1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tác phẩm văn học

Chủ đề trong '1981 - Hội Gà Sài Gòn' bởi chichi_b2, 09/10/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. honghoavi

    honghoavi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2004
    Bài viết:
    1.412
    Đã được thích:
    0
    Phong kiều dạ bạc
    Trương Kế
    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
    Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
    Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
    Bán dạ chung thanh đáo khách thuyền.
    honghoavi
  2. daonambk

    daonambk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2006
    Bài viết:
    192
    Đã được thích:
    0

    Được daonambk sửa chữa / chuyển vào 16:57 ngày 10/11/2006
  3. daonambk

    daonambk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2006
    Bài viết:
    192
    Đã được thích:
    0
    Đề bài: ?oEm hãy phát biểu cảm nghĩ về một người thân yêu nhất?
    Bài làm:
    Trong cuộc sống hàng ngày, có biết bao nhiêu người đáng để chúng ta thương yêu và dành nhiều tình cảm. Nhưng đã bao giờ bạn nghĩ rằng, người thân yêu nhất của bạn là ai chưa? Với mọi người câu trả lời ấy có thể là ông bà, là mẹ, là anh chị hoặc cũng có thể là bạn bè chẳng hạn. Còn riêng tôi, hình ảnh người bố sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này.
    Bố tôi không may mắn như những người đàn ông khác. Trong suốt cuộc đời bố có lẽ không bao giờ được sống trong sự sung sướng, vui vẻ. Bốn mươi tuổi khi chưa đi được nửa chặng đời người, bố đã phải sống chung với bao nhiêu bệnh tật: Đầu tiên đó chỉ là những cơn đau dạ dày, rồi tiếp đến lại xuất hiện thêm nhiều biến chứng. Trước đây, khi còn khỏe mạnh, bao giờ bố cũng rất phong độ.
    Thế nhưng bây giờ, vẻ đẹp ấy dường như đã dần đổi thay: Thay vì những cánh tay cuồn cuộn bắp, giờ đây chỉ còn là một dáng người gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng lông mày rậm, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khuôn mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật không thể làm mất đi tính cách bên trong của bố, bố luôn là một người đầy nghị lực, giàu tự tin và hết lòng thương yêu gia đình.
    Gia đình tôi không khá giả, mọi chi tiêu trong gia đình đều phụ thuộc vào đồng tiền bố mẹ kiếm được hàng ngày. Dù bệnh tật, ốm đau nhưng bố chưa bao giờ chịu đầu hàng số mệnh. Bố cố gắng vượt lên những cơn đau quằn quại để làm yên lòng mọi người trong gia đình, cố gắng kiếm tiền bằng sức lao động của mình từ nghề xe lai.
    Hàng ngày, bố phải đi làm từ khi sáng sớm cho tới lúc mặt trời đã ngã bóng từ lâu. Mái tóc bố đã dần bạc đi trong sương sớm. Công việc ấy rất dễ dàng với những người bình thường nhưng với bố nó rất khó khăn và gian khổ. Bây giờ có những lúc phải chở khách đi đường xa, đường sốc thì những cơn đau dạ dạy của bố lại tái phát.
    Và cả những ngày thời tiết thay đổi, có những trưa hè nắng to nhiệt độ tới 38-48 độ C, hay những ngày mưa ngâu rả rích cả tháng 7, tháng 8, rồi cả những tối mùa đông lạnh giá, bố vẫn cố gắng đứng dưới những bóng cây kia mong khách qua đường. Tôi luôn tự hào và hãnh diện với mọi người khi có được một người bố giàu đức hy sinh, chịu thương, chịu khó như vậy.
    Nhưng có phải đâu như vậy là xong. Mỗi ngày bố đứng như vậy thì khi trở về những cơn đau quằn quại lại hành hạ bố. Nhìn khuôn mặt bố nhăn nhó lại, những cơn đau vật vã mà bố phải chịu đựng, tôi chỉ biết òa lên mà khóc. Nhìn thấy bố như vậy, lòng tôi như quặn đau hơn gấp trăm ngàn lần. Bố ơi, giá như con có thể mang những cơn đau đó vào mình thay cho bố, giá như con có thể giúp bố kiếm tiền thì hay biết mấy? Nếu làm được gì cho bố vào lúc này để bố được vui hơn, con sẽ làm tất cả, bố hãy nói cho con được không?
    Những lúc ấy, tôi chỉ biết ôm bố, xoa dầu cho bố, tôi chỉ muốn với bố đừng đi làm nữa, tôi có thể nghỉ học, như vậy sẽ tiết kiệm được chi tiêu cho gia đình, tôi có thể kiếm được tiền và chữa bệnh cho bố. Nhưng nếu nhắc đến điều đó chắc chắn là bố sẽ buồn và thất vọng ở tôi nhiều lắm.
    Bố luôn nói rằng bố sẽ luôn chiến đấu. Chiến đấu cho tới những chút sức lực cuối cùng để có thể nuôi chúng tôi ăn học thành người. Bố rất quan tâm đến việc học của chúng tôi. Ngày xưa bố học rất giỏi nhưng nhà nghèo bố phải nghỉ học. Vào mỗi tối, khi còn cố gắng đi lại được, bố luôn bày dạy cho mấy chị em học bài.
    Trong những bữa cơm bố thường nhắc chúng tôi cách sống, cách làm người sao cho phải đạo. Tôi phục bố lắm, bố thuộc hàng mấy nghìn câu Kiều, hàng trăm câu châm ngôn, danh ngôn nổi tiếng?
    Chính vì vậy, tôi luôn cố gắng tự giác học tập. Tôi sẽ làm một bác sĩ và sẽ chữa bệnh cho bố, sẽ kiếm tiền để phụng dưỡng bố và đi tiếp những bước đường dở dang trong tuổi trẻ của bố. Tôi luôn biết ơn bố rất nhiều, bố đã dành cho tôi một con đường sáng ngời, bởi đó là con đường của học vấn, chứ không phải là con đường đen tối của tiền bạc. Tôi sẽ luôn lấy những lời bố dạy để sống, lấy bố là gương sáng để noi theo.
    Và tôi khâm phục không chỉ bởi bố là một người giỏi giang, là một người cao cả, đứng đắn, lòng kiên trì chịu khó mà còn bởi cách sống lạc quan, vô tư của bố. Mặc dù những thời gian rảnh rỗi của bố còn lại rất ít nhưng bố vẫn trồng và chăm sóc khu vườn trước nhà để cho nó bao giờ cũng xanh tươi.
    Những giỏ phong lan có bao giờ bố quên cho uống nước vào mỗi buổi sáng; những cây thiết ngọc lan có bao giờ mang trên mình một cái lá héo nào? Những cây hoa lan, hoa nhài có bao giờ không tỏa hương thơm ngát đâu? Bởi đằng sau nó luôn có một bàn tay ấm áp chở che, chăm sóc, không những yêu hoa mà bố còn rất thích nuôi động vật.
    Tuy nhà tôi bao giờ cũng có hai chú chó con và một chú mèo và có lúc bố còn mang về những chiếc ***g chim đẹp nữa. Và hơn thế, trong suốt hơn năm năm trời chung sống với bệnh tật, tôi chưa bao giờ nghe bố nhắc đến cái chết, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc trốn tránh sự thật, bố luôn đối mặt với ?otử thần?, bố luôn dành thời gian để có thể làm được tất cả mọi việc khi chưa quá muộn.
    Nhưng cuộc đời bố bao giờ cũng đầy đau khổ, khi mà cả gia đình đã dần khá lên, khi các chị tôi đã có thể kiếm tiền, thì bố lại bỏ chị em tôi, bỏ mẹ, bỏ gia đình này để ra đi về thế giới bên kia. Bố đi về một nơi rất xa mà không bao giờ được gặp lại. Giờ đây khi tôi vấp ngã, tôi sẽ phải tự đứng dậy và đi tiếp bằng đôi chân của mình, bởi bố đi xa, sẽ không còn ai nâng đỡ, che chở, động viên tôi nữa.
    Bố có biết chăng nơi đây con cô đơn buồn tủi một mình không? Tại sao nỡ bỏ con ở lại mà đi hả bố? Nhưng con cũng cảm ơn bố, bố đã cho con thêm một bài học nữa, đó chính là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta hãy trân trọng những gì đang có, hãy yêu thương những người xung quanh mình hơn, và đặc biệt hãy quan tâm, chăm sóc cho bố của mình, tha thứ cho bố, khi bố nóng giận và nỡ mắng mình bởi bố luôn là người yêu thương nhất của chúng ta.
    Bố ra đi, đi đến một thế giới khác, ở nơi đó bố sẽ không còn bệnh tật, sẽ thoát khỏi cuộc sống thương đau này. Và bố hãy yên tâm, con sẽ luôn nhớ những lời dạy của bố, sẽ luôn thương yêu, kính trọng biết ơn bố, sẽ sống theo gương sáng mà bố đã rọi đường cho con đi. Hình ảnh của bố sẽ luôn ấp ủ trong lòng con. Những kỷ niệm, những tình cảm bố dành cho con, con sẽ ôm ấp, trân trọng, nó như chính linh hồn của mình.
    NGUYỄN THỊ HẬU
    (Lớp 10A2, Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, TP Vinh, Nghệ An
    Các bạn thấy bài văn này thế nào còn đối với tôi, rất thích nó thích không chỉ là vì lời văn nội dung của nó mà hơn cả đó là một tấm lòng một tình yêu của một người con đối với bố.
    Có thể ở đây người bố rất mộc mạc đơn sơ và giản dị một nghề nghiệp rất bình thường như bao nghề khác nhưng cao hơn cả là một sự hi sinh một sự nỗ lực vượt lên khó khăn của cuộc sống, và có lẻ chăng cuộc sống như thế làm cho con người ta yêu thương cố gắng nỗ lực hơn chăng?
    Trong cuộc sống hiện đại ngày nay những tất bật vất vã của cuộc sống làm cho con người ta ít có thời gian hơn để có thể nhìn nhận lại mình, nhưng cao hơn tiền bạc đó là tình cảm là tấm lòng mỗi con người dành cho nhau.
    Đấy chỉ là những nhận xét chủ quan của cá nhân mình các bạn cho ý kiến nhé!!!
  4. chichi_b2

    chichi_b2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2006
    Bài viết:
    302
    Đã được thích:
    0
    Bạn dịch nó sang tiếng việt đc hông? Đọc chữ hán không hiểu gì hết ?
