1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tác phẩm Mạc Ngôn (Cây tỏi nổi giận, Đàn hương hình và các truyện ngắn)

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Julian, 04/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Tác phẩm Mạc Ngôn (Cây tỏi nổi giận, Đàn hương hình và các truyện ngắn)

    Trần Đình Hiến và Mạc Ngôn: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu"


    "Ở phía bên này của núi Bạch Mã, phía bên kia của con sông Mực có một cây cao lương thuần chủng. Xin bạn đừng tiếc công sức trong khi đi tìm nó, bạn hãy giơ cao nó trên đầu mà xông vào những nơi gai góc, vào nơi là thế giới của bạo hành và lang sói, nó sẽ là bùa hộ mệnh cho bạn và nó cũng tượng trưng cho sức sống bất diệt, tinh thần bất khuất của làng Đông Bắc Cao Mật ta...".


    Đấy chính là Mạc Ngôn, nhà văn đương đại nổi tiếng Trung Quốc, người đã có những tác động tích cực đến tư duy sáng tạo của các nhà văn Việt Nam hiện nay thông qua những cuốn tiểu thuyết lịch sử của mình: ?oĐàn hương hình?, ?oBáu vật của đời? và sắp tới là ?oTửu quốc?. Những tác phẩm này được Mạc Ngôn viết theo phương pháp cách tân, trình bày "mảng khuất" của lịch sử Trung Quốc trong khoảng 100 năm. Với lối viết như vậy, tác giả đã mở ra một không gian lịch sử rộng lớn, cực kỳ hấp dẫn, vì nó phản ánh thực chất cuộc sống con người như nó vốn có. Nhưng để các tác phẩm này tiếp cận được với độc giả Việt Nam, công lao đầu tiên phải kể đến dịch giả Trần Đình Hiến, người có khả năng chuyển ngữ và thể hiện được tính khuynh hướng của tác phẩm, gây lên những "cơn sốt", những "hội chứng Mạc Ngôn" về tài năng phi thường của nhà văn.

    Trần Đình Hiến sinh năm 1933 tại Vĩnh Phúc trong một gia đình có 5 anh chị em, cha ông là một nhà nho thi đỗ khóa sinh trường tỉnh và là người đã tác động trực tiếp đến lòng say mê văn học của ông. Học xong phổ thông năm 1954, ông được Nhà nước cử đi học trung văn tại Khu học xá Nam Ninh-Quảng Tây (Trung Quốc). Hai năm sau (năm 1956) ông về nước dạy học ở trường cấp II Tô Hiệu -Vĩnh Yên. Năm 1957, ông được điều về dạy Trung văn tại trường Ngoại ngữ chuyên tu, tiền thân của Đại học Ngoại ngữ Thanh Xuân hiện nay. Năm 1964, ông đi nghiên cứu sinh Hán ngữ cổ đại tại trường ĐHTH Bắc Kinh, năm 1966 ông chuyển sang làm tùy viên ngoại giao của Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh.

    Chính trong thời gian này, để tìm hiểu hoàn cảnh cụ thể xã hội Trung Quốc, ông đã theo dõi tình hình sáng tác văn học của Trung Quốc thời kỳ "Hậu *****************" và theo dõi những nhà văn xuất hiện trong giai đoạn "văn học vết thương" (cuối những năm 70-80). Nhưng dòng văn học này không tồn tại được lâu do cứ viết mãi cũng hết những bất công, oan khuất, chết chóc...của các cuộc ***************** và những cuộc cách mạng trước đó ở Trung Quốc. Lúc này, tủ sách "tiểu thuyết thử nghiệm" do Hội nhà văn Thượng Hải chủ trì ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong nền văn học Trung Quốc vì phát hiện được một loạt những nhà văn trẻ đầy tài năng hiện nay: Mạc Ngôn, Giả Bình Ao, Vương Sóc, Vương An Ức, Lưu Á Châu...Trong đó, Mạc Ngôn được đánh giá cao nhất vì nhà văn đã tìm ra lối thoát về phương pháp sáng tác cho văn học Trung Quốc sau hàng thập kỷ bế tắc "hậu *****************". Hơn thế nữa, các tác phẩm của Mạc Ngôn đều nói lên nỗi đau trước số phận của con người.


    Nhà văn Mạc Ngôn
    Hiện nay, trong tủ sách của ông Trần Đình Hiến đang lưu giữ các tác phẩm nổi bật của những nhà văn trên, trong đó 100 tiểu thuyết hay nhất của 100 năm như: Cao lương đỏ của Mạc Ngôn; Dòng sông phương Bắc của Trương Thừa Chí; Vua cờ của A Thành...và 20 tiểu thuyết trúng giải Mao Thuẫn lần thứ 6: Đàn hương hình - Mạc Ngôn (đã dịch); Ngân thành cố sự của Lý Nhuệ...Tất cả những tác phẩm này đều được ông nâng niu cất giữ như một báu vật, nếu còn sức lực chắc chắn ông sẽ dịch và giới thiệu cho độc giả Việt Nam trong thời gian không xa.

    Việc ông chọn Mạc Ngôn là nhà văn đầu tiên dịch và giới thiệu cho độc giả Việt Nam không phải không có nguyên nhân. Thứ nhất, Mạc Ngôn có khả năng đồng hóa cuộc sống (được thể hiện trong các tác phẩm được cả thế giới biết đến). Từ Cao lương đỏ cho tới Báu vật của đời rồi Đàn hương hình..., trở đi trở lại vẫn là chuyện của những con người, những gia đình, những dòng họ của vùng Cao Mật, Sơn Đông ấy. Nhưng cái tài của Mạc Ngôn ở chỗ ông đã biến vùng Cao Mật quê ông thành một khái niệm văn học chứ không phải khái niệm địa lý. Nó hoàn toàn là một khái niệm mở, là một cảnh ảo do ông tưởng tượng trên cơ sở những kinh nghiệm của tuổi ấu thơ. Ông đã biến Cao Mật thành một Trung Quốc thu nhỏ, đồng hóa nỗi khổ, niềm vui của con người Cao Mật với nỗi khổ, niềm vui của toàn nhân loại. Và bằng tài năng của mình, ông đã tác động mạnh mẽ tới người đọc trên toàn thế giới, đây cũng là lý do vì sao Mạc Ngôn không bao giờ lặp lại mình trong sáng tác. Thứ hai, ông nhận thấy Mạc Ngôn viết không giống ai, đó là do Mạc Ngôn học tập những nhà văn thành đạt ở Trung Quốc cũng như phương Tây bằng cách đọc các tác phẩm của họ. Nhưng điều khác biệt là ông không mô phỏng phương thức kể chuyện mà ông đi sâu vào nghiên cứu nội hàm của những tác phẩm đó, tìm hiểu phương thức quan sát cuộc sống và cách nhìn về con người về cuộc đời, đây chính là sức mạnh trường tồn của Mạc Ngôn. Từ hai nguyên nhân trên, Trần Đình Hiến chọn dịch và giới thiệu tác phẩm Mạc Ngôn với một mong muốn duy nhất để các nhà văn Việt Nam tham khảo, từ đó có thể học nội hàm từ các tác phẩm của Mạc Ngôn, rút ra cho mình những phương thức sáng tác.


    Rừng xanh lá đỏ, một tác phẩm của Mạc Ngôn mới được dịch ra tiếng Việt
    Bước sang tuổi 71, trông ông vẫn nhanh nhẹn, sáng suốt và luôn khát khao được làm việc. Ông làm ngày, làm đêm, những lúc rảnh rỗi chính là những lúc ông có khách đến chơi. Mười năm làm ngoại giao không phải lý do khiến mọi người quý mến ông mà do bản tính ông cởi mở, dễ gần và rất khiêm tốn. Ông dịch rất nhanh, một cuốn sách dăm, bảy trăm trang ông chỉ dịch trong vòng 2-3 tháng. Với ông khó nhất vẫn là Việt hóa câu chữ, song đối với những tác phẩm của Mạc Ngôn ông luôn bắt được mạch cảm hứng, chỉ cần đọc qua ông có thể hình dung ra ngay và dịch luôn, nhưng nếu dừng lại. nghĩa là sẽ không bao giờ dịch tiếp được nữa. Những lúc nói về Mạc Ngôn, ông say sưa như nói về chính bản thân mình. Với ông, Mạc Ngôn là nhà văn tài năng phi thường mà ông rất muốn dịch và nghiên cứu.

    Có điều, cho tới nay, Mạc Ngôn đã có hơn 200 đầu sách mà mới 48 tuổi, tài năng đang ở độ chín, còn ông đã ngoài 70, nếu được song hành cùng Mạc Ngôn thì hay biết mấy! Bây giờ, ước nguyện của ông là làm một seri sách về Mạc Ngôn, hiện ông đang dịch ?o41 Truyện Tầm Phào? của Mạc Ngôn viết về chính cuộc đời nhà văn. Cuối năm nay, ông dự định sẽ dịch cuốn Cao lương đỏ, kịch "Bá vương biệt cơ" (đã từng làm xôn xao kịch trường Bắc Kinh năm 2000) và nếu có điều kiện ông sẽ dịch lại "Báu vật của đời", cuốn phát hành mới nhất tháng 9/2003 của NXB Công nhân tại Bắc Kinh (tiểu thuyết đã được Mạc Ngôn sửa lại).

    Giống như Mạc Ngôn, ông không không cho phép lặp lại mình, mà luôn cố gắng vươn lên. Đối với một dịch giả hiểu tác giả như ông có lẽ điều đó không phải là khó. Tuy chưa một lần gặp Mạc Ngôn nhưng ông với Mạc Ngôn như có một sợi dây vô hình liên kết với nhau, nói một cách khác giữa ông với Mạc Ngôn đã "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu".



    Bờ cỏ dại lạnh lưng trần ngoan quáEm là ta , ta mãi là em.
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Lửa Thiêu Hoa Lam Các​

