1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Súng và đạn

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi RandomWalker, 24/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0

    Lính Long kỵ binh Ba lan thế kỷ 17 với khẩu hoả mai.
    [​IMG]
  2. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Độ chính xác của súng hoả mai
    Súng hoả mai nòng trơn không phải là loại vũ khí có độ chính xác cao theo tiêu chuẩn của ngày nay. Điều này nói lên rằng một xạ thủ khi ngắm bắn mục tiêu bằng cỡ một người ở cự ly 150 yard, có nhiều cơ hội bắn trúng mục tiêu như khi anh ta ngắm bắn mặt trăng. Tuy nhiên, từ lần sử dụng sớm nhất loại hoả mai, các đội hình mục tiêu là khá gần.
    Vẫn như thời Trung cổ, những cơ thể người của các đội quân bị đưa ra trận để đề cao việc hỗn chiến một cách hiệu quả là phương pháp chủ yếu để giành thắng lợi trên chiến trường. Bộ binh phải được triển khai theo các đội hình dày đặc và sâu để ngăn chặn sự bỏ chạy trước sức mạnh của quân kỵ binh có áo giáp. Các xạ thủ phải đứng gần với các pikemen để chống lại kỵ binh. Do vậy, việc triển khai một đơn vị theo các đội hình chặt chẽ là một điều cần thiết.
    Độ không chính xác của hoả mai không phải hoàn toàn là bất lợi, bởi vì ngắm bắn hướng vào thân hình một người lính đã là một cơ hội khá tốt cho việc bắn hạ một ai đó. Việc điều khiển một tên lính đang trong đội ngũ cũng dễ dàng hơn là khi đội ngũ đang giải tán, do đó một nhóm các xạ thủ có thể gây ra nhiều lần bắn trong khoảng thời gian đã cho hơn là một người không nằm trong đội ngũ. Giữa khoảng cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, phương pháp cơ bản để nhận được hoả lực nhanh và hiệu quả là ra lệnh giữ các xạ thủ theo đội hình.
    Độ chính xác của súng hoả mai bị điều khiển một phần bởi độ hở nòng súng, có nghiã là sự khác nhau giữa đường kính trong của nòng và đường kính của viên đạn. Độ hở nòng súng cũng ảnh hưởng đến tốc độ nạp đạn và tốc độ đầu nòng. Điều này cũng cho phép khí thoát ra từ nòng nhiều hơn mà không đẩy vào viên đạn. Do vậy, độ hở nòng ít hơn sẽ mang lại tốc độ đầu nòng cao hơn và độ chính xác cao hơn. Việc tác xạ theo thời gian đã ảnh hưởng đến quân đội gây ra độ hở nòng nhiều hơn để tăng tốc độ nạp đạn. Nhiều volley có nghĩa là nhiều người bị giết. Độ chính xác không được xem xét như một yếu tố quan trọng ?" theo các chuyên gia ở thời kỳ này.
    Do độ chính xác của hoả mai nòng trơn không cao, việc sử dụng những nhóm lính nhỏ tấn công quấy nhiễu theo chu kỳ vào địch quân là không phổ biến. Cụ thể các nhóm lính nhỏ sử dụng cùng một loại vũ khí như các đơn vị lớn. Do vậy việc bắn từ cự ly xa không chính xác, một lầm ngắm bắn ở xa 50 yard có cơ hội khá tốt để hạ một mục tiêu bình thường.
    Độ chính xác
    Cự ly Mục tiêu bộ binh Mục tiêu kỵ binh
    100 yard 75% 83%
    200 37% 50%
    300 33% 37%
  3. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Độ chính xác của súng hoả mai
    Súng hoả mai nòng trơn không phải là loại vũ khí có độ chính xác cao theo tiêu chuẩn của ngày nay. Điều này nói lên rằng một xạ thủ khi ngắm bắn mục tiêu bằng cỡ một người ở cự ly 150 yard, có nhiều cơ hội bắn trúng mục tiêu như khi anh ta ngắm bắn mặt trăng. Tuy nhiên, từ lần sử dụng sớm nhất loại hoả mai, các đội hình mục tiêu là khá gần.
