1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Sưu Tầm Võ Bình Định

Chủ đề trong 'Võ thuật' bởi vobinhdinh, 10/12/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vota

    vota Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/03/2002
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    0
    Chu'' vobinhdinh .. .
    chu'' bo? ba`i thie^.u ta^`m ba^.y cu?a VoViNam le^n đa^y la`m gi` ro^`i đo^.i cho no'' cai'' te^n cu?a ngo.c tra?n quye^`n nu*~a .
    Nhie^`u ngu*o*`i pha.m ca''i sai la^`m, muo^''n su*?a chu*?a lo*`i thie^.u ma` kho^ng bie^''t ca(n ba?n hoa(c go^''c ga''c ba`i thie^.u . Ne^n bay gio*` Vie^.t Nam co'' ra^''t nhie^`u ba`i Ngoc. Tra?n tu`m ba^.y tu`m ba. . Hie^.n gio*` Cuo^''n binh thu* cu?a truye^`n nguye^~n va^~n co`n đo'' , Lo*`i thie^.u cua? mo^.c thie^''u tha?o cu~ng co`n đo'' . :) Lo chi ma` fai? su*a? chu*a? tu`m lum . Đu*`ng ne^n tin tu*o*?ng cuo^`ng ti''n qua'' ro^`i tro*? tha`nh mo^.t co^ng cu. cho nhu*~ng ke? muo^''n pha'' hoa.i va(n hoa'' Vie^.t .
    Võ Ta
  2. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Lời lẽ của bác Vota tuy hơi quá khích nhưng cũng thể hiện được một phần nào của sự thực. Sự thực này thì chúng ta hãy lắng nghe bác MinhTrinh (một võ sư của Vovinam) trình bày.
    Với tư cách là một người học võ Bình Định. Tôi thấy việc tán tụng bài Ngọc Trản (Có nơi gọi là Ngọc Trảng theo âm Bình Định) lấy theo tên giếng mà Trọng Thuỷ nhảy xuống tự tử là hơi quá đáng và không có cơ sở lịch sử vững chắc.
    Phần hệ thống bài bản của Sa Long Cương có bài Đồ Long Đao theo như giải thích của bác là một bài kiếm của Võ sư Phi Sơn Hải. Võ sư Phi Sơn Hải là ai? Có liên hệ gì với Cố võ sư Trương Thanh Đăng? Học trò hay là thầy? Tại sao Cố võ sư Trương Thanh Đăng lại đưa bài của Phi Sơn Hải vào chương trình tập luyện trong khi chính hệ thống bài bản Bình Định và Thiếu Lâm của Võ sư Trương Thanh Đăng đã quá nhiều rồi, hiện nay các võ sư thế hệ sau này muốn giảm nhẹ bớt giáo trình còn chưa được.
    Tôi xin sửa tên bài Long Hổ Quyền (tên một bài quyền của môn phái Vovinam) thành Thế Long Hổ Hội. Đây chính là một sai lầm trong quá khứ của các võ sư tiền bối của Vovinam mà hiện nay các võ sư Vovinam lại tiếp tục vấp phải theo như lờicủa bác MinhTrinh. Xin nói thêm, sau khi gặp "sự cố" này Cố võ sư Trương Thanh Đăng đã cho đăng cáo thị loại bỏ Thế Long Hổ Hội ra khỏi giáo trình của Võ đường Sa Long Cương, chỉ truyền dạy cho võ sinh cao cấp. Nếu các bác chịu khó xem biểu diễn, sẽ thấy hai bài Long Hổ Quyền (Của Vovinam) và thế Long Hổ Hội (của Võ đường Sa Long Cương), đoạn đầu rất giống nhau. Dĩ nhiên, thông tin này tôi chỉ nghe về một phía nên có thể có sai lầm. Rất mong các bác chỉ giáo.
  3. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Hồi trước ông Võ Ta posted bài trong vietsontrang.com nói rất rõ là Ngọc Trản là tên cái giếng Trọng Thủy tự tử mà, còn mấy ông thầy "thương mại" ở SG đặt bậy là Chén Ngọc mà thôi . Võ Ta giải thích dùm cho chú cuong này luôn đi, tui chán wá không muốn tốn hơi vô ích .
    Còn ông nói đây là lời thiệu tầm bậy của vovinam thì bậy rồi . Đây không phải là version của Vovinam . VN có rất nhiều version cho mỗi bài thiệu, khó biết cái nào mới là đúng hoàn toàn . Nếu ông biết cái nào đúng hoàn toàn, bản chính gốc, thì làm ơn post lên mạng, 1 khi người ta thấy bản chính rồi thì người ta ko post version sai lạc nữa. Ông ko chịu làm gì hết mà tối ngày la ầm ỉ, như vậy mới chính là gián tiếp phá hoại văn hóa Việt .
    Theo tôi, thà phổ biến sai một chút còn hơn không phổ biến gì hết, thiên hạ hiểu sai vài bài thiệu, vài dòng võ là chuyện nhỏ . Còn nếu họ nghĩ võ Việt là xuất phát từ võ Tàu, võ Nhật, và ai nấy cũng chỉ biết đến WingChun, Wushu, BaGuaiZhang, Taekwondo, Judo, Aikido và cứ tưởng những môn võ đó mới là xếp sòng... thì là chuyện lớn đó . Cũng như ông thà bị quáng gà còn hơn bị đui mà phải không.