    Ở giữa thành phố yên tĩnh có một cái hồ thật đẹp, sóng biếc lăn tăn.
    Giữa hồ có hòn đảo nhỏ tên là Hoa Lam, quanh năm bốn mua đều toả hương hoa, khi thoang thoảng khi nồng đậm. Trên đảo đã sáu lần xây dựng lầu gác, cột kèo chạm trổ, nhưng đều bị thiêu rụi sau khi xây dựng được ba tháng. Theo điều tra, nguyên nhân vì sét đánh hoặc đốt pháo, đương nhiên cũng có một vài cách giải thích đượm sắc thái thần bí theo kiểu dân gian.
    Xây dựng lầu gác trên đảo Hoa Lam là sự theo đuổi cố chấp đến bệnh hoạn của hết vị thị trưởng này đến vị thị trưởng khác của thành phố. Những cố gắng của họ bao giờ cũng được đón nhận bằng một vụ cháy lớn. Hy vọng xây dựng lầu gác tắt ngúm trong sự tàn phá của lửa dữ, song con đường làm quan của họ bao giờ cũng hanh thông sau khi hoả hoạn được giập tắt.
    Thị trường nhậm chức gần đây nhất là tiến sĩ kiến trúc, tướng mạo rất cổ quái. Trước khi tới nhậm chức ở thành phố này, ông từng chủ trì xây dựng tám công trình kiến trúc lớn của tỉnh và thành phố, tiếng tăm vang dội xa gần. Lời đồn nói ông sắp sửa nhận một chức vụ quan trọng của ngành kiến trúc trên trung ương nhưng cuối cùng không hiểu sao lại về làm thị trưởng ở thành phố nhỏ hẻo lánh, nhân khẩu chưa tới bốn mươi vạn dân này.
    Buổi tối ngày đầu tiên sau khi nhậm chức, ông đem theo cậu thư ký cũng tốt nghiệp cử nhân khoa kiến trúc, lẳng lặng tới bên bờ hồ. Sau này ông viết trong nhật ký:
    "Dạo bước ven hồ nửa giờ chợt nảy ra ý muốn lên đảo xem sao. Hỏi cậu Ngũ thư ký: "Lúc này còn có thể tìm được thuyền lên đảo không?". Chỉ một loáng, cậu thư ký đã chạy trở về, phấn khởi nói: "Thị trưởng, thật là may quá! Bến Thanh Diệp đằng kia vừa hay có chiếc thuyền đánh cá". Mình lên thuyền. ông chài chống sào vào đám bùn ven hồ, đẩy thuyền từ từ ra chỗ nước sâu. Thuyền càng xa bờ, tiếng mái chèo và tiếng nước óc ách càng rõ trong đêm trăng tĩnh mịch. Đêm càng khuya, trăng càng sáng, giơ tay lên nhìn thấy cả đường chỉ trên tay. Lại nhìn tới đám hoa đinh hương ven bờ thì lúc này đã thành từng đám mù sương, chỉ còn ngửi thấy mùi hơi nước trong mát thuần tuý. Khi lại thấy mùi hoa đinh hương bay tới thì hòn đảo giữa hồ Hoa Lam đã ở ngay trước mặt.
    Mình và thư ký theo con đường nhỏ rải sỏi đi vào giữa đảo. Chỉ một loáng đã lên tới nơi cao nhất, cũng là nơi liên tiếp sáu lần xây dựng Hoa Lam Các. Nơi này rộng khoảng hai sân bóng rổ, cao hơn mặt hồ khoảng sáu chục mét. Đứng ở đây nhìn ra bốn phía, quả thật tinh thần sảng khoái, lòng dạ thảnh thơi. Nếu xây ở đây một lầu gác cao chừng năm chục mét rồi lên tận trên cùng mà trông ra xa thì bốn mặt của thành phố và bóng núi phía xa đều thu vào tầm mắt. Chỗ này quả thật cần có một toà lầu.
    Xem ra đống lầu gác đổ nát vì bị hoả thiêu đã được dọn dẹp. Từng đống gạch, ngói, đá được xếp ngay ngắn xung quanh khu đất. Bên cạnh đống đá còn có đống gỗ xếp vuông vắn, đều là gỗ thông đỏ loại một, toả mùi thơm gắt của dầu thông. Mọi thứ trước mắt cho thấy đây là một công trường xây dựng, muốn khởi công lúc nào cũng được, chứ không phải là đống đổ nát của toà lầu vừa bị cháy.
    Mình ngồi trên một phiến đá, cúi đầu có vẻ như trầm tư, nhưng thực ra chẳng nghĩ ngợi gì cả. Từng đợt hương hoa phả tới khiến mình váng cả đầu. Thư ký hỏi khẽ: "Thị trưởng có hút thuốc không?". Mình rút điếu thuốc từ trong bao, thư ký bèn đưa chiếc bật lửa óng ánh vàng với ngọn lửa màu xanh lá cây tới bên miệng mình. Mình nhìn bộ răng cậu ta được đốm lửa chiếu sáng, bảo: "Cậu kể cho tôi nghe những chuyện về Hoa Lam Các đi!". "Vụ cháy gần đây nhất là vào tối ba mươi. Lúc ấy, cả thành phố đang đốt pháo. Em ngồi trong phòng làm việc xem tiết mục liên hoan Tết thì nghe thấy cậu Tôn - thư ký của Tần Thị trưởng - la to trong hành lang: "Cháy rồi, cháy rồi!". Mặt hồ quanh đảo Hoa Lam được lửa rọi sáng như gương, làm cho đèn thành phố mờ hẳn đi. Em nghe cậu Tôn đứng cạnh thở ra một hơi rồi lẩm bẩm nho nhỏ: "Cuối cùng đã cháy rồi!". Em liếc mắt nhìn cậu ta, phát hiện cậu ta đang run rẩy cả người, không biết vì quá xúc động hay vì lạnh." "Lúc cháy cách lúc xây xong bao lâu?" - mình hỏi. "Vừa vặn ba tháng, không thừa một ngày, không thiếu một ngày!" - thư ký đáp. "Còn Tần Thị trưởng?" "Tần Thị trưởng ăn Tết ở thành phố Minh Dương. Gia đình thị trưởng ở đấy. Mọi người đứng trên gác thượng xem cháy, xem toà Hoa Lam Các đang bốc lửa, cho đến khi cả toà lầu sụp đổ đánh rầm một cái, bấy giờ mọi người mới như trút được món nợ, thong thả đi xuống." "Lẽ nào dân chúng không kéo ra xem hay sao?" - mình hỏi. "Đông lắm chứ. Người đứng kín quanh hồ. Hầu như tất cả mái nhà đều có người đứng đầy" - thư ký nói. "Dân phản ứng ra sao?" "Em nghe bạn gái em nói, dân bảo rằng trên đảo Hoa Lam có một ổ hồ ly, chính bọn chồn ấy đã châm lửa thiêu rụi toà lầu." "Tôi không hỏi chuyện ấy, tôi hỏi phản ứng của dân đối với vụ này như thế nào kia!". Thư ký lúng túng đáp: "Dường như dân chẳng có phản ứng gì... Hình như dân đã quen đi rồi. à mà đúng, em nghe cha bạn gái em là thầy giáo tiểu học đã nghỉ hưu, một người rất nghiêm túc, nói Hoa Lam Các xây trên hoả địa nên bốc cháy là chuyện bình thường, không cháy mới là chuyện lạ. ông ấy còn nói, thành phố chúng ta nếu muốn phát triển thì cứ cách mấy năm phải có một lần cháy. Lửa năm nay cháy rất đúng lúc, đêm ba mươi cháy có nghĩa là năm tới ắt sôi nổi, thịnh vượng. Còn mẹ bạn gái em chỉ là nội trợ, không có văn hoá cao, thì nói cháy cũng tốt, từ ngày xây lên chỉ mong cho cháy, lần này có thể ăn ngon ngủ yên được vài ba năm".
    Mình cay đắng cười thành tiếng. Cậu thư ký rụt rè nói: "Thị trưởng, xin anh đừng bực tức. Em là người thật thà, có sao nói vậy". "Không hề gì, cậu kể tiếp đi!" - mình nói. "Lần cháy thứ năm xảy ra cuối năm 1999. Thời gian cụ thể hình như đêm trước đêm Chúa giáng sinh. Lúc ấy em tốt nghiệp chưa được nửa năm, thực tập ở ban xây dựng thành phố. Đêm hôm xảy ra hoả hoạn em bị cảm. Uống mấy viên thuốc an thần nên em ngủ rất say. Trời sáng mẹ em mới bảo Hoa Lam Các vừa mới xây xong hai tháng rưỡi đã cháy rụi rồi. Mẹ em còn nói: "Lại có người thăng quan đây!". Mẹ em cũng chỉ làm việc nội trợ, trình độ rất thấp. Em mặc quần áo lông ra hồ xem. Đi lại trên đường ra hồ đều là những người xem xong trở về và những người mới ra xem. Trời lạnh giá, vẻ mặt mọi người rất thờ ơ. Em tới bên hồ, vừa hay nhìn thấy một chiếc thuyền máy cặp bờ, trên thuyền có hơn mười người, trong số đó có chủ nhiệm ban xây dựng của em và còn Thị trưởng họ Mã nữa. Xem ra họ mới từ đảo trở về. Em thấy thị trưởng nghiêm mặt lên khỏi thuyền, còn các quan chức đi theo thì ai nấy tỏ vẻ vui mừng. Tối hôm ấy, thị trưởng có phát biểu trên đài truyền hình, tự phê bình chưa chăm nom thật tốt Hoa Lam Các rực rỡ, huy hoàng vừa mới xây xong, được dân toàn thành phố quý trọng. Sau đó ông nói, trong nhiệm kỳ có hạn của mình, ông nhất định phải chuẩn bị sẵn vật liệu xây lại Hoa Lam Các cho thị trưởng khoá sau. Chưa được bao lâu, Thị trưởng Mã được chuyển lên làm Bí thư Thị uỷ thành phố Ninh Ba. "Nguyên nhân cháy là sao?" - mình hỏi. "Sét đánh - thư ký nói - Đài trưởng đài khí tượng thành phố dành một buổi để giải thích bằng lý lẽ khoa học: Trên đài truyền hình tại sao trong mùa đông tháng giá còn xảy ra hiện tượng sét đánh". Lần cháy thứ tư xảy ra vào một đêm mưa gió sấm sét tháng bảy năm 1995. Sấm nổ vang nhưng mưa không lớn. Thị trưởng khi đó là Phương Hồng Mô. Ngay sau đêm xảy ra hoả hoạn, Thị trưởng Phương nhận được giấy điều lên làm Phó Giám đốc Sở Giao thông của tỉnh. Lần cháy thứ ba xảy ra một đêm ánh xuân rực rỡ tháng ba năm 1992. Thị trưởng lúc bấy giờ là Triệu Kính Nghiêu. Mười ngay sau vụ cháy, ông được thăng chức làm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch của tỉnh. Vụ cháy lần thứ hai thiêu rụi Hoa Lam Các vào tháng sáu năm 1989, Thị trưởng khi đó là Hàn Trung Lương. Một tháng sau khi cháy, nhiệm kỳ chưa hết, ông đã được điều lên làm Bí thư Đảng uỷ Trường Đại học Sư phạm của tỉnh. Vụ cháy lần thứ nhất xảy ra tháng bảy năm 1987, cũng thiêu rụi Hoa Lam Các. Thị trưởng khi đó là Tưởng Phong Niên, ông cũng học kiến trúc mà ra. Trong thời gian nhậm chức, dưới sự lãnh đạo của ông, khu thành cũ được cải tạo, đường cái được mở rộng, bùn lầy hàng trăm năm ở đáy hồ được nạo vét; ông còn cho xây dựng bảy khu dân cư, giảm bớt rất nhiều khó khăn về nhà ở của dân thành phố. ông liên tiếp làm hai khoá thị trưởng của thành phố này, rất có uy tín. Sau khi Hoa Lam Các được xây lên, uy tín của ông đạt tới điểm đỉnh. Toà lầu bị cháy, dân cũng không khiển trách ông nhiều, nhưng ông rất lấy làm đau khổ. Nghe ông nói đứng trên đống đổ nát rỏ nước mắt thề rằng nhất định sẽ xây lại Hoa Lam Các, nhưng hai tháng sau, ông được điều lên làm Viện trưởng Viện Thiết kế xây dựng của tỉnh". "Tôi quen đồng chí này, phẩm cách tốt lắm, nghiệp vụ cũng giỏi" - mình nói".
    Trong một tháng sau đó, thị trưởng mới liên tiếp nhận được thư quần chúng gửi tới. Thư toàn yêu cầu xây lại Hoa Lam Các, tên ký phía dưới đều là những hoá danh thường thấy như Chúng Thanh, Quần Tâm, Dân ý và cũng có những nặc danh hầu như rất quang minh chính đại như "Bảy cán bộ nghỉ hưu", "Tám đảng viên kỳ cựu", "Năm bà mẹ" v.v... Lại còn có thư liên danh "Sáu trăm thầy trò trường tiểu học ven hồ", những chữ ký vụng về, non nớt của đám trẻ nhỏ dày đặc cả mấy trang giấy trắng. Lúc đầu thị trưởng còn chăm chú đọc, nhưng chẳng bao lâu ông thấy ngán. ông bảo thư ký báo cho phòng tiếp dân, nếu có thư về việc xây lại Hoa Lam Các thì họ cứ việc xử lý theo quy định, không cần chuyển tới ông nữa.
    Mãi mà thị trưởng cũng không có thái độ rõ ràng về việc xây lại Hoa Lam Các, nhưng ngày đầu tiên của tháng thứ hai sau khi ông nhậm chức, ông gửi một lệnh xuống các đơn vị hữu quan, bảo họ trong vòng một tuần, chuyển hết số vật liệu xây dựng trên đảo Hoa Lam, trả lại cho bên bán với giá bằng một nửa giá mua. Những người được giao việc đều tỏ vẻ khó xử nhưng thị trưởng cười nhạt một tiếng, thế là họ ngượng ngùng tháo lui.
    Ngày đầu tiên của tháng thứ ba sau khi nhậm chức, thị trưởng triệu tập hội nghị văn phòng thị trưởng lần đầu tiên tại phòng họp nhỏ của Uỷ ban thành phố. Vấn đề chủ yếu được thảo luận tại hội nghị là xây lại Hoa Lam Các. Về mặt tạo hình và kết cấu, Hoa Lam Các cũ và mới không có gì khác nhau lớn. Khác nhau lớn nhất là ở vật liệu kiến trúc. Hoa Lam Các mới dùng gạch là gạch chịu lửa, ngói là ngói chịu lửa, tất cả cột, kèo, đầu đao, cửa ra vào, cửa sổ đều dùng thép hoặc đồng đúc. Thị trưởng nói, trừ phi dùng nhiệt độ cao tới 3.000 độ nung chảy chúng ra, nếu không, lịch sử xây mấy lần, cháy mấy bận của Hoa Lam Các tới đây là kết thúc. Thị trưởng nói xong, thấy vẻ mặt khó hiểu của cấp dưới thì bật cười có ý vị sâu xa, nói: "Lẽ nào mọi người còn mong Hoa Lam Các cháy đến lần thứ bảy nữa hay sao?". Hôm sau, bản thiết kế Hoa Lam Các mới được công bố đàng hoàng trên báo của thành phố. Nhưng tuyệt đại đa số dân chúng tỏ ra phản cảm, phản cảm nhất là với những vật liệu chịu lửa.
    Tối hôm ấy, lòng buồn bã, Thị trưởng ngồi trong văn phòng viết nhật ký (trang thứ 62 kể từ ngày ông nhận chức) trong đó có một câu như sau: "Lẽ nào dân chúng muốn có hoả hoạn?"...

    Bờ cỏ dại lạnh lưng trần ngoan quáEm là ta , ta mãi là em.
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Thẩm Viên