    Vẫn như thời Trung cổ, những cơ thể người của các đội quân bị đưa ra trận để đề cao việc hỗn chiến một cách hiệu quả là phương pháp chủ yếu để giành thắng lợi trên chiến trường. Bộ binh phải được triển khai theo các đội hình dày đặc và sâu để ngăn chặn sự bỏ chạy trước sức mạnh của quân kỵ binh có áo giáp. Các xạ thủ phải đứng gần với các pikemen để chống lại kỵ binh. Do vậy, việc triển khai một đơn vị theo các đội hình chặt chẽ là một điều cần thiết.
    Độ không chính xác của hoả mai không phải hoàn toàn là bất lợi, bởi vì ngắm bắn hướng vào thân hình một người lính đã là một cơ hội khá tốt cho việc bắn hạ một ai đó. Việc điều khiển một tên lính đang trong đội ngũ cũng dễ dàng hơn là khi đội ngũ đang giải tán, do đó một nhóm các xạ thủ có thể gây ra nhiều lần bắn trong khoảng thời gian đã cho hơn là một người không nằm trong đội ngũ. Giữa khoảng cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19, phương pháp cơ bản để nhận được hoả lực nhanh và hiệu quả là ra lệnh giữ các xạ thủ theo đội hình.
    Độ chính xác của súng hoả mai bị điều khiển một phần bởi độ hở nòng súng, có nghiã là sự khác nhau giữa đường kính trong của nòng và đường kính của viên đạn. Độ hở nòng súng cũng ảnh hưởng đến tốc độ nạp đạn và tốc độ đầu nòng. Điều này cũng cho phép khí thoát ra từ nòng nhiều hơn mà không đẩy vào viên đạn. Do vậy, độ hở nòng ít hơn sẽ mang lại tốc độ đầu nòng cao hơn và độ chính xác cao hơn. Việc tác xạ theo thời gian đã ảnh hưởng đến quân đội gây ra độ hở nòng nhiều hơn để tăng tốc độ nạp đạn. Nhiều volley có nghĩa là nhiều người bị giết. Độ chính xác không được xem xét như một yếu tố quan trọng ?" theo các chuyên gia ở thời kỳ này.
    Do độ chính xác của hoả mai nòng trơn không cao, việc sử dụng những nhóm lính nhỏ tấn công quấy nhiễu theo chu kỳ vào địch quân là không phổ biến. Cụ thể các nhóm lính nhỏ sử dụng cùng một loại vũ khí như các đơn vị lớn. Do vậy việc bắn từ cự ly xa không chính xác, một lầm ngắm bắn ở xa 50 yard có cơ hội khá tốt để hạ một mục tiêu bình thường.
    Độ chính xác
    Cự ly Mục tiêu bộ binh Mục tiêu kỵ binh
    100 yard 75% 83%
    200 37% 50%
    300 33% 37%
  4. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0

    Hiệu quả xạ kích trong chiến trận
    Tại trận Bleheim (1704), quân Anh với 5 tiểu đoàn tấn công quân Pháp cố thủ tại các vị trí dọc theo trận tuyến dài khoảng 750 yard. Quân Pháp có khoảng 4000 tay súng triển khai dọc theo chiều dài 900 yard. Quân Pháp bắn mở đầu tại cựly 30 yard với chỉ một vòng phát hoả (volley) tàn phá đã gây ra 30 % tổn thất cho lực lượng tấn công của Anh. Tức là khoảng 800 lính bị loại khỏi vòng chiến. Tuy nhiên chỉ 20% các đợt bắn của phía quân Pháp có hiệu quả. Nếu ta tính rằng 15 % các tay súng Pháp bắn không nổ, ta có thể tính được mức hiệu quả của mỗi lính xạ thủ này là khoảng 23-24%.