  5. chichi_b2

    chichi_b2 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/05/2006
    Bài viết:
    302
    Đã được thích:
    0
    Dạo này không giới thiệu thêm được tác phẩm nào, hôm nay nói về nhà văn Sơn Nam nhé.
    Nhà văn Sơn Nam còn được mệnh danh là "ông già Nam bộ". dường như ông đã in dấu chan của mình ở khắp các nẻo đường của xứ Nam kỳ, dù ông là người không biết chạy xe mắy lẫn xe đạp. Cái dáng khắc khổ, trâmngầm, suy tư khiến người ta phải nao lòng. Những trang viết của nhà văn Sơn Nam mnag nặng hơi thở của miền Nam, từng câu chữ, từng hình ảnh một. Chichi đã được khác nhiều truyện ngắn của ông viêt về xứ U Minh Đồng Tháp Mười thời khẩn hoang, đọc và thấy hãnh diện, tự hào về 1 miền Nam trù phú, chất phác, hiền hoà. Xứ U Minh ngày ấy đúng là "trời cho". Dưới sông thì cá đầy lúc nhúc , đến nỗi người U Minh không ai ăn cá mà dẻ đến miếng thứ 3, chỉ dẻ đúng 2 miếng ở 2 bên con cá, rồi quăng bỏ cả phần xương. Lúc ở U Minh thì chắc là lúa trời vì chảng cần tốn công cày cấy. Cái thứ lúa ma ấy có thể mọc cả khi nước lụt, nước cao đến đâu thì cây lúc vươn đến ấy. Còn nhớ hoài cái cách ông mô tả người ta trống lúc ma: mùa nước nổi, họ đi thuyền trên bờ ruộng ngập nước, lấy liềm cát đứt những thân cây, để khi nước rút, thân cây này sẽ trở thành chất mùn nuôi đất, và đến sang năm, họ quay tở lại chính vùng đát này để thu hoạch lúa ma, nghe thật thảnh thơi. Rồi câu chuyện về những người thợ bắt ong, bắt khỉ, bắt cọp, vừa dí dỏm lại huyền bí. Mê nhất trong truyên của Sơn Nam là những món ăn thời khẩn hoang được mô tả rất ngon lành,nào là món cá nướng trui thơm đau nước bọt, món nhộng chiên béo ngậy cả lưỡi, món bò gác tréo tươm mỡ......đọc xong là no căng cả bụng.
    Con người Nam bộ, vùng U Minh cũng được nhà văn diễn tả rất độc đáo. Đó là những anh chàng khoẻ mạnh, lực lưỡng, những lão nông mặt hằn vết nhăn và có cả 1 kho chuyện kể mãi không hết, những cô gái chân chất, yêu ai là yêu hết lòng hết dạ.
    Đọc Sơn Nam để thêm yêu miền Nam.
  6. honghoavi

    honghoavi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2004
    Bài viết:
    1.412
    Đã được thích:
    0
    honghoavi xin trích một đoạn trong
    "Trở lại với Phong Kiều Dạ Bạc" của Hải Đà - Vương Ngọc Long
    [green]Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế là một trong những bài thơ Đường lừng danh như những bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bài Giang Hán của Đỗ Phủ...
    Học giả Trần Trọng San, trong bài bạt " Tôi bước vào cảnh giới Đường Thi từ bến Phong Kiều qua lầu Hoàng Hạc" đã tâm sự rằng "Phong Kiều Dạ Bạc và Hoàng Hạc Lâu là hai bài đã in trong tôi ấn tượng sâu đậm nhất trong số những bài thơ Đường mà gia-nghiêm dùng dạy tôi học chữ Hán trong lúc ấu thời ..
    NGUYÊN VĂN BÀI THƠ và NGUYÊN TÁC CHỮ HÁN
    PHONG KIỀU DẠ BẠC
    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
    Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
    Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
    Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền .

    [​IMG]
    Dịch nghĩa:
    CẦU PHONG, ĐÊM NEO THUYỀN
    Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời
    Cây phong bến sông, ánh đèn chài, trước giấc ngủ buồn
    Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn Sơn
    Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách .
    Dịch nghĩa:
    CẦU PHONG, ĐÊM NEO THUYỀN
    Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời
    Cây phong bến sông, ánh đèn chài, trước giấc ngủ buồn
    Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn Sơn
    Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách .
    Dịch thơ:
    1-Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ
    Cầu phong đốm lửa giấc sầu mơ
    Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng
    Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ ...
    2-Nguyệt tà, quạ lảnh lót kêu sương
    Ánh lửa cầu phong vỗ mộng thường
    Bến vắng Cô Tô thuyền lẻ bóng
    Hàn Sơn rền rĩ khách nghe chuông
    3-Trăng lặn, sương đầy, tiếng quạ kêu
    Bến phong, ánh lửa, giấc đìu hiu
    Cô Tô quạnh quẽ thuyền neo bến
    Chuông đổ Hàn Sơn vẳng tiếng đều
    4-Quạ kêu, trăng lặn, sương đầy
    Bến phong, lửa đóm, sầu say giấc hồ
    Hàn Sơn khuất bến Cô Tô
    Nửa đêm thuyền khách thẫn thờ nghe chuông ..
    Hải Đà
    BÀN VỀ ĐỊA DANH CỦA CHÙA HÀN SƠN
    Chùa Hàn-Sơn (Hàn-Sơn-Tự) ở thị trấn Cầu Phong (Phong Kiều) , phía tây ngoài tỉnh Tô Châu. Chùa được xây vào triều-đại nhà Lương (502-557), thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Vào thời Đường (618-907) , một vị sư nổi tiếng có tên là Hàn-Sơn (Hanshan) đã đến trụ trì và sửa sang lại ngôi chùa này và sau đó chùa được đặt tên là Hàn-sơn-Tự. Đây là 1 trong 10 ngôi chùa lừng danh của Trung Quốc. Bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc" (Đêm Neo Thuyền ở Cầu Phong, A Night Mooring by Maple Bridge) của Trương Kế rất là phổ thông và được quần chúng ưa chuộng. Bài thơ có nói về tiếng chuông chùa thường được đánh vang lên nửa đêm, làm Hàn-Sơn-Tự thành một địa danh được nhiều người trong và ngoài nước biết đến. Chùa bị phá hủy bởi thời gian, thiên nhiên và chiến tranh, nhưng cũng đã được trùng tu nhiều lần qua nhiều thời-đại. Ngôi chùa nằm trên một khu vực rộng khoảng 45 mẫu đất , được chia làm nhiều khu vực gồm có chánh điện, một bờ tường hình vòng cung có nhiều tranh họa, một tháp chuông được gọi là Tháp Phong Kiều, được coi là di-tích quan-trọng nhất của Chùa Hàn. Cái chuông đồng được nói đến trong bài thơ của Trương Kế thật sự đã bị thất lạc từ lâu, và cái chuông hiện giờ đang trưng lãm được đúc vào triều đại nhà Thanh vào năm 1906. Khi chuông được đánh lên, những âm thanh vang vọng rền rĩ dội vào tường , xen lẫn với những tiếng tụng kinh gõ mõ của các nhà sư đã đem lại cho người nghe những cảm giác nghiêm trang, cung kính , tâm hồn chơi vơi vào tận cõi hư vô. Theo truyền thuyết tôn-giáo ở Trung-Quốc , mỗi năm người trần tục phải chịu đựng 108 nỗi ưu phiền, khổ lụy (vexations) , và khi nghe một hồi chuông vọng lên có thể gột rửa đi được một nỗi ưu phiền trần ai . Hàn Sơn Tự trở thành một danh lam thắng cảnh của thế-giới , cứ mỗi dịp Tết, ngay đêm giao-thừa sắp sửa bước qua ngưỡng cửa năm mới, các du-khách Phật Tử thường hay ghé thăm chùa nầy để nghe chuông chùa được dánh đến 108 lần, và các thiện nam tín nữ kính dâng lòng thành cầu nguyện cho sự may mắn và hạnh phúc trên đời. Tục lệ nầy đã bắt đầu từ năm 1979 . Hiện giờ trong ngôi chùa có một vuông đá khắc trạm trổ bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc" của Trương Kế.
    ĐÔI LỜI DIỄN GIẢI
    Như đã biết, Phong Kiều Dạ Bạc là một trong những bài thơ Đường nổi tiếng của Trung-Quốc và chính vì nhờ bài thơ nầy đã được dịch ra nhiều thứ tiếng mà chùa Hàn Sơn đã trở nên một danh lam thắng cảnh thu hút rất nhiều du-khách ngoại quốc đến viếng thăm hằng năm.