    Một tiếng sét nổ trên ngọn cây hòe ở bên ngoài nhà làm bánh mì, dây đường xe điện mắc dưới cây tóe sáng ánh lửa chói mắt. Đây là tiếng sét đầu hạ, người đi trên phố hoảng hốt chạy vội vào nấp dưới những hiệu bán hàng ở hai ven đường. Những người đi xe đạp còng lưng đạp vội dạt vào hè đường. Một cơn gió lạnh ào đến, trận mưa nặng hạt rơi xiên xuống. Cảnh tượng trên đường phố càng thêm hỗn loạn, mọi người đội mưa chạy tứ tung.
    Chàng và nàng ngồi đối diện trong căn phòng tối tăm ở nhà bán bánh mì, trước mặt mỗi người là một cốc nước giải khát, viên nước đá trắng phau nổi chìm trong cốc. Trên bàn ăn của hai người có bày hai cái bánh sừng bò, một con ruồi bay lượn quanh chiếc bánh. Chàng nghiêng đầu ngó ra nhìn cảnh rối loạn ngoài phố, lá cây hòe hãi hùng đu đưa trong gió, mặt đất cuộn lên từng làn bụi, mùi tanh nồng nặc của đất ào vào trong nhà dường như át hết cả mùi bánh sữa ở trong tiệm bánh. Mấy chiếc xe điện nối đuôi nhau từ xa chầm chậm bò tới, mưa xối xả dội vào thành xe, tạo thành một làn nước trắng xám. Trong xe đầy người, mấy chiếc đầu trọc ló ra khỏi thành xe, bị mưa đánh cho ướt đầm đìa. Ở khe cửa xe điện lòi ra một mảnh váy màu đỏ, ướt dầm dề dính chặt trên bậc lên xuống, trông như lá cờ rách chiến bại.
    ?oMưa đi, mưa đi, mưa càng to càng tốt, đáng ra phải mưa từ lâu rồi. Thành phố này thì cây khô chết hết?. Chàng ta bỗng nghiến răng nghiến lợi nói, thần thái giống như nhân vật phản diện trong những bộ phim cách mạng. ?oở chỗ các em thế nào? Cũng hạn đã lâu không mưa à? Hàng ngày sau khi xem xong tin tức, bao giờ anh cũng xem dự báo thời tiết, đặc biệt là quan tâm đến thời tiết ở chỗ các em. Thành phố bên ấy của các em để lại trong anh một ấn tượng rất đẹp, anh rất ghét thành phố to, nếu như không vì con cái, anh đã chuyển đến thành phố nhỏ từ lâu rồi. Thành phố nhỏ yên tĩnh, an nhàn, anh đoán người ở bên các em chí ít cũng sống lâu hơn người ở thành phố lớn đến 10 năm... ?
    - Em muốn đến thăm Thẩm Viên một chút. - Nàng nói.
    - Thẩm Viên? - Chàng ngồi ngay ngắn lại, đối diện với nàng nói. - Thẩm Viên hình như ở nơi nào của Chiết Giang, của Hàng Châu, hay ở Kim Hoa? Người ta đến tuổi trung niên, đầu óc hỏng bét, ba năm trước đây, trí nhớ anh còn rất tốt, thời gian mấy năm gần đây tồi quá rồi...
    - Mỗi lần đến Bắc Kinh, em đều muốn đi thăm Thẩm Viên, nhưng vẫn chưa đi được. - Đôi mắt nàng sáng lên trong niềm u buồn, khuôn mặt khô khan bỗng tràn đầy sinh khí. Chàng ngạc nhiên trong bụng, không dám nhìn thẳng vào đôi mắt rực lửa của nàng. Chàng nghe thấy giọng nói khàn khàn của mình:
    - Bắc Kinh có Viên Minh viên, Di Hòa viên, anh chưa nghe nói thấy Bắc Kinh có Thẩm Viên bao giờ...
    Nàng vội vàng thu dọn đồ đạc dưới chỗ ngồi, ***g hai túi giấy nhỏ vào trong túi giấy lớn, sau đó lại ***g túi giấy lớn vào trong một túi nilông lớn.
    - Đi đấy à? Tàu của em chẳng phải là 8 giờ tối mới chạy sao? - Chàng trỏ bánh mì trên bàn, nhẹ nhàng nói. - Tốt nhất là em nên ăn nốt đi, kẻo trên tàu không có gì ăn đâu.
    Nàng ôm chiếc túi nilông trước ngực, ánh mắt nhìn chằm chằm vào chàng, nói với giọng trầm trầm nhưng kiên quyết:
    - Em phải đến thăm Thẩm Viên, hôm nay em nhất thiết phải đến thăm Thẩm Viên.
    Một cơn gió lạnh có lẫn hạt mưa từ ngoài cửa thổi vào, chàng vuốt cánh tay mình, bỗng rùng mình một cái.
    - Theo chỗ anh biết, Bắc Kinh không hề có Thẩm Viên. Đúng rồi, anh nghĩ ra rồi! - Chàng phấn khởi nói. - Cuối cùng anh nghĩ ra rồi, Thẩm Viên là ở Thiệu Hưng, Chiết Giang, mười mấy năm trước anh đã đến đó một lần, cách quê cũ của Lỗ Tấn không xa, đó là nơi nhà thơ Nam Tống Lục Du và Đường Uyển làm thơ từ đối đáp với nhau. Thực ra nơi đó chỉ là một khu vườn hoang vắng, đâu đâu cũng đều là cỏ dại, như người bạn cùng đi với anh nói: ?oKhông đi thăm thì rất tiếc rẻ, mà đi thăm rồi lại càng tiếc rẻ... ?
    Lúc này nàng đã đứng dậy, sửa sang quần áo, vén tóc lên, rồi nhìn chàng lần nữa, như tự nói với mình:
    - Lần này, bất kể thế nào mình cũng phải đến thăm Thẩm Viên.
    Chàng giơ một cánh tay ngăn nàng, thận trọng nói:
    - Dù cứ coi Thẩm Viên là ở Bắc Kinh, thì chúng mình cũng phải đợi tạnh mưa rồi hãy đi chứ? Nếu muốn đi Thẩm Viên thực thì phải đợi đến mai, tàu hỏa mỗi ngày một chuyến, giờ này chạy rồi. Thời tiết này máy bay không thể cất cánh được, vả lại hình như không có chuyến bay đi Thiệu Hưng.
    Nàng tránh khỏi cánh tay chàng, xách túi đi ra khỏi tiệm bánh mì, đi vào trong làn mưa trắng đục. Chàng vội vàng thanh toán tiền với cô phục vụ, chạy đuổi theo. Đứng dưới hàng hiên, chàng nghe thấy tiếng mưa gõ lộp độp trên mái tôn, khiến lòng người rối loạn. Nhìn qua làn mưa trông như dòng thác đổ từ mái hiên xuống, chàng thấy nàng giơ túi lên che đầu, đang vội vàng chạy ngang qua đường. Mấy chiếc xe con lao đi sau lưng nàng, nước bắn lên làm ướt chiếc váy, dính vào người, lộ ra thân hình gầy gò. Chàng đứng dưới hàng hiên, nhìn xa xa về một ngôi nhà màu xám của mình ở đó, tựa hồ như nhìn thấy mưa từ cửa kính màu xanh nước biển trên ban công xối xả chảy xuống. Mùi trà thơm ngào ngạt như đập vào mũi, thậm chí như nghe thấy tiếng lũ con mình gọi í ới ?oBa ba, ba đã về!?
    Nàng đứng trong mưa bên đường, thấy chiếc xe nào đi qua cũng vậy, bất kể là xe tắcxi hay xe gì. Mặt nàng trở lên mông lung, khiến chàng nhớ lại gần 20 năm trước, trong ngày lạnh giá có cả mưa lẫn tuyết, chàng đứng bên ngoài cửa kính nhà nàng, nhìn thấy nàng ngồi ngay ngắn trên ghế, mặc chiếc áo len cao cổ màu trắng, khuôn mặt thanh tú mỉm cười, vui vẻ đang kéo phong cầm. Về sau, chàng cũng định kể lại cho nàng nghe cái đêm mình bị tê rét ấy, nhưng không hiểu sao cứ định nói thì lại ghìm lại không thổ lộ được ước nguyện trong lòng. Hình ảnh cô gái trẻ kéo phòng cầm như sống dậy trong cơn mưa rào. Tình cảm xúc động còn rớt lại ở trong lòng chàng giờ bùng cháy lên mãnh liệt. Chỉ một lát sau, toàn thân chàng cũng ướt đẫm như nàng, nước mưa có lẫn băng lạnh giá khiến cho chàng rét buốt. Chàng vội nắm lấy cánh tay nàng, định kéo nàng vào một cửa hàng nào đó tránh mưa, nhưng nàng vùng vằng mạnh quá, thành thử hai người cứ ở mãi thế giằng cọ Chàng cảm thấy như có gai châm vào sau lưng, ghé mắt liền thấy ánh mắt tò mò đang đứng trong cửa hàng gần đó nhòm ra, và còn thấy mấy khuôn mặt hình như quen quen nữa. Nhưng chàng biết mình không có đường lui nữa. Nếu buông tay bỏ đi, thì lương tâm chàng bị cắn rứt mãi không yên.
    Cuối cùng chàng cũng kéo được nàng vào một trạm điện thoại công cộng, mỗi người đứng một máy, nửa người phía trên họ được ngăn cách bởi tấm che bán nguyệt. Chàng nói:
    - Anh biết ở ngách phía trước có một quán trà Đài Loan rất ngon. Chúng mình đến đó ngồi uống cốc trà nóng, đợi ngớt mưa, anh sẽ đưa em ra ga.
    Vì bị tấm ngăn che mất từ lưng trở lên, nên không rõ nàng có ưng hay không, chỉ nhìn thấy chiếc váy đen bám sát lấy đùi, hai đầu gối lộ ra một cách xấu xí. Nàng im lặng không nói, hình như không nghe được lời đề nghị của chàng. Xe trên đường phố đã thưa thớt, nàng kiên nhẫn chạy ra vẫy xe bất kể có phải là tắcxi hay không.
    Khi mưa đã ngớt lại, họ cuối cùng cũng vẫy được một chiếc tắcxi hãng Hà Lợi màu đỏ. Chàng mở cửa đưa nàng vào trước, sau đó chàng cũng chui vào theo. Anh lái tắcxi lạnh lùng hỏi:
    - Đi đâu?
    - Đi Thẩm Viên. - Nàng cướp lời nói.
    - Thẩm Viên? - Lái xe hỏi. - Thẩm Viên ở đâu?
    - Không đi Thẩm Viên. - Chàng bật miệng nói. - Đi Viên Minh Viên.
    - Đi Thẩm Viên. - Nàng dằn giọng, cố chấp.
    - Thẩm Viên ở đâu? - Lái xe hỏi.
    - Không đi Thẩm Viên mà đi Viên Minh Viên. - Chàng nói.
    - Rốt cuột là đi đâu? Lái xe cáu gắt hỏi.
    - Tôi bảo đi Viên Minh Viên là đi Viên Minh Viên! - Chàng bỗng quát lên.
    Lái xe nghiêng đầu nhìn chàng, chàng nhìn bộ mặt cau có của anh lái xe gật gật đầu. Tiếp đó, nàng nhắc lại ba lần nữa là đi Thẩm Viên, nhưng lái xe cứ lẳng lặng không trả lời, chiếc xe tắcxi bon bon trên đường rộng thênh thang, nước mưa hai bên xe rẽ ra kêu rào rào, khiến chàng nghĩ đó là khúc ca bi tráng khó hiểu. Chàng nhìn trộm sắc mặt của nàng,thấy môi nàng cong lên ra chiều giận dữ. Chàng còn thấy tay nàng vịn vào thành xe run rẩy như đang chuẩn bị một âm mưu gì. Đề phòng nàng có thể nhảy xuống xe bất cứ lúc nào, chàng giữ chặt lấy tay phải của nàng. Chàng cảm thấy tay nàng lạnh ngắt như thân con cá vậy. Tay nàng nằm trong tay chàng, không động đậy, và cũng không hề tỏ ý muốn giằng ra, nhưng chàng vẫn cứ ghì chặt lấy không dám buông.
    Xe ngoặt vào một phố nhỏ chật hẹp, hai bên đường chất đầy những rác rưởi màu trắng, trong những đống rác trắng có lẫn vỏ dưa hấu màu xanh đen bóng. Trước cửa ra vào mấy quán cơm gần đấy treo phấp phới những dải giấy màu, mấy cô gái tóc bồng, mặt bự phấn, ăn mặc hở ngực hở lưng đang tựa cửa, miệng phì phèo thuốc lá, nét mặt buồn thiu. Nhìn cảnh tượng đó chàng hoảng hốt sợ xe đi về thành phố nhỏ của nàng. Chàng kinh ngạc hỏi:
    - Anh bạn, đến đâu vậy?
    Lái xe không trả lời, trong xe hơi nước mù mịt, cần gạt nước cửa kính phía trước làm việc liên tục, phát ra những tiếng đơn điệu làm não lòng người.
    - Anh đi đâu vậy? - Chàng bất giác kêu hốt hoảng.
    Lái xe bực bội nói:
    - Ông làm ầm ĩ gì thế? Chẳng phải là đi Viên Minh Viên sao?
    - Đi Viên Minh Viên sao lại đi đường này?
    - Không đi đường này thì đi đường nào? - Lái xe giảm tốc độ cho xe chậm lại, lạnh lùng nói. - Ông chỉ cho tôi xem đi đường nào?
    - Tôi cũng không biết đi đường nào, nhưng cảm thấy không phải đi đường này. - Chàng nói với thái độ nhã nhặn. - Các anh lái tắcxi tất nhiên rõ đường hơn tôi.
    - Có biết không? - Anh lái xe khinh thường nói. - Tôi đi đường gần nhất cho các người, chí ít cũng ngắn được 3 km.
    - Cám ơn, cám ơn. - Chàng vội vàng nói.
    - Tôi đã định lái xe về nhà đi ngủ. - Lái xe nói. - Mưa to như thế này, ai còn muốn chạy rông ngoài đường chứ? Tôi thương hại hai người...
    - Cám ơn, cám ơn. - Chàng nói.
    - Tôi không nói dối các người đâu, - lái xe nói, - phải trả thêm 10 đồng đấy. Các người may mắn gặp được người tốt như tôi. Nếu... các người chê đắt, thì bây giờ có thể xuống xe, tôi không lấy một xu.
    Chàng nhìn trời u ám ngoài cửa xe nói:
    - Người anh em, thêm 10 đồng cũng được.
    Chiếc xe đi ra khỏi phố nhỏ, vòng ra con đường đất vắng vẻ. Trên đường nước bẩn đọng thành từng vũng sâu, chiếc xe lao như điên qua vũng nước, nước bẩn bắn tung tóe lên cây hai bên đường. Anh lái xe chửi thầm, không biết chửi đường hay chửi người. Chàng nén giận không lên tiếng, trong bụng thầm nghĩ đây sẽ là điều không may.
    Chiếc xe con thoát khỏi đường đất bò lên đường rải ximăng bóng loáng. Anh lái xe lại chửi một tiếng, sau đó ngoặt xe thật mạnh, rồi dừng lại trước cổng lớn đang mở.
    - Đến rồi ư? - Chàng hỏi.
    - Đây là cửa phụ, đi vào trong không xa là phòng kính chiếu ảnh.
    Chàng nhìn con số kilômét trên máy, rồi trả thêm 10 đồng nữa cho anh lái xe.
    - Tôi không có biên lai. - Lái xe nói.
    Người dịch: Lê Huy Tiêu
    (còn tiếp)