  4. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Thần Đồng Quyền (bài ngắn của Bình Định Sa Long Cương) , bài quyền này sư trưởng Trương Thanh Đăng học từ gia đình ông Đinh Cát tỉnh Bình Định .
    Thủ Bái Thần Đồng
    Ngư Ông Trì Thế, Xổ Bộ Suy Phong
    Hoành Khai Tả Tọa Thái Công
    Phát Hồi Địa Hổ
    Đả Song Phi Chích Phụng Đơn Hành
    Đản Tả Đả Tả, Đản Hữu Đả Hữu
    Phi Nhất Bộ Thần Đồng Chấp Thủ
    Lưỡng Biên Lập Như Tiền
    Thái Sơn Côn
    Thái Sơn Chích Thủy Địa Xà Liên
    Thượng Bổng Kỳ Lân Thối Bạch Viên
    Quy Kỳ Độc Giác Trung Bình Hạ
    Thượng Thích Đài Đăng Tấn Thừa Thiên
    Hồi Đầu Trực Chỉ Liên Tam Thích
    Đồng Tân Thuận Thế Phá Vân Biên
    Tẩu Thố Trưng Sơn Hoành Phá Kiếm
    Linh Miêu Mai Phục Tấn Thích Ngưu
    Thừa Châu Bố Địa Loan Côn Thích
    Hồi Tiểu Kim Kê Đả Trung Lan
    Phi Phong Sậu Vũ Ngưu Khai Giác
    Tiểu Tử Tam Phiền Giá Mã An
    Hồi Đầu Bái *****
    Nôm
    Tay cầm roi đản khai trương
    Vọng tiền bái tổ là đường xưa nay
    Diện tiền thế ấy rất hay
    Thái sơn trích thủy, côn này đổ nghiêng
    Ðại xa phục thổ chẳng hiền
    Rồng thần phản ứng ngựa liền cao bay
    Hoành roi một bước lướt vào
    Phất cờ sừng chỉa trực giao diện tiền
    Côn trùng tấn thích thanh thiên
    Hồi đầu trực chỉ diện tiền tam giao
    Đồng tân xuất thế anh hào
    Giang biên phá trận xông vào tiền môn
    Núi Trưng thỏ chạy dập dồn
    Phục châu xuống đất vươn côn tảo trừ
    Mèo thần núp dưới bóng người
    Chờ trân vùng dậy ngựa chuồi tới đâm
    Thừa châu côn nọ tay cầm
    Biến thiên bố địa mà đâm diện tiền
    Lui về giữ thế trung kiên
    Ðề côn đả kích phá yên trận đồ
    Gió rung lá rung ồ ồ
    Sừng trâu mở rộng côn đồ chiến chinh
    Chiếc thuyền giữa biển linh đinh
    Mã yên tiểu tử ba lần thành công .
  5. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Lời thiệu của bài thảo Thiền Sư:
    Lược Địa Đồ Thành
    Kim Ngưu Chiếu Giốc
    Hồng Điệp Dẫn Thân
    Lão Tổ Dương Tân
    Thiền Sư Tống Khách
    Tiên Ông Tọa Thạch
    Đồng Tử Đăng Sơn
    Tấn Đả Song Quyền
    Thối Khai Lưỡng Thủ
    Trung Thiên Lập Trụ
    Hạ Địa Tầm Châu
    Đảo Thế Hắc Hầu
    Tùy Cơ Bạch Hổ
    Tung Hoành Ngũ Lộ
    Tấn Bạt Tam Quan
    Bạch Hạc Tầm Giang
    Kim Kê Độc Lập
    Bái Tổ Lập Như Tiền
  6. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Võ Bình Định có 10 phách roi căn bản: Bát, Bắt, Triệt, Chặn, Hoành, Khắc, Lắc, Tém, Đâm, Đánh.
    Bát: Trừ đánh bổ của địch
    Bắt: Trừ đâm từ nửa thân trên
    Triệt: Trừ thế đánh vắt ngang
    Chận: Trừ thế đánh phất
    Hoành: Hoành trái, phải để dễ bề xâm nhập tấn công
    Khắc: Khắc đầu roi địch thủ để phá thế tấn công
    Lắc: Trừ và né thế đâm thẳng từ thắt lưng trở lên
    Tém: Tém gạt đầu roi các thế đâm của đối thủ
    Đâm: Chọt, đâm, thọc tới
    Đánh: Các lối đập, quất, bổ
    10 phách roi cơ bản được chia làm 3 nhóm để tập:
    Nhóm 1: Đâm Bắt Lắc Đánh
    Nhóm 2: Bắt Bát Triệt Chận
    Nhóm 3: Hoành Khắc Lắc Tém
    Roi được chia ra làm ba loại: Roi Chiến, Roi Trận và Roi Đấu .
    Roi chiến: Có tác dụng sát phạt và gây trọng thương cao .
    Roi trận: Có 2 loại, một là loại roi cá nhân theo sự tưởng tượng và hình dung một đấu mười, ít đấu đông, roi múa liên miên bất tuyệt, tả xung hữu đột, đánh ra tứ phía . Loại kia là lối đánh roi tập thể, theo trận pháp .