    Tại trận Fontenoy (1745), năm tiểu đoàn Anh với tổng số 2500 lính, đã mất hơn vài trăm người dưới hoả lực của pháp binh Pháp, đã tạo một vòng phát hoả (volley) ở cự ly 30 yard chống lại một đợt tấn công của 5 tiểu đoàn Pháp. Vòng phát hoả của quân Anh đã hạ hơn 600 lính Pháp. Điều này có nghĩa là các xạ thủ Anh đã bắn với tỷ lệ hiệu quả khoảng 25 %.
  5. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0

    Hiệu quả xạ kích trong chiến trận
    Tại trận Bleheim (1704), quân Anh với 5 tiểu đoàn tấn công quân Pháp cố thủ tại các vị trí dọc theo trận tuyến dài khoảng 750 yard. Quân Pháp có khoảng 4000 tay súng triển khai dọc theo chiều dài 900 yard. Quân Pháp bắn mở đầu tại cựly 30 yard với chỉ một vòng phát hoả (volley) tàn phá đã gây ra 30 % tổn thất cho lực lượng tấn công của Anh. Tức là khoảng 800 lính bị loại khỏi vòng chiến. Tuy nhiên chỉ 20% các đợt bắn của phía quân Pháp có hiệu quả. Nếu ta tính rằng 15 % các tay súng Pháp bắn không nổ, ta có thể tính được mức hiệu quả của mỗi lính xạ thủ này là khoảng 23-24%.
    Tại trận Fontenoy (1745), năm tiểu đoàn Anh với tổng số 2500 lính, đã mất hơn vài trăm người dưới hoả lực của pháp binh Pháp, đã tạo một vòng phát hoả (volley) ở cự ly 30 yard chống lại một đợt tấn công của 5 tiểu đoàn Pháp. Vòng phát hoả của quân Anh đã hạ hơn 600 lính Pháp. Điều này có nghĩa là các xạ thủ Anh đã bắn với tỷ lệ hiệu quả khoảng 25 %.
  6. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Đạn và súng Pinfire
    Casimir Lefaucheux phát minh ra loại đạn pinfire vào khoảng năm 1828 và đưa ra đăng ký bản quyền vào cuối năm 1835 ở Paris. Mặc dù đã được triển lãm tại cuộc triển lãm lớn năm 1951 tại Luân đôn, chỉ cómột chút quan tâm được khuấy động tại Anh quốc. Con trai của ông đã phát triển khá nhiều và lấy được bằng sáng chế tại Anh vào năm 1854.
    Sau khi Lefaucheux qua đời năm 1852 con trai ông là Eugene đã thành công lớn trong kinh doanh với loại súng ổ quay quân sự cho quân đội Pháp, Tây Ban Nha, Dan mạch, Ý, Thuỵ sỹ, Thuỵ điển và Nauy, và được quân đội liên bang sử dụng trong nội chiến Mỹ.
    Đạn pinfire cấu tạo gồm một ống trụ bằng đồng được hàn kín ở phía đuôi. Ở một chỗ hàn, một cái chốt nhỏ xuyên ngang qua thân vỏ mà phần cuối của nó được đặt vào một hạt nổ. Một miếng mỏng hoặc một khung dây sẽ giữ hạt nổ đúng vị trí. Ống trụ được nhồi đầy thuốc đạn và được đậy chặt bằng một đầu đạn.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Khẩu Lefaucheux năm 1854 :
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Khẩu Kirschbaum :
    [​IMG]
    Khẩu Spangenberg :
    [​IMG]
    Khẩu Solingen :
    [​IMG]
    Một khẩu hai nòng :
    [​IMG]
    Được thoky sửa chữa / chuyển vào 15:39 ngày 11/11/2004
  7. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Đạn và súng Pinfire
    Casimir Lefaucheux phát minh ra loại đạn pinfire vào khoảng năm 1828 và đưa ra đăng ký bản quyền vào cuối năm 1835 ở Paris. Mặc dù đã được triển lãm tại cuộc triển lãm lớn năm 1951 tại Luân đôn, chỉ cómột chút quan tâm được khuấy động tại Anh quốc. Con trai của ông đã phát triển khá nhiều và lấy được bằng sáng chế tại Anh vào năm 1854.