    Một câu hỏi được đặt ra là, tại sao một bài thơ "tả cảnh thiên nhiên" với những cảnh sắc bình thường như cây cầu , bến nước, hàng phong, trăng tà, sương đầy trời, tiếng quạ kêu, khách thuyền thơ v.v... mà lại nổi tiếng và được lưu-truyền vượt thời gian và không gian ? Cái khung-cảnh "thiên nhiên" trong bài thơ này không lãnh đạm, vô tình , mà là một cảnh sắc trữ tình sống động, trầm lặng tịch liêu, bàng bạc cái tâm bao la của thiên nhiên vạn vật, làm người nhìn phải xao xuyến, đăm chiêu, rồi đắm chìm trong nỗi sầu nhớ triền miên, trong cái buồn bát ngát hư không, quay cuồng với muôn vàn nỗi nhớ thương : nhớ quê, nhớ nhà, nhớ gia-đình. Con người với một tâm thức lãng mạn, chỉ còn là một sinh-vật bé nhỏ , hữu hạn, cảm thấy cô đơn và lạc lõng , và bị bao trùm phong tỏa trong cái vũ trụ vô chung vô thủy, chìm ngập trong cái vô tận của màn đêm, cái bát ngát mênh mang của sương khói vô hình, không bến bờ. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng thi-sĩ Trương Kế, trong một đêm trăng mùa thu, neo thuyền tại bến nước Phong Kiều, lặng thầm nhìn trời đất chung quanh ... Một đêm cô liêu quạnh quẽ chỉ người và cảnh vật gợi cảm, gợi tình ... nhìn lên màn trời đen là hình ảnh của một một mảnh trăng vàng vọt đang từ từ lặn vào cõi vô cùng, và mờ mờ gần xa là một màn sương khói dầy dặt quanh thuyền mà Ông tưởng chừng hàng hàng lớp lớp sương mờ ảo hư vô đó đang tỏa dâng đầy ắp khung trời. Những làn sương khói hư ảo đó đã đem lại cảm giác liêu trai lành lạnh thấm dần vào cơ thể, cảm xúc và tâm hồn của nhà thơ. Khung cảnh đêm huyền ảo, mông lung, tịch mịch , và tiếng quạ kêu lanh lảnh như chọc thủng màn đêm cô quạnh ... Ở gần đó là cây cầu cong bắc ngang sông, chia cách kẻ bên này, người bên kia, và những lá phong đỏ ối, phơ phất trong gió, và chiếc thuyền nan neo trên sóng nước bập bềnh đã gợi lại nỗi nhớ nhà da diết , đem lại niềm sầu cảm vô biên ... Lá phong chuyển màu đỏ ối, như trong một câu thơ Kiều " Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san" , và cũng như một chiếc lá ngô đồng rơi xuống , cơn gió heo may tha thướt... là những báo hiệu cho một mùa thu đã trở về trên bến sông đất khách quê người ... "Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu " (Một chiếc lá ngô đồng rơi xuống, cả thiên hạ biết mùa thu đã trở về ...). Cái độc đáo của Trương Kế là làm cho những cảnh vật hiện hữu trở nên linh động và có hồn ... Bên cạnh những cái "tịnh" im lặng quạnh quẽ : trăng tàn, sương đầy, cây phong bên bến nước, chiếc thuyền neo lại, ngôi chùa vắng vẻ ... là những cái "động" làm bàng hoàng thảng thốt khách thơ: tiếng quạ kêu não nùng tha thiết, ánh lửa chài leo lắt, bập bùng đem lại cho người khách tha-phương một nỗi nhớ khôn nguôi, một xúc cảm lâng lâng vơi đầy . Và trong cái tĩnh lặng của màn đêm đầy sương đó , bỗng đâu rền rĩ, văng vẳng đong đưa từng hồi chuông hư vô, vọng đến thuyền chài và khách thơ nửa đêm, đã gây được sự cảm nhận tri-ngộ trong tâm hồn của người thơ khiến cho cảm xúc dâng đầy, bay bổng chơi vơi ..Trong cảnh trí buồn bã đó .... ai mà chẳng chùng lòng ....
    Những cụm từ đơn lẻ và tĩnh lặng:"trăng lặn" (nguyệt lạc), "quạ kêu" (ô đề), "sương đầy trời" (sương mãn thiên), đã cho ta hình tượng được cái thời-gian xảy ra: khi trời vẫn còn đêm trước khi chạng vạng tranh tối tranh sáng ... một thời gian của buồn bã trầm thống để tạo ra sự "sầu miên". Và cái không gian của tĩnh vật: hàng cây phong bên bến sông (giang phong) , ngọn lửa chài trên thuyền (ngư hỏa) , ngoại thành Cô tô, chùa Hàn San . Trong cái thời gian và không gian huyền ảo , cô tịch đó đã văng vẳng tiếng chuông: sự độc đáo của bài thơ là đưa cái âm thanh huyền hão này vào.
    Trong 2 câu thơ đầu: " Nguyệt lạc / ô đề / sương mãn thiên /Giang phong / ngư hỏa / đối sầu miên / có 5 biểu tượng cụ thể là những cảnh trí rời rạc nhưng đã liên kết lại thành một biểu tượng duy nhất để dẫn dắt đến cái biểu tượng thứ 6 mơ hồ và trừu tượng đó là sự "sầu miên" của người nhìn cảnh .
    Thêm vào đó là cảnh một chiếc thuyền lẻ loi, neo lại dưới chân cầu trước sự vật sầu thảm trong cõi vũ trụ mênh mông vô thường, và âm thanh của tiếng chuông chùa ngân vang . Cái đặc trưng của tác giả khixúc cảm thành thơ là không tự đưa cái "ngã" , cái "tôi" của mình để nhận xét sự việc chủ quan , mà chỉ xem mình như một "tha nhân", một người khách thơ trên thuyền để cái tâm tự tri-ngộ với cảnh sắc thiên nhiên một cách khách quan hơn .
    BÀN VỀ ÂM THANH TRONG BÀI THƠ
    Theo một truyền thuyết kể lại , trong một đêm trăng ở bến Phong Kiều, có một chiếc thuyền dạo mát đậu lơ lửng trên sông, trong đó có một nhà Sư và đệ tử trụ trì tại Chùa Hàn Sơn . Nhà Sư ngẫu hứng ngâm nga 2 câu thơ:
    "Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
    Bán tự ngân câu bán tự cung"
    (Mồng ba mồng bốn trăng mờ
    Nửa dường móc bạc nửa như cung trời)
    Chú tiểu thấy hay quá mới làm tiếp hai câu sau :|
    "Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
    Bán trầm thủy để bán phù không"
    (Một bình ngọc trắng chia hai
    Nửa chìm đáy nước nửa cài từng không)
    Khi về chùa đã nửa đêm rồi, Nhà Sư đánh chuông lên để xin cảm tạ Đức Phật về sự hoàn thành bài thơ tứ tuyệt kể trên . Tiếng chuông này đã vọng đến bến sông mà gần đó có chiếc thuyền của Trương Kế, gợi ý nên câu cuối của bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc" Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền"(trích trang http://www.geocities.com/SoHo/Study/1080/index.html)
    Như vậy "âm thanh" của tiếng chuông chùa nửa đêm chính là nét đặc thù, biệt điệu của bài thơ nầy .
    Bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc" đã nổi tiếng là nhờ tác-giả đã đưa tiếng chuông chùa vào câu cuối, đã gây ra sự bàn cải sôi nỗi, về thời gian và không gian . Hai danh từ ghép "Chung + Thanh" đã làm cho cái biểu tượng "thính giác" của sự nghe được tăng cao và gây một ấn tượng sâu đậm hơn . Chính cái âm-thanh của tiếng chuông rền rĩ này đã làm lay động được màn cô liêu tịch mịch, để diễn tả được nỗi lòng "sầu miên" của khách thuyền (tha nhân) mà cũng chính là người thơ . Từ những nhận thức về sự vật, phong cảnh chung quanh, của một thế giới ngoại cảnh khách quan, từ đó để dẫn dắt đến và khuấy động tư-duy và nhận thức của người thơ để đưa đến cái cảm giác vô hình trừu tượng , tình và cảnh đã gắn bó với nhau một cách mật thiết và hài hòa, qua kỹ thuật điêu luyện xử dụng ngôn ngữ thơ chắt lọc, lựa chọn và cô động trong một bài thơ chỉ có 4 câu và 28 chữ, nhưng đã nói lên được cái nghệ thuật sống động, cái tâm hồn thư thái, quan niệm nhân sinh, tư duy phóng khoáng, đa dạng và phong phú, làm cho người đọc cảm thấy một sự đồng tâm, đồng điệu kết giao giữa tình và cảnh. Cái âm thanh huyền diệu của tiếng chuông chùa trong bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc chẳng khác cái âm thanh của chiếc sáo gió vi vút mấy tầng không trong một câu thơ bất hủ của Đỗ Phủ :
    "Lạc nhật lâu đài nhất địch phong" (chiều tàn, mặt trời khuất, trên lâu đài, có tiếng sáo gió vút lên cao )....
    NHỮNG BÀI THƠ DỊCH VIỆT NGỮ CỦA CÁC THI-SĨ MUÔN PHƯƠNG
    Bản dịch Tản Đà :
    Trăng tà tiếng quạ kêu sương
    Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
    Thuyền ai đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
    Bản dịch Trần Trọng Kim :
    Quạ kêu trăng lặn sương rơi
    Lửa chài cây bãi đối người nằm co
    Con thuyền đậu bến Cô Tô
    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn
    Bản dịch Ngô-Tất-Tố:
    Quạ kêu sương tỏa trăng lui
    Đèn chài cây bến đối người nằm khô
    Chùa đâu trên núi Cô Tô
    Tiếng chuông đưa đến bên đò canh khuya
    Bản dịch Phạm-Vũ Thịnh - (Sydney 16/11/1996)
    Đêm Neo Bến Phong Kiều
    Trăng tà quạ rúc trời đầy sương
    Cây im lửa đóm người nằm suông
    Cô Tô bến lặng đêm già nửa
    Chùa cổ Hàn Sơn vẳng tiếng chuông
    Trăng tà quạ rúc trời sương
    Cây im lửa đóm nằm suông hững hờ
    Nửa đêm neo bến Cô Tô
    Hàn Sơn vẳng tiếng chuông chùa buồn tênh
    Bản dịch Vương Uyên
    Bài 1:
    Trăng khuất quạ kêu trời phủ sương
    Lửa chài bến nước cõi sầu vương
    Cô Tô đêm vắng thuyền ai đậu
    Tĩnh lặng Hàn San vọng tiếng chuông
    Bài 2:
    Trăng tàn sương phủ quạ kêu
    Lửa chài, bến nước, dệt thêu mộng sầu
    Cô Tô tĩnh mịch đêm thâu
    Hàn San chuông điểm thuyền câu lặng tờ
    Bản dịch Ngọc Ẩn - (Tokyo 2001)
    Quạ kêu, trăng lặn, sương mù
    Đêm nằm không ngủ, cây ru lửa chài
    Cô Tô đậu chiếc thuyền ai
    Nửa đêm vọng tiếng chuông dài Hàn Sơn
    Bản dịch Bùi Khánh Đản:
    Trăng lặn sương mờ nghe tiếng quạ
    Lửa chài cây ánh giấc chưa yên
    Cô Tô bên mái Hàn sơn tự
    Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền
    Bản dịch Trần Trọng San :
    Quạ kêu trăng lẩn sương trời
    Buồn hiu giấc ngủ lửa chài bến phong
    Đêm Cô Tô vẳng tiếng chuông
    Chùa Hàn Sơn đến thuyền sông Phong Kiều
    Bản dịch Nguyễn Thế Nữu:
    Quạ kêu, trăng lặn, trời đầy sương
    Phong bến, lửa chài, sầu mộng vương
    Chùa ngoại thành Tô, trên núi Lạnh
    Nửa đêm thuyền khách nằm nghe chuông
    Bản dịch Đinh-Vũ-Ngọc :
    BAN ĐÊM ĐẬU THUYỀN Ở BẾN PHONG KIỀU
    Quạ kêu, Sương phủ, Trăng thâu
    Lửa chài, Cây bến lặng sầu trong mơ
    Cô Tô, Chùa vắng khuya mờ
    Tiếng chuông tìm viếng khách thơ trong thuyền
    Bản dịch Ngô-Văn-Phú:
    ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở PHONG KIỀU
    Quạ kêu, trăng xế ngang đầu
    Lửa chài cây bến gối sầu ngủ mơ
    Thuyền ai ngoài bến Cô Tô
    Nửa đêm lạnh tiếng chuông chùa Hàn san ....