    Roi đấu: Roi này được sử dụng cho các cuộc thi võ, đầu roi được bịt vải để tránh trọng thương .
  7. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Bạn vobinhdinh thân mến,
    Đọc các tiêu đề của bạn, tôi ngỡ rằng gặp được một người bạn đồng môn để cùng chia xẻ những nỗi niềm về một môn võ mà cả chúng ta cùng yêu thích. Không ngờ những câu hỏi của tôi lại bị bạn cho rằng là sự phá quấy tiến trình phát biểu của bạn trên diễn đàn. Điều này làm tôi rất .
    Tôi chỉ thấy những giả thuyết của bạn đưa ra chưa đủ cơ sở để tin. Sự nghi ngờ của tôi có cơ sở của nó. Tại sao chúng ta không thảo luận bình đẳng với nhau mà lại phải la hét lên ầm ĩ như vậy. Tôi chỉ bác bỏ những luận thuyết (mà chủ yếu là bạn sưu tầm trên sách vở) để chỉ ra những mâu thuẫn thôi chứ tôi đâu có động chạm gì đến con người của bạn.
    Nếu bạn cho rằng tôi không đủ tư cách để nói chuyện võ ta với bạn thì tôi phải đành nói một chút về "cái tôi đáng ghét" này vậy:
    Tôi đã học võ Bình Định từ năm 1985 đến năm 1995, tuy tôi không có năng khiếu lắm về võ thuật nhưng niềm say mê và máu tự hào dân tộc đã làm cho những bài quyền Ngọc Trản, Tứ Hải, Lão Mai, Thần Đồng, Thiền Sư, Phượng Hoàng... cùng với những câu thiệu đã ngấm vào máu thịt tôi từ lúc nào không biết.
    Những "khảo dị" trong các câu thiệu và cách đi bài không phải là tôi không biết. Vả lại cũng có những thuật ngữ chuyên môn của những vị thầy khác nhau cũng rất khác nhau (chẳng hạn tôi chưa hề biết đến những "đâm", "xả", "kiền", "lòn", "bức" mà bạn đã nói). Mỗi khi đọc sách hoặc khi học, đôi khi thấy điều gì chưa tin tưởng thì tôi có quyền nghi ngờ. Như có người gọi Chảo Mã Tấn là Trảo Mã Tấn (Ngựa làm gì có Trảo). Hoặc gán ghép cho đòn đá Thăng Long Cước là tên của Thủ đô Hà Nội. Những điều bạn post lên có một số điều mới, tôi tôi rất thích thú. Nhưng có một số hơi khiên cưỡng (tôi biết là do bạn sưu tập được).Tại sao khi tôi đặt ra nghi vấn bạn không ngừng lại để thảo luận với nhau mà cứ hùng hục post bài (của người khác) lên. Buồn quá!
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 21:39 ngày 19/12/2003
  8. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Tại vì tôi không thích lối nói chuyện bất lịch sự của ông .
  9. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Tây Sơn - Bình Ðịnh
    Tây Sơn - Bình Ðịnh là một địa danh võ thuật. Nơi đây cũng là nơi phát tích của nhà Tây Sơn mà lịch sử đã ghi dấu ấn những chiến công hiển hách của Hoàng đế Quang Trung với một đội quân được luyện tập nhuần nhuyễn về võ thuật. Câu ca dao đầy khí phách của đất Bình Ðịnh vẫn còn lưu truyền, cho thấy võ Tây Sơn - Bình Ðịnh mang dáng dấp của võ cổ truyền dân tộc.
    Ai vô Bình Ðịnh mà coi
    Con gái Bình Ðịnh múa roi đi quyền.
    Phát tích của võ thuật
    Võ thuật là bản năng sinh tồn của nhân loại. Lúc đầu lập quốc, tổ tiên ta đã phải chống chọi với biết bao sự vật đổi sao dời của thiên nhiên, cùng nguy hiểm do bầy ác thú gây ra. Có một rẻo đồng bằng ven biển chật hẹp, ba bề núi chắn, con người dân không lúc nào không dùng võ thuật chiến đấu với ác thú, với ngoại xâm để sinh tồn. Như vậy, gọi võ thuật là bản năng, là lợi khí sinh tồn của nhân loại không phải là không đúng! Ba anh em nhà Tây Sơn thời đó được gửi học võ tại võ đường của một bậc trượng phu - võ sư Trương Văn Hiến. Ông dạy cả văn lẫn võ. Người đến xin học văn thì bắt buộc phải học thêm võ. Người đến xin học võ thì bắt buộc phải học thêm văn. Văn võ phải nương nhau thì đạo làm người mới giữ được vững. Vị sư phụ họ Trương dẫn dắt trai tráng đến đất võ bằng đường văn! Trong dân gian, từng gia đình có sự truyền thụ rất công phu để cháu con lên rừng, ra rẫy không e ngại muông thú, có việc đi đường xa không sợ đạo tặc. Giỏi võ trước hết là để giữ mình, để làm người trượng phu, không làm kẻ giặc bạo tàn! Do đó, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là những quy pháp trong võ thuật. Võ Bình Ðịnh ra đời rất sớm, quy tụ những võ sư tài giỏi mọi miền về đây và hình thành các môn phái, sáng tạo những bài quyền, bài kiếm, bài roi độc đáo... Những làng võ một thời như Thuận Truyền, An Thái, An Nghi, Bình Nghi của đất Tuy Viễn, Bình Khê; những bậc thầy như võ sư Hồ Ngạnh, Hà Trọng Sơn... đã rèn luyện nên nhiều thế hệ học trò hiện vẫn kế tục và phát triển võ nghiệp. Ngày nay nếu về thăm Tây Sơn gặp cụ Phan Thọ tuổi ngoại 70 và có dịp xem cụ biểu diễn bài "Trường đao hiệp nghĩa" mới cảm nhận được phút giây như sóng dâng bão cuốn, gió mây vần vũ mà bài võ thể hiện!