    Sau khi Lefaucheux qua đời năm 1852 con trai ông là Eugene đã thành công lớn trong kinh doanh với loại súng ổ quay quân sự cho quân đội Pháp, Tây Ban Nha, Dan mạch, Ý, Thuỵ sỹ, Thuỵ điển và Nauy, và được quân đội liên bang sử dụng trong nội chiến Mỹ.
    Đạn pinfire cấu tạo gồm một ống trụ bằng đồng được hàn kín ở phía đuôi. Ở một chỗ hàn, một cái chốt nhỏ xuyên ngang qua thân vỏ mà phần cuối của nó được đặt vào một hạt nổ. Một miếng mỏng hoặc một khung dây sẽ giữ hạt nổ đúng vị trí. Ống trụ được nhồi đầy thuốc đạn và được đậy chặt bằng một đầu đạn.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Khẩu Lefaucheux năm 1854 :
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Khẩu Kirschbaum :
    [​IMG]
    Khẩu Spangenberg :
    [​IMG]
    Khẩu Solingen :
    [​IMG]
    Một khẩu hai nòng :
    [​IMG]
    Được thoky sửa chữa / chuyển vào 15:39 ngày 11/11/2004
  8. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Can guns
    Can gun rất phổ biến ở Mỹ từ giữa năm 1850. Chúng được dùng để bảo vệ cũng như là một công cụ rất tốt cho những người đi bộ để chống. Không vì mục đích trở thành một loại vũ khí ghê gớm lắm, can gun bảo vệ chủ nhân của chúng chống lại chó dữ và cả những tên côn đồ nữa.
    [​IMG]
    Eliphalet Remington, người sáng lập ra công ty E. Remington & Sons, đã tìm kiếm những sản phẩm cho thị trường dân sự, và ông ta đã tìm đến can gun do John F. Thomas , một nhân công trong nhà máy của ông ta - một người trước đó đã từng là người chế tạo súng ở Ilinoi, thiết kế ra. Ngày 9 tháng 2 năm 1858, Thomas, người sau đó đã trở thành một thợ cả của E. Remington & Sons Armory, đã được cấp bằng sáng chế U.S. Patent #19,328 cho khẩu percussion can gun .Thomas chuyển một nửa sáng chế của mình cho
    Samuel Remington tháng 7 năm 1859, và việc sản xuất được tin tưởng để bắt đầu luôn cùng năm đó.
    [​IMG]
    Ban đầu, chỉ có percussion cane guns .31 caliber được Remington sản xuất và bán ra. Mã số của gun canes bắt đầu từ 1 đến trên 278. Nòng súng bằng thép, có rãnh xoáy nằm bên trong lòng cái can đo được khoảng 9 inch. Sau đó, viên đạn sẽ đi qua một đoạn ống đồng rồi đi ra ngoài miệng súng được dùng để chống khi đi bộ.
    Remington (Thomas Patent) cane guns được sản xuất theo một loạt các kiểu tay cầm : hình quả cầu, hình đầu chó với 2 cỡ, cong đều, cong với một đoạn phẳng, hình chữ L. Cán tay cầm được bọc bằng cao su cứng gutta-percha (một loại vật liệu rất dễ vỡ) hoặc cao su lưu hoá. Năm 1870 đã xuất xưởng loại có tay cầm bằng ngà voi.
    Cuối năm 1860, can gun của Remington được thiết kế cho loại đạn rimfire cỡ 0.22 (được gọi là Remington No. 1 Rifle Cane) và cỡ 0.32 (được gọi là Remington No. 2 Rifle Cane). can gun của Remington ban đầu được chế tạo với búa gõ bên trong, nhưng sau đó đã được cải tiến bằng một thanh cứng kích hoạt vào kim kích nổ.
