauser, Mosin là của Áo Hung, M1866 có hình thế này
    [​IMG]
    Sao lại có cái đó ?
    À, M1841 có hạt dổ nằm sâu trong vỏ đạn giấy, nằm ở đáy đầu đạn, kim hoả phải xuyên qua thuốc. Còn đạn M1866 thế này. Hờ, thết này thì quay là sao được, vỏ giấy nó đè chặt, xoắn lên, vỡ bung thuốc ra thì còn gì là hạt nổ
    [​IMG]
    Kết luận: sao thiết kế vỏ đồng vào vỏ giấy
    Miễn bình luận nữa. Sự bắt chước ngu si không có gì để bình luận cả.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 12:51 ngày 14/12/2009
  7. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Cuộc cách mạng lần thứ nhất đã đưa ra loại đạn vỏ đồng dài. Đây là một phát minh lớn. Vỏ đạn cổ là các súng nòng dài bằng gang đồng giữa tk15, thập niên 185x. Rồi vỏ giấy M1841. Chúng đều rất hở, thoát khí.
    Vỏ đạn đồng thế hệ 197x làm bằng đồng thau, Chúng có cái đáy rất dầy, như thế, chúng làm thành một phần của buồng nổ, chịu được áp cao mà không vỡ theo những khe dơ của khoá nòng, cái này thì giống 145x. Nhưng điểm khác là phần trước của vỏ đạn 187x làm bằng đồng thau mỏng, đàn hồi. Khi áp cao, vỏ này nở ra, làm thành một cái van bịt kín khí thuốc. Phần này được gọi là vai, tức phần vỏ đạn thu nhỏ lại.
    Cái van này đến nay đã dược phát triển nhiều. Ban đầu mới xuất hiện, một vẫn đề nan giải là các hạt thuốc từ vỏ đạn không kín rơi ra trước khi bắn, lọt vào khe giữa vỏ đạn và thành buồng đốt, khi áp cao chúng bị ép chặt gây rỗ. Lần bắn sau, các vết rỗ in thành vỏ đạn mỏng vào, gây kẹt. Giải pháp ban đầu là xẻ một số khe ở đây để hạt thuốc rơi xuống trong động tác quay.
    Ngày nay, phần trước của vị trí vai vỏ đạn được thiết kế đặc biệt cho đến phần áp suất cao nhất, để phục vụ việc đầu đạn nở ra tốt khi bắn, bù nòng sai.
    http://www.youtube.com/watch?v=FXRY2j3RaUs
    http://www.youtube.com/watch?v=5bZ1Wqo1JWU
    http://www.youtube.com/watch?v=od9nhgzT9QI
    http://www.youtube.com/watch?v=vDIypxgwzXs
    http://armesfrancaises.free.fr/FR%20Mle%201886%20M93.html
    Cuộc cách mạng lần thứ 2 của súng trường là những Mosin, Mauser, hai súng nổi danh nhất. Ngoài ra, còn Áo Hung có M1886, Lebel M1886.
    Hàng thấp hơn. Súng Anh Lee-Enfield (nhái Áo-Hung). Nước Mỹ đi nhiêu khê với phiên bản Hải Quân Lee 1887 (nhái lại Áo-Hung nhưng chỉ được chấp nhận trong Hải Quân một thời gian ngắn), Krag 189x (nhái Đan Mạch), ".3003" (nhái Mauser nhưng đạn vẫn có gờ móc) và cuối cùng là ".3006" (nhái Mauser). Các súng Tây Âu thì chỉ con Lebel dùng cái băng súng săn, còn đâu đều ném hết các giải pháp Tây Âu đi, cóp nhặt các giải pháp Đông Âu trong trạng thái không hiểu rõ lắm.
    Mauser và Mosin
    Thật ra, cả Nga và Đức, tuy giữ tên súng nhưng vẫn đi nhiêu khê từng bước. Có điều, cũng như chuyển hoả mai sang vỏ đồng kiểu Krnka, súng sau bắn được đạn súng trước. Điều này duy trì việc sản xuất súng trường, trình độ công nhân, máy móc và số lượng súng trường gối đầu giao thời. Thật ra, không có các thuộc địa đông dân để mà cướp bóc trấn lột, thời này thì Đông Âu đã khá là nghèo rồi, nên không dám vung tay quá trán. Tuy vậy, hình thành cái phong cách trong cả chính trị và kỹ thuật Đông Âu sau này, họ làm hàng bán cho dân Âu, cạnh tranh bằng kỹ thuật. Còn Tây Âu làm hàng bán cho dân thuộc địa.
    Việc giữ sản lượng súng trường-sức mạnh chính của quốc gia, được đặc biệt coi trọng ở Nga và Đức. Cả hai nước đều không phát triển súng trường xung phong sau này vì lý do chính thức được đưa ra như thế. Ngay cả AK sau này cũng vậy, giữ nguyên đường kính Mosin.
    Về máy móc.
    Phiên bản M1885, rồi M1886 Áo-Hung, phiên bản Lebel Pháp đều không thực hiện được bịt đáy nòng quay. Áo-Hung dùng khoá nòng ngang. Còn Lebel thiết kế một bịt đáy nòng rời để không quay trên đầu khoá nòng quay. Thiết kế Lebel dở nhất, nó làm xuất hiện các chi tiết mảnh, yếu, diện tích tiếp xúc nhỏ trong khu vực chịu lực cao nhất của súng.
    Không thực hiện được bịt đáy nòng quay vì nạp đạn từ băng trong dẫn đến việc xuất hiện một chi tiết mới, là cái móc đạn từ băng. Khi quay, nếu tính toán không đúng, thì cái móc lồi này vướng.
    Mauser và Mosin đẩy lên một bước, tạo tiền đề cho các khoá nòng xoay sau này AK thừa kế. Nhờ kiểu khoá nòng này, mà súng đơn giản, khoẻ và tin cậy.