    Bản dịch Lê-Nguyễn-Lưu:
    Sương mờ, quạ giục ánh trăng phai
    Cây bến sầu mơ ngọn lửa chài
    Ngoài ngõ Cô Tô chùa núi Lạnh
    Nửa đêm chuông vọng tới thuyền ai
    Bản dịch Ái Cầm:
    THUYỀN ĐẬU BẾN PHONG KIỀU
    Quạ kêu trăng khuyết trên cành sương
    Đốm lửa hắt hiu giữa đêm trường
    Cô Tô thuyền đỗ sầu in bóng
    Hàn Sơn Chùa vọng tiếng chuông ngân
    Trăng khuyết trên cành sương quạ kêu
    Lửa chài sông quạnh bến cô liêu
    Cô Tô thuyền đậu trong đêm vắng
    Chuông Hàn Sơn động sóng đìu hiu
    Bản dịch Nguyễn Khuê:
    Trăng lặn quạ kêu trời phủ sương
    Lửa chài cây bến giấc sầu vương
    Chùa Hàn ngoài ải Cô Tô vắng
    Thuyền khách đêm khuya vẳng tiếng chuông
    Bản dịch KD:
    Trời sương, trăng lặn, quạ kêu luôn
    Ngủ đối cầu phong lửa cá buồn
    Thuyền đậu thành Tô chùa núi Lạnh
    Nửa đêm chuông nện tiếng boong boong
    Bản dịch Nguyễn Hà:
    Tiếng nhạn kêu sương, nguyệt cuối trời
    Bờ phong sầu hắt lửa thôn chài
    Hàn sơn chuông vẳng Cô tô lại
    Khuya khoắt lay thuyền động giấc ai
    (Nguồn thuvienhoasen.org)
    honghoavi
    Được honghoavi sửa chữa / chuyển vào 18:32 ngày 10/11/2006
  7. KemTra

    KemTra Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2006
    Bài viết:
    67
    Đã được thích:
    0
    Kem Trà đọc tác phẩm này lúc "làn Sóng" Nguyễn Ngọc Tư -Cánh đồng bất tận, vừa mới dậy lên. thích nhất không phải là tác phẩm chính Cánh Đồng Bất Tận mà là truyện ngắn này - Cải Ơi! chia sẻ nhen!
    Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương, nghe hay, mà khuôn mặt cũng ngộ, không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, không ra vui, buồn, đố ai biết nó nghĩ gì. Nó hất mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre, nhìn hai người, cười héo hắt, ?oĂn bám mà kéo theo cả bầy?. Thàn cười hề hề, bảo ?oÔng Năm, bạn anh. Dễ thương lắm?.
    Đêm đó ông già không ngủ được, thằng Thàn đi chơi nửa đêm mới mò về, thấy ông ngồi khọm rọm ngồi ngoài vách mùng, điếu thuốc cháy lập lòe soi bộ râu xơ xác. Thàn mở dây giày, hỏi, ?oNhớ đoàn quá, ngủ không được hả tía ??. Ông già lắc đầu, thở dài, nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi, bần thần, điệu này hỏng biết cách nào tìm cho ra con Cải.
    Ông đã đi tìm con nhỏ gần mười hai năm. Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại. Vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trước nên ngược đãi, hà khắc, đuổi xua. Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời), đã sướng rơn khi nó gọi tiếng ba ơi, con Cải đi rồi, ông đã xuống nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi ém mùng, rồi ngồi một góc, nhìn chiếu gối thênh thang, lòng chết điếng vì nỗi nhớ con, vì lo nó lưu lạc giữa đời. Như thế mà ông không thương nó sao ? Như thế mà là không thương à ? Nhà buồn u buồn ám, vì đã ít người rồi bây giờ lại chẳng nhìn, chẳng cười nói với nhau. Sau, người ta còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào, họ kìn kìn lại coi (ai mà giàu tưởng tượng vậy không biết). Ông khăn gói bỏ xứ ra đi, bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về.
    Ai dè, biển người mênh mông. Mỏi chân, ông xin làm sai vặt trong đoàn ca múa nhạc, để trước giờ diễn, ông mượn cái micro nói vài câu ?oCải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con...?. Bữa nào thằng Thàn nhớ nhà, nghe câu ấy nó cũng rướm nước mắt, bảo ?ocon thương ông già con quá, tía ơi?. Hôm đi ba Thàn còn cầm khúc bình bát bằng cổ tay rượt nó chạy ngời ngời, nhảy xuống đò, nó ngoái lại nói để con làm ca sỹ nổi tiếng cho ba coi, thấy ông dứ cây lên trời. Hai năm, ông già đã chỏng đầu cây xuống đất, tựa vào đó để bước đi, tên tuổi Thàn mờ mịt. Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa hát ế ngoi ngóp nằm nghe mưa dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị bọn du đảng địa phương rượt chạy xịt khói, Thàn muốn về nhà nhưng xấu hổ, sợ ông già cười khơ khơ khơ, hỏi ?oCon ơi, mầy nổi tiếng chưa mà trồi đầu về đây rồi ??
    Y hệt, ông già Năm Nhỏ cũng có nhà mà không về được. Đã đau quá trời đất rồi, cái cảnh bà con hàng xóm xầm xì, chỉ trỏ, người ở xa dập dìu thuê đò dọc lại nhà ngó ngiêng, đâu, thằng cha giết con đâu ? Đâu, con nhỏ bị chôn chỗ nào ? Ở gần thấy đông đúc nên bưng bánh dừa, trà đá đến bán. Đã quá chừng đau, khi ông nhìn sâu trong ánh mắt của vợ mình thấy không còn lấp lánh thương yêu, chỉ tối tăm những ngờ vực, hoài nghi, và bữa ông đi, bà đứng giữa nắng trưa, cuốc đất. Chỗ đất còn mới tinh ông vừa lên liếp, chỗ người thiên hạ ngó nhau, con Cải bị vùi dưới đó? biết đâu?
    Nên ông Năm Nhỏ trụ lại ngã ba Sương, tiếp tục cuộc kiếm tìm. Ông mướn một cái nhà thấp, nhỏ như ổ mối, vừa đủ hai người còm nhom chui ra chui vào. Ông vét túi trên túi dưới sắm một chiếc xe kẹo kéo có dàn nhạc xập xình, kéo thằng Thàn theo. Ngày chạy ra bán ở chợ rau chợ cá, tối ghé vài quán nhậu, khuya về đậu ở ngã ba, xe kẹo kéo của ông nổi tiếng nhờ giọng ca nhừa nhựa của thằng Thàn, nhờ giữa hai bài hát có mục ?onhắn tìm con? buồn ác chiến.
    Ngã ba Sương nhiều đêm thổn thức trong tiếng ?oCải ơi !!!??, nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu giữa lưng trời. Con Diễm Thương cằn nhằn, quán ế, buồn thấy mẹ rồi mà còn kêu Cải vơi vơi. Một bữa Diễm Thương bước ra, thảng thốt gọi ?oBa !?. Ông già đứng im sững, ngơ ngác giây lát, môi run lập bập hỏi Cải phải hôn con. Diễm Thương gật đầu. Thiệt con là Cải hả ? Diễm Thương níu tay ông rưng rưng gọi thêm một tiếng ba tha thiết. Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn dữ dằn vầy. Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, ?oTía kiếm có con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi?. Nghe giọng là cuộc hành trình ròng rãi mười hai năm của ông (và những oan khuất, buồn đau ) khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy, ngay trên chuyến tàu đầu. Chắc vợ ông ra cửa che tay khum khum trên trán, hỏi ai vậy cà, ông sẽ nói con Cải chớ ai, bà sẽ mừng hết lớn, phải còn trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe ?oCon Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen?, vẻ mặt không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó).
    Nghĩ đến đó, nước mắt ông tuôn dài. Diễm Thương cười, đứng dậy khoan khoái phủi tay, nói ?oKhông ngờ mình diễn quá hay?, rồi nó khom người, nhìn sâu vô đôi mắt ràn rụa của ông già, mặt tỉnh bơ ba khía, mỉa mai, ?otui giởn đó, ông làm ba kiểu gì mà không nhớ mặt con gái mình ??.
    Và cơn mơ hết. Diễm Thương đi gom tiền thắng độ, đám tiếp viên léo nhéo nhằn ông già sao mà dễ tin, làm họ mất mấy chục ngàn. Diễm Thương lạnh lẽo cười, cái mặt nó tỉnh hết biết, kiếm tiền dễ ợt mà chẳng gợn lên chút đắc ý nào. Ông Năm bẽ bàng ngồi đó, bẽ bàng lau nước mắt, cười héo queo héo quắt, ?oCon nhỏ giỡn có duyên hết hồn? mà trên khuôn mặt vẫn còn đầy ứ những thương yêu. Thằng Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp nó giận muốn bóp cổ nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhơn trở qua, giơ nắm tiền, rủ đi ăn hủ tiếu.
    Trò diễn kết thúc, ông già nằm rũ, đúng hai ngày lời nhắn tìm con Cải lại thắc thỏm ở ngã ba Sương. Con Diễm Thương bực lắm, nó gặp Thàn là đá ghế quăng ly, nó nói ?oổng đừng mắc công tìm, con Cải chắc chết ngắc rồi. Sao tui thù con nhỏ đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm... Cái thứ người đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng?. Rồi nó nghẹn ngào, ?oCòn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm, tui chờ hoài mà có ai tìm đâu...? Thàn mới hay đời con nhỏ cũng buồn, hai đứa ngồi sát lại gần nhau, thở dài nghe cả vành tai tê tái.
    Tối đó, Thàn nằm gác tay lên trán, nói ?oMai mốt con dẫn nhỏ Diễm Thương về lạy ông già con à, tía Năm. Tính thương chơi thôi nhưng bây giờ thành thiệt rồi?. Ông Năm phấn khởi, vậy hả, vậy à, phải làm đám cưới tử tế cho con nhỏ đỡ tủi, để tao làm ba nó, đại diện cho đàng gái làm sui chơi.