    Ðặc điểm của võ Tây Sơn
    Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã tiếp thu tinh hoa độc đáo của các dòng võ khác nhau để xây dựng dòng võ Tây Sơn với những đặc điểm riêng.
    Tính dân tộc: Trong các chiến công của Hoàng đế Quang Trung, người ta nhận thấy võ thuật và binh pháp giữ vai trò rất quan trọng. Các đòn thế võ Tây Sơn rất hiểm hóc. Ra đòn nhanh, biến hoá khôn lường, lấy thủ làm công, lấy công giữ thủ song toàn, hư thật bất phân, khéo léo trăm bề, tư thế nghìn nẻo, làm cho đối phương rất khó chống đỡ. Ông Nguyễn Lữ, em Nguyễn Huệ, đã làm cho võ thuật Việt Nam trở thành một trường phái độc đáo không kém võ Trung Quốc. Người Việt ta có thân hình bé nhỏ, sức khoẻ hạn chế so với người Tàu. Võ Trung Quốc phải luyện từ 10 năm trở lên. Muốn cho các chiến sĩ Tây Sơn tinh thông võ nghệ trong một thời gian ngắn thì phải luyện theo cách khác. Nguyễn Lữ nghiên cứu các thế gà đá nhau áp dụng vào võ thuật, từ đó rút ra lối võ dùng yếu thắng mạnh, dùng mềm thắng cứng. Ông cũng nghiên cứu các thế đá ào ạt tấn công của con gà lớn với cái thế chống đỡ của con gà nhỏ thường chui luồn, xỏ vỉa, từ đó tạo ra các thế lặn hụp, tránh né, đến phản công. Cuối cùng ông đã sáng tạo ra bài quyền mang tên "Hùng Kê Quyền". Nữ tướng Bùi Thị Xuân khi quan sát đôi chim đậu trên cành cây đùa nhau cũng sáng tác bài "Song Phượng Kiếm".
    Tính truyền thống: Trước đây người dân Bình Ðịnh đều biết võ để tự vệ. Họ truyền cho nhau trong thôn xóm, bản làng. Với người thân thì cha truyền cho con, chồng truyền cho vợ, anh truyền cho em... Nhờ đó, những bài võ từ thời xa xưa vẫn được lưu truyền. Võ Bình Ðịnh đã có nhiều môn phái khác nhau, nhưng tựu trung vẫn giữ truyền thống của miền đất võ. Cách đây hơn sáu năm, đoàn võ thuật Bình Ðịnh gồm Kim Dũng, Ðình Tuấn, Văn Cảnh... nhiều lần sang Pháp giảng dạy theo lời mời của Liên đoàn Võ thuật Paris, Marseille, Orion và nhiều địa phương khác, đã để lại niềm tự hào cho những người đồng hương sống trên đất khách quê người. Các nữ võ sĩ thuộc Câu lạc bộ Võ thuật Paris rất thích thú, thán phục bài thảo "Ngọc trản" đầy biến hoá, mềm mại như điệu múa khi sử dụng nhu công và hài hoà như một bức tranh khi cương nhu phối hợp. Bài thảo được trình diễn một cách hoàn hảo về nghệ thuật, về sức mạnh, thể hiện nét đẹp vốn có của võ Tây Sơn - Bình Ðịnh. Phương pháp truyền dạy vẫn giữ võ đạo xưa. Những điều nên làm, nên tránh đối với các môn sinh vẫn giữ nguyên và ba điều tâm niệm chính là: Kính tổ - Trọng thầy - Mến bạn.
    Tính đa dạng và liên hoàn: Võ Tây Sơn - Bình Ðịnh rất đa dạng và phong phú. Bất cứ môn phái nào cũng theo bí quyết quyền thuật, một sức mạnh tổng hợp, dung hoà trên, dưới, trái, phải, trước, sau. Phép dùng liên quan với nhau của lực họp chia ra nội tam hợp - ba cái hiệp lại ở bên trong là tinh, khí, thần. Ngoại tam hợp - ba cái hiệp lại ở bên ngoài là thủ, nhãn, thân. Trong ngoài hợp với nhau đó là lục hợp. Có được như vậy mới đủ khả năng thắng địch thủ. Tính liên hoàn rõ nét trong việc sử dụng 18 ban binh khí, chia ra 9 loại võ khí dài và 9 loại võ khí ngắn. Dù bất cứ loại võ khí nào cũng đều không ra ngoài 6 điểm: chém xuống, chém ngang, hất lên, gạt xuống, lướt qua và đè. Từ khi nhà Tây Sơn sập đổ, Nguyễn Gia Long vẫn sợ "oai hùm" nên cấm ngặt toàn bộ 18 ban binh khí của quân đội Tây Sơn - những vũ khí lợi hại làm nên sự bách chiến bách thắng của Hoàng đế Quang Trung ở thế kỷ 18. Mãi đến khi Bảo tàng Quang Trung được thành lập năm 1979 mới thu gom được 9 môn. Hiện nay các võ sinh ở Bảo tàng Quang Trung thường biểu diễn khi khách trong và ngoài nước đến tham quan.