    Cả hai súng này đều dùng khoá nòng quay hai tai. Mosin lấy luôn tai chịu lực khoá để móc đạn từ băng, điều này dẫn đến việc phần sau cái tai này đứng (để chịu lực), không thích hợp với động tác lùi về, nó làm đạn trong băng nẩy trong loạt liên thanh, nên AK tách riêng cái móc vỏ đạn và tai khoá, làm móc vỏ đạn có dốc êm.
    http://www.youtube.com/watch?v=lQe864rGLyk
    Cái quan trọng là nhờ tai quay này, hai súng này giữ được các ưu thế từ các máy móc tiền nhiệm đã được thử thách qua nhiều chục năm và nhiều chiến tranh.
    Khóa nòng Mosin trừ phần tai quay, thì đại thể vẫn như cũ, Berdan và Áo-Hung M1872. Khoá nòng Mauser vẫn vậy, được thiết kế và gia công tinh vi, khoá bằng kim hoả, từa kế từ các thiết kế Ao-Hung khi cải tiến súng hoả mai, nhưng đến IG71 đã làm gọn nhẹ tinh vi rồi.
    Về đầu đạn
    Các đặc điểm nở ra khi bắn, lõm đuôi vẫn thừa kế như cũ. Đai cũng được bỏ từ 187x, nhưng các đầu đạn tự đúc lấy thì các xạ thủ vẫn làm đai, chủ yếu là mê tín đai từ thời hoả mai nhồi miệng. Còn đạn nhà nước thì Mauser, Mosin không đai. Duy chỉ có Lebel giả dối là làm đai, một biểu hiện của việc cóp nhặt ngu ngốc, không hiểu bản chất lý lẽ. Sau này Mauser và Mosin bãi bỏ việc lính tự nhồi, tránh các mê tín lăng nhăng làm hại kỹ thuật bắn súng.
    Về đại thể, Mauser và Mosin đều đi hai bước. Bước đầu, các súng 189x vẫn là đạn kiểu cũ, nhưng dài hơn, chì đúc và đường bay cố định trục, sơ tốc cỡ 5xx m/s. Riêng Lebel đi trước chống trên mũi nhọn, nhưng đó là giả dối, mình đã trình bầy trên.
    Cấu tạo đạn đợt đầu các súng này đều y như Berdan, IG71, M1872 Áo-Hung, là đạn vỏ đồng, đầu chì đúc, giấy chèn. Nhưng thuốc thì phát triển mạnh. Việc phát triển thuốc viên tiến liên tục trong khoảng 189x đến 193x.
    Ban đầu, các súng đều có hai loại vỏ. Vỏ dùng một lần mỏng hơn, loại dùng nhiều lần thì xạ thủ tự mua thuốc, đúc đầu, mua hạt nổ về tự nhồi.
    Đến bước 2 thì đạn tự nhồi bị bỏ.
    Bước hai đặc trưng của đường đạn cực kỳ chính xác "chống trên mũi nhọn". Sơ tốc đầu đạn đã đạt trên 700m/s, nhờ thế, duy trì buồng chân không cho hiệu ứng chống trên mũi nhọn đến trên 300 và sau đến 600 mét. Đạn chì đúc tuy rẻ, nhưng không giữ được hình dáng, các súng chuyển sang đạn lõi thép vỏ mềm. Vỏ mềm đơn giản ban đầu như Lebel vội vàng dối trá chỉ là một lớp đồng thau mềm. Các Mauser, Mosin có vỏ gồm một lớp đồng thau mỏng bọc ngoài, sau đó là một lớp chì mềm dầy, để thuận tiện việc đạn nở ra. Tuy vậy, đạn vẫn nở ít hơn trước, nhưng điều kiện thép và gia công đã cải thiện, mà vẫn bắn phát một, nên nở ít chút cũng được. Sau này, người ta cải thiện dần việc nở bằng các giải pháp khác nhau, chủ yếu là đổ chì phần đuôi và làm lõi nhỏ đi, lõi thép hình nêm, trong thập niên 192x-193x và truyền đến 199x cho AK 5,45mm
    Đến bước 2, Mauser M1898 sử dụng loại đạn cỡ 13 gram sau này dùng cho hai súng này. Nhưng đến M1904 đã dùng đạn cớ 9,5 gram. Mosin dùng đạn chống trên mũi nhọn 9,5 gram năm 1908. Hai loại đạn này về sau được hai súng gọi là đạn ngắn và đạn dài. Thuốc được thiết kế cho đạn dài, súng bắn đạn dài thì thu được đủ động lượng, sức xuyên tốt. Nhưng cũng súng đó bắn đạn ngắn thì sơ tốc cao và chính xác hơn, bắn tỉa tốt.
    Loại đạn 9,5 gram là loại đạn tiên tiến nhất cho súng trường, được Mosin cải tiến nhiều lần các năm 1936, 1942, 1944 và 1945, 1967, nay là NATO 7,62mm của bạn Cửu An.
    Sau này, sản lượng đạn Mosin chủ yếu là 9,5 trong khi Mauser là 13. Điểm khác là những nguyên tắc chiến thuật thay đổi mạnh 193x khi xe tăng xuất hiện. Lúc đó, súng trường từ bỏ việc chống thiết giáp, đạn nặng không cần nữa. Nhưng lúc đó Mauser đang bị trẻ con láo lếu MP cướp tiền, nên không thực hiện việc thay đổi. Mauser bị Mosin bắt làm tù binh năm 1945, sau đó thì NATO dùng đạn ngắn, thừa kế những tiến bộ Mosin đã đưa ra.
    Đến thời WW1 thì Lebel bỏ luôn cái thuốc đạn, đầu đạn tiên phong trứ danh đi, dùng cỡ này và thuốc Đông Âu, nhưng cái lõm đuôi thì nó liên quan đến quá nhiều thứ, lại đúng lúc cả Mauser Mosin đều giảm nở đạn, nên Lebel copy đầu 9,5 gram lúc đó vẫn không hiểu, cho đến nay, hài nhất là vẫn thế, đạn NATO Đức lõm, Mỹ không lõm, Đức vẫn.... cười. Vì thật ra đến thời đạn lõi thép thì việc làm nở đạn không đơn giản chỉ lõm đuôi, mà còn đi nhiều vấn đề cả về xoắn nòng và đầu đạn.