    Lựng khựng rồi mùa nắng quay trở lại, người ta dọn sạch cả một bờ sậy, bông đang vào mùa bạc ở ngã ba Sương, cất thêm chừng chục quán nhậu ôm nữa. Cánh phòng chống tệ nạn xã hội bắt đầu để ý cái chòm lu bu này. Phía báo đài cũng dòm ngó. Một bữa, họ ập vào, quay phim, chụp hình búa la xua. Đám tiếp viên che mặt, ôm đầu, chỉ có Diễm Thương là điềm nhiên trơ mắt ngó.
    Phóng sự phát lên ti vi, cái nhìn đó như dấu hỏi nao lòng, tôi đây nè mà ba má ở đâu ? Có nhận ra tôi không ? Có nghe đau lòng ? Thằng Thàn thấy cảnh người yêu tỉnh bơ ngồi trên đùi ông khách, buồn quá, bỏ đi uống rượu. Sáng sau, ông Năm dúi vô tay Thàn ít tiền biểu ?ođưa con nhỏ về nhà?. Thằng Thàn nói :
    - Con không đành để tía ở lại một mình.
    - Vậy bây nỡ nhìn con nhỏ sống vầy hoài sao ?
    Một sớm, hai đứa dắt nhau đi, ông già nhìn theo cho đến khi bóng chúng chìm giữa mịt mù. Lòng ông đã chuẩn bị rồi một cái vẫy tay, tiễn hai đứa ra khỏi những con đường sương gió. Nhưng mờ chiều, đám trẻ trở lại, mặt con Diễm Thương vẫn thản nhiên nhưng thằng Thàn buồn tê tái. Cả nhà Thàn hết hồn vía dồn lại ngó nhau, nhận ra đứa con gái nầy lên ti vi hôm trước, coi bộ làm nghề hỏng được đàng hoàng, coi bộ thằng Thàn bị nhỏ này dụ dỗ. Diễm Thương chỉ cười, gật đầu chào rồi bước xuống bến đón tàu ra thị xã.
    Lại về ngã ba Sương, chỗ của những người không còn đường trở lại nhà. Diễm Thương nói tui mắc cười quá ông Năm à, tui lên ti vi để cha mẹ nhìn mà họ không biết tui là ai, còn người dưng liếc ngang là nhớ liền.
    Ông già Năm Nhỏ lặng người đi, tự hỏi, bây giờ ông lên ti vi, con Cải có nhận ra mình không. Người đã dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang, đã chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều? Đã cõng nó đi tắt mấy vạt đồng đến chỗ ông bác sỹ già, mỗi khi nó nhức đầu, sổ mũi. Cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, mấy cục kẹo dừa vung vinh trong túi áo mỗi khi ông đi chợ về... Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên. Ông già muốn lên ti vi để nhắn đứa trẻ bỏ nhà rằng, về đi con ơi, đôi trâu có xá gì?
    Đăng tin trên truyền hình đắt đỏ, mà lần nào lại phòng quãng cáo ông cũng phải đôi co, đòi phải đọc theo ý mình, trong đó có đoạn, ?ocon không về ba nhớ đã đành, má con còn giận ba, không nhìn mặt?. Người ta cười, trên đài chứ có phải chợ trời đâu mà muốn nói gì cũng được. Ông giận, quày quả về nhà, nghĩ cách tự mình lên ti vi. Có lần, ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim vụ lấn chiếm lòng lề đường, người hốt thúng mủng cá rau bỏ chạy, ông sướng rơn lăng xăng chạy tọt chỗ này ló mặt đằng kia, mấp máy câu ?oCải ơi...? (mà vô phim người ta đã xóa mất tiếng còn đâu). Chỉ mong được thấy mình trên ti vi, một khuôn mặt teo héo xạm đen dưới những sợi tóc ngã màu trắng xóa, một thân hình gầy guộc, lưng đã chớm còng.. ?oMình thèm lên ti vi muốn chết giấc mà không được, còn mấy ông cán bộ ngồi chình ình trong đó hoài, thấy mắc ngán, ông già Năm Nhỏ than thở với thằng Thàn, nói sao tao muốn làm bí thơ tỉnh quá?. Thàn kêu, trời ơi, chi vậy tía. Ông cười, lên ti vi chớ chi, lúc đó tao đường hoàng nói chuyện với con Cải, tao nói từ từ, nhắc chuyện xưa cho nó nghe. Thằng Thàn cũng cười, tưởng tía làm lớn để lo cho dân, ai dè cũng bo bo cho mình.

    Họ ngồi đụt mưa dưới một hàng ba trường tiểu học. Nước đổ trắng trời. Mùa còn ướt lạnh dài dài. Thằng Thàn lo ở nhà mưa dột ướt đầu giường, về không có gối để nằm, không mền để đắp. Diễm Thương biết có chạy qua không hay là bận khách, bận cười cợt (mà lòng não nề) biểu uống với em chút nữa đi anh. Thàn chép miệng, buồn quá tía ơi. Mê văn nghệ văn gừng nên chừng này tuổi đầu rồi mà nghèo quá chừng, đến nỗi không lo được cho nhỏ Thương. Ông già Năm Nhỏ thấy thằng Thàn xuống nước mắt. Ừ tối nay, ông cũng thấy mình hoang mang buồn bã rã rời, như sắp đến cuối đường rồi, mà không biết chắc có nhà mình phía đó. Ông thở dài ứ hự, chống tay liêu xiêu đứng lên, bảo, mưa chắc còn dài, thôi dầm mình về, nhỏ.
    Đêm đó, thằng Thàn ôm ông già Năm ngu, nó kêu lên, tía ốm dữ dằn thiệt, xương tía cấn con đau quá chừng. Ông già cười, ờ, chê mai mốt không có mà ôm nghen con. Thằng Thàn hỏi ông nói vậy là có ý gì, ông hỏi ngược lại, chớ bộ mầy tính cưới vợ rồi mà còn chun qua ngủ với tao ? Thàn cười, ờ há ờ hen. Mắc cười, ông còn rù rì tính chuyện nấu mâm cơm cúng trời đất để xáp nhập nhỏ Diễm Thương về nhà bên này, sắm cái tủ thuốc lá nhỏ để cho nó buôn bán vặt thì thằng Thàn đã ngáy o o. Nửa đêm, Thàn giật mình tỉnh giấc, không thấy ông già, nó ngật ngừ ngồi dậy, trên bụng rớt xuống một gói tiền. Xe kẹo kéo vẫn còn nguyên, Thàn kéo cửa bước ra ngoài. Ngã ba Sương đã tắt đèn, những con đường hun hút mù mịt dưới mưa, như không cần biết đến từ đâu, chỉ biết gặp ở đây, phút này. Thằng Thàn làu bàu, hỏng biết ông già chừng này mà đi đâu vậy cà.
    Ông Năm đi ăn trộm chớ đâu. Ông lội bộ gần năm cây số trong mưa sụt sùi vô trong xóm, ghé chỗ lò mổ, dắt đôi trâu đem đi. Ông làm gọn gàng như với đôi trâu ở nhà. Sáng ra ông trở lại, ghé đúng ngôi nhà có hàng so đũa cặp mé lộ, ông thấy một đám người đang tao tác đứng ngồi, ông hỏi, mua trâu hôn, tui kẹt tiền đem bán đây nè. Chủ nhà chạy ra la lên, trời ơi, bắt ổng lại, ổng ăn trộm của tôi. Ông Năm giả đò hết hồn, nhưng trong bụng thấy trúng ý, bảo, từ từ, tui có chạy đâu mà sợ. Người ta đưa ông lên ấp, ấp giải lên xã, ông luôn miệng nhắc, mấy chú nhớ kêu đài truyền hình xuống nghen, phải quay tui để dân người ta cảnh giác. May, đài tỉnh xuống thật, phóng viên một tờ báo cũng chạy theo, dọc đường hăm hở rút sẵn tít ?oĐạo tặc đãng trí? (thì ai cũng tưởng vậy). Cái cách đời nhảy xổ vào lỗi lầm của người khác thiệt là tưng bừng. Họ phỏng vấn ông chủ lò mổ, phỏng vấn trưởng công an xã, cuối cùng, ông Năm xin được nói đôi lời, còn dặn, mấy chú làm ơn đừng cắt bỏ tiếng tui, rằng ?oCải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không ? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì? Về nghen con, ơi Cải??.
    Nghe đâu, hôm đó, nhiều người rơi nước mắt, vì vậy mà vụ trộm trâu không được lên ti vi, sống giữa cái rẻo đất nhân hậu này nhiều khi cũng hơi phiền.
    Nghe đâu, hôm đó đài truyền hình có đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng một cách tuyệt vọng. Như đã nói, nhà đài người ta chớ có phải chợ trời đâu, mà có thể thoải mái gọi, ?oCải ơi !?
  8. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    Điển tích truyện Kiều
    --------------------------------------------------------------
    Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây
    Sau khi du Thanh minh về Kiều nằm mộng:
    Thoắt đâu thấy một tiểu kiều
    Có chiều phong vận có chiều thanh tân
    Sương in mặt tuyết pha thân
    Sen vàng lững thững như gần như xa.
    Rước nàng đón hỏi dò la:
    Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
    Và, nhân lúc cha mẹ vắng nhà Kiều sang phòng văn của Kim Trọng:
    "Lần theo núi giả đi vòng,
    Cuối tường dường có nẻo thông mới vào.
    Xắn tay mở khoá động Ðào,
    Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai".
    "Ðào nguyên", "động đào" hay "động Bích" chỉ nơi tiên ở cũng như "Thiên thai".
    Theo "Ðào hoa nguyên ký" của Ðào Tiềm (365 -427), một nhà thơ văn đời Ðồng Tấn, có một ngư phủ huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy càng có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Ðến một quãng bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa, thích thú. Ðịnh có người ở gần đấy nên bỏ thuyền lên bờ. Vượt qua rừng đào đến một ngọn núi, dưới chân núi có một cái hang nhỏ hẹp vừa một người chui được, bên trong thấy thoáng có ánh sáng.