    Sự liên quan giữa võ Tây Sơn và võ Bình Ðịnh
    Trước thời Tây Sơn, ở Bình Ðịnh đã có nhiều người giỏi võ. Những người này có thể là tướng sĩ theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá lập nghiệp, cũng có thể là những người Trung Quốc sang Việt Nam trú ngụ tại vùng Qui Nhơn. Người Bình Ðịnh vốn ưa học võ, đã học thầy, học bạn, rồi dung hoà cải tiến dần. Theo ***** Ngạnh, ba anh em Tây Sơn cũng học võ như mọi người, nhưng nhờ óc phán đoán, thiên tư võ thuật, nghiên cứu tinh thâm, đã gạn lọc được những tinh hoa võ thuật, hệ thống lại và tạo thành phái võ riêng. Công trình này cũng có sự đóng góp của nhiều tướng lĩnh Tây Sơn. Sau đó, võ Tây Sơn được phổ biến hạn chế trong quân đội. Những người này nắm được một số chân truyền của môn phái rồi truyền dạy lại cho con cháu, học trò. Lại pha trộn thêm võ Bình Ðịnh, hoặc cải cách ít nhiều để tránh sự nhòm ngó của triều Nguyễn. Cũng theo ***** Ngạnh, võ Tây Sơn, võ Bình Ðịnh đều là võ dân tộc Việt Nam. Môn phái nào cũng hay. Tuy nhiên có vài đặc điểm khác nhau là võ Tây Sơn có cơ sở về võ lý được biến đổi qua các dòng họ, được chân truyền của môn phái; còn võ Bình Ðịnh được truyền dạy tương đối tùy tiện, thêm bớt, sửa đổi những điều mình đã học để dạy lại cho học trò. Lâu dần, võ Bình Ðịnh chuyên về cương công - công phu cứng rắn, xa dần nhu công - công phu mềm dẻo. Võ Bình Ðịnh thích hợp với người có thể chất khoẻ mạnh, nên mới có câu "Võ dĩ dũng vi bán" - võ lấy sức mạnh làm một nửa, những người ốm yếu khó học được. Ngược lại, võ Tây Sơn chú trọng cả cương lẫn nhu. Càng luyện tập, võ sĩ thuộc phái Tây Sơn càng mềm dẻo, nhưng càng lợi hại. Võ Bình Ðịnh chuyên về ngoại công - công phu luyện tập bằng chân tay, võ khí, ít chú trọng về nội công, hít thở, vận khí như võ Tây Sơn.
    (Sưu Tầm)
  10. vobinhdinh

    vobinhdinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/12/2003
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Con Gái Bình Định
    Giáo sư Đào Đức Chương
    Phụ nữ ở Bình Định được học võ đến nơi đến chốn để trở thành bậc cao thủ, đem tài võ nghệ làm nên lịch sử như nữ tướng Bùi Thị Xuân người đất Tây Sơn cũ, quán làng Xuân Hòa xã Bình Phú quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn) thì xưa nay chưa có người thứ hai. Nhưng con gái Bình Định được cha mẹ cho học võ phòng thân, nhất là trước năm 1945, thì hầu như cô gái nào cũng biết qua hai môn võ căn bản:
    Ai về Bình Định mà coi,
    Con gái Bình Định múa roi, đi quyền
    (Ca dao)
    Tuy nhiên, đôi lúc cũng có những cô gái học võ không chỉ để phòng thân mà muốn phát huy cái đẹp của võ truyền thống như trường hợp Thanh Tùng, hoặc còn đi xa hơn, thi thố với đời, trở thành cao thủ trong làng võ. Điển hình có bà Mân sống vào thời chúa Nguyễn, cô Quyền vào giữa thế kỷ 19 và sang đầu thế kỷ 20 lại có Tám Cảng.
    Bà Mân chưa phải là nhân vật lịch sử nhưng với tài võ nghệ, bà được dân Bình Định ca tụng qua bài vè Chú Lía dài 1434 câu thơ lục bát và được lưu truyền khắp các tỉnh miền Nam Trung phần.
    Theo bài vè, bà Mân ở gần vùng Truông Mây, nơi sào huyệt của một đảng cướp lớn do cha Hồ chú Nhẫn và sau có thêm chú Lía cầm đầu, nay thuộc xã Ân Đức huyện Hoài Nhơn. Một hôm hai tên Hồ, Nhẫn đem cả lực lượng hùng hậu đến bắt heo nhà bà, cả làng khiếp sợ không ai dám tiếp cứu:
    Lân la bốn chục theo rày
    Thẳng đường xuống xóm chật đầy đường quan
    Trong tay bà chỉ có cây roi ngắn nhưng với lòng can đảm và tự tin, bà xông ra cự địch với một đảng cướp mạnh khét tiếng trong vùng:
    Mụ Mân độ khoảng bốn hai
    Làu thông võ nghệ ít ai sánh bì
    Thình lình chưa biết việc chi
    Tiện tay mụ với tức thì đoản côn
    Bước ra thấy rõ thiệt hơn
    Mụ không thèm hỏi huơ côn đánh liền.