    Cấu tạo đạn.
    Nhưng đặc điểm như đáy dầy, vai mỏng đàn hồi, đe lồi, hạt nổ lõm, hai lỗ truyền lửa vẫn như cũ. Mosin tuỳ các đời, độ xông xênh của túi tiền mà áp dụng lỗ khoan dẫn lửa hình côn, làm nổi bật hiệu ứng cốc mồi. Sau này đến AK thì chuyện này mới 100%.
    Cũng như lõm đuôi vẫn được hoàn thiện và thừa kế. Lõm này làm đạn nở ra khi bắn, bù nòng sai.
    Nòng.
    Mauser và Mosin thừa kế cấu tạo nòng được phát triển trong quá trình sử dụng M1841, là rãnh chữ nhật đối xứng. Điều này không cần phải bình luận, vì phương Tây cũng bỏ bông hoa đẹp đợt trước, chuyển sang thứ này.
    Cấu tạo độ xoắn các Mauser Mosin ổn định từ M1898 Mauser và M1910 Mosin, theo đạn mới. Họ cũng bỏ những đạn linh tinh, mà thiết kế nòng theo đạn tiêu chuẩn dùng một lần, dùng đường đạn 24 inch một vòng (inch là đơn vị cổ của châu Âu, sau này bỏ, nhưng ngành súng đạn vẫn dùng). Độ xoắn này phù hợp với đường đạn chống trên mũi nhọn chính xác. Nó không cao quá làm đạn chậm phản ứng và chóng hỏng nòng.
    Vỏ đạn.
    Ban đầu, cac súng đều dùng vỏ đạn có gờ móc. Gờ móc cản trở rất nhiều hoạt động của súng tự động. Nhưng ưu điểm của gờ móc là đạn không tụt sâu vào trong buồng đạn, trong thời gia công và thép còn kém chính xác. Mauser 1898 đã bỏ gờ mà chuyển sang rãnh, điều này học từ súng ngắn, làm thuận tiện rất nhiều cho súng tự động.
    Cái gờ là sự đau lòng của Mosin, có lẽ vì thế đến nay người Nga vẫn giữ, nó luôn nhắc mỗi lính Nga phải biết đến một thời bị ăn cắp. Người Nga dùng lại cái gờ cũ để súng dễ dàng sản xuất lớn ở Tula và các quân xưởng cùng đẳng. Thế nhưng, chính phủ ăn cắp vẫn bán các hợp đồng sản xuất đầu tiên của Mosin sang Pháp, Mỹ, Tula vẫn đói trong khi gờ móc vẫn còn cho đến thời PK. Tuy vậy, Mosin được thiết kế sao cho quân ăn cắp chẳng sung sướng gì khi nhai nó, nên các hợp đồng lớn nhất về sau này lại về Tula với các anh em. Điều này giống hệt như Berdan.
    Khoá an toàn và máy cò
    Mosin còn hy sinh một cái nữa, là nó không dùng khoá an toàn trên kim hoả kiểu Mauser, điều này tốn khá nhiều kim loại tốt và công cắt gọt, máy cắt gọt, điểm mạnh nhất của Mauser và cũng là điểm yếu nhât của nạn nhân chế độ ăn cắp. Mosin dùng loại khoá và mãy cò cổ, đảm bảo các thợ và máy của Berdan có thế cạnh tranh.
    Khó an toàn của Mauser xuất hiện trong IG71, là phát triển tiếp theo của các súng Áo-Hung 186x. Nhưng Mauser IG71 đã tách phần bịt đáy nòng ra khỏi khoá nòng. KHoá nòng này nhỏ, tinh vi và tin cậy.
    Khoá Mauser nhỏ và tinh vi vì nó thự hiện các chức năng khoá bằng chính kim hoả. Kim hoả có 3 vị trí quay, khó an toàn, cho phép bắn và khoá quy lát. Về nguyên lý thì dễ hiểu, kim hoả có tai, tai phải nằm trong rãnh dọc thì kim hoả mới chuyển động về phía hạt nổ được, nếu tai mắc vào khe thành vỏ máy súng thì quy lát không chuyển động được. Tuy nghuyên lý dễ hiểu hơn máy cò Mosin, nhưng kim hoả là hợp kim tốt, lại tốn kém cả kim loại và gia công cho các tay kéo, tai khoá.... thì Mosin thấy.... phức tạp với ngân hàng.
    http://www.youtube.com/watch?v=2A_-FnDhmAc
    http://www.youtube.com/watch?v=XlXoUkm0P-o
    http://www.youtube.com/watch?v=dGJtmkMH7pg
    http://www.youtube.com/watch?v=zZqBd8QvrhM
    Thành công.
    Tuyệt vời nhất là Mauser.
    Trừ Lebel còn sống ngắc ngoải với một tỷ đám lao nhao khởi nghĩa, thì các loại súng trường có số lượng lớn khác ngỏm củ tỏi cả. Súng Áo Hung đương nhiên sống mạnh khoẻ ở Anh, nhưng di cư khỏi các viện hàn lâm Đông Âu thì nó đông lại thời 188x, không cải tiến nữa cho đến sau WW2 rồi về hưu.
    Lebel cũng như M16 bi h, nó đẻ non, các kỹ thuật cao được quảng cáo trong nó đều là giả dối. Trình độ đến mức bắt chước lõm đuôi trong Minie rồi ném đi vì nạp đạn sau M1866, thì chỉ có súng thế thôi, giống hệt M16 bây giờ.