    Gợi tính tò mò, ngư phủ lách mình vào cửa hang. Lúc đầu cửa hang còn hẹp, sau rộng dần. Rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt, thôn ấp, nhà cửa liên tiếp nhau. Gà gáy, chó sủa nghe rõ mồn một. Trai gái đều say sưa công việc đồng áng . Trên mặt mọi người hiện vẻ vui tươi, chất phát, hồn nhiên. Người già, trẻ con đều có vẻ ung dung, thanh thản. Họ thấy ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thật. Các phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu thịnh soạn đãi đằng. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường. Các phụ lão lại nói: "Ðây là động Ðào nguyên. Tổ tiên chúng tôi tránh học đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài..."
    Cuối cùng họ dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây. Lão ngư phủ ở chơi một hôm rồi cáo biệt. Ngư phủ cho mình may mắn gặp được tiên. Khi trở về nhiều người đến thăm hỏi, trước đó còn tìm cách giấu quanh. Chuyện thấu đến quan Thái thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại. Có tính hiếu kỳ, viên Thái thú sai người đi theo ngư phủ tìm lại động Ðào nguyên nhưng bị lạc đường đành phải trở về.
    Nước ta có chuyện "Ðộng Bích Ðào"
    Ðộng ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn, bên mặt núi Trần Phù thuộc tỉnh Thanh Hoá. Tương truyền đời nhà Trần, niên hiệu Quang Thái (1388 - 1398) có ông Từ Thức làm quan Tể huyện Tiên du ( tỉnh Bắc Ninh). Bên cạnh huyện có một ngôi chùa có trồng một cây mẫu đơn. Mỗi khi nở hoa thì người các nơi đổ đến, xe ngựa dập dìu.
    Trong khi mọi người nhìn ngắm hoa đẹp, bỗng có một thiếu nữ dung nhan diễm lệ bước đến, đưa tay ve vuốt lấy hoa. Nhưng chẳng may khi vịn lấy một cành mẫu đơn thì cành giòn bị gãy. Người giữ hoa giữ nàng lại, bắt đền. Nàng không có vật gì đền. Và, mãi đến tối cũng không có người quen đến nhận. Nàng khóc. Từ Thức thấy thế động lòng thương xót, liền cởi áo bạch cẩm cừu đưa cho nàng chuộc tội, để được thả về.
    Một thời gian sau vì không muốn ràng buộc bởi lợi danh, Từ Thức trả ấn từ quan về ở huyện Tống Sơn. Rồi ngày ngày, Từ với một con thuyền, một bầu rượu, túi thơ chu du khắp danh lam thắng cảnh. Một hôm nhìn thấy cửa biển Thần Phù có đám mây năm sắc kết tụ hình hoa sen, Từ vội chèo thuyền đến, thấy một hòn núi rất đẹp, lòng sinh cảm khái, nhân đề một bài thơ. Từ đề thơ xong nhưng bỡ ngỡ chưa biết đường nào đi, thoạt thấy vách đá tách mở ra một chỗ tròn khoảng trên một thước. Từ đi bộ chen mình vào, nhưng được vài bước thì vách đá khép kín lại. Ði được vài dặm thấy sườn đá đứng thẳng như bức tường. Từ lần leo lên, mỗi bước thấy đường càng rộng. Ðến chót núi thì thấy có ánh mặt trời chiếu xuống. Nhìn quanh bốn phía thấy một dãy lâu đài cực kỳ lộng lẫy như tranh vẽ. Từ đương lấy làm ngạc nhiên, bỗng thấy có một đồng nữ áo xanh đến bảo:
    - Phu nhân tôi xin mời tướng công vào!
    Từ mừng rỡ vâng lời. Thẳng vào thì thấy một phu nhân đương ngồi trên giừơng chạm thất bảo, bên cạnh có đặt một cái tháp nhỏ bằng đàn hương. Phu nhân mời Từ ngồi ung dung bảo:
    - Ðây là hang động thứ sáu trong số 36 động ở Phù Lai. Ta đây là Ngụy phu nhân địa tiên Nam nhạc , nghe nhà ngươi có cao nghĩa hay cứu trợ người khốn đốn nên mới cho rước đến đây.
    Ðoạn, phu nhân gọi một cô gái đến.
    Từ liếc nhìn, nhận ra là thiếu nữ làm gãy hoa ngày trước. Phu nhân chỉ cô gái, bảo Từ:
    - Ðó là con ta tên Giáng Hương. Khi truớc nhờ ngươi cứu việc làm gãy hoa, ơn ấy không quên nên ta muốn kết làm giai ngẫu để trả.
    Từ rất vui mừng. Ngay trong đêm ấy, phu nhân truyền thắp đèn mở phụng, trải phụng, trải chiếu vũ rồng, cho Từ cùng Giáng Hương làm lễ giao bôi.
    Thấm thoát đã được một năm. Nhưng cảnh tiên không khuây khoả được lòng trần, Từ bỗng dưng động lòng nhớ cố hương nên ngỏ ý với Giáng Hương cho về thăm. Biết không giữ được, nàng đành thưa với mẹ. Phu nhân biết Từ còn nặng lòng trần nên bằng lòng, cho Từ một chiếc xe bằng mây "Cẩm xa vân" để đưa về. Riêng Giáng Hương giao cho Từ một phong thư, dặn về đến nhà hãy mở ra xem.
    Ðến nhà, nhìn quanh cảnh cũ không còn như xưa, thành quách nhân dân không còn như trước, duy cảnh núi sông thì còn như độ nào. Từ đem tên họ mình mà hỏi thăm người già, thì có người bảo:
    - Thuở tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay có gần trăm năm rồi.
    Từ Thức bấy giờ mới bỡ ngỡ, bùi ngùi, muốn lên xe mây để về chốn cũ thì xe đã hoá thành con trường loan bay mất. Buồn tủi, Từ mở thư của Giáng Hương xem, chỉ có câu ngắn ngủi:
    "Kết loan lữ ư vân trung, tiền duyên dĩ đoạn;
    phỏng trên sơn ư hải thượng, hậu hội vô nhân".
    (Kết bạn loan trong mây, duyên trước đã dứt, tìm núi tiên ở trên biển, hội sau khôn cẩu).
    ý nói, duyên trước kết đôi loan phụng cùng nhau nay đã đoạn tuyệt rồi; ngày sau muốn tìm lại núi tiên cũng không được nữa.
    Tuyệt vọng hoàn toàn. Từ đó, Từ Thức mặc áo Khinh cừu, đội nón lá vào núi Hoàng Sơn ở huyện Nông Cống (tỉnh Thanh Hoá) rồi biệt tích.
    Ðào nguyên, Ðộng Ðào, Thiên Thai, động Bích là tiên cảnh, nơi tiên ở...dùng lối thậm xưng để chỉ chỗ ở xinh đẹp, thanh cao.
  9. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    Điển tích truyện Kiều:
    Họa là người dưới suối vàng biết cho ​
    Trước nấm mồ của Ðạm Tiên hoang vắng, Kiều cảm động than thở, có câu:
    "Nào người phượng chạ loan chung,
    Nào ai tiếc lục tham hồng là ai?
    Ðã không kẻ đoái người hoài
    Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
    Gọi là gặp gỡ giữa đường,
    Hoạ là người dưới suối vàng biết cho"
    Và, khi bán mình lo hối lộ quan lại để cứu cha mắc tội oan, Kiều làm thơ than thở với em là Thuý Vân nhờ thay mình để kết duyên với Kim Trọng, có câu:
    "Ngày xuân em hãy còn dài
    Xót tình máu mủ thay lời nước non
    Chị dù thịt nát xương mòn
    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"
    "Suối vàng", nguyên từ Hán Việt là "Hoàng (huỳnh) tuyền"; "Chín suối" là "Cửu tuyền" hay "Cửu nguyên" đều chỉ cõi âm phủ. Theo mê tín, đây là một cái suối màu vàng ở dưới lòng đất, người ta lúc chết chôn xuống dưới đất nên dùng chữ "suối vàng" để chỉ chỗ ở của người chết. Sách Tả truyện có câu: "Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã", nghĩa là "Không đến suối vàng thì không gặp nhau được".
    Nguyên đời Xuân Thu (722-749 trước D.L), Vũ công nước Trịnh có vợ là Khương Thị sinh ra con trưởng là Ngộ Sinh và con thứ là Ðoạn. Vì sinh Ngộ Sinh do sự đẻ ngang làm Khương Thị khổ sở nên bà không ưa. Trái lại, Ðoạn mặt mũi khôi ngô, sức mạnh hơn người lại có tài thiện xạ nên Khương Thị rất yêu chiều. Muốn cho Ðoạn sau này nối ngôi, nên trước mặt Trịnh Vũ công, bà thường khen Ðoạn là người hiền đức và tỏ ý muốn lập Ðoạn làm thế tử. Trịnh Vũ công bảo:
    - Anh em có thứ bậc, không nên xáo trộn đạo lý. Hơn nữa, Ngộ Sinh không có tội lỗi gì thì sao bỏ trưởng lập thứ được?
    Thế là Trịnh Vũ Công lập Ngộ Sinh làm Thế tử. Còn Ðoạn thì được phong cho đất Cung, gọi là Cung Thúc Ðoạn, Khương Thị lấy làm bất bình. Trịnh Vũ công mất, Ngộ Sinh lên kế vị tức Trịnh Trang Công, lại tiếp tục kiêm chức Khanh Sĩ nhà Châu thay cha. Dương Thị thấy Ðoạn không quyền hành, lấy làm buồn bã, bảo Trịnh Trang công:
    - Con nối ngôi cha làm chủ nước Trịnh, đất rộng ngoài mấy trăm dặm, thế mà nỡ cho người em ruột thịt một chỗ đất nhỏ mọn không đủ để dung thân, sao yên lòng được?
    Trịnh Trang Công thưa:
    - Vậy xin mẫu thân cho biết ý muộn
    - Sao không lấy đất Chế ấp mà phong cho em con.
    - Chế ấp là một nơi hiểm yếu, tiên vương ngày xưa có di mạng cấm phong cho ai. Trừ đất ấy, mẫu thân mẫu thân muốn chỗ nào con cũng sẽ vâng lời.
    - Nếu vậy thì phong cho nó đất Kinh Thành.
    Trịnh Trang công im lặng. Khương thị thấy thế nổi giận bảo:
    - Nếu con không nhận như vậy thì cứ đuổi Ðoạn đi nước khác, để nó tìm cách gì làm ăn được thì nó làm.
    - Con đâu thể làm thế được.