    Ai cũng tưởng phen này bà Mân bị nát thây vì hai tên Hồ, Nhẫn không những võ nghệ phi thường mà còn hung bạo chưa từng có. Nhưng không may cho chúng, thế võ của bà sâu hiểm vô cùng, áp đảo được ngay đối thủ:
    Cả ba vùng vẫy đua tranh
    Mụ Mân quả thực liệt oanh ai tày
    Chỉ mới so tài ở hiệp đầu mà bọn cướp đã bị ngọn roi thần của bà cuốn người như bão táp, chúng phải đổi từ thế công sang thế thủ rồi tìm đường tháo lui:
    Phút thôi Hồ, Nhẫn cả hai
    Đuối tay kéo chạy như bay khác nào!
    Thân đàn bà mà đánh đuổi bọn cướp đông đảo để bảo vệ tài sản là điều hiếm có. Nhưng cũng tại huyện Hoài Nhơn còn một cô gái khác, trong tay chỉ có con dao mà hai lần đánh thắng cọp để cứu mẹ, mới là chuyện phi thường.
    Trần Thị Quyền, cái tên do cha mẹ đặt gắn liền với võ nghệ, âu đó là cái nghiệp tiền định làm nên kỳ tích mà chính cô cũng không ngờ được. Nhà nghèo, cha mất sớm, không có anh em, cô là người duy nhứt sớm hôm với người mẹ. Cô có nhan sắc, nhiều người đến xin cưới nhưng nhất mực từ chối để làm tròn chữ hiếu.
    Thường ngày hai mẹ con vào núi chặt củi đem ra chợ bán kiếm tiền nuôi thân. Một hôm cô Quyền đang chặt cây để cho mẹ gom thành bó, bỗng có một con cọp nhảy ra vồ người mẹ, bà phải lăn người mới kịp né tránh. Cô Quyền đang cầm cái rựa, thấy thế vội xông đến cứu mẹ. Nhờ có võ nghệ và bình tĩnh, cô tránh được tầm nanh vuốt của mãnh thú và chém trả lại nhiều nhát chính xác, cọp đau quá đành bỏ chạy.
    Câu chuyện đánh cọp tưởng đã lãng quên theo năm tháng, không ngờ cọp luôn luôn rình rập quyết báo thù. Một đêm bà mẹ có việc phải ra sân, như có linh tính, cô Quyền cầm dao theo mẹ phòng thú dữ.
    Thình lình cọp nhảy bổ ra vồ hai mẹ con, cô vội kéo mẹ dạt sang một bên để tránh rồi dùng dao chống trả. Cọp được lợi thế nhờ đêm tối, còn cô Quyền cũng có lợi điểm đánh cọp nơi quang đãng, tiện bề công thủ. Hai bên quần thảo với nhau, cọp vồ hụt nhiều lần đâm ra mệt trở nên hung dữ, liều lĩnh lao tới, cô tràn bộ (1) né tránh. Cọp đang tầm phóng chưa kịp xoay mình lại, nửa phần thân sau của nó là mục tiêu ngon lành cho mũi dao của cô cắm phập vào hông cọp. Tuy bị thương nhưng cọp còn thừa sức quay đầu lại chồm lên, chuyển hết thần lực vào hai chân trước để trả đòn. Lanh như chớp, cô Quyền hoành bộ (2) rồi phóng mạnh lưỡi dao ngọt xớt vào ***g ngực nở nang của đối thủ, trước khi nhảy trái tránh cú vồ sinh tử. Khi dân làng đèn đuốc kéo đến tiếp cứu, con cọp to lớn chỉ còn là một cái xác giãy giụa trên vũng máu.
    Nếu bà Mân tên tuổi sống mãi trong văn học dân gian, chuyện cô Quyền giết cọp được truyền tụng trong làng võ của tỉnh nhà thì trường hợp của bà Tám Cảng là một bài học đáng suy ngẫm.
    Ông Hương mục Ngạc, kế tổ của phái quyền An Vinh mà phương ngôn đã có câu truyền tụng "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh" có ba người con: Bảy Lụt là trai trưởng, kế là Tám Cảng và út nam là Chín Giác. Tuy là gái nhưng Tám Cảng có sức mạnh hơn người và ham mê võ thuật nên được cha cưng chiều truyền dạy chu đáo. Tiếng đồn con gái ông Hương mục Ngạc mới 18 tuổi, trong tay chỉ có cây đòn gánh mà đánh bạt cả hàng trăm thanh niên cầm gậy bủa vây tại sân chùa Bà An Thái trong ngày lễ hội Đổ Giàn càng làm thiên hạ phục sát đất lò võ của ông Hương mục Ngạc nhưng đồng thời càng không ai dám tính chuyện trăm năm với cô. Năm Tám Cảng 20 tuổi vẫn chưa được nơi nào dạm hỏi dù rất có nhan sắc. Ông Hương mục Ngạc thông cảm nỗi khổ tâm của con, tuyên bố với mọi người rằng nếu ai đánh bại được Tám Cảng thì ông sẽ gả con gái cho mà không đòi hỏi một lễ vật gì. Có ba người đến xin đấu võ với Tám Cảng. Người thứ nhất bị Tám Cảng cho một cú đá văng vào hàng rào. Người thứ hai, võ nghệ khá hơn, kịt ngựa (3) nhanh nhẹn, công thủ song hành nên cầm cự được hiệp đầu, sang đến hiệp thứ hai thì bị Tám Cảng dùng ngón gia truyền ép vào bể cạn, đánh gục. Người thứ ba là Dư Hựu (không phải tên Hựu, quân sư trong đảng cướp của Dư Đành) bị Tám Cảng đạp nhào vào hồ cá, đành bỏ ra về tầm sư học đạo. Một năm sau lại đến xin đấu, lần này Tám Cảng tung cước bị Dư Hựu tóm được chân, ném trả vào hồ cá.