    Vì mang tiếng là nhiều kỹ thuật, nhưng là giả dối, nên Lebel trong thực tế không thể cạnh tranh nổi với các súng khác, thậm chí cổ hơn. Ngay cả Lebel ban đầu có "chống trên mũi nhọn", nhưng chính nó vẫn dùng đạn bi cầu, tuy sức xuyên thấp hơn, nhưng ở tầm gần chính xác hơn. Thế là bước vào WW1, Pháp có ty tỷ loại súng đạn,. đều là "tiêu chuẩn quốc gia", một biểu hiện của chính trị thối rữa, giả dối trong nghiên cứu khoa học, tranh cãi kiểu nhà thổ.
    Các súng Mỹ cuối cùng đành cúi đầu chào thị trường, nhường chỗ cho ".3006", là phiên bản copy Mauser. Tuy copy máy súng, nhưng kim hoả thô hơn, và cái quan trọng nhất là dùng thuốc nổ dẻo cor***e, nên không thể mạnh được và đoản thọ. Cố mãi thuốc súng sai mà đạn không khoẻ ".3006" có vỏ đạn khổng lồ, nợ đời khốn khổ cho súng máy sau này.
    Tầu Tưởng nhái Mauser rất nhiều, có lẽ hàng chục triệu khẩu, kể cả "Trung Chính" là phiên bản Mauser hiện đại được sản xuất ở Tầu năm 193x, cho thấy Mauser không khó làm ăn lớn. Các phiên bản khác của Mauser phục vụ ở các nước châu Âu khác.
    Trừ những vùng Mosin cai thì Mauser nhường, Lebel thì....tởm quá Mauser tránh, súng Anh bán cho Anh và thuộc địa Anh, còn tất cả những anh tài loé sáng khác đều bị Mauser đập chết ăn thịt.
    Ở nước Đức, thập niên 1930, Hitle gom các nhà tư bản bị phá sản hay quá thành công vì trận thua WW1 lại làm chính trị. "Lãnh tụ công nghiệp chiến tranh" của đảng Nazi lần lượt là dân MP, Mauser lép vế. Nhưng dân MP thiếu trình của bác học già, nên không súng ống nào ra hồn. Mauser vẫn chiếm sản lượng chính, khoảng 15 triệu khẩu, so với khoảng 1,5 triệu MP trong thời gian chiến tranh.
    Mosin dài hơn Mauser, do có thể các nhà thiết kế căn cứ người Nga khổ to hơn, và Mosin đã chọn nhưng thiết kế thô hơn.
    Những sự thành công lớn nhất của Mosin dựa vào 3 tính chất: đường đạn mạnh và chính xác, tin cậy và dễ sản xuất. Mosin còn dễ sản xuất hơn nhiều Mauser, chủ yếu do cấu tạo khoá nòng đơn giản, tránh được các chi tiết phải chụi lực quá sức, quá tinh vi cần klim loiaj và máy cắt gọt tốt.
    Đường đạn Mosin phát triển sau 1906 nhiều lần dựa vào quan điểm đúng đắn của các nhà quân sự. ".3006" của Mỹ tồi vì các nhà quân sự bên Mỹ yêu cầu khả năng "súng máy bắn gián tiếp", nên không thể rút khối lượng đầu đạn xuống. Mosin có điều kiện vượt qua Mauser về đầu đạn trong thập niên 193x Mauser khổ sở với đãm hỗn láo mới nổi. Mosin vẫn có những loiaj đạn dài 13 gram, xạ thủ bắn tỉa thường mang cả hai cho các tình huống bẵn khác nhau.
    Ở các video trên, các bạn thấy loại Mosin cổ của WW2 bắn tỉa 600 mét ngoài trời, thế là đạt kịch trần yêu cầu của súng trường.
    Đương nhiên, vì Mauser không may thua trận nên Mosin thọ hơn. Tầu Cộng 195x thì sản lượng Mosin K44 chiếm tỷ lệ chính trong súng trường. Ngày nay, Mosin vẫn chiếm sản lượng chính các súng không tự động (bắn tỉa, thể thao quân sự).
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 15:29 ngày 15/12/2009
  8. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Bạn porthos vỏ giấy hiện đại hơn vỏ đồng có khoe Lebel M1886 là tiên phong trong đợt hai cách mạng. Thật ra, thì từ cái độc đáo đạn vỏ đồng có đai, đạn đầu bằng thì Lebel chỉ là bản copy nguyên si của khẩu súng thật sự tiên phong, đó là Grenadier Rifle M1872 Áo Hung.
    Đấy là mình dịch sang tiếng Anh cho thông dụng, tên nó là
    Gendarmerie Repetier Gewehr System-Früwirth M1872
    Súng trường có hộp đạn trong cho Bộ đội Xung kích, kiểu 1872.
    http://www.sunblest.net/gun/Fruwirth.htm
    Còn đây là Lebel
    http://armesfrancaises.free.fr/FR%20Mle%201886%20M93.html
    Cái khe bên sườn phải quy lát để dùng cho cái đinh vít vạn bên sườn phải, dùng để giới hạn chuyển động khoá nòng, khi muốn tháo súng thì tháo vít đó. Cái tinh vi là khi quay khó tay kéo lên, nó tự động xoay và hơi giật về, làm vỏ đạn có hơi kẹt thì tự bung kẹt. Gras có nhiều kiểu, 1866-74 M80 dùng cái khe này (nhưng vẫn không có băng), có đời không. Đến thời Lebel thì bỏ đi.
    http://armesfrancaises.free.fr/fusil%20d%27infanterie%20Mle%201874.html
    Lebel là phiên bản cóp nhặt lung tung các thiết kế Đông Âu một cách thiết suy nghĩ. Mosin bỏ cái rãnh trên đi, vì họ dùng khoá nòng xuay hai tai. Khóa nòng Mosin và Mauser hoàn toàn khác trước, nó rời xo với quy lát. Lebel thì bỏ cái khe đi như Mosin, nhưng lại dùng khoá nòng kiểu cũ bằng phần tay cầm gập xuống thành vỏ máy súng. Như thế là bịt đáy nòng rời với khoá nòng, tức là, chuyển bịt đáy nòng rời ra khỏi phần khoá nòng, nên truyền lực lớn nhất súng quan một đống thứ lằng nhằng, đều do không thiết kế được tai quay.