    Bờ cỏ dại lạnh lưng trần ngoan quáEm là ta , ta mãi là em.
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Thẩm Viên (II) ​
    Chàng không để ý đến anh lái xe, đẩy cửa xe bước ra ngoài. Chàng chờ nàng bước ra ở cửa chàng vừa ra, nhưng nàng lại bước ra từ cửa bên kia.
    Anh lái xe quay xe đi thẳng. Chàng chửi thầm một câu, chửi xong lại thấy anh lái xe không những không đáng ghét mà còn đáng yêu nữa.
    Mưa vẫn rơi, lá cây hai bên đường sáng láng, sạch sẽ rất đáng yêu. Nàng đứng trong mưa mặt tái xanh, ánh mắt mơ màng. Chàng kéo cánh tay nàng, nói:
    - Em yêu ơi! Đi thôi. Phía trước là Thẩm Viên của em đấy...
    Nàng theo chàng đi vào cửa công viên. Những người bán hàng ở các quán hai bên đường chào mời vồn vã:
    - Ô mưa đây, ô đi mưa đây, ô đẹp nhất, bền nhất đây...
    Chàng đi tới một cái quán, mua hai cái ô, một cái màu đỏ, một cái màu đen. Sau đó bước tới phòng bán vé mua hai vé vào cửa. Người bán vé có bộ mặt to phè, hai hàng lông mày to và rậm như hai con sâu róm. Chàng hỏi:
    - Các anh ở đây mấy giờ đóng cửa?
    - Ở đây mở suốt không đóng cửa. - Người bán vé nói.
    Họ giương ô đi vào công viên Viên Minh. Chàng cầm chiếc ô màu đen đi trước, nàng cầm ô màu đỏ đi theo sau. Giọt mưa rơi vào ô, kêu long bong. Những khách tham quan đi thành từng đoàn năm người, hoặc từng đôi đi ngược chiều với họ. Có người thì cầm ô hoa sặc sỡ đi chầm chậm, có người thì không ô cứ đầu trần chạy trong mưa.
    - Anh cứ nghĩ rằng chỉ có hai chúng ta là hâm... - Vừa nói ra câu ấy chàng thấy hối hận vô cùng, vội vàng nói chữa. - Nhưng quả là rất thú vị, nếu không mưa to như thế này, thì ở đây ngày nào cũng đông nghịt người thật là chật chội.
    Chàng rất muốn nói câu ?oCông viên Viên Minh hôm nay là của hai chúng ta? nhưng lại thôi, không nói nữa. Họ đi men theo con đường nhỏ tuy ngoằn ngoèo nhưng sạch bóng như gương, trên mặt hồ hai bên đường đầy hoa sen và hoa súng, có mấy con nhái đang nhảy trên đó.
    - Đẹp quá! - Chàng phấn khởi reo lên. - Nếu như có một con trâu gặm cỏ ở ven hồ, nếu như có đàn thiên nga bơi lội trong hồ thì càng tuyệt! - Chàng thân thiết nhìn khuôn mặt trắng xanh của nàng, xúc động nói:
    - Cảm giác của em bao giờ cũng tuyệt, nếu như không phải là em, thì cả đời anh cũng chưa bao giờ nhìn thấy công viên Viên Minh đẹp như thế này.
    Nàng thở dài nói:
    - Đây không phải là Thẩm Viên của em.
    - Không, đây chính là Thẩm Viên của em. - Chàng cảm thấy mình như đang đóng kịch, dùng giọng điệu với hàm ý sâu xa nói. - Tất nhiên, đây cũng là Thẩm Viên của anh, là Thẩm Viên của chúng ta.
    - Anh cũng còn có Thẩm Viên ư? - ánh mắt nàng bỗng trở nên sắc nhọn khiến chàng lúng túng. Nàng lắc đầu nói: ?oThẩm Viên là của em, là của em, anh đừng có cướp mất Thẩm Viên của em.?
    Chàng vừa cảm thấy vui được một chút, giờ bỗng trở nên ảo não buồn rầu, cảnh vật trước mắt bỗng trở nên ảm đạm vô vị.
    - Anh giẫm chết chúng rồi! - Nàng bỗng kêu to lên một tiếng.
    Chàng vội cẩn thận nhảy sang bên đường. Giọng nói của nàng càng trở nên gay gắt:
    - Anh giẫm chết chúng rồi!
    Chàng cúi đầu nhìn xuống, từng đàn nhái đang nhảy loạn trên đường. Chúng chỉ bé bằng hạt đậu cô ve, nhưng tứ chi đủ cả, trông rất đáng yêu. Những nơi chàng đi qua rất nhiều xác nhái đã bị giẫm bẹp hiện ra dưới dấu chân của chàng. Nàng ngồi xuống, dùng tay nâng những cái xác con nhái. Ngón tay nàng rất trắng, móng tay hơi đen đen, trong móng tay đầy bùn bẩn. Một cảm giác khó chịu như cặn bã chìm sâu trong lòng chàng bỗng nổi lên, chàng liền dùng giọng điệu châm biếm nói:
    - Tiểu thư ơi, tiểu thư giẫm chết nhái không ít hơn của tôi. Đúng, nhái tiểu thư giẫm chết không ít hơn của tôi. Mặc dù bàn chân của tôi to hơn của tiểu thư, nhưng bước chân của tiểu thư ngắn hơn của tôi, do vậy tiểu thư giẫm chết không ít hơn của tôi.
    Nàng đứng lên, lẩm bẩm một mình: ?oPhải, ta giẫm chết chúng không ít hơn của chàng... ? Nàng lấy tay dụi mặt nói: ?oNhái con ơi, nhái con ơi, sao chúng bay lại nhỏ như thế?... ? Sau đó nước mắt trào ra.
    - Thôi đi, tiểu thự - Chàng chán ngán quá, nhưng vẫn dùng khẩu khí đùa cợt nói. - Trên thế giới còn 2/3 nhân dân lao động đang giãy giụa trong nước sôi lửa bỏng!
    Nàng nhìn chàng qua làn nước mắt, nói:
    - Chúng nó nhỏ bé như thế này nhưng tay chân chúng nó đều mọc đầy đủ cả!
    - Lũ nhái này đầy đủ cả chân tay ư? - Chàng nắm lấy cánh tay nàng, kéo nàng đi lên phía trước. Nàng ném ô xuống đất, ra sức giằng tay chàng ra.
    - Chỉ vì mấy con nhái ranh mà chúng ta không thể qua đêm ở đây được?
    Chàng buông tay nàng ra, bực bội nói, nhưng qua ánh mắt của nàng, chàng thấy không thể bức nàng giẫm lên những con nhái mà đi được. Chàng cụp ô lại, cởi áo ra làm vật lùa đuổi những con vật đáng ghét trên mặt đất đi. Lũ nhái nhảy tứ tung, cuối cùng mở ra trước mắt họ con đường sạch sẽ hết cóc nhái, chàng kéo tay nàng nói:
    - Đi mau lên!
    Cuối cùng họ đi đến trước một khu hoang phế. Mưa đã tạnh hẳn, bầu trời dần trong trẻo, họ cụp ô lại, trèo lên một tảng đá đã được chạm trổ đục đẽo rất tinh vi, chàng vắt khô áo mặc vào, chàng cố tình hắt hơi thật to để nàng phải chú ý quan tâm, nhưng nàng chẳng hề phản ứng gì. Chàng hơi ngượng, lắc đầu, sau đó như những người đã từng trèo cao vọng xa, ưỡn ngực hít thở không khí trong lành, trong lòng thanh thản như bầu trời sau cơn mưa dần dần trở nên trong sáng. Không khí ở đây thật là mát mẻ, chàng định nói, nhưng rồi không nói nữa. Trong công viên rộng lớn này dường như chỉ có họ hai người, điều đó hơi kì lạ đấy. Chàng quan sát khu hoang tàn trước mặt với một tâm tình nuối tiếc. Xưa kia đây là nơi nổi tiếng, khiến bao người mến mộ, nơi đây đã đi vào trong ống kính của bao người, đã đi vào trong văn thơ của nhiều người, nhưng sao bây giờ bình thường thế? Cảnh vật ở đây câm lặng không nói, nhưng như đang thổ lộ biết bao điều, nó là người khổng lồ bằng đá trầm mặc. Phía trước khu hoang phế, trong những hồ có vòi sen phun nước 200 năm trước bây giờ cỏ mọc um tùm đầy lau sậy, cỏ lác và còn nhiều thứ cỏ khác không biết tên đang bò ra chung quanh tảng đá.
    Họ tay nắm tay, trèo lên một tảng đá cao hơn, gió thổi mát rượi, quần áo trên người họ mặc đã dần khô, góc váy đen của nàng bay phất phợ Chàng lấy một tay xoa xoa vào tảng đá được nước mưa rửa sạch bong, mũi ngửi thấy làn hơi man mát. Chàng như phát hiện ra điều bí mật, nói:
    - Em ngửi mà xem, mùi vị của đá.
    Nàng đang chăm chú nhìn cái cột đá xưa kia từng đã là trụ cột của một tòa kiến trúc cao lớn, không hề nghe thấy tiếng nói của chàng. ánh mắt nàng như nhìn thấu qua bề ngoài của cột đá để soi tỏ phía bên trong của nó. Lúc này chàng mới nhận ra mấy sợi tóc mai của nàng đã bạc trên vai nàng, buồn bã nói:
    - Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chỉ nháy mắt chúng ta đã già rồi.
    Nàng nói một câu chẳng ăn nhập vào đâu:
    - Những lời khắc in trên đá chẳng phải là không biến đổi sao?
    - Bản thân hòn đá không thể thay đổi. - Chàng nói. - Cái gọi là biển cạn đá mòn không bao giờ thay lòng đổi dạ, đó chẳng qua chỉ là một ảo mộng đẹp đẽ mà thôi.
    - Nhưng ở trong Thẩm Viên, mọi cái đều không hề thay đổi.
    ánh mắt của nàng vẫn nhìn chằm chằm vào hòn đá, tựa như đang nói chuyện với nó, còn chàng chỉ như một thính giả chẳng liên quan gì đến mình. Nhưng chàng vẫn tích cực hưởng ứng lời nàng nói, chàng nói to:
    - Trên thế giới này chẳng có cái gì là tồn tại mãi, ví dụ như cái công viên nổi tiếng này, 200 năm trước, khi hoàng đế triều Thanh xây dựng nó, có lẽ là không hề nghĩ chẳng bao lâu nó sẽ biến thành một đống đổ nát. Những hòn đá hoa cương ở trong cung điện mà hoàng đế và các cung phi đã từng vui chơi hành lạc, biết đâu nó đã biến thành viên đá lát chuồng lợn của thường dân.
    Chàng cũng tự mình cảm thấy những lời nói đó khô khan vô vị, chẳng khác nào những lời bậy bạ, nhưng chàng cũng biết rằng, nàng chẳng nghe một câu nào, chàng liền ngừng diễn thuyết, móc trong túi ra bao thuốc đã bị ướt, tìm một que diêm tương đối khô đánh lửa châm thuốc.
    Hai con chim chích chòe đuổi nhau ngay trên đầu họ, đậu xuống một ngọn cây xa xa, kêu ?ochích chòe?. Chàng định nói, lũ chim rất được tự do, nhưng theo thói quen vừa bật ra ở đôi môi đã nuốt vào ngaỵ Vừa lúc ấy, nàng bỗng reo lên một tiếng phấn khởi, đôi mắt u sầu của nàng cũng đồng thời lóe sáng lên. Chàng kinh ngạc nhìn nàng, đồng thời theo hướng tay chỉ của nàng nhìn thấy chiếc cầu vồng ngũ sắc vắt ngang qua bầu trời xanh. Nàng nhảy lên như một đứa trẻ con:
    - Xem kìa, xem kìa!
    Chàng như lây niềm vui của nàng, chiếc cầu vồng bắc ngang trời làm chàng tạm thời quên đi cuộc sống hiện thực ảm đạm, đắm chìm trong niềm vui của thời thơ ấu. Hai người đứng sát vào nhau lúc nào không biết. ánh mắt giao tình thân ái, không né tránh, không trốn chạy, không do dự, không dao động, tự nhiên hai bàn tay họ nắm chặt lấy nhau và rất tự nhiên hai thân thể cũng ôm chặt lấy nhau.
    Khi chàng ngửi thấy mùi bùn ở miệng nàng thì chiếc cầu vồng ngũ sắc kia cũng biến mất. Khu hoang phế một dải tiêu điều, những hòn đá nằm nghiêng ngả lộn xộn ánh lên tia sáng trông rất trang nghiêm và hung hãn. Côn trùng kêu râm ran trong cỏ nước, tiếng thiên nga từ xa vang lại. Chàng vô tình nhìn vào chiếc đồng hồ đeo trên tay nàng, kim giờ đã chỉ đến con số 7. Chàng hoảng hốt kêu lên:
    - Hỏng rồi, xe của em chạy lúc 8 giờ phải không?
    ° ° °
    Lời bàn của tác giả về Khu hoang phế tâm linh: Đây là câu chuyện u ám, mặc dù cuối truyện xuất hiện chiếc cầu vồng rực rỡ, nhưng chiếc cầu vồng phút chốc biến ngay, cầu vồng qua đi lại vẫn u ám.
    Đây là câu chuyện tình được nhớ lại, nhưng ánh lửa tàn của nó rất mau chóng bị nước dập tắt ngay.
    Đây là câu chuyện trốn tránh trách nhiệm, kẻ trốn tránh trách nhiệm là nam giới. Một nhà văn nam dường như không có quyền trách móc phụ nữ.
    Đây tựa hồ như là câu chuyện thể hiện một nỗi quẫn bách nào đó của loài người, chứ không phải chỉ là chuyện tình cảm.
    Đây tựa hồ như là câu chuyện tuyệt vọng nhưng cũng không phải là tất cả, vì cuối cùng đã xuất hiện một chiếc cầu vồng.
    Đây kì thực chỉ là một câu chuyện đơn giản: trong ngày mưa như trút nước, một đôi nam nữ đi tìm Thẩm Viên ở trong mộng, nhưng lại đến một nơi hoang phế.
    Một câu chuyện không viết rõ phía sau câu chuyện là gì, đó chính là cái gọi là ?okĩ xảo truyện ngắn? đấy, nếu khen thì bảo đó là ?ohàm xúc?, nếu chê thì bảo đó là ?ochơi cái trò thâm trầm? ?