    Hôm sau, Trịnh Trang Công vời Ðoạn vào phong cho đất Kinh Thành. Quan Ðại phu là Sái Túc Can, cho rằng Kinh thành là một ấp lớn, đất rộng người đông, nếu đem phong cho Cung Thúc Ðoạn thì mai hậu Ðoạn sẽ cậy thế chuyên quyền. Nhưng Trang Công bảo:
    - Mẫu thân ta đã muốn vậy thì ta phải làm theo vậy.
    Thế là Ðoạn ra ở đất Kinh Thành. Trước khi đi, Ðoạn vào cáo biệt mẹ. Khương thị nói riêng với Ðoạn:
    - Anh con không nghĩ đến tình ruột thịt, đãi con lắm điều tệ bạc. Nhờ ta ba lần khẩn khoản nó mới phong đất Kinh thành cho con, ấy là vị nể chưa chắc thành thật. Con về Kinh thành nên lo luyện tập binh mã, chuẩn bị sẵn sàng, nếu có cơ hội thì đem quân lại đánh, ta sẽ nội ứng mà lấy nước Trịnh. Nếu con đoạt được ngôi của Ngộ Sinh thì ta có có chết cũng đành hả dạ.
    Cung Thúc Ðoạn lãnh lịnh mẹ đóng ở đất Kinh thành, đổi hiệu Cung Thúc ra Thái Thúc. Từ đấy, Ðoạn ngày ngày đem quân vào rừng săn bắn nhưng kỳ thực là đi luyện tập, lại chiếm lấy hai ấp gần đó. Hai quan ấp tể trốn về triều kêu cứu. Trịnh Trang Công không nói gì chỉ mỉm cười. Quan Thượng khanh công tử Lã kêu lên:
    - Tội Thái Thúc Ðoạn thực đáng giết.
    Trang Công hỏi có ý kiến gì không, thì Lã nói:
    - Thái Thúc Ðoạn ỷ lại trong có quốc mẫu yêu vì, ngoài cậy vào đất hiểm yếu của Kinh thành mà đêm ngày luyện tập binh mã, tất cố ý đoạt ngôi . Xin chúa công cho tôi đem quân đi đánh Kinh thành, bắt Ðoạn để trừ hậu hoạn.
    Trang công bảo:
    - Tội của Thúc Đoạn chưa có gì rõ rệt, không nên vội.
    - Ðoạn đã chiếm lấy hai ấp. Không lẽ chúa công để đất của Tiên công hao mòn mãi sao?
    Trang công cười nói:
    - Ðoạn là con cưng của mẫu thân ta, ta thà mất bờ cõi còn hơn mất tình anh em và để mẫu thân ta phải buồn.
    - Sợ mất bờ cõi thì không nói làm gì, e có ngày mất luôn cả nước. Nay Thúc Ðoạn ngày một cường thịnh, dân tình sợ uy mà sinh hai lòng. Bây giờ chúa công còn dung sau này Thúc Ðoạn không dung, chúa công hối thì làm sao kịp nữa?
    Trang Công nghiêm giọng:
    - Nhà ngươi không nên nói càn, để mặc ta lo nghĩ.
    Công tử Lã đi ra, và nói với quan đại phu Sái Túc:
    - Chúa công ta bịn rịn tình riêng mà quên việc nước. Tôi lấy làm lo lắm!
    Sái Túc cười bảo:
    - Chúa công là một người tài trí, há lại không biết điều ấy. Có lẽ vì chỗ đông người không tiện nói ra, vậy ông nên vào hầu riêng mà bàn chuyện, dò xem ý chúa công ra sao.
    Công tử Lã cho là phải, bèn vào yết kiến Trang công, Trang công nói:
    - Ta nghĩ kỹ lắm. Ðoạn dù vô đạo nhưng chưa rõ tội. Nếu ta đem quân đánh thì quốc mẫu ta ắt tìm cách ngăn cản. Người ngoài không biết lại bảo ta bất hữu và bất hiếu. Chi bằng cứ để thế, Ðoạn tất làm càn, không kiêng nể ai, lúc ấy ta sẽ kể tội trạng đem quân đi đánh thì người trong nước không ai giúp Ðoạn, mà đến mẫu thân ta cũng không oán trách gì được.
    - Nếu quả vậy, chúa công cao kiến lắm, chúng tôi chưa nghĩ đến kịp. Dù vậy, tôi sợ thế lực Ðoạn ngày một to, lan ra như cỏ mọc, cắt không hết được thì mới làm sao? Chúa công nên mưu nghĩ cách gì cho Ðoạn phản nghịch nổi loạn sớm thì đánh hắn mới chắc được.
    - Vậy thì ta phải làm cách nào?
    Thế là sáng hôm sau, Trang công giao việc quốc chính cho quan Ðại Phu Sái Túc để vào triều nhà Châu. Khương Thị nghe biết mừng lắm cho là dịp tốt đã đến, liền viết thư sai kẻ tâm phúc đem đến Kinh thành, hẹn với Thúc Ðoạn đem quân về đánh. Nhưng Công tử Lã đã cho người đón đường bắt được thư và giết ngay tên ấy, rồi đem thư dâng lên Trang công. Trang công xem thư, niêm lại rồi sai người giả làm người của Khương Thị đưa thư đến cho Ðoạn, và lấy thư trả lời đem về. Trang công được thư mừng lắm nói:
    - Tờ cung chiêu của Ðoạn sẵn có đây rồi. Thế thì mẫu thân ta không bênh vực thế nào được nữa.
    Trang công liền vào cáo từ Khương Thị, giả nói vào nhà Châu triều kiến, rồi đem quân theo đường tắt sang Kinh thành.
    Thái Thúc Ðoạn từ khi tiếp được thư của mẹ, liền sai con là Hoạt sang nước Vệ mượn binh, rồi phao tin rằng phụng mạng về triều tạm thay coi việc quốc chính, đoạn mở cửa thành tiến quân.
    Công tử Lã mưu cho quân giả làm lái buôn trà trộn vào thành trước, đợi khi Ðoạn cất quân đi thì đốt lửa làm hiệu cho Lã biết đem quân đến, trong thành mở cửa ra đón. Lã vào thành rồi liền kể tội Ðoạn trước quân dân, và đem đức tính của Trang công yết cho nhân dân biết. Người trong thành cho là phải.
    Thái Thúc Ðoạn bắt được tin Kinh thành có biến, không dám trở lại, rút quân về Cung thành. Trịnh trang công xua quân đánh, Thúc Ðoạn nghe tin thở dài, than: "Chính mẹ ta giết chết ta rồi. ta còn mặt mũi nào nhìn thấy anh ta nữa!". Ðoạn tự tử chết.
    Trang công vào thành, ôm thây Thúc Ðoạn khóc kể: "Ta đã giết chết em ta rồi. Em ta quá lo, chớ ta đâu nỡ giết em ta!". Bấy giờ Trang công thu lấy đồ đạc, tìm thấy bức thư của mẹ gởi cho Ðoạn liền lấy gói lại cùng bức thư trả lời của Ðoạn, sai Sái Túc đem về Trịnh dâng cho Khương Thị xem, lại truyền đem Khương Thị an trí sang đất Dĩnh. Trang công uất ức việc mẹ làm nên thề rằng: "Không đến suối vàng thì chẳng gặp nhau được". (Bất cập hoàng tuyền vô tương kiến giã). Riêng Khương Thị thấy hai bức thư lấy làm thẹn, tự nghĩ không còn mặt mũi nào nhìn thấy Trịnh Trang công nữa bèn dọn đồ đi ở ấp Dĩnh. Trang công trở về triều, vào cung không thấy mẹ lấy làm đau lòng: "Ta ép lòng để em ta chết, nay nỡ lòng nào để lìa mẹ nữa. Ta thật có tội!".
    Quan trấn ấp Dĩnh là Ðinh Khảo Thúc vốn người chí hiếu và trung trực, thấy Trang công đem an trí mẹ thì không bằng lòng, nên có ý tìm cách khuyên can, nên một hôm bắt mấy con chim cú vào dâng cho Trang công để làm thịt. Trang công hỏi chim gi? Thúc thưa:
    - Ðây là giống chim cú. Ban ngày, vật gì lớn bằng quả núi cũng không thấy, mà ban đêm vật gì nhỏ như sợi tóc dù ở xa cũng trông thấy rõ. Thật là một con vật trông được sự nhỏ mà không trông được sự lớn. Vả lại, chim nầy khi con nhỏ thì mẹ kiếm mồi cho ăn, nhưng khi lớn lên lại không biết mẹ, vậy nên bắt nó mà ăn thịt.
    Trang công im lặng. Nhân lúc ấy có người dâng một con dê chín để vua nhắm rượu. Trang công sai cắt một miếng cho Ðinh Khảo Thúc ăn. Thúc liền chọn chỗ thịt ngon, tự cắt lấy một miếng gói lại trong giấy, đút vào tay áo. Trang công lấy làm lạ hỏi, thì Khảo Thúc thưa:
    - Mẹ tôi đã già, nhà lại bần bạc, ngày ngày chỉ cơm rau dưa muối, chưa hề được vật nầy. Nay chúa công ban cho mà mẹ già không được hưởng thì con không sao nuốt trôi được, nên trộm đem về cho mẹ.
    Trang công nói:
    - Ngươi thật là một người con chí hiếu.
    Trang công lại ngậm ngùi nghĩ đến việc mình, thở dài. Khảo Thúc hỏi tại sao thở dài? Trang công đáp:
    - Nhà ngươi có mẹ già được phụng dưỡng để trọn đạo làm con. Còn ta làm vua mà không được bằng người.
    Khảo Thúc giả vẻ ngơ ngẩn, hỏi:
    - Quốc mẫu hiện đang mạnh giỏi, sao chúa công lại nói thế?
    Trang công liền đem việc mưu loạn xảy ra đến việc đày mẹ và cả lời thề, nay hối lại thì đã muộn. Khảo Thúc thưa:
    - Thái thúc Ðoạn đã đành mất rồi, nay chỉ còn lại quốc mẫu. Nếu chúa công còn lo nổi lời thề nặng "suối vàng", thì tôi xin hiến một cách có thể giải được. Chúa công cho người đào đất đến tận mạch nước, đặt thang, làm một cái nhà dưới hầm, rồi rước quốc mẫu đến ở đó. Thế rồi chúa công xuống dưới, kể lại tình nhớ mong mẹ bấy lâu. Tôi tin rằng chúa công nhớ mẹ bao nhiêu thì quốc mẫu cũng nhớ chúa công như thế. Cả hai gặp nhau dưới nhà hầm ấy khỏi trái với lời thề suối vàng được.