    Trong khi đó, tai quay làm máy súng nhẹ đi rất nhiều.
    Đáng chú ý là, copy nguyên si Áo-Hung trừ cái khe hãm quy lát, Lebel ra đời đúng lúc M1872...... về hưu.
    Gendarmerie Repetier Gewehr System-Früwirth M1872
    Các nỗ lực phát triển băng được thực hiện từ 1869 tại Viennese bởi Ferdinand Früwirth. Ban đầu là kiểu trống Werndl-Holub, nhanh chóng được thay bằng ống dọc như các súng săn ngày nay. Đạn lúc đó còn đầu tù cũng như đạn săn ria ngày nay, nên ống dọc không lo đạn kích nổ nhau. Lebel copy nguyên si về và cưa đầu đạn đi cho bằng mới là hài hước.
    Công nhận, súng Tây Âu Anh Mỹ đúng là một đống hổ lốn nhặt nhạnh từ các bãi rác Đông Âu.
    Kiểu băng này được thử nghiệm trên súng Krnka là Schnell-lader
    Bản thân Ferdinand Früwirth sau này cũng ủng hộ băng ngang, vì chuẩn bị chuyển sang đạn đầu nhọn, 10 năm trước khi Lebel ra đời. Thật ra, đến lúc đó là bắt buộc phải bỏ, còn từ trước thì nó đã có nhiều nhược điểm, ngoài việc khó chữa, nó không pho phép cải tiến lắp kẹp đạn để lắp nhanh cả băng.

    Ngày 23-5-1872, súng được Cisleithanischen Gendarmerie đánh giá đã qua thử nghiệm và đưa vào trang bị. Súng có rãnh chữ nhật, 6 rãnh, 8 đạn trong băng dọc.
    đạn cạc bin 11,2x36mm M1867
    1038mm 3,69kg
    nòng 570mm, sơ tốc 298 m/s
    Ngay trước khi được đánh giá, những khách hàng tương lai, tức là Bộ đội Xung kích (Bộ đội công kiên, lực lượng bộ binh tinh nhuệ Grenadier), đã khuyến cầu gập cái tay nắn xuống, yêu cầu này lập tức được chấp nhận và tồn tại đến ngày nay. Khi copy súng này, người Pháp cũng hay quyên.
    Chỉ có 12 ngàn khẩu được sản xuất, thật ra, đây là hàng cạc bin, đạn yếu. Thế nhưng nó đi tiên phong và bạn nào não có vẫn đề khoe khoang Lebel như bạn porthos vỏ giấy thì nhìn nó, và đanh giá xem Lebel dở người thế nào.
    Tất nhiên, trong thế giới ăn cắp não wiki thì tràng giang đạn hải tán Lebel, nhưng không có nửa dòng M1872. Đương nhiên, liệt não thì không biết hỏi sao Lebel lại cưa bằng đầu đạn. Chính vì thế, con cháu liệt não đi đâu cũng khoe phát minh ra súng Lee (Anh Mỹ), súng Lebel (Pháp)... Được cái là bác Mỹ sau này cũng khôn khôn, bác về thẳng Đông Âu lấy Krag, Mauser, chứ không còn bị Anh Pháp nó lợi dụng nó trao tay ăn chênh.
    Thật ra, hiện nay thì internet nhiều, không ai phải đến bảo tàng Viên, bảo tàng Hung mà xem súng ống. Nhưng mà ngu dân liệt não thì vẫn cứ tưởng là thế giới này chỉ mỗi chúng có internet.
    Lebel là súng cưa đầu (đạn)
    nguyên nhân của cái cưa đầu là đây
    Thật ra, việc sử dụng đạn đầu bằng về sau thối quá, nên Lebel chấp nhận đạn nhọn đầu. Nhưng lúc đó đạn không còn chủ yếu sản xuất cho súng Lebel nữa rồi.
    Gendarmerie Repetier Gewehr System-Früwirth M1872. Dễ dàng đánh giá được vai trò súng này và những súng dùng băng khác nhau. SÚng M1872 Áo Hung không được sản xuất nhiều và chưa thể có kết cấu ưng ý, vì công nghiệp lúc đó còn chưa leo được đến đấy. Giá thành súng quá cao, nhưng đây là các thử nghiệm đầu tiên về dùng băng thật sự quy mô lớn, chứ không phải trong lab.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Phiên bản tiếp theo cũng là cạc bin, sản xuất bởi công ty ngày nay vẫn còn, Osterreichische Waffenfabriks-Gesellschaft, Steyr, 1881-83
    Kropatschek Model 1881 Gendarmerie Carbine cũng chỉ có 12,2 ngàn khẩu. cũng cấu taopj tương tự, cải tiến chủ yếu là một số lặt vạt và đạn 11.15x42R - 11x58R. Sungd nặng 3,69kg, bắn đạn cạc bin M19877 sơ tốc 307 m/sec, đạn dài hơn nên chỉ còn 6. Do những nhược điểm của băng dài, mà Mannlicher xuất hiện, đó là kiểu băng ngang nằm dưới quy lát như ngày nay. Tất nhiên, Tây Phú thì dùng trong Lebel sau đó, chuyện chửi Tây Phú thì các bạn hoãn cho mình hôm khác, hôm nay xài lạm quá.
    http://www.sunblest.net/gun/Krop81.htm
    [​IMG]
    Phiên bản cuối cùng của seri này là Kropatschek Torpedo Boats Gewehr M1893, súng cho thuỷ thủ tầu phóng lôi. Lúc đấy, hạm đội Hoàng Gia Áo còn kha khá, nhất nhì châu Âu. Hạm đội này mới giải tán vài năm, lúc giải tán, nó còn 4 cái xuồng máy tuần hồ. Ban đầu Đế Quốc Áo Hung có biển Đen, có Địa Trung Hải cũng không bé lắm, sau còn có mỗi khúc sông Da Nuý, sau nữa còn có đoạn suối với mấy cái hồ.
