1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tác phẩm Võ Đình (chắc nhiều người chưa biết đến cái tên này)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi away, 25/04/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    Tác phẩm Võ Đình (chắc nhiều người chưa biết đến cái tên này)

    Có một số chuyện góp nhặt để nếu thấy hay, anh chị em đọc hoặc bàn luận cho vui hoặc cho buồn (nếu ai thích buồn).

    Tôi mới có mấy ấn phẩm của nhà văn-họa sỹ Võ Đình do một người bạn (già) tặng. Đọc cũng chưa hết nhưng thấy có nhiều cái hay, post thử một ?ochuyện? lên xem. Và nếu mọi người không chán và nếu tôi không lười, không mệt thì tôi sẽ post tiếp. Hy vọng có ai đó biết nguồn thì post những chuyện khác của tác giả để góp vui, góp buồn.

    Nhà văn-họa sỹ Võ Đình là tác giả hiện đang định cư ở Mỹ, việc post bài của ông không xin phép không hiểu có vi phạm luật lệ gì trong và ngoài nước không. Theo suy nghĩ chủ quan của tôi thì tôi thấy cái hay, cái đáng thưởng thức (cũng theo cảm nhận của mình) thì đem chia sẻ, chắc là nếu vi phạm gì cũng được những người rộng lòng tha thứ. Còn lòng ai đó hẹp, bắt tình bắt tội thì cũng chịu thôi.

    Tác phẩm của nhà văn-họa sỹ Võ Đình thể hiện một tư tưởng hòa hợp, bao dung với muôn loài (đặc biệt là thiên nhiên), nâng niu cái có giá trị và sống như ?onước chảy mây trôi?, có một chút gì đó ?oảo diệu khôn lường? (phương thức sống mà Kim Dung gửi gắm trong ?oTiếu ngạo giang hồ?). Nhưng ông cũng rất ?onghiêm khắc? với những gì gọi là sáng tạo, lao động chân chính, đối nhân xử thế. Và những trang viết của ông cũng đem lại không ít kiến thức, kinh nghiệm trong nghề họa, nghề văn, nghề sống (Đọc ?oLầu xép? hoặc ?oRừng mắm văn nghệ?)?

    Tôi không có thói quen phê bình, bình luận, nói đúng hơn là không biết, không có kỹ năng. Thường chỉ phân ra thành thích và không thích, thích nhiều hay thích ít, không thích nhiều hay không thích ít, hãn hữu mới ghét. Và với tác phẩm của tác giả Võ Đình, dù chưa cảm thụ hết được, tôi cảm thấy thích vì câu chữ dễ hiểu, có nhiều hình ảnh đẹp, lạ, lúc cần nổi thì nổi lúc cần chìm thì chìm. Có những sức ám ảnh làm tâm hồn người ta đẹp hơn, nhẹ hơn.

    Và hơn nữa, tôi thích cách viết của Võ Đình vì dù ông hiểu biết rất rộng về các trường phái nhưng vẫn coi: Trong nghệ thuật, qui tắc chính là không qui tắc, ví dụ: viết, vẽ không phải cứ đào tạo căn bản mới là biết viết, biết vẽ. Điều này một kẻ lười học lí thuyết, ít hiểu biết như tôi hay nghĩ đến, nay thấy một người hiểu biết mà cũng nghĩ thế thì khoái lắm (chưa chắc đã là để bao biện cho cái sự lười của mình). Và ở đây chắc cũng có nhiều anh chị em cũng có kiểu ?olười? này nên có lẽ sẽ thích đọc. Mặc dù đọc lời giới thiệu câu chữ lủng củng thế này đôi khi bị mất hứng.

    Đó là cảm nhận của cá nhân tôi với một số tác phẩm của ông. Còn chuyện bàn đúng sai, trong luồng hay ngoài luồng, xuất sắc hay bình thường ở nghệ thuật thì bao la, tùy cảm nhận mỗi người.

    Trong số các tác phẩm Võ Đình đối với ?othời buổi này? của chúng ta thì có lẽ một số bị coi là ?onhạy cảm?, ?ongoài luồng? mặc dù tác giả luôn giữ cái tâm, viết rất có văn hóa và cũng đã tránh? những gì ?onhạy cảm?.