    Dư Hựu thắng. Giữ lời hứa, ông Hương mục Ngạc làm lễ vui qui cho con gái. Năm ấy Tám Cảng 22 tuổi. Nhưng cũng chỉ sống chung với nhau được ba năm. Một hôm vợ chồng lời qua tiếng lại, Tám Cảng quen thói bướng bỉnh, trả lời khinh khỉnh làm Dư Hựu điên tiết. Anh thuận tay chụp cái bình hoa chưng trên sập gụ ném mạnh vào mặt vợ. Nếu là người khác thì đã nát mặt, nhưng Tám Cảng nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy đem đặt trên bàn và mỉa mai: "Bình xưa mà làm ngơ không bắt, để bể cũng uổng." Dư Hựu càng giận, với lấy cái chày đâm tiêu bằng đá ném mạnh vào đầu vợ. Tám Cảng cũng đưa tay chụp cười gằn giọng châm chọc: "Cái đầu mà quáng mắt lầm cái cối đâm tiêu hả?" Dư Hựu giận lắm, mất hết trí khôn, chụp con dao phay, bằng thế võ rất lợi hại, phóng thẳng vào ngực vợ. Đường dao quá mạnh, Tám Cảng không thể chụp được, đành phải té ngửa để tránh. Con dao ngon trớn cắm phập vào vách đất ngập đến cán. Dư Hựu sực tỉnh thì mọi việc đã xảy ra rồi, suýt nữa gây nên án mạng. Tám Cảng lồm cồm ngồi dậy, còn Dư Hựu bỏ chạy một mạch đến nhà cha vợ. Gặp ông Hương mục Ngạc, anh ta sụp lạy kể lại đầu đuôi câu chuyện và nhất quyết xin trả Tám Cảng mà không đòi hỏi một điều kiện nào.
    Chuyện Dư Hựu trả vợ nhanh chóng lan truyền khắp vùng. Nhân đó câu ca dao trên được sửa lại:
    Ai về Bình Định mà coi
    Con gái Bình Định cầm roi rượt chồng
    Các bậc phụ huynh ở Bình Định rút kinh nghiệm, thôi không dám chiều ý con gái cho học nhiều võ nghệ nữa, sợ bị ế chồng như Tám Cảng. Họ chỉ luyện con gái vài thế võ thủ thân, thế cũng đủ cho đối phương kinh hồn rồi. Sau đây là một trong hàng trăm chuyện về phản ứng tự vệ của các cô gái Bình Định.
    Ai đến Tuy Phước cũng biết câu ca dao về các phiên chợ trong quận: "Chợ Huyện liệng Cây Gia, Cây Gia xa chợ Mới, chợ Mới tới chợ Dinh, chợ Dinh rinh Bồ Đề, Bồ Đề kề chợ Huyện." Phiên Huyện nhằm các ngày 1, 6, 11, 16, 21, 26 âm lịch, là phiên chợ lớn nhất của huyện nhà nhưng lại cách thị trấn Tuy Phước hơn ba cây số.
    Ngày phiên, không những dân trong vùng tập trung về mà còn đủ mặt dân buôn từ xa đến mua gom sản phẩm địa phương và bán hàng hóa ở nơi khác mang tới. Con đường quốc lộ 1 từ huyện lỵ đến chợ Huyện người mua kẻ bán đi lại tấp nập có cả những chàng trai đi dạo chợ để tìm ý trung nhân:
    Trai khôn tìm vợ chợ đông
    Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
    (Ca dao)
    Tuy nhiên cũng có kẻ lợi dụng đám đông để giở trò xằng bậy. Từ sáng, tại cổng Lý Môn có hai thanh niên ăn mặc chải chuốt, cười nói rổn rảng, chốc chốc lại trông ra đường. Nhìn dáng điệu biết ngay là dân ăn chơi từ tỉnh thành lạc đến. Trong dòng người từ chợ về, có một thanh nữ cao lớn, bước đi chậm chạp, hai tay xách hai giỏ nặng đầy ắp thức ăn.