    Đạn 8x50R
    http://www.sunblest.net/gun/Krop93.htm
    [​IMG]
    Cái khác của Lebel là không có khe để chốt giữ quy lát xiên vào.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Đó là do Lebel khi copy lăng nhăng đã không giải quyết được các vẫn đề kỹ thuật. Điều này khá khó khăn, vì cần khá nhiều toán và não để không phải tổ chức sản xuất vài vạn mẫu thử để rồi ném đi. Lebel dùng một đầu bịt đáy nòng rời, giữ quy lát khỏi tuột ra đằng sau bởi ốc hãm mỏ.
    Cách giữ quy lát không quan trọng, nhưng có điều, khoá nòng và bịt đáy nòng rời nhau, tiếp xúc bằng những chi tiết nhỏ, mảnh, phức tạp trong khi lại chịu lực lớn nhất súng.
    Phải làm bịt đáy nòng rời vì Lebell không giải quyết được vấn đề quay khi có băng, kể cả băng dọc súng săn và băng ngang.
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 17:27 ngày 15/12/2009
  9. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Ít người biết được là kể cả FAMAS Tây Phú ngày nay, thì từ trong ra ngoài đều là súng Đông Âu, máy thì đặc Hungari. Tây Âu thi thoảng cũng có thiết kế súng, như Lebel và M16A1, số phận chúng của chúng là cười đời luôn gắn chặt với các nút bịt lỗ tai, vì đẻ non, không làm được việc, ăn bám bên cạnh hàng tỷ đồng nghiệp, và đời của chúng chung nhau chuyện có một tỷ "tiêu chuẩn quốc gia" và súng đạn súng trường.
    Lee.
    http://www.spanamwar.com/lee.htm
    Được chấp nhận bằng phiên bản sản xuất bởi Winchester cho Hải quân Mỹ (từ 1885, những mãi đến 189x mới chính thức). Sau trở thành súng trường củ lực của Anh bởi các phiên bản Lee-Metford và Lee-Enfield (tên hai quân xưởng, năm chấp nhận là 1888, 1889). Chả có chữ nào liên quan đến Mannlicher cả. CÙng có vai trò như Mauser, Mosin, súng này phục vụ quân Anh, Ấn, Úc đến hết ww2.
    Nói về cái liệt não wiki thì nó có nói đến một dòng nhỏ Mannlicher , nhưng là Lee hơn, hơn chỗ nào, băng nhiều đạn hơn.
    Ở đây, mình đặt Lee lên đầu cho bất ngờ. Thật ra, cái ông Lee ấy giống hệt ông Miniê. Những đặc điểm này cũng giống như hàng lô nước mới phát triển, ví dụ nước Vịt Xác. Nước Vịt bị Xác Xơ bởi vì có nhiều ông Lee, ông Miniê không yêu nước lắm, các ông không nói cho dân nước ông là đây là súng Đông Âu, mà lừa dân mọi Mỹ mới phát triển rằng đó là phát minh của ông, nên giá cả do các ông quyết. Dân mọi thế giới thứ ba không biết ông Lee, ông Miniê như thế vì kiến văn họ hạn chế, hay nói cách khác là ngu.
    Thật ra, không thể cả nước Mỹ không ai biết khẩu súng trường quân dụng của Đế Quốc Áo-Hung nó trông thế nào. Những chuyện như thế này thật ra là chuyện lừa đảo kiếm ăn trong xã hội tràn ngập tham nhũng ăn cắp. Ăn cướp trắng trợn ngân sách mà không ai dám nói. Nếu súng này là súng Áo Hung thì người ta sao không sang đó mua cho rẻ, ai trả kinh phí nghiên cứu đề tài khoa học.
    Thôi, mình không thích chuyện dân Tây Âu mọi rợ chuyên ăn cắp não nữa. Winchester đến dự thi 1885 với một mẫu súng đương nhiên "đi học hỏi quê súng". Khi họ mang các thiết kế họ thu lượm được về đăng ký tên Lee thì hội đồng vẫn chưa quyết một số cấu tạo chi tiết. Ví dụ, loại thước ngắm ngày nay chúng ta dùng, có ở Mauser, Mosin và phiên bản sang năm, 1886, đã bị bỏ lại ở Đông Âu.
    http://www.sunblest.net/gun/Mann85.htm
    http://www.sunblest.net/gun/Mann86.htm
    Repetier-Gewehr Osterreichische Vorlage, M1885.
    Vorlage là tên loại súng có vỏ đầu tiên trên thế giới, khoảng 1450, súng từ Otoman truyền vào châu ÂU theo đường Hungari-Baltic-Thuỵ Điển và sang Tây Âu. Áo Hung là quê hương súng ống châu Âu. Cả câu trên là "thử nghiệm Vorlage năm 1885". Vorlage được dùng như là súng trường bắn nhanh. Ferdinand Ritter von Mannlicher đưa phiên bản này ra trong cuộc đấu thử nghiệm 1885 và đi vào sản xuất 1886. Cuộc đấu có cả đại diện Tây Âu Winchester, nhưng đương nhiên sang thăm quê súng "học hỏi là chính", mà học học hỏi thật, sau đó mẫu súng Hải Quânv Mỹ được chấp nhận số lượng nhỏ.
    Thật ra, thì đã có Mannlicher nổi tiếng lau ngày có nhiều thành công về băng, dư luận đã ngả về ông rồi. Ông cũng đem thi những 4 mẫu. Phiên bản được chấp nhận chính thức không khác gì ngoài việc thay thước ngắm của Werndl.