    (hết)
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Cao Lương Đỏ​

    Cao Lương Đỏ đã được đạo diễn tài ba Trương Nghệ Mưu dựng thành phim mang cùng tên do ngôi sao Củng Lợi thủ vai chính. Bộ phim đã được giải thưởng tại liên hoan phim Cannes.
    ° ° °
    Theo lịch cũ, mồng chín tháng tám năm 1939, cha tôi, người mang dòng máu thổ phỉ vừa hơn mười bốn tuổi, ông gia nhập vào đội quân của tư lệnh Dư Chiêm Ngao, mà sau này trở thành anh hùng truyền kỳ danh tiếng khắp trong thiên hạ, đi phục kích đoàn xe ô tô Nhật Bản trên đoạn đường Giao Bình. Bà nội tôi tiễn họ tới đầu thôn, bỗng Dư tư lệnh hô: ?oNghiêm!?, nội liền đứng nghiêm và dặn dò cha tôi: ?oĐậu Quan, hãy nghe lời cha nuôi nghe con!?. Ông im lặng cúi đầu không một lời đáp lại.
    Đoàn người đi trong đêm mù sương, bí mật hành quân trên những thửa ruộng cao lương đỏ của quê hương Cao Mật. Ôi Cao Mật, nơi tôi yêu nhất mà cũng là nơi tôi ghét nhất, mãi sau này lớn lên học hành giác ngộ, tôi mới hiểu ra, không nơi nào trên trái đất lại đẹp nhất và xấu nhất như Cao Mật, cực kỳ siêu thoát mà cũng cực kỳ thế tục, sạch sẽ nhất và bẩn thỉu nhất, anh hùng hảo hán nhất và đầu trộm đuôi cướp nhất, nơi biết uống rượu nhất và cũng là nơi biết yêu đương nhất. Cao Mật với bạt ngàn cao lương đỏ, huy hoàng, dào dạt, uyển chuyển và dậy sóng biết bao.
    Năm nội tôi tròn 16 tuổi, cô thiếu nữ vừa xuân thì, phát tiết dung nhan, thắm màu hoa nguyệt, buồn rười rượi bước lên kiệu hoa, dập dềnh trên biển máu cao lương, đỏ như không thể nào đỏ hơn nữa. Cố tôi gả nội cho chủ nợ họ Đơn, về làm vợ thằng con trai độc tự Biển Lang. Tuổi xuân rực rỡ của nội khiến bà khát khao được ngả vào lòng một chàng trai vạm vỡ đàn ông, giải khuây bao nỗi trầm uất, cô tịch trong chiếc kiệu hoa ô uế này. Nội không chịu nổi cái cảnh tù túng giữa bốn bức màn vải đỏ; với bàn chân nhỏ xíu nhọn tựa búp măng, bà tách mảnh rèm kiệu thành khe hở và trộm ngó ra bên ngoài, hai đòn cáng kiệu bóng loáng đè lên bốn tấm vai bạnh của những người phu kiệu, mà nơi họ bốc ra mùi mồ hôi chua loét, mùi mồ hôi đàn ông quyến rũ nội, khiến từng vòng, từng vòng sóng xuân lăn tăn, lăn tăn dậy lên nơi lòng bà, rạo rực lạ thường. Một trong bốn phu kiệu hôm đó sau này là ông nội của tôi, người có tên tư lệnh Dư Chiêm Ngao lẫy lừng.
    Đám phu kiệu đưa nội tôi ra tới đường cái quan, bao la một cảnh đồng rộng sông dài, những thanh niên lực lưỡng bắt đầu nghĩ cách trêu chọc cô dâu, họ chạy nhanh làm cho nội ngồi trên kiệu lắc lư, điên đảo, nôn hết nước xanh nước vàng, bảo họ đi chậm lại thì cả bốn người đều thưa rằng, phải vượt qua hang Cóc trước lúc trời tối kẻo có cướp. Nội tôi khóc thút thít không phải vì bốn anh phu kiệu chơi khăm bà, mà vì nghĩ tới người chồng sẽ động phòng hoa chúc đêm nay - Đơn Biển Lang, một bệnh nhân kinh phong, con trai độc nhất của Đơn Đình Tú, tay bá hộ giàu lên nhờ nấu rượu cao lương, nhẽ nào bà lại phải trao thân cho hắn, nội tôi càng nghĩ càng khóc thành tiếng khiến phu kiệu Dư Chiêm Ngao động lòng trắc ẩn và mơ hồ thấy cả một vầng sáng ngày mai. Đoàn người vừa đến hang Cóc thì quả nhiên có cướp, một tay thổ phỉ cao to, lưng mang bao vải đỏ cồm cộm những tiền là tiền, hét lớn: ?oMãi lộ!?. Đám phu kiệu vâng lời có bao nhiêu dốc hết để tìm cách thoát nạn. Nhưng tên cướp vén màn vải gọi nội tôi bước ra và hạ lệnh: ?oĐi theo tao xuống ruộng cao lương kia!?. Nội thản nhiên, cương nghị và liếc nhìn phu kiệu Dư Chiêm Ngao. Hiểu ý người đẹp, họ Dư bất thần song phi đá lăn tay thổ phỉ, đoàn người xô tới bóp cổ hắn chết tươi. Dư Chiêm Ngao dìu nội lên kiệu, họ cười với nhau thật huy hoàng và cao quý, bà xé toang màn kiệu, tự do hít thở không khí, tự do ngắm tấm lưng trần lực lưỡng đàn ông của Dư Chiêm Ngao, người mà cháu chắt chúng tôi đang ngày đêm hương khói phụng thờ...
    Cha tôi như một liên lạc viên dẫn đoàn quân luồn giữa ruộng cao lương, tay ông luôn nắm chặt khẩu súng lục to quá cỡ đeo lủng lẳng bên hông. Họ đến nơi phục kích thì cũng vừa lúc đàng đông ửng hồng, nhưng trên con lộ vẫn chưa thấy một chiếc xe nào của giặc cả. Dư tư lệnh bảo mọi người hãy tạm nghỉ trong ruộng cao lương và nói với cha tôi: ?oĐậu Quan, quay về nhờ mẹ làm cho ít bánh, khoảng trưa thì đem ra và dặn mẹ con cùng đi nữa nghe?. Cha tôi chạy một mạch tới nhà, ông ôm lấy nội, người con gái hoàng hoa thời ấy nay đã là thiếu phụ phong sương. ?oMẹ cho nhiều trứng vào bánh nhe?. ?oỪ, bọn giặc vẫn chưa đến à??. ?oChưa mẹ ạ, Dư tư lệnh dặn mẹ gánh bánh ra cho ông và binh lính đó?. Xong nhiệm vụ, cha tôi chạy như bay về bên tư lệnh báo cáo: ?oTrưa nay nhất định có bánh?. Nói chưa dứt lời thì cha tôi phát hiện từ xa bốn con bọ hung sắt bò trên đường lộ, ông kêu lên: ?oTư lệnh xem kìa, xe giặc?.
    Nội ?onhận lệnh? và liền hô hào con cái nhào bột làm bánh. Đúng giờ hẹn bà vận chiếc áo màu đỏ thẫm, trên vai kĩu kịt một gánh những cái bánh còn nóng hổi, thoăn thoắt hướng về cầu đá, nơi tư lệnh đang chờ. Từ ngày đi lấy chồng, nội tôi vẫn giữ được vẻ yêu kiều của thiếu nữ, công việc nặng nhọc chẳng mấy đến tay cho nên gánh bánh khao quân đã hằn lên vai nội một vệt bầm khá sâu, màu tím đỏ, ấy là biểu tượng cho hành vi anh dũng kháng Nhật mà nội mang theo khi từ giã cõi đời.
    Đoàn quân tập trung hỏa lực nhắm vào xe giặc đang tiến dần tới điểm chết, nhưng bỗng có tiếng súng nổ, đạn từ chiếc xe đi đầu nã ra, cha tôi ngoái nhìn và trông thấy nội như cánh **** hồng chấp chới, ông chưa kịp kêu lên: ?oMẹ...? thì nội đã ngã nhào. Cha tôi vọt khỏi ổ phục kích chạy về phía nội, Dư tư lệnh đành cho nổ súng tiêu diệt đoàn xe. Mặt nội úp xuống đất, máu đỏ như màu rượu cao lương ọc trào lên từ hai lỗ đạn trên lưng. Cha tôi lật người nội trở lại, dung mạo vẫn đoan trang, mái tóc vẫn óng mượt, phẳng phiu dưới hai cái kẹp sừng, vài hạt cao lương bay xuống đậu bên đôi môi của nội. Cha tôi đặt nội nằm trên những thân cây cao lương, nhìn miệng nội dần dần biến sắc, cha nấc lên từng tiếng. Nội thì thào: ?oCha con đâu??. ?oCha nào hở mẹ??. ?oDư tư lệnh, cha nuôi ấy?. ?oÔng đang đánh giặc ở đằng kia?. ?oNgười đó chính là cha đẻ của con...? - cha tôi gật đầu, lặng nhìn phút lâm chung của nội. Hai phát đạn từ sau lưng xuyên qua bầu vú, bộ ngực trắng nõn của bà giờ đã rực hồng, bà vui sướng trông rõ những bông cao lương đung đưa, trông rõ khuôn mặt người con trai, tác thành bởi một cuộc tình thắm đỏ như cao lương quê hương, bà mỉm cười e ấp và có vẻ như thẹn thùng xấu hổ nhớ lại quá vãng thật ngọt ngào và đẹp đẽ...
    Đơn Biển Lang quả đã mắc bệnh kinh phong, hai đêm ở nhà chồng, nội tôi thức trắng với con dao trong tay, sáng ngày thứ ba cố tôi say túy lúy dẫn nội về, bà giận lắm. Nội tôi ngồi vắt vẻo trên mình con la, vừa rẽ qua quãng đường cong thì một bóng đen bỗng ào ra, bồng nội chạy mất hút vào ruộng cao lương ken dày như rừng rậm. Nội không còn sức lực nào mà vùng vẫy nữa và bà cũng chẳng muốn vùng vẫy làm gì, thậm chí còn quàng tay qua cổ bóng đen để người ấy bồng bà nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Ba ngày sống giữa rừng cao lương, nội tôi như qua một giấc mơ, thấm đậm lẽ đời nhân thế. Người ấy tháo tấm vải đen che mặt, hiện nguyên hình, nội thầm kêu trời ơi và nước mắt lưng tròng vì sung sướng. Chàng cởi tấm áo trải ra làm chiếu, chân đạp mấy cây cao lương rạp xuống làm giường, rồi nhẹ nhàng bồng nàng đặt lên đó, nàng nhìn chàng vạm vỡ, cường tráng, bỗng ngây ngất trong lửa tình rạo rực dồn nén mười sáu năm qua, chàng mạnh bạo lột mọi xiêm y và nàng mãn nguyện hưởng niềm khoái lạc. Họ yêu nhau như vậy suốt ba ngày liền và cha tôi chính là kết tinh của cuộc tình cuồng nhiệt, thống khổ đó. Sau ba ngày đêm ân ái, ông bà tôi chia tay nhau, ông đưa bà ra đến bờ đường và thoắt một cái đã biến mất giữa muôn trùng biển máu của cao lương đỏ... để hôm nay trở thành Dư Chiêm Ngao trở về nhận con và thăm lại tình nhân.
    Còn nội, nội vẫn nằm đó trên đệm cây cao lương như mười mấy năm trước, nhưng đã mệt lắm rồi. Phải chăng cái chết đang dần tới, phải chăng ta không còn có thể nhìn thấy trời này, đất này nữa sao, thế còn con ta, người tình của ta? Hỡi trời, người nào có dạy con trinh tiết là gì, chính chuyên là gì, thế nào là lương thiện, thế nào là ác tà, con chỉ biết hành động theo cách nghĩ của con. Con yêu hạnh phúc, con yêu sức mạnh, con yêu cái đẹp, thân này là của con, con có quyền làm chủ nó, con không sợ phạm tội, con không sợ trừng phạt, con không sợ rơi xuống mười tám tầng địa ngục của người. Nhưng con không muốn chết, con muốn sống, con muốn nhìn thế giới này...
    Nội tôi vẫn không rời mắt những ngọn cao lương đỏ, đung đưa, mông lung, chúng kỳ ảo, chúng rên la, chúng kêu gọi, có lúc như người thân, có lúc như ma quỷ, như đàn rắn quẩn quanh người nội, chúng cười, chúng khóc, xanh đỏ trắng đen biến hóa khôn lường... Cha tôi chạy nhanh về phía Dư tư lệnh, hốt hoảng, thất thanh: ?oMẹ nhớ cha, cha ơi?. ?oCon ngoan của ta, hãy cùng cha diệt nốt mấy ********* đẻ này đã?. Trận mạc tan khói súng, cha con họ vội chạy tới bên người thiếu phụ thì bà không còn sống nữa, nhưng khuôn mặt vẫn rạng rỡ cao quý dành riêng cho tình nhân cao lương đỏ, ông nội tôi vuốt mắt bà, rồi chặt ngã bao cây cao lương phủ đầy lên thi thể người quá cố.
    Nắng chiều chiếu xiên qua chiến trường, dưới kia dòng sông một màu máu đỏ, trên này cánh đồng cũng đỏ bởi ruộng cao lương. Cha tôi tha thẩn nơi bờ đê, cúi nhặt chiếc bánh và đưa cho ông nội: ?oCha ơi, cha ăn đi, bánh của mẹ con làm cho cha đó?. Tư lệnh Dư Chiêm Ngao cắn từng miếng bánh, hòa với dòng lệ tuôn trào, lần đầu tiên người anh hùng đã không cầm được nước mắt.
    Thái Nguyễn Bạch Liên dịch

  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Băng Tuyết Mỹ Nhân​

    Độc giả Việt Nam đã được đọc những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc Mạc Ngôn: Cao lương đỏ, Đàn hương hình, Báu vật của đời... Dường như ngược với lối viết tiểu thuyết rậm rạp chi tiết và nhiều yếu tố siêu thực, truyện ngắn này của ông giản dị, mạch lạc, "dễ" đọc hơn với số đông bạn đọc.
    Sau khi chú tôi nghỉ hưu ở bệnh viện thành phố, ông về thị trấn mở phòng khám, chữa bệnh tư. Tôi thi rớt đại học, việc nông lại chẳng biết, ở nhà nhàn rỗi không có việc gì làm, tâm tính đâm ra bất ổn. Cha tôi thấy thế sốt ruột quá, đành mặt dày mày dạn van vỉ chú tôi, cho tôi được học việc ở phòng khám của ông.
    Chú tôi vốn là thầy thuốc nông thôn kiểu "dầu cù là". Đông y, tây y, nội khoa, ngoại khoa, nhi khoa, phụ khoa, phàm người nào có bệnh tìm đến, ông đều chữa tuốt. Chữa khỏi hay không đương nhiên là chuyện khác. Sau khi cải cách mở cửa, chú tôi thi vào lớp chuyên tu của Học viện quân y tỉnh học hai năm, trở về bệnh viện thành phố mặc áo choàng trắng, đi găng tay, trở thành bác sĩ ngoại khoa mổ bụng moi ruột người. Hai năm chuyên tu ở Học viện y khoa của tỉnh làm chú tôi như hổ thêm cánh, to gan lớn mật, chỉ có bệnh người ta không dám mắc chứ không có dao nào mà chú tôi không dám mổ.
    ° ° °
    Tôi học việc với chú đã được hơn nửa năm. Công việc chính của tôi là quét nhà, đun nước, trưa đi mua ba hộp cơm, hai hộp mời chú thím và một hộp phần tôi. Vào mùa đông, tôi còn có thêm việc nữa là nhóm lò. Lò để ở gian ngoài, có lắp mấy ống dẫn hơi vào phòng mổ bên trong cho ấm.
    Hôm ấy tôi vừa nhóm lò xong thì thấy con chó mực quắp đuôi, trên lưng đầy tuyết đi qua. Nó đi rất cẩn thận như sợ đánh rơi tuyết trên lưng. Tôi vội đứng lên, lấy khăn lau cửa kính để nhìn cho rõ con chó, thì thấy một người thiếu nữ dỏng cao từ phía sông Mã Tang đi tới. Tôi nhận ra ngay đó là Hỉ Hỉ, một bạn học gái của tôi. Cô là con gái bà Mạnh. Nhà bà ở ngay mặt phố, mở quán lẩu đầu cá, nên người trong thị trấn gọi bà là Mạnh đầu cá, cô con gái cũng được gọi bằng Tiểu Mạnh đầu cá. Cô cao như mẹ nhưng thon thả hơn nhiều, cô có đôi môi đầy đặn, tươi rói, hơi cong cong, trông thật kiêu ngạo mà cũng thật nghịch ngợm. Tên cô là Mạnh Hỉ Hỉ.
    Hồi tôi còn chơi với mấy đứa càn quấy, tôi có đến ăn lẩu đầu cá ở hàng bà Mạnh, nhưng mỗi khi tôi trông thấy Mạnh Hỉ Hỉ từ xa là lòng tôi lại đau nhói. Cô đang bị đám bạn mất dạy của tôi vây quanh, chúng động chạm chân tay vào thân hình xinh đẹp của cô mà cô chẳng hề bực tức. Sau đó tôi thường tìm cớ gây sự, đánh nhau với bọn chúng, và mặc dù chúng còn nhẹ tay nhưng đã đủ làm tôi xưng vếu mặt mũi. Một lần tôi lấy lá bạc hà che cái mũi bị sưng tím từ bờ sông đi về thì vừa hay gặp Hỉ Hỉ. Tay cô dương chiếc dù màu sáng, trên người mặc áo mỏng tang như cánh ve, bên dưới là chiếc váy da ngắn cũn, tay bôi móng đỏ chót, móng chân cũng đỏ như vậy, cổ tay đeo dây chuyền vàng, cổ chân cũng đeo dây chuyền vàng, rõ ra vẻ của loại "bán cái ấy". Cô mỉm cười hỏi tôi, hàm răng như trắng bóng hơn: - Sao bạn lại ra nông nỗi này?
    Tôi nhổ một bãi nước bọt xuống đất trước chân cô, quay người đi luôn. Trực giác cho tôi biết Hỉ Hỉ còn đứng đó nhìn theo nhưng tôi không ngoảnh đầu lại, tôi không hiểu vì sao nước mắt đã lưng tròng...
    Lúc này tôi lại nhớ đến cha tôi. Khi ông nghe người ta bàn tán về chuyện phát tài của gia đình cô, cha tôi nói: "Phải tích đức cho cái mồm chứ! Người ta mẹ goá, con côi, mà mở được cửa hàng lớn. Các người không thích người ta phát tài, thế người ta chống gậy đi ăn mày thì các người mới hả lòng hả dạ hay sao?".
    Tôi biết cha tôi nói đúng nhưng hễ cứ nghĩ tới cái dáng phong lưu của Hỉ Hỉ thì trong lòng tôi lại như có lửa đốt. Tôi thường vén đùi tự chửi rủa: "Hỉ Hỉ là vợ, là chị của mày à? Đã chẳng phải vợ, chẳng phải chị em, mày có tư cách gì để quản người ta?". Sau khi học việc với chú, tôi không nghĩ nhiều đến cô nữa. Có nghĩ đến chỉ hơi buồn chứ không còn cảm giác muốn chết như trước.
    ° ° °
    Nhìn Hỉ Hỉ từ phía sông Mã Tang thong thả bước tới thì tôi cảm thấy có chuyện lạ. Trước hết là cô xuất hiện ở chỗ không cần xuất hiện - cửa hàng lẩu cá của nhà cô cách phòng khám bệnh của chú tôi rất xa, không cần tới rửa cá ở con sông trước cửa phòng khám bệnh, hai là tôi vừa nghĩ tới Hỉ Hỉ thì cô đi tới. Tôi không thể xác định cô đi đâu.Ở đầu đằng đông thị trấn mới mở một khách sạn tắm nước nóng. Người đến khám bệnh nói nơi ấy rất tập nập, nhiều đại gia các tỉnh khác đến đấy thả hồn, lẽ nào Hỉ Hỉ cũng đến đấy "làm ăn" với các đại gia? Tôi thấy tim đau nhói. Hỉ Hỉ đang đi đến gần hơn, tôi mong chỉ nháy mắt cô sẽ đi qua phòng khám bệnh. Tôi biết khi tôi nhìn bóng dáng cô mờ dần trong tuyết bay, tôi sẽ càng đau khổ hơn nữa, song tôi vẫn muốn cô đừng gõ cửa phòng khám rồi bước vào. Tôi đang nghĩ ngợi lung tung đến ứa nước mắt, cô đã đến trước cửa phòng khám. Một phút, hai phút rồi ba phút... Trời ơi, thế ra cô dừng lại ở trước cửa phòng khám hay sao? Nghe thấy tiếng gõ cửa khe khẽ, tôi nhảy bổ ra cửa, giật mạnh. Một luồng khí lạnh tươi mới ùa vào mang theo cả mùi nước hoa của cô - thứ nước hoa hồi còn học chung lớp, đã quen thuộc với tôi.
    - Bác sĩ Quản có nhà không? - Cô gật đầu với tôi, dịu dàng hỏi.
    - Không... nhưng chú tôi về ngay bây giờ.
    Cô cụp ô, giẫm chân mấy cái cho tuyết rơi, cởi áo khoác da dê đắt tiền khoác vào tay rồi ôm chặt trước ngực như sợ ai lấy mất. Giọng cô khàn khàn, mặt cô trắng bệch, trán đẫm mồ hôi. Tôi vội hỏi:
    - Bạn ốm đấy hả?
    - Không sao...
    Vừa lúc ấy, chú tím tôi bước vào. Hỉ Hỉ ôm áo lông đứng lên chào. Chú tôi chỉ "hừ" một tiếng, không thèm nhìn, còn thím tôi thì nhìn cô như thể mẹ chồng xoi mói, muốn tìm một lỗi gì đó ở con dâu. Bà mát mẻ:
    - Thì ra là Mạnh tiểu thư, khách hiếm tới phòng này. Sao thế, cô đau ở đâu? Mời ngồi, mời ngồi!
    Mạnh Hỉ Hỉ ngồi xuống ghế, ngượng ngịu, vẻ mặt càng khó coi hơn, trán vẫn đổ mồ hôi. Hai mép vốn cong lên, bây giờ quặp xuống, hình thành nếp nhăn, chạy mãi xuống tới cằm.
    - Đau ở đâu - chú tôi hỏi.
    Hỉ Hỉ nhích ghế ngồi đối diện với chú tôi, môi run run toan nói thì cửa bỗng bị tông bật ra, một bà béo mặc áo đen lăn vào như một quả bom:
    - Mẹ tôi nguy lắm... Vừa nôn vừa đau bụng, ngất đi rồi, thế mà hai ông con trai cứ mặc kệ... Mời bác sĩ...
    Lúc ấy ngoài đường có tiếng đàn bà kêu: "Đau quá, chết mất thôi...", rồi thấy hai người đàn ông dùng cánh cửa cáng bệnh nhân vào. Chú tôi đưa tay nắn chỗ da bụng đã phát đen của bà ta, nói:
    - Viêm ruột thừa có mủ rồi, phải mổ thôi.
    - Hết bao nhiêu?
    - Năm trăm!
    - Xin bác sĩ chữa cho. Hai em trai tôi không trả thì tôi trả - Người đàn bà béo nói.
    Lát sau trong phòng mổ có tiếng bệnh nhân kêu ré như lợn, rồi im lặng, chỉ có tiếng dao kéo va vào nhau lanh canh. Tôi biết chú tôi đang căng thẳng thần kinh, tập trung vào ca mổ.
    Ởngoài này, mồ hôi trên trán Hỉ Hỉ chảy thành dòng, vẻ mặt tỏ ra đau đớn. Cô vẫn ngồi thẳng, chỉ có hai tay không ngừng động đậy, lúc nắm chặt vạt áo lông, lúc buông ra. Tôi quan tâm hỏi:
    - Bạn đau lắm à?
    Cô gật đầu rồi lại lắc. Mắt cô đẫm nước mắt khiến tôi cũng ứa lệ theo. Chợt cô run run nói:
    - Nhờ bạn hé cửa... hé cửa giùm...
    Tôi giật cửa, hoa tuyết ùa vào, mấy người nhà bệnh nhân viêm ruột thừa kêu ầm lên.
    Sau ngày nghĩ lại, tôi bảo đúng là có số. Khi chú tôi mở cửa phòng mổ, vứt chuẩn xác đôi găng tay vấy máu vào bồn nước, bảo người nhà bệnh nhân cáng bà ta về thì một người đàn ông nữa như con nhặng mất đầu xô cửa xông vào. Hai tay ông bưng lấy mặt. Máu rỉ qua kẽ tay nhưng tôi cũng nhận ra là Mã Khuê, người chuyên nghiệp làm pháo hoa ở đầu trấn đằng tây.
    - Xui xẻo quá, định nhân ngày tuyết rơi thử làm pháo nổ đôi, không ngờ... Bác sĩ ơi, cứu tôi với...
    - Đáng đời! - Chú tôi bực mình nói - Sao nó không nổ cho đứt luôn đầu ông đi?
    - Cứu tôi với... Tôi còn mẹ già tám mươi tuổi... - Mã Khuê kêu khóc.
    Thím tôi dìu Mã Khuê vào phòng mổ, chú tôi cũng bỏ mặc Hỉ Hỉ ngồi đấy, không thèm gật đầu với cô một cái. Tôi rất không bằng lòng với chú, cảm thấy ông cố tình bỏ rơi Hỉ Hỉ. Dựa vào tay nghề và kinh nghiệm, chú có thể chẩn đoán bệnh cho Hỉ Hỉ xen giữa hai ca mổ ấy.
    Có lẽ Hỉ Hỉ nhận ra vẻ bất mãn của tôi nên khi tôi lấy làm tiếc nhìn cô thì cô khe khẽ lắc đầu. Trong phòng mổ lại vang lên tiếng kêu gào và tiếng quát mắng. Đã gần mười hai giờ trưa, đến giờ tôi đi mua cơm hộp, nhưng tôi không thấy đói, chỉ thấy ruột rối như canh hẹ. Tôi hỏi Hỉ Hỉ: "Tôi đi mua cơm cho bạn ăn nhé?".
    Cô nhè nhẹ lắc đầu. Tôi thây lúc này trán cô không túa mồ hôi nữa nhưng mặt đã chuyển sang màu nghệ, môi đã tím tái, cả đôi mắt vốn long lanh của cô cũng phủ một lớp mây đen. Trong ký ức của tôi, cô luôn sống động, tươi cười hớn hở, tiếng nói trong trẻo, tiếng cười ròn rã, còn bây giờ..., chỉ cách hôm tôi nhổ nước bọt trước chân cô chưa tới nửa năm.
    Không biết tuyết bên ngoài ngừng rơi từ lúc nào, gió cũng dịu đi. Một tia nắng ló ra khỏi đám mây đen, đám tuyết phủ đầy mặt đất phản xạ lại màu sáng trắng. Tôi bảo Hỉ Hỉ: "Tuyết ngừng rơi, nắng lên rồi kìa!".
    Cô không gật đầu mà cũng không lắc, càng không đáp lời tôi. Bỗng dưng tôi phát hiện, chỉ trong giây phút thôi, mặt cô trắng bệch ra như sáp. Mi mắt cũng sụp xuống, lông mi dài dường như chạm cả vào da dưới mắt. Tôi giật nẩy người, lớn tiếng gọi tên cô: "Hỉ Hỉ!".
    Cô không có phản ứng gì, tôi chồm tới lay vai cô. Dường như cô thở hắt ra, đầu bỗng ngật sang một bên.
    - Chú ơi! - Tôi đập cửa phòng mổ - Chú ơi!
    - Làm gì mà kêu toáng lên thế?
    - Hình như Mạnh Hỉ Hỉ chết... chết rồi!
    Chú tôi nhanh nhẹn không ngờ, nhào ra. Chú tiêm thuốc trợ tim, chú nắm tay lại ấn mạnh xuống vùng tim, chút giật bóng đèn đi, lấy đầu dây điện gí vào vùng tim của Hỉ Hỉ rồi mặt đầy mồ hôi, chú thất vọng đứng lên.
    Đồng tử của Hỉ Hỉ đã dãn.
    Thím tôi hấp tấp nói:
    - Mình chẳng có trách nhiệm gì cả!
    Chú tôi lườm thím một cái, nói:
    - Thôi câm mẹ mồm đi!