    Đợi cho cô gái rẽ vào con đường đất dẫn vào cổng làng, hai "công tử" bước tới đón đàng, buông lời chọc ghẹo và giở trò sàm sỡ. Nhanh như chớp, cô gái buông hai giỏ thức ăn, xoay nghiêng né tránh tầm tay của kẻ vô hạnh đang sấn tới ngực, rồi đưa tay đánh phất qua một chiêu. Bị phản ứng bất ngờ, một trong hai tên né sang bên nhưng hắn đã lầm vì đó là hư chiêu. Cô gái thấy hắn trúng kế, thuận chân tung cước trúng thẳng vào hông làm hắn lăn xống ruộng, bùn bê bết từ đầu đến chân. Tên thứ hai mất tinh thần nhưng trước đám đông hắn tự ái liều mạng xông tới. Cô gái trong tư thế đứng ngựa (4), đón hắn bằng ngón võ gia truyền, chiếc khăn quàng cho ấm cổ trở thành roi nhuyễn tiên quất mạnh vào mặt đối thủ làm hắn không kịp tránh cú đá song phi, lảo đảo cắm đầu xuống ruộng.
    Thanh nữ ấy là con gái út nhà họ Đào, quan Trung nghị Đại phu Quang lộc Tự khanh người làng Vinh Thạnh, nay bà đã giữa tuổi thất tuần thường kể lại câu chuyện năm xưa lúc bà chưa lập gia đình. Và ngón võ phòng thân ấy do ông cậu Năm Hương ở thôn Dương An nay thuộc xã Phước An huyện Tuy Phước truyền dạy cho bà lúc tuổi trăng tròn.
    Vào đầu thập niên một chín bảy mươi, một ngôi sao lóe sáng trên vòm trời Võ học Bình Định: nữ võ sĩ Thanh Tùng của miền sông Côn. Cô được phong võ sĩ và được làng báo Sài Gòn tặng biệt danh "Hổ Cái Miền Trung" không phải vì cô đã thắng trên võ đài hoặc đã từng tranh tài cao thấp với ai; người ta chỉ thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung trong ngày hội Đống Đa biểu diễn các bài quyền như Lão Mai Độc Thọ hay bài roi như Tấn Nhất Ô Du với thế thủ như cản gió che mưa và thế công dồn dập như bão táp là đã đủ khiếp.
    Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ nhiên. Thanh Tùng là con nhà võ, đời đời nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của một dòng họ cao thủ. Ông nội của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người đồng thời và xứng tài với Hồ Ngạnh (1891 - 1976, kế tổ của phái roi Thuận Truyền). Thân sinh cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai trò đứng đầu hàng võ tại địa phương. Rồi đến Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa của con nhà võ. Nhưng với bản chất kín đáo và nhũn nhặn, Thanh Tùng ngoan hiền về nhà chồng như bao cô gái Bình Định khác, ngày ngày chăm chỉ bên chiếc máy may, nhỏ nhẹ với khách hàng. Trông dáng dấp liễu yếu đào tơ, không ai thấy ở Thanh Tùng một dấu vết gì về võ nghệ, một thời nổi tiếng biểu diễn quyền roi. Chớ lầm! Khi cần tự vệ, "con người võ" của Thanh Tùng nổi dậy. Đôi mắt hiền lành sẽ rực sáng như gươm bén và đôi tay mềm mại sẽ biến thành thanh sắt.
    Nhưng trên hết, người đàn bà Bình Định đáng nói hơn cả là nữ tướng Bùi Thị Xuân. Võ nghệ của bà vào bậc siêu phàm, ngang tài với các danh tướng mày râu của Tây Sơn như Nguyễn Huệ sở trường về roi, Nguyễn Lữ sáng chế và xuất sắc môn Hùng kê quyền, Võ Văn Dũng giỏi về đao, Đặng Văn Long quán thông cả cương quyền và miên quyền, còn Bùi Thị Xuân không ai sánh kịp về độc kiếm và song kiếm. Tài thao lược, bà xứng là đấng nữ kiệt. Gương dũng cảm, bà đáng bậc anh thư làm cho Nguyễn Ánh khiếp sợ và căm tức. Còn đức độ của bà, không những trong hàng ngũ Tây Sơn mến phục mà ngay cả kẻ thù cũng thầm kính nể.
    Bà Bùi Thị Xuân có họ hàng với vua Quang Toản, nhưng về thứ bậc gia tộc lại có nhiều sách chép khác nhau: Theo tài liệu của Vương Bích Thu, viết trong giai phẩm Tây Sơn Xuân Quí Dậu (1993), trang 148, Bùi Thị Xuân là chị ruột của quan Thái sư Bùi Đắc Tuyên và là con của Bùi Đắc Kế. Còn bà chánh cung Hoàng Hậu họ Phạm sinh ra Nguyễn Quang Toản theo Việt sử Tân biên của Phạm Văn Sơn, quyển 4, trang 204, bà này là con của Bùi Đắc Tuyên, không rõ là em cùng mẹ khác cha hay anh em thúc bá bên ngoại? Nếu vậy vua Nguyễn Quang Toản gọi Bùi Đắc Tuyên bằng cậu và Bùi Thị Xuân bằng dì. Nhưng theo sách "Những vì sao đất nước" (truyện danh nhân lịch sử của nhiều tác giả) tập 5, trang 204, Quỳnh Cư chép "Bùi Đắc Tuyên là anh cùng cha khác mẹ với vua Cảnh Thịnh (?), là cậu Bùi Thị Xuân."

Chia sẻ trang này