    Mẫu dự thi được giải 1885
    [​IMG]
    Phiên bản được chấp nhận chính thức M1886. Mẫu của Lee cho Hải Quẫn Mỹ không có thước ngắm này.
    link của .... ngoại, các bác xem thả cửa, mình không muốn tốn thêm cái buket của mình
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 18:09 ngày 15/12/2009
  10. huyphuc1981_nb

    huyphuc1981_nb Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    05/05/2002
    Bài viết:
    4.356
    Đã được thích:
    165
    Cuộc cách mạng súng trường lần 2 ở Mỹ thể hiện sự lăng nhăng, thiếu nghiêm túc, thiếu chính thống đặc trưng của nước này. CHuyện này bắt đầu từ nội chiễn, hãng Colt quả cáo cho revolver của họ át đi, trong khi nhiều người Mỹ lúc đó đã có ý dùng M18412 Phổ và cả hai miền Mỹ đã nhái súng này. Chính vì thiếu chính thống, khoa học được lôi kéo bởi đám đông đa phần ngu si, nên dễ dàng bị đầu độc.
    Thật ra, như các bạn thấy trên, giai đoạn đầu, Mỹ đã không đi được nửa đường, mà dừng lại ở trapdoor của Spring Field. Đây là phiên bản súng Đông Âu, được phát triển bởi Albini (ý), Baranov (Nga), được chấp nhận ở Bỉ và một giai đoạn ngắn ở Nga. Thạt ra, súng được phát triển bởi Baranov , nhưng người Nga cũng làm như Berdan, để ăn cắp và chiến binh chung sống.
    Thật ra, dùng súng đó là một sai lầm, vì người Nga phát triển súng phục vụ việc nâng cấp súng trường theo hai bước, ban đầu là xẻ rãnh súng nạp miệng nòng, rồi làm bịt đáy nòng cho chúng để chuyển sang vỏ đồng, Cũng có một chút súng được sản xuất mới, nhưng ít. Bản thân mẫu súng Baranov cũng không tồn tại lâu, chỉ cỡ chục ngàn khẩu hoả mai được hoán cải như thế trước khi được thay bằng kiểu Krnka. Và đương nhiên, ngoài việc hoán cải súng cũ thì Berdan cùng xuất hiện với Krnka.
    Khi không hoán cải mà sản xuất mới, lại nhai lại phương án thiết kế của hoán cải, là sự bắt chước như con khỉ, tức bắt chước mà không hiểu gì.
    Kiểu Baranov khoá nòng bằng cách lật lên trước. Điều này làm nó tốn nhiều thao tác hơn, tốc độ vắn chậm, nếu so với Krnka lật ngang không cần chốt hãm chống việc lật nửa bịt đáy nòng lên. Và đương nhiên, các súng hoán cải này không có hình dáng vỏ hợp lý, thao tác lâu so với các súng hoàn thành đợt này, có quy lát như Berdan, IG71.
    Đương nhiên, sản phẩm vượt xa nhất của đợt một, cũng là bắt đầu đợt hai, là kiểu M1872 Grenadier Áo-Hung, nguyên mẫu của Lebel sau này. Điều này cho thấy, thiết kế súng không thiếu, nhưng thiếu khả năng sản xuất mới là cản trở chính việc áp dụng súng tiên tiến.
    Như vậy, đến giai đoạn 2, người Mỹ Anh bức xúc nhất trong cách mạng vũ khí, coi như làm lần này là cả 2 trong một, tiến thẳng từ máy điểu đầu lên súng trường có băng. Đương nhiên, còn nhiều thứ khác như thuốc súng mới và đường đạn "chống trên mũi nhọn".
    Bản thân thuốc súng Anh-Mỹ đã thiếu tinh tế, cho quá nhiều chất gây nhão vào cor***e, dẫn đến việc hoá dẻo thuốc này, nó cháy nhanh và các sản phẩm đợt hai của Anh-Mỹ đều chậm được áp dụng, lại rất yểu.
    Đầu đạn thì quá dễ dàng copy Đông Âu, nhưng sau ".3006" thì đầu đạn lại bị đầu độc bởi ỹ nghĩ "súng máy bắn gián tiếp", cụ thể hơn, Mỹ Anh không có loại đầu đạn ngắn 9,5 gram cực chính xác như Mauser, Mosin. Và đương nhiên, các kỹ thuật tinh tế như lõm đuôi, đệm dầy.... cũng đều bị bỏ qua vì.... vô nghĩa.
    Quan trọng nhất là máy móc, cực kỳ nhiêu khê. Tổng cộng, Mỹ có 4 khẩu không bắn được đạn của nhau chỉ trong 15 năm. Ngoài việc thiết kế tồi, quá yểu, điều này còn thể hiện sự thiếu thống nhất, thiếu quyết tâm xây dựng quân đội và chinh trị bị các lái súng đầu độc. Chúng ta biết rằng đạn Mosin hơn 100 năm nay chưa lần nào đổi thiết kế vỏ, Mauser nếu không thua trận 1945 cũng vậy.
    4 mẫu súng đó là Krag 1892, Lee 1895 , ".3003" 1903 và ".3006" 1906.
    Trên mình đã nói, thuỷ tổ của súng giai đoạn 2 ANh Mỹ, sau trở thành súng chủ lực Anh đến sau WW2 là việc năm 1885, Winchester đến tham gia cuộc đấu thầu Áo-Hung. Họ lấy cớ mang một mẫu chắc chắn thua đến, chủ yếu là để học tập. Thực ra, cuộc đấu xuất hiện chỉ để đánh giá và vi chỉnh mẫu của Ferdinand Ritter von Mannlicher, tiếng tăm của khẩu này và việc thử nghiệm đã có từ nhiều năm.
    Winchester thu kết quả học tập mỹ mãn, nhưng hàng chục năm sau, người Mỹ mới chỉ có chút ít súng cho Hải Quân mang tên Lee
    http://www.spanamwar.com/lee.htm
    Người Mỹ chú ý đến một súng khác, là Krag-Jorgensen. Súng được chấp nhận ở các nước Đông Bắc Âu, như Đan Mạch, Na Uy. Súng này thừa kế nhiều đặc điểm thiết kế của nhà Mauser. Việc không thống nhất trong xã hội Mỹ đã làm cả hai súng đánh nhau và cho đến 1896, chỉ có vài chục ngàn súng mỗi loại.