    Dịch Giả: Phạm Tú Châu

  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Linh Dược (I)​




    Chiều hôm đó, chi đội lao động vũ trang dán yết thị trên bức tường vôi trắng hướng ra con đường nhà Mã Khúc Tam, thông báo về buổi hành quyết sáng mai ở địa điểm thường lệ: đầu cầu phía nam sông Giao. Mọi dân làng khỏe mạnh phải có mặt để học tập. Năm đó người ta hành quyết quá nhiều tới nỗi thiên hạ chẳng buồn để ý nữa, và cách duy nhất để có đông người xem là bắt ép họ phải có mặt.
    Căn phòng vẫn tối như mực lúc ba ngồi dậy thắp đèn dầu lạc. Sau khi mặc áo khoác ấm, ông đánh thức tôi và giục tôi ra khỏi giường, nhưng trời lạnh nên tôi chỉ muốn nằm trong chăn ấm. Cuối cùng ba kéo chăn, ông gọi:
    - Dậy đi, chi đội lao động vũ trang chỉ muốn xong việc sớm. Nếu ra trễ, mình sẽ lỡ cơ hội.
    Tôi theo ba ra cổng. Bầu trời phía đông rực sáng. Đường xá lạnh buốt và vắng tanh, gió tây bắc thổi suốt đêm quét sạch bụi; con đường xám xịt hiện rõ. Ngón tay và ngón chân tôi lạnh như chấu cắn. Đi ngang khu nhà của Mã, nơi chi đội lao động vũ trang đóng, chúng tôi thấy cửa sổ sáng và nghe tiếng ống bễ. Ba nói nhỏ:
    - Nhanh chân lên. Chi đội lao động đang ăn sáng.
    Ba kéo tôi lên bờ sông, ở đó có thể thấy dáng cây cầu đá tối tăm và những mảng băng dưới lòng sông. Tôi hỏi:
    - Mình núp ở đâu hở ba?
    - Dưới cầu.
    Chân cầu không có ai và tối như mực, chưa kể còn lạnh cứng. Da đầu tôi như bị kim châm, vì thế tôi hỏi ba:
    - Sao da đầu con như bị kim châm?
    Ông nói:
    - Ba cũng vậy. Họ bắn nhiều người ở đây quá đến nỗi oan hồn khắp nơi.
    Tôi phát hiện những hình thù lông lá cử động trong bóng tối dưới cầu. Tôi la lên:
    - Oan hồn kìa!
    Ba nói:
    - Không phải oan hồn. Đó là lũ chó ăn xác chết.
    Tôi rụt lại tới khi đụng chân cầu lạnh thấu xương. Tôi nghĩ tới bà nội, mắt bà mờ đục như mù. Bầu trời sẽ sáng hẳn khi ba vì sao phía tây chiếu nghiêng xuống lòng cầu. Ba đốt ống vố, mùi thuốc thơm ngát bao phủ. Môi tôi tê cứng.
    - Ba, con ra ngoài chạy được không? Con lạnh cóng rồi.
    Câu trả lời của ba là:
    - Nghiến răng lại. Chi đội lao động vũ trang sẽ bắn tù nhân khi mặt trời ban mai còn đỏ.
    - Họ bắn ai sáng nay hả ba?
    Ba nói:
    - Ba không biết. Nhưng chả bao lâu sẽ biết. Ba hy vọng họ bắn người nào còn trẻ.
    - Sao vậy?
    - Người trẻ có cơ thể trẻ. Hiệu quả hơn.
    Tôi muốn hỏi thêm, nhưng Ba đã mất kiên nhẫn:
    - Đừng hỏi nữa. Mình nói chuyện dưới này, trên kia họ nghe được đó.
    Trong khi chúng tôi nói chuyện, bầu trời đổi sang trắng như bụng cá. Lũ chó làng đã họp thành bầy sủa ông ổng, nhưng vẫn không át được tiếng khóc của các bà. Ba bước khỏi chỗ núp và đứng một lát trên lòng sông, vểnh tai về hướng làng. Lúc này tôi thực sự bồn chồn. Lũ chó ăn xác chết lảng vảng dưới chân cầu nhìn đăm đăm như muốn xé xác tôi. Tôi không biết điều gì giữ mình khỏi bỏ chạy. Ba lom khom quay lại. Tôi thấy môi ông run trong ánh ban mai mờ nhạt nhưng không rõ ông lạnh hay sợ. Tôi hỏi:
    - Nghe gì không ba?
    Ba thì thào:
    - Im. Họ tới bây giờ. Ba nghe họ đang trói tội nhân.
    Tôi sát lại gần ba và ngồi xuống lùm cỏ dại. Lắng nghe thật kỹ, tôi có thể nghe tiếng cồng trong làng, lẫn với tiếng đàn ông bực tức:
    - Dân làng hãy tới đầu cầu phía nam để coi hành quyết, bắn tên địa chủ bạo ngược Mã Khúc Tam, vợ hắn, và tên xã trưởng bù nhìn Luân Phong Sơn. Lệnh của thủ trưởng Trương, trưởng chi đội lao động vũ trang, kẻ nào không đi sẽ bị trừng phạt, coi như là đồng lõa.
    Tôi nghe ba lầm bầm:
    - Tại sao bắn Mã Khúc Tam? Họ không nên bắn ông ấy.
    Tôi muốn hỏi ba tại sao họ không nên bắn Mã Khúc Tam, nhưng chưa kịp mở miệng thì tôi nghe tiếng súng; viên đạn vút đi, lên tít bầu trời. Rồi tiếng vó ngựa tiến về hướng chúng tôi, tới tận đầu cầu, tiếng vó ngựa trên cầu lóc cóc như tiếng gió lốc. Ba và tôi rút vào nhìn những tia nắng xuyên qua khe hở giữa các hòn đá. Cả hai chúng tôi sợ hãi không rõ chuyện gì đang xảy ra. Sau khoảng thời gian hút xong nửa ống vố, chúng tôi nghe tiếng người tới gần hò hét. Họ dừng lại. Tôi nghe một người giọng như vịt quang quác:
    - Kệ nó, ****** nó. Không bắt được nó đâu.
    Hai tiếng súng bắn chỗ vó ngựa. Tiếng vang trên tường nơi chúng tôi núp. Tai tôi ù đặc, mùi thuốc súng nồng nặc.
    Tiếng quang quác lại trồi lên:
    - Thằng khốn, mày bắn cái gì? Giờ này nó đã qua quận khác mất rồi.
    Có tiếng người nói:
    - Tôi không dè nó làm như vậy. Thủ trưởng Trương ạ, nó chắc là tá điền.
    Tiếng vịt quác:
    - Nó là đồ chó quấn đít giai cấp địa chủ.