    Trang công rất mừng, liền thực hiện ngay.
    Khương Thị bằng lòng. Trang công theo bậc thang xuống hầm trông thấy mẹ, vội sụp lạy nói:
    - Ngộ Sinh nầy bất hiếu, lâu nay thiếu phụng thờ mẹ. Mẹ tha tội cho.
    Khương Thị ngậm ngùi, đỡ Trang công dậy:
    - Ðó là lỗi của mẹ. Con đâu có tội gì.
    Thế rồi hai mẹ con cùng khóc nức nở.
    Trang công dắt mẹ lên thang, cùng ngồi xe và tự cầm cương đưa mẹ về cung.
    "Suối vàng" là như vậy.
  10. vietgreat

    vietgreat Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2005
    Bài viết:
    1.440
    Đã được thích:
    0
    Điển tích truyện Kiều
    -----------------------------------------------------------
    Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh
    Qua lời yêu cầu tha thiết của Kim Trọng và "hai thân cũng quyết theo một bài"... Kiều đành phải chấp thuận, và cả hai làm lễ động phòng. Nhưng rồi cũng trong đêm động phòng "bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa", Kiều lại tủi thẹn, than thở phận mình, khiến chàng Kim phải an ủi "lọ là chăn gối mới ra sắt cầm", nên chuyện sang xin Kiều cho mình thưởng thức ngón đàn ngày xưa. Kiều vâng lời "phím đàn dìu dặt tay tiên" với:
    Khúc đâu đầm ấm dượng hoà,
    Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh
    Khúc đàn êm ái xuân tình
    Ấy là Thục Ðế hay mình Ðỗ quyên?
    Trong sao châu rõ duềnh quyên?
    Ốm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
    Trang sinh tên Trang Chu cũng gọi là Trang Tử, học đạo Lão Tử, người đời Chiến Quốc.
    Ðời ông, về sau, có người thêu dệt lắm chuyện huyền hoặc, vô lý gọi là "Trang Tử thử vợ". Chuyện rằng:
    Một hôm, Trang Tử đi chơi ngang một nghĩa địa, thấy một người đàn bà đang ngồi cầm quạt , quạt một nấm mồ còn ướt. Ông lấy làm lạ hỏi thì người đàn bà ấy cho biết: đó là mộ của chồng. Vì khi gần chết, chồng có trối lúc nào muốn tái giá thì phải đợi mộ chồng khô. Nay có người đến hỏi, nàng muốn tái giá nhưng giữa lúc mộ chưa khô nên phải quạt cho mau khô, để kịp thời gian lấy chồng.
    Trang Tử bật cười. Mãi về đến nhà vẫn còn cười. Vợ ngạc nhiên hỏi, ông thuật cả sự việc. Vợ bật cười, bảo: "Sao có người tệ bạc lắm vậy!" Trang Tử không nói gì.
    Một hôm, Trang Tử đột ngột lâm bệnh chết! Ðám tang được quàn trong ba hôm. Vợ Trang Tử khóc lóc kể lể, lúc nào cũng đầm đìa nước mắt. Ðến ngày thứ hai, bỗng có một chàng thanh niên đến nhà, xưng là học trò của Trang Tử ở xa đến thăm thầy, nhưng chẳng may thầy mất, vậy xin điếu tang và ở lại lo việc ma chay cho thầy được trọn tình sư đệ.
    Người học trò của chồng sao mà khôi ngô tuấn tú quá, lời nói sao mà ấm áp dịu dàng khiến vợ Trang Tử phải lòng, rồi cả hai dan díu tư tình nhau... Nhưng đến nửa đêm, chàng rên rỉ quằn quại kêu đau bụng, đau một cách dữ dội. Vợ Trang Tử lấy làm lo sợ, hỏi cách chạy chữa thì chàng bảo chỉ cần có sọ người mới chết đem mài uống thì bệnh hết ngay, nếu không sẽ chết mất. Thấy chàng sao thương quá, sợ mất chàng lại nghĩ chồng mới chết, sọ chồng hẳn có hiệu nghiệm, nên vợ Trang Tử không còn phải đắn đo gì nữa, nàng liền lấy vồ đập vỡ nắp săng (quan tài) định lấy sọ chồng làm thuốc cho tình nhân.
    Nhưng nắp săng vừa bật lên thì Trang Tử cũng ngồi bật dậy, và cũng vừa lúc ấy chàng thanh niên biến mất. Thì ra, Trang Tử có phép thuật, giả chết để thử vợ. Người vợ lấy làm xấu hổ quá, tự tử. Trang Tử không buồn, tay vỗ cổ bồn, hát:
    Kham ta phù thế sự
    Hữu như hoa khai tạ
    Thê tử ngã tất mai
    Ngã tử thê tất giá
    Ngã nhược tiên tử thì
    Nhất trường đại tiếu hoạ
    Ðiền bị tha nhân canh
    Mã bị tha nhân khoá
    Thê bị tha nhân luyến
    Tứ bị tha nhân mạ
    Suy thử đổng thường tình
    Tương khan luỵ bất hạ
    Thế nhân tiếu ngã bất bi thương
    Ngã tiểu thế nhân thống đoạn trường
    Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển
    Ngã diệc thiên thu luỵ vạn hàng
    Tạm dịch:
    Nên than ôi, thế sự
    Ðường hoa đơm lại rã
    Vợ chết ắt ta chôn
    Ta chết vợ cải giá
    Ví bằng ta chết trước
    Một cuộc cười ha hả
    Ruộng phải người khác cày
    Ngựa phải người khác cưỡi
    Vợ phải người khác lấy
    Con phải người khác mắng
    Nghĩ lại chạnh tấm lòng
    Nhìn nhau khôn tuôn lệ
    Ðời cười ta chẳng bi thương
    Ta cười đời luống đoạn trường
    Việc đời khóc mà chuyển biến được
    Ta cũng ngàn thu khóc vạn hàng
    Do câu chuyện trên nên trong dân gian có câu:
    Thương thay cho kẻ quạt mồ
    Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng
    "Quạt mồ, bửa săng" hẳn là chuyện bịa nhằm để châm biếm một số đàn bà, một số người vợ không tốt, không thuộc hạng "tiết hạnh khả phong". Giả chết để thử vợ âu cũng là một điều hay. Hẳn Trang Tử không cần.
    Trang Tử tức Trang Chu là một nhà đạo học, vốn có tư tưởng xuất thế bắt nguồn tư tư tưởng vô vi của Lão Tử mà suy diễn ra. Ông chủ trương không tham sống, không sợ chết, không vui, không buồn, không dụng tâm vực đạo, không gắng sức giúp đời. Vì cái nhân sinh quan tự nhiên nhi nhiên đó, nên theo ông hễ gặp lúc nào sống mà sống là hợp thời, gặp lúc nào chết mà chết là thuận cảnh. Trang Tử bảo "Kẻ chân nhân ở đời xưa không tham sống, ghét chết. Sinh ra ai cũng không mừng, chết đi cũng không chống, thoắt qua thoắt lại, không quên lúc mới sinh, chết cũng mặc kệ, sinh ra rồi thì thường tự đắc, có chết đi thì cũng là trở lại với trời, không cần dụng tâm mà vực đạo, không cần lấy sức người mà giúp trời, như thế gọi là chân nhân vậy?" Ông có để lại bộ "Nam hoa Kinh". Về mặt văn học, lời mạnh mẽ, tư tưởng tân kỳ, tưởng tượng dồi dào, phép ngụ ngôn tuyệt khéo.
    Vợ ông chết. Bạn ông là Huệ Tử đến viếng, thấy chỗ ông ngồi duỗi xoạc hai chân, tay gõ nhịp vào bồn nước mà hát. Huệ Tử bảo:
    - Mình đã ăn ở với người ta, có con với người ta, bây giờ người ta chết, mình không khóc cũng là đủ. Thế mà ngồi gõ bồn hát, chẳng là quá lắm ư!
    Trang Tử đáp:
    - Không phải thế. Lúc vợ tôi mới chết, tôi cũng lấy làm thương tiếc lắm. Nhưng xét cho cùng thì vốn không có gì cả. Chẳng những không có hình lại cũng không có khí. Con người ấy chẳng qua là tạp chất biến mà hoá ra có khí; khí biến ra hình, hình biến mà hoá ra sinh, có sinh lại biến ra có tử khác nào Xuân, Hạ, Thu, Ðông bốn mùa cứ tuần hoàn đi lại không? Vả lại, người ta chết là trở về với tạo hoá, cũng như người đi ra ngoài rồi về nhà, thế mà ta cứ còn theo đuổi nghêu ngao khóc lóc thì chính ta chẳng hoá ra không biết mạng trời ư? Cho nên ta không khóc mà lại còn hát nữa.
    Vì quan niệm về vũ trụ và nhân sinh như vậy nên sách Trang Tử thiên "Tề vật luận" có chép: Trang Sinh (tức Trang Chu) có lúc nằm mộng thấy mình hoá con **** (hồ điệp) thong dong bay lượn, đoạn chợt tỉnh dậy, ông tự hỏi: Không biết mình hoá làm **** hay **** hoá làm mình?
    Tư tưởng của Trang Tử cũng như của Lão Tử (thường gọi là tư tưởng Lão Trang) là một thứ triết học cao siêu, khiến trí não của con người mờ mờ ảo ảo, mơ màng như bay bổng lên những cảnh giới siêu nhiên huyền dịu.
    "Ông là hồ điệp hay là Trang Sinh", vốn mượn ý Trang Chu để tả vẻ mơ màng thánh thoát của khúc đàn. Khúc đàn sum họp của buổi giao hoan tình ái nghe mơ mơ màng màng, hoặc nghe khúc đàn, người thưởng thức cảm thấy mình như lâng lâng tha thướt, nhẹ ru đi vào cõi mộng ÊM ĐỀM... Ý CÂU NÀY LẠI ĐI LIỀN VỚI Ý CÂU TRÊN "KHÚC ĐÂU đầm ấm dương hoà".
    Tác giả Truyện Kiều chỉ mượn ý giấc mộng êm dịu mơ màng của Trang Chu đến đỗi "Không biết mình hoá làm **** hay **** hoá làm mình" hàm súc một triết lý vô vi, xuất thế của đạo Lão, để diễn tả tiếng đàn có mãnh lực truyền cảm cho người nghe đàn.

Chia sẻ trang này