    Số lượng này cho thấy, việc đánh giá thời điểm cách mạng băng năm được chấp nhận là thiếu sót. Chúng ta cần biết rằng, một trong những đặc tính của súng cách mạng các đời là khả năng sản xuất lớn. Mosin trước chiến tranh Nga-Nhật có 3,8 triệu khẩu. Krag-Jorgensen ổn định thiết kế chính năm 1886, được chấp nhạn ở Mỹ năm 1992, nhưng thật sự, đến năm 1896 chũng chưa được chấp nhận đúng nghĩa vì mới có vài chục ngàn khẩu. Năm 1894 mới có 25 ngàn khẩu. Việc trang bị cũng rất tuỳ hứng từng đơn vị.
    CHỉ vì chiến tranh Mexico thì người Mỹ mới ý thức được họ rất lạc hậu về súng trường và tiến trình thay thế mới đẩy mạnh. Đến tận cuối tk19 thì mới là thời điểm chấp nhận thật sự.
    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/90/Krag_J%C3%B8rgensen_M1892_as_tested.jpg
    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/85/Norwegian_K-J_M1912_closeup.png
    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/en/2/26/US_M1898_Krag-J%C3%B8rgensen_Receiver_%26_Bolt_Assembly.png
    http://patentpending.blogs.com/patent_pending_blog/2005/03/the_krag_jorgen.html
    http://www.okiegunsmithshop.com/krag92.jpg
    Về đại thể, Krag là Mauser, khoá nòng quay hai tai và khóa an toàn trên kim hoả, cấu trúc súng như Mauser sau này. Nhưng lúc đó, thiết kế súng còn thô hơn. Cũng trong thập niên 189x, thì đạn đã mạnh hơn cỡ Lebel 500m/s ban đầu nhiều. Những chi tiết Đông Âu tinh vi không có, nhưng về sơ tốc và khối lượng đầu đạn thì dễ copy. Người Mỹ có thực hiện một số cải tiến súng, như băng rời thay nhanh, nhưng rất ít áp dụng.
    Nhược điểm chính là giới hạn của năng lực đầu đạn, do tuốc quá tồi. Do đó, súng sớp về hưu, được thay bởi ".3003" và sớm sau đó là ".3006". Do thuốc cháy nhanh, nên khi nhồi nhiều, áp suất nó quá cao bất hợp lý. Cụ thể hơn là súng quá nặng trong khi không nâng được sơ tốc bao nhiêu.
    Đạn Krag là ".30-40 Krag", nói theo cách Nga-Đức là đạn 7,62mm ( 3 line), sơ tốc cỡ 600-700 m/s tuỳ đời, đầu đạn 12 và 13 gram. Khi châu Âu cải tiến đạn đợt Mauser G98 thì động lượng và sơ tốc của Krag đều quá yêu mà không nâng được. Thiết kế đạn này cũng có nhiều bất hợp lý. Nga và Đức đều dùng đạn to bằng đường kính rãnh, chênh đường kính 0,3mm (Mosin có đường kính gờ 7,62, đường kính rãnh và đạn 7,92. Mauser là 7,92 và 8,22). Nhưng đạn Krag quá bé so với gờ (7,8mm). Bất hợp lý này kết hợp với thiết kế đầu đạn thiếu những đặc điểm tinh tế để đạn nở và tạo rãnh dễ dàng, nên súng sớm bị hở hơi và kém chính xác. Bất hợp lý này xuất phát từ việc chuyển từ đạn chì đúc sang đồng thập niên 189x, người Mỹ tự làm lấy, thiếu sự chỉ dẫn của các chuyên gia Đông Âu.
    ".30-40 Krag" còn được gọi là "U.S./.30 Army" hay ".30 Government". Ban đầu cũng là chì đúc và chuyển sang lõi thép vỏ đồng đầu tk20, cũng hoàn thiện đầu chống trên mũi nhọn cùng ".3006" năm 1906.
    ".3003"=7,62mm năm 1903, về phần súng là Mauser G98. Nhưng người Mỹ khắc phục nhược điểm đạn yếu của Krag bằng cách làm vỏ đạn rất lớn, nhờ thế, giảm áp suất tối đa khi nhồi nhiều. Sơ tốc đạt cỡ Mauser, Mosin khi bắn đạn nặng 13 gram.
    Đạn ".3003" có gờ móc và chưa là đạn chống trên mũi nhọn. Gờ móc để giảm yêu cầu chính xác buồng đạn, nó ngăn không cho đạn thụt vào sâu trong khi khi không gờ móc thì phải làm điều đó bằng vai buồng đạn được gia công chính xác.
    ".3006"=7,62mm năm 1906 là đạn chống trên mũi nhọn, không gờ móc và kích thước như ".3006", thể tích buồng thuốc 4,43 ml
    4.43 ml . Đầu đạn 12 gram và sơ tốc 790 m/s. Những cải tiến quá áp đạn 840, nhưng làm hại nòng nhanh. Áp suất tối đa rất cao 62.000 psi (430 MPa). CHính vì nhược điểm này của thuốc nổ cor***e nên đạn Mỹ các loại sớm bị thay bởi NATO 7,62mm sau WW2. Ngày nay, loại đạn này đương nhiên là nhồi thuốc hiện đại, còn ngày đó, đăng này có thể chấp nhận được nhưng hơi yếu so với Mauser, Mosin, và cả súng và đạn đều nặng, không bền.
    Cấu tạo đường kính và đệm cũng là 7,8mm (cùng thiết kế với phiên bản chống trên mũi nhọn Krag).
    Được huyphuc1981_nb sửa chữa / chuyển vào 17:30 ngày 16/12/2009

Chia sẻ trang này