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 04:09 ngày 19/05/2004
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Linh Dược (II)​
    Có người bước tới thành cầu tiểu xuống. Mùi hôi nồng nặc. Tiếng vịt quác:
    - Thôi, quay lại. Mình còn lo vụ xử bắn nữa.
    Ba thì thầm với tôi rằng gã nghe như vịt là trưởng chi đội lao động vũ trang được quận giao trách nhiệm nhổ sạch bọn phản Đảng. Người ta gọi gã là Thủ trưởng Trương.
    Bầu trời đổi sang màu hồng trên chân trời phía đông, các đám mây mỏng thấp lơ lửng hiện ra, chẳng bao lâu mây cũng ráng hồng. Lúc này trời đủ sáng để thấy phân chó khô cứng trên mặt đất nơi chúng tôi núp, và mấy mảnh vải rách, nhúm tóc, và một sọ người bị nhai nát. Tôi phải quay mặt đi vì ghê tởm. Lòng sông khô như xương, ngoại trừ mấy vũng nước đóng băng đây đó, những bụi cỏ dại điểm sương mọc trên bờ dốc. Gió bấc đã lặng, cây cối trên bờ sông đứng thẳng lặng yên trong bầu khí giá lạnh. Tôi quay nhìn ba thấy hơi thở của ông. Thời gian như đứng yên. Rồi ba nói:
    - Họ tới kìa.
    Đoàn hành quyết tới đầu cầu ầm ĩ tiếng cồng nhốn nháo và tiếng vó ngựa điếc tai. Rồi có tiếng oang oang:
    - Thủ trưởng Trương, thủ trưởng Trương ơi, cả đời tôi là người tốt...
    Ba thì thầm:
    - Mã Khúc Tam.
    Một tiếng nói khác yếu ớt nức nở:
    - Thủ trưởng Trương, xin ông khoan hồng... Chúng tôi bầu xã trưởng. Tôi đâu có muốn làm... Chúng tôi bầu. Tôi rút trúng cọng cỏ ngắn, tôi xui xẻo... Thủ trưởng Trương, xin ông khoan hồng, tha mạng chó của tôi... Tôi còn mẹ già tám mươi phải trông nom...
    Ba thì thầm:
    - Luân Phong Sơn.
    Sau đó, một tiếng the thé nói:
    - Thủ trưởng Trương ơi, ông ở nhà tôi, tôi nuôi ông ăn đầy đủ, cho ông uống rượu ngon nhất. Tôi còn cho cả đứa con gái mười tám tuổi của tôi chăm lo mọi thứ ông cần. Thủ trưởng Trương, ông đâu có lòng gang dạ sắt nào?
    Ba nói:
    - Vợ Mã Khúc Tam.
    Cuối cùng, tôi nghe tiếng đàn bà rống:
    - U-la-ah-ya...
    Ba thì thầm:
    - Bà vợ câm của Luân Phong Sơn.
    Bằng giọng điềm tĩnh hững hờ, thủ trưởng Trương nói:
    - Tụi mày sẽ bị bắn dù có làm om sòm hay không, vậy thì im đi. Ai cũng phải có lúc chết. Tụi mày xong cho sớm để đi đầu thai kiếp khác.
    Khi đó Mã Khúc Tam nói lớn với đám đông:
    - Thưa bà con, trẻ cũng như già, tôi, Mã Khúc Tam, chưa từng hại ai. Bây giờ xin bà con hãy phát biểu cho tôi...
    Vài người khuỵu xuống thành tiếng và bắt đầu tuyệt vọng cầu khẩn:
    - Xin thủ trưởng Trương khoan hồng. Để họ sống. Họ là người chân thật, cả bọn họ...
    Một giọng thanh niên la át tiếng kẻ khác:
    - Thủ trưởng Trương, tôi đề nghị chúng ta bắt bốn tên chó đẻ này quì xuống ngay trên cầu lạy một trăm lạy. Rồi mình trả lại đời chó của chúng. Ông nghĩ sao?
    Thủ trưởng Trương trả lời giọng đe dọa:
    - Cao Nhân Sơn, anh có ý kiến à! Anh cho tôi, Trương Khuất Để, là thứ ma báo oán hả? Tôi thấy anh làm trưởng ban dân phòng đủ lâu rồi đấy! Thôi đứng lên, dân làng. Quỳ như thế lạnh lắm. Chính sách rõ ràng. Bây giờ không ai có thể cứu chúng, thôi mọi người đứng lên.
    Mã Khúc Tam khẩn khoản:
    - Dân làng, làm ơn xin cho tôi...
    Thủ trưởng Trương cắt ngang:
    - Đừng lần lữa nữa. Tới giờ rồi.
    - Tránh ra, tránh chỗ!
    Vài thanh niên ở đầu cầu, hầu hết là người của chi đội lao động vũ trang, dẹp những người đang quỳ trên cầu. Rồi Mã Khúc Tam khấn trời:
    - Trời già mù sao? Tôi, Mã Khúc Tam, đổi cả đời làm việc tốt bằng một viên đạn vào đầu sao? Trương Khuất Để, đồ chó đẻ, mày sẽ chết bờ chết bụi. Đồ chó đẻ.
    Thủ trưởng Trương gầm:
    - Lẹ lên! Hay tụi mày muốn nghe nó phun nọc độc?
    Tiếng chân chạy băng qua cầu trên đầu chúng tôi. Qua các khe đá, tôi thoáng thấy người. Tiếng người ở đầu cầu phía nam ra lệnh:
    - Quỳ xuống!
    Tiếng ở đầu phía bắc hét lớn:
    - Mọi người tránh ra.
    Đùng - đùng - đùng, ba tiếng súng.
    Tiếng nổ rung màng nhĩ tới nỗi tôi tưởng mình điếc. Lúc đó, mặt trời đã lên khỏi chân trời phía đông, vầng đỏ thắm tỏa ra từ các đám mây như tán cây thông khổng lồ. Khối thịt kềnh càng từ từ đổ xuống trên cầu như mây trôi, ngã uỵch xuống mặt đất băng giá bằng sức nặng của nó. Dòng máu trong như pha lê nhỉ ra trên đầu.
    Hỗn loạn và kinh hoàng ở đầu cầu phía bắc - tôi nghe như tiếng tan tác điên cuồng của dân làng bị huy động chứng kiến cảnh hành quyết. Nó không giống tiếng chi đội lao động vũ trang đuổi theo kẻ đào ngũ.
    Một lần nữa, tiếng chân chạy qua cầu từ bắc sang nam, theo sau tiếng hô ?oQuỳ xuống? ở đầu cầu phía nam và tiếng ?oTránh ra? ở phía bắc. Rồi ba tiếng súng nữa - Luân Phong Sơn đầu trần mặc áo khoác vá rách rưới gục xuống nơi bờ sông, thoạt tiên đổ vào Mã Khúc Tam rồi lăn sang bên cạnh.
    Sau đó, mọi việc đơn giản hơn. Một tràng súng át tiếng ồn và xác hai phụ nữ rũ rượi đổ xuống, tay chân tung ra, rơi vào thân hình của hai người chồng.
    Tôi nắm chặt tay Ba, cảm thấy quần của mình ấm và ướt.
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Linh Dược (III)​
    Ít nhất năm sáu người đứng ngay phía trên cầu; hình như sức nặng của họ xuyên qua nền đá đè xuống thẳng đầu chúng tôi. Tiếng quát như sấm của họ gần như điếc tai:
    - Có nên kiểm lại xác không thủ trưởng?
    - Kiểm làm gì? Óc tung tóe cả ra. Ngọc hoàng có xuống cũng không cứu được.
    - Thôi, đi! Vợ ông Quốc đang rán đậu đợi mình.
    Họ qua cầu về hướng bắc, bước chân như tiếng tuyết lở. Nền cầu đá lắc kẽo kẹt như muốn đổ xuống bất cứ lúc nào. Hay là tôi cảm thấy thế.
    Im lặng trở lại.
    Ba thúc khuỷu tay tôi:
    - Đừng đứng đó như thằng ngốc. Làm đi.
    Tôi nhìn quanh, nhưng mọi thứ vô nghĩa. Ngay cả ba tôi, vốn quá thân thuộc, nhưng tôi vẫn không thể nhớ ra ông.
    Chắc tôi chỉ có thể nói:
    - Hả? Hả?
    Ba nói:
    - Con quên à? Mình tới đây để lấy linh dược cho bà nội. Phải làm nhanh, trước khi bọn chúng tới vồ lấy.
    Lời ba nói vẫn vang trong tai tôi lúc bảy tám con chó hoang đủ màu lê bóng dài rời lòng sông đi tới hướng chúng tôi, chúng đang sủa tôi. Tôi chỉ nghĩ được là khi tiếng súng đầu tiên vang lên, chúng đã quay đầu vừa bỏ chạy vừa sủa kinh hoàng.
    Tôi nhìn ba đá văng vài viên gạch và ném những con chó đang tới gần. Chúng bỏ chạy nhốn nháo. Rồi ông lấy dao lạng thịt trong áo khoác quơ lên không để dọa bầy chó. Những vầng sáng bạc đẹp lấp lánh chung quanh bóng ông. Bầy chó đứng xa một lát. Ba thắt sợi dây quanh hông và xắn tay áo. Ông nói:
    - Coi chừng cho ba.
    Như ó vồ mồi, ba kéo mấy cái xác phụ nữ ra, rồi lăn ngửa Mã Khúc Tam lên. Ông quỳ xuống vái. Ông khấn nhỏ:
    - Ông chủ Mã ơi, lòng trung thành và hiếu thảo có hạn. Tôi không muốn làm điều này đâu.
    Tôi thấy Mã Khúc Tam giơ tay lau khuôn mặt đẫm máu. Ông mỉm cười nói: ?oTrương Khuất Để, mày sẽ chết bờ chết bụi?.
    Ba cố dùng một tay cởi cúc áo da của Mã Khúc Tam nhưng quá run. Tôi nghe ông nói:
    - Này con, cầm dao cho ba.
    Tôi nhớ mình đưa tay ra nhận con dao, nhưng ba đã ngậm dao vào miệng trong khi ông cố cởi hàng cúc vàng trên ngực Mã Khúc Tam. Cúc tròn, đính những hạt vàng lớn như hạt đậu xanh, hầu như không thể cởi khỏi khuyết áo. Sốt ruột, ba giật đứt cúc và giật toang áo khoác, để lộ áo lót da dê non. Áo xa-tanh có cùng bộ cúc, vì thế ba cũng giật đứt. Sau áo ngắn là cái yếm lụa đỏ. Tôi nghe ba thở phì phì giận dữ. Tôi phải thú nhận rằng đã ngạc nhiên khi thấy áo quần đẹp lạ lùng mà ông lão to béo - ông trên năm mươi - mặc bên trong bộ áo thường. Nhưng ba hình như rất tức giận, ông xé toang áo khỏi xác chết và vứt sang bên. Rốt cuộc, cái bụng tròn và ngực lép của Mã Khúc Tam lộ ra. Ba nắm lấy tay ông ta, nhưng lại nhổm lên, mặt ba vàng tái. Ông nói:
    - Này con, coi tim ổng còn đập không.
    Tôi nhớ mình cúi xuống đặt tay lên bộ ngực. Tiếng đập không hơn tim thỏ, nhưng trái tim đó vẫn còn đập.
    Ba nói:
    - Ông chủ Mã ơi, óc ông đã rơi ra đất, bây giờ ngay cả Ngọc hoàng cũng không cứu nổi, vì thế giúp tôi làm đứa con hiếu thảo nhé?
    Ba lấy dao khỏi miệng và dò trên vùng ngực, cố tìm đúng chỗ để cắt. Tôi thấy ông ấn xuống, nhưng làn da dội lại không suy xuyển, như bánh xe cao su. Ông lại ấn xuống nhưng cũng thế. Ba khuỵu gối:
    - Ông chủ Mã ơi, tôi biết ông không đáng tội chết, nhưng nếu ông muốn trả thù thì cứ trả thù thủ trưởng Trương chứ đừng trả thù tôi. Tôi chỉ cố làm đứa con hiếu thảo.
    Ba mới ấn lưỡi dao xuống hai lần mà trán ông đã đẫm mồ hôi, râu cằm ông trắng xóa hơi băng. Bầy chó hoang khốn nạn nhích lại càng lúc càng gần chúng tôi, mắt chúng đỏ như than hồng, lông cổ dựng đứng như lông nhím, răng nanh sắc như dao cạo trần trụi. Tôi quay sang ba:
    - Nhanh lên, bầy chó đang tới.
    Ông đứng lên, huơ dao trên đầu, tấn công bầy chó hoang như người điên, đuổi chúng lui lại khoảng nửa đường tên bay. Rồi ông chạy lại, vừa hổn hển vừa nói lớn:
    - Ông chủ à, nếu tôi không mổ ông ra, bầy chó sẽ lấy răng xé xác ông. Tôi nghĩ ông thà để tôi làm còn hơn chúng nó.
    Hàm răng ba nghiến chặt, mắt ông lồi ra. Với vẻ cương quyết, ông đưa tay xuống; lưỡi dao thọc vào ***g ngực Mã Khúc Tam một tiếng ọc lút cán. Ông giật lưỡi dao sang bên, dòng máu đen ồ ra, nhưng vướng khung sườn.
    - Quên.
    Ông vừa nói vừa rút lưỡi dao lau trên áo da của Mã Khúc Tam, nắm chặt cán và mở ***g ngực.
    Tôi nghe tiếng ọc ọc và nhìn lưỡi dao lạng qua lớp mỡ dưới da để lộ bộ ruột vàng ngoằn ngoèo như rắn, như một đống lươn, mùi nóng hôi hám.
    Vớt ruột ra từng vốc tay, ba như khích động: ông kéo, ông lôi, ông nguyền rủa, ông chửi bới. Cuối cùng, ông lấy hết bộ ruột, để lại Mã Khúc Tam rỗng bụng.
    Tôi nóng nảy hỏi ông:
    - Ba còn kiếm gì nữa?
    - Túi mật. Túi mật của ổng đâu mất rồi?
    Ba cắt qua cơ hoành và mò tới khi tay ông đụng trái tim còn đỏ tươi. Rồi ông moi phổi ra. Cuối cùng, bên cạnh lá gan, ông tìm thấy túi mật bằng quả trứng. Ông cẩn thận dùng mũi dao tách nó khỏi lá gan, rồi để trong lòng bàn tay xem xét. Món đồ ướt và trơn, rực rỡ trong ánh mặt trời. Như viên ngọc tía.
    Ba đưa tôi túi mật:
    - Giữ cẩn thận trong khi ba lấy mật của Luân Phong Sơn.
    Lần này, Ba thi hành như nhà giải phẫu lành nghề: khéo léo, nhanh nhẹn, chính xác. Thoạt tiên, ông cắt sợi dây gai Luân Phong Sơn dùng làm thắt lưng. Rồi ông cởi phía trước cái áo khoác rách rưới, dùng chân giữ yên bộ ngực xương xẩu gầy guộc lúc ông cắt nhanh bốn năm nhát. Sau đó, ông dọn hết những chướng ngại, thò tay vào, lôi túi mật của Luân ra như thể đó là cái lỗ của một quả mơ[1].
    Ba nói:
    - Thôi, đi.
    Chúng tôi chạy lên bờ sông, nơi bầy chó tranh nhau những khúc ruột. Chỉ còn một vết đỏ trên viền mặt trời, lòng ruột, lớn nhỏ, phơi ra dưới tia nắng chói mắt.
    Theo thầy pháp La Đại Sơn, bà nội bị bệnh đục con ngươi. Nguồn gốc căn bệnh là nhiệt bốc lên từ ba hốc trong nội tạng của bà. Linh dược phải là một vật rất lạnh và rất đắng. Thầy nâng áo thụng bước ra cửa lúc ba xin thầy cho toa.
    Thầy pháp La bảo ba kiếm mật heo cho bà uống, sẽ làm mắt bà sáng được một chút. Ba hỏi:
    - Mật dê được không?
    Thầy nói:
    - Dê được, gấu cũng được. Nào, giá ông kiếm được mật người ... ha ha ... tốt, nếu mắt mẹ ông có sáng lại như bình thường tôi cũng chẳng ngạc nhiên.
    Hết
    Người dịch: Phạm Văn
    Chú thích:
    [1] Bản tiếng Anh chỗ này cũng hơi tối nghĩa: ... "and, as if it were the pit of an apricot, removed Luan"s gall bladder".
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Cây Tỏi Nổi Giận
    Dịch giả: Trần Đình Hiến
    Chương 01​

    Xin bà con lắng nghe tui kể ngọn nguồn
    Về Thiên Đàng nơi hạ giới
    Đồng ruộng phì nhiêu hai mươi vạn mẫu
    Dòng sông xanh nước chảy hiền hòa
    Đã nuôi dưỡng nam thanh nữ tú
    Nổi danh thiên hạ ngồng tỏi quê ta!
    Trích đoạn lời hát sẩm của Khấu mù
    Ở huyện Thiên Đường