    Mã số của loại can gun dùng đạn rimfire bắt đầu từ 1 đến trên 1748. Việc sản xuất tạm ngừng vào năm 1886, khi mà công ty gặp khó khăn. Sau đó đến năm 1888, với người điều hành công ty mới, không có lý do gì cho việc tiếp tục sản xuất loại sản phẩm này. Trong khoảng 27 năm, khoảng gần 2000 sản phẩm đã được sản xuất ra.
    [​IMG]
  9. thoky

    thoky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2003
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    0
    Can guns
    Can gun rất phổ biến ở Mỹ từ giữa năm 1850. Chúng được dùng để bảo vệ cũng như là một công cụ rất tốt cho những người đi bộ để chống. Không vì mục đích trở thành một loại vũ khí ghê gớm lắm, can gun bảo vệ chủ nhân của chúng chống lại chó dữ và cả những tên côn đồ nữa.
    [​IMG]
    Eliphalet Remington, người sáng lập ra công ty E. Remington & Sons, đã tìm kiếm những sản phẩm cho thị trường dân sự, và ông ta đã tìm đến can gun do John F. Thomas , một nhân công trong nhà máy của ông ta - một người trước đó đã từng là người chế tạo súng ở Ilinoi, thiết kế ra. Ngày 9 tháng 2 năm 1858, Thomas, người sau đó đã trở thành một thợ cả của E. Remington & Sons Armory, đã được cấp bằng sáng chế U.S. Patent #19,328 cho khẩu percussion can gun .Thomas chuyển một nửa sáng chế của mình cho
    Samuel Remington tháng 7 năm 1859, và việc sản xuất được tin tưởng để bắt đầu luôn cùng năm đó.
    [​IMG]
    Ban đầu, chỉ có percussion cane guns .31 caliber được Remington sản xuất và bán ra. Mã số của gun canes bắt đầu từ 1 đến trên 278. Nòng súng bằng thép, có rãnh xoáy nằm bên trong lòng cái can đo được khoảng 9 inch. Sau đó, viên đạn sẽ đi qua một đoạn ống đồng rồi đi ra ngoài miệng súng được dùng để chống khi đi bộ.
    Remington (Thomas Patent) cane guns được sản xuất theo một loạt các kiểu tay cầm : hình quả cầu, hình đầu chó với 2 cỡ, cong đều, cong với một đoạn phẳng, hình chữ L. Cán tay cầm được bọc bằng cao su cứng gutta-percha (một loại vật liệu rất dễ vỡ) hoặc cao su lưu hoá. Năm 1870 đã xuất xưởng loại có tay cầm bằng ngà voi.
    Cuối năm 1860, can gun của Remington được thiết kế cho loại đạn rimfire cỡ 0.22 (được gọi là Remington No. 1 Rifle Cane) và cỡ 0.32 (được gọi là Remington No. 2 Rifle Cane). can gun của Remington ban đầu được chế tạo với búa gõ bên trong, nhưng sau đó đã được cải tiến bằng một thanh cứng kích hoạt vào kim kích nổ.
    Mã số của loại can gun dùng đạn rimfire bắt đầu từ 1 đến trên 1748. Việc sản xuất tạm ngừng vào năm 1886, khi mà công ty gặp khó khăn. Sau đó đến năm 1888, với người điều hành công ty mới, không có lý do gì cho việc tiếp tục sản xuất loại sản phẩm này. Trong khoảng 27 năm, khoảng gần 2000 sản phẩm đã được sản xuất ra.
    [​IMG]
  10. amicecorp

    amicecorp Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    26/02/2002
    Bài viết:
    393
    Đã được thích:
    0

    Địa chỉ cho các bác muốn tham khảo :
    http://www.gunsworld.com/

Chia sẻ trang này