    - Cao Dương!
    Trưa hôm ấy nắng như đổ lửa. Đã laâu trời không mưa, bụi hồng cuồn cuộn dạo chơi giữa trời và đất, mùi tỏi thối xông lên nồng nặc. Đàn quạ uể oải bay qua, bóng xám loang loáng trên sân. Trong sân, ngồng tỏi chưa bó chất đống, bốc mùi dưới ánh nắng gay gắt. Cao Dương ngồi xổm trên chiếc bàn ăn thấp ở gian giữa, nhướng cặp lông mày hãm tài hình chữ bát, tay bê bát canh ngồng tỏi, cố nén cảm giác buồn nôn chỉ chực trào lên từ dạ dày đễ húp một ngụm, thì nghe tiếng gọi giật giọng bên ngoài cổng khép hờ. Anh đặt vội bát canh, vừa đánh tiếng vừa bước ra sân.
    Dừng lại trước cửa buồng, anh hỏi:
    - Chú Kim Giác phải không ạ? Mời chú vào trong nhà.
    Giọng nói bên ngoài có dịu đi:
    - Cao Dương, ra ngoài này có việc cần bàn với anh.
    Không dám chậm trễ, anh ngoái lại dặn:
    - Hạnh, đừng sờ soạng lung tung, khéo bỏng tay!
    Ngồi bên bụt mọc bên mâm cơm là đứa con gái tám tuổi, mắt đẹp mê hồn nhưng thong manh, không nhìn thấy gì. Anh bước ra sân, đất nóng rẩy dưới chân. Hơi nóng bốc lên, mắt cay xè. Anh phủi bụi bám trên ngực, nghe thấy tiếng khóc của thằng con trai mới sinh và người vợ dị tật của anh lẩm bẩm câu gì đó. Vậy là mình đã có con trai. Anh ngoái nhìn chổ cửa sổ tối mò, cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm. Làn gió tây nam đưa tới mùi thơm đắng của tiểu mạch. Sắp vào vụ rồi. Bất chợt anh thấy chột dạ, định không ra, nhưng hai chân cứ đủn anh đi tới. Mùi thối rửa của ngồng tỏi khiến mắt anh mọng nước. Anh dùng bắp tay trần dụi mắt, anh biết mình không khóc.
    Anh mở cổng, hỏi: ?oChuyện gì vậy, chú?...Ơ kìa!..?.Một mảng những sợi tơ màu cánh trả bay lượn trước mắt anh, y hệt ngàn vạn ngồng tỏi xanh non đang nhảy múa. Một vật đập vào mắt cá chân phải, cú đập chậm nhưng cực mạnh, khiến anh rung động toàn bộ tim gan mề phổi. Anh nhắm tịt mắt hốt hoảng kêu lên, chúi người sang bên phải, thì kheo chân trái bị một đạp. Anh rên rỉ, cong người như con tôm, phủ phục xuống tam cấp. Anh định mở mắt nhưng bờ mi nặng chịch, mùi tỏi xông nhức mắt, nước mắt cứ thế mà ứa ra. Anh biết không phải mình khóc, định giơ tay lên dụi ma&t thì một vật lạnh toát đã bập vào cổ tay, từ nơi tận cùng của lổ tay vang lên hai tiếng ?otách? khô khốc, y như bị đóng hai nhát đinh vào đầu.
    Mãi sau anh mới mở được mắt ra. Qua màn nước mắt nhòe nhoẹt, anh nhìn thấy hai viên cảnh sát cao to mặc áo trăùng, quần xanh nẹp đỏ. Trước tiên, anh nhìn thấy từ eo trở xuống. Những vết ố đã ngả màu trắng trên đũng quần xanh; những vết ố đã ngả màu đen trên vạt áo trắng, thắt lưng da to bản đeo súng lục và dùi cui, khóa thắt lưng sáng loáng. Anh nhìn lên: Hai khuôn mặt vô cảm, lạnh như tiền. Không đợi anh mở miệng; viên cảnh sát bên trái khua tờ giấy có dấu son đò chót, nói khẽ, giọng hơi cà lăm: ?oMày?mày đã bị bắt!?.
    Lúc này anh mới phát hiện chiếc còng sáng loáng đang ngoạm trên cổ tay đen đúa của anh, chiếc xíxh sắt nặng chịch nối hai mỏ còng. Anh giơ tay, chiếc xích chỉ đung đưa nhẹ. Một cảm giác ớn lạnh toàn thân khiến máu anh đông cứng, nhưng sau đó lại chảy chầm chậm, nhưng là máu lạnh. Co rúm toàn thân, hai hòn dái thót lên bụng dưới khiến chổ ấy đau thắt, dòng nước tiểu vọt ra, anh cảm thấy mình đang vãi đái ra quần. hai hòn dái thót lên bụng dưới khiến chổ ấy đau thắt, dòng nước tiểu vọt ra, anh cảm thấy mình đang vãi đái ra quần. Anh cố nhịn, hưng khi nghe tiếng nhị hồ réo rắt, như khóc như than của anh Khấu mù từ đâu vẳng tới thì cơ bắp anh nhảo ra. Vì anh đang quì, nên nước tiểu chảy trên đùi, thấm ướt đũng quần, rồi chảy dài trên hai bàn chân đầy chai sạn. Anh còn nghe thấy tiếng nước tiểu khi vọt ra và khi chảy róc rách trong đũng quần.
    Viên cảnh sát giơ bàn tay lạnh ngắt tóm cánh tay anh, vẫn giọng cà lăm: ?oĐứng?đứng lên!?.
    Anh mơ màng định níu tay viên cảnh sát, chiếc còng đã rung lên loảng xoảng, vừ rung vừa xiết chặt thêm vào cổ tay. Anh kinh hoảng buông tay ra, hai bàn tay đưa ra phía trước như đang bê một vật dễ vỡ, cánh tay cứng nhắc như hai que củi.
    - Đứng? đứng dậy! ?" Viên Cà Lăm lại giục. Anh dợm đứng lên. Chân vừa chạm đất, chỗ mắt cá đau rát như châm lửa, anh chúi xuống, lại phủ phục trên tam cấp.
    Hai cảnh sát từ hai bên cầm tay lôi anh đứng lên.Chân anh run rẩy như lò so, tấm thân gầy guộc treo trên cánh tay cảnh sát như quả lắc của chiếc đồng hồ.
    Viên cảnh sát bên phải lên gối, thúc một phát vào chổ xương cụt của anh, giận dữ: ?oĐứng dậy, quân đạo tặc! Cái gan đập phá trụ sở Ủy ban Huyện biến đâu mất rồi??.
    Câu cuối cùng anh không nghe rõ, nhưng đầu gối rắn như thép của viên cảnh sát thúc vào chổ xương cụt đã san xẻ cái đau ở mắt cá chân. Anh nhổm dây, hai chân chạm đất, đứng được. Cảnh sát buông tay ra. Cà Lăm khẽ giục: ?oĐi?Đi mau lên!?
    Đầu óc quay cuồng, tuy biết rất rỏ mình không khóc, nhưng nước mắt cứ thế tuôn ra, khiến anh chẳng nhìn rỏ bất cứ việc gì. Cảnh sát lại giục đi mau. Chiếc còng nặng chịch trên cổ tay khiến anh chợt hiểu chuyện gì đã xẩy ra. Không dám hỏi cảnh sát, anh cố đưa đẩy cái lưỡi khô ráp, hỏi ông Trưởng thôn đang đứng co ro dưới gốc cây hoè:
    - Chú ơi, sao lại bắt cháu?...Cháu có làm gì điều gì xấu?...
    Giọng khê đặc, anh biết mình đã khóc, nhưng hai mắt ráo hoảnh, nước mắt không chảy ra. Anh hỏi ông Trưởng thôn sao lại đánh lừa anh, dụ anh ra. Oâng trưởng thôn đứng tựa lưng vào thân cây một cách vô thức, các thớ thịt dồn đuổi nhau trên khuôn mặt, y hệt đứa trẻ bị người lớn tra hỏi. ?oChú ơi, cháu không phạm pháp, sao chú lừa cháu ra đây?? Anh gào lên. Mồ hôi túa ra trên cái đầu hói quá nửa của ông Trưởng thôn rồi chậm rãi rớt xuống từng giọt to tướng, hàm răng vàng khè nhe ra, hình như ông sẵn sàng bỏ chạy hoặc kêu toáng lên bất cứ lúc nào.
    Viên cảnh sát lại thúc gối giục anh đi. Anh quay lại, nhìn vào mặt anh ta hỏi:
    - Đồng chí?thủ trưởng, các đồng chí lầm chăng? Tôi là Cao Dương, chắc các đồng chí bắt lầm người!
    Cà Lăm nói:
    - Chính là bắt mày!
    - Tôi là Cao Dương?
    - Chính là bắt Cao Dương.
    - Tôi phạm tội gì mà bắt tôi?
    - Buổi trưa ngày 28 tháng 5 năm nay, mày cầm đầu đập phá cơ quan Huyện ?" Cà Lăm bỗng rành rọt từng tiếng.
    Mắt tối sầm, anh ngã cắm đầu xuống đất. Khi cảnh sát dựng anh dậy, cặp mắt xám nhạt, chớp liên hồi, anh rụt rè hỏi:
    - Thế là phạm tội à?
    - Đúng. Đi!
    - Nhưng đâu chỉ có mình tôi? Rất nhiều người cùng xông vào?
    - Không tên nào thoát!
    Đầu cúi gằm, anh những muốn đập đầu vào tường chết quách, nhưng hai viên cảnh sát kèm rất chặt, cựa không nổi. Anh bàng hoàng khi nghe tiếng ca não lòng của Khấu mù vọng tới:
    Chuyện kể rằng, năm Dân Quốc thứ Mười,
    Huyện Thiên Đường có chàng trai Đại Nghĩa
    Giương ngọn cờ hồng
    Dẫn dắt ân nghèo chống sưu chống thuế.
    Tri huyện đem quân ráp bố
    Bắt Đại Nghĩa đem ra chặt đầu
    Đại Nghĩa hiên ngang, quắc mắt mà rằng:
    Giết sao hết được ngườ Cộng sản!...
    Bụng nóng ran, đôi chân đã đứng được, môi run lên bần bật, trong đầu anhy chợt loé lên một ý nghĩ quái gở: Anh muốn hô khẩu hiệu. Nhưng nhìn sang, chợt thất quốc huy đỏ chói trên mũ viên cảnh sát, anh vừa xấu hổ vừa lúng túng, vội cúi xuống, hai tay đưa ra phía trước, líu ríu bước đi.
    Tiếng lộc cộc vang lên phía sau. Anh ngoảnh lại, thấy con Hạnh chọc cây gậy trúc trổ hoa văn bằng lửa, dò đường. Nó đã ra đến tam cấp, tiếng chọc gậy sắt nhọn như xoáy vào tim anh. Tự nhiên miệng anh méo xệch, nước mắt trào ra, nóng hổi. Anh hiểu, anh đã khóc thật sự. Anh định nói câu gì đó, nhưng họng tắc nghẹn, như có một vật nóng bỏng nút chặt.
    Con Hạnh mình trần, mặc chiếc quần vải điều, chân đi dép nhựa màu đỏ đã mấy lần đứt quai, chỗ nối bằng chỉ đen trông rất rõ. Bụi đất lấm tấm trên bụng, trên ngực, mái đầu húi cua kiểu con trai, nó dỏng tai ?" vành tai rất trắng ?" nghe ngóng. Anh cố nuốt cái vật chẹn ngang họng mà không được.
    Con Hạnh giơ cao chân bước qua ngưỡng cửa. Xưa nay anh không đẻ ý, nên không biết chân con bé lại dài đến thế. Nó đứng trên bậc đá, đúng chỗ anh phủ phục khi nãy. Cây gậy chỉ còn cao hơn nó khoảng một thước ta. Anh ngạc nhiên nhận ra rằng, con nhỏ sống lặng lẽ như cái bóng, vậy mà đã cao bằng nửa chiều cao của khung cửa ra vào. Anh cố nuốt cái vật chẹn ngang họng, nhìn không chớp cặp mắt đen láy trên khuôn mặt như thoa một lớp nhọ nồi, cặp mắt không có lòng trắng, sâu thăm thẳm, đến lạ!Nó nghiêng đầu, nét mặt tỏ ra từng trải, gọi một tiếng ?obố? để thăm dò, sau đó nó gọi thật to: ?oBố ơi!?
    Anh nuốt được cái vật trong họng, nuốt luôn cả những giọt nước mắt chảy vào miệng. Viên cảnh sát hoảng sợ đẩy anh một cái, nói khẽ:?Đi nhanh lên, chỉ vài hôm là cho về!?
    Anh nhìn trân trân vào mặt Cà Lăm, họng ngứa ran, miệng tự nhiên hé mở, bọt trắng và rớt dãi màu xanh nhạt đùn ra. Họng thông rồi, anh chớp thời cơ, gọi to:?Hạnh, bảo mẹ là??. Chưa nói hết câu, cổ họng anh lại tắc nghẹn.
    Trưởng thôn Cao Kim Giác bước tới chỗ tam cấp, bảo con bé:
    - Vào bảo mẹ là bố bị công an bắt đi rồi!
    Anh trông thấy con bé ngã ngồi trên ngưỡng cửa, mạnh đến nỗi bật ngửa ra sau, nhưng nó lập tức một tay chấm đất, một tay tì gậy đứng phắt dậy. Anh chỉ trông thấy con bé gào thét câu gì đó, vì trong tai anh toàn là tiếng sấm, khi gần khi xa, không nghe th61y tiếng gì khác. Con bé nhảy dựng lên như một con khỉ bị xích lại rồi quất bằng roi da. Nó đập gậy xuống tam cấp, đập lên khung cửa đã mục, nện xuống mặt đất khô cứng, mặt đất xuất hiện những vết màu trắng bệch.
    Tiếng kêu gào của vợ từ trong sân vọng ra, hai cảnh sát quát to: ?oTrưởng thôn, ông dẫn đường!?Rồi, không phân trần gì hết, mỗi người túm lấy một bên tay, vừa lôi vừa đẩy anh chạy về cuối thôn như lôi một đứa trẻ ngang bướng.
    Anh bị lôi đến bở hơi tai, mồ hôi đầm đìa. Lúc dừng chân, anh trông thấy vạt rừnh hòe tối mò, một ngôi nhà ba gian tọa lạc ở góc phía tây rừng cây. Thường ngày anh ít đến nơi này, nên không biết đó là nhà của ai. Cảnh sát điệu anh vào trong rừng rồi đứng thở dốc. Nhìn vai áo và quần áo chổ trên dưới thắt lưng của cảnh sát ướt đẫm, tự nhiên anh cảm thấy nể và ái ngại cho họ. Trưởng thôn Cao Kim Giáp lom khom chui vào rừng hòe, nói khẽ:
    - Có nhà?.Tôi ngó qua cửa sổ?đang giạng chân giạng tay ngủ trên giường?
    - Làm? làm sao bắt? ?" Cà Lăm hỏi đồng nghiệp ?" Hay là bảo Trưởng thôn đánh lừa nó ra? Thằng này từng là lính, e khó xoay sở!

Chia sẻ trang này