    Trong cuộc sống này, đúng hay sai, tốt hay xấu là tùy chắt lọc của mỗi người. Nhưng đáng buồn là không phải ai cũng noi theo cái tốt và khử dần cái xấu, bỏ ngoài tai ?omọi luận điệu diễn biến hòa bình? nên các cơ quan có thẩm quyền phải ?osàng lọc hộ? và tất nhiên thường thẳng tay với những gì ?ocó vẻ không phù hợp đường lối?. Nhưng nghệ thuật nó lại là cái gì đó không theo khuôn mẫu nên lắm lúc sạn giống thóc thì ở lại mà thóc giống sạn thì đi tong. Chỉ khổ người ăn phải sàng thêm lần nữa và đi kiếm thóc rơi chén cho đỡ đói.

    Thôi thì, tốt hơn là tôi cứ xin phép giới thiệu một (hoặc những) tác phẩm không ?onhạy cảm? của nhà văn-họa sỹ Võ Đình. Võ Đình là một họa sỹ chuyên nghiệp nhưng tôi không biết gì về lĩnh vực hội họa nên xin phép được đặt chữ ?onhà văn? lên trước dù cũng chẳng biết mấy tí về văn học. Giới thiệu là để chúng ta đọc với nhau thôi chứ còn tác giả thì cũng đã lên lão, viết vẽ hàng chục năm và đuề huề lắm rồi, đâu cần một chú tôm tép như tôi lăng xê.

    Sau đây là ?oChuyện cây đào? (Trong tập ?oLầu Xép? do nhà xuất bản Văn Nghệ (chắc là ở Mỹ) ấn hành)

    Chuyện thể hiện khá rõ nét phong cách sống của tác giả Võ Đình, nâng niu, gìn giữ, kích thích phát triển cái đẹp, cái tự nhiên... Thôi, tùy mọi người đọc, nói ra e mất hứng?

    Xin lỗi, định post ?oChuyện cây đào? nhưng thấy nó dài quá, mấy hôm nay đau mắt không gõ được. Post ?oLại chuyện cây bàng? vậy.







    linh
  2. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    (xin lỗi, tôi post chuyện phía trên sai một số lỗi chính tả, bây giờ post lại, nhờ các mod nếu có thời gian thì xóa hộ và xóa hộ luôn mấy dòng trong ngoặc này)
    LẠI CHUYỆN CÂY BÀNG
    -Võ Đình-
    Ở cuối con hẻm có một cây bàng. Bình thản đứng một mình. Dưới cành lá xanh mát của nó, đời sống đô thị ở một xóm bình dân diễn ra ngày lại ngày, huyên náo từ sáng tinh mơ đến gần nửa đêm. Người ta nhờ vả cây bàng thật nhiều, nhưng coi ra chẳng một ai để ý đến nó.
    Cây bàng khá cao, cao hơn mái nhà chung quanh. Lá bàng to và dày, xanh tươi nhưng phủ đầy bụi. Tưởng rằng cây bàng im lìm nhưng nhìn kỹ thì thấy nó đang thở. Tàng lá lay động nhè nhẹ và đều đặn như ***g ngực một người bệnh đã quá yếu.
    Chiều chiều, nắng xế, bà già mò ra trước nhà, ngồi thu lu ở góc cửa, nhìn cây bàng. Trước mặt bà, xe gắn máy chạy qua chạy lại, xịt khói mù mịt. Xe đạp. Xe ba gác. Hàng rong. Con nít chơi giỡn. Chó. Gà. Bà già không ngửi thấy mùi nước cống đọng ngay bên nhà. Hay mùi bún riêu bốc lên từ cái quán cóc nép mình sát bức tường gạch. Bà chỉ nhìn cây bàng.
    Không biết từ bao lâu bà già khó thở lắm. Có người cho bà cái ống nhựa đút vô mũi mà hít, thấy đỡ, nhưng hít mãi rồi thôi, bệnh vẫn hoàn bệnh. Một hôm, bà già tình cờ thấy cây bàng đang thở. Và cũng tình cờ, bà thở theo nó. Cứ thế, trong con hẻm nhỏ, cây bàng và bà già thở với nhau.
    ?
    Thở cùng cây bàng, bà già thấy như ***g ngực bà nở ra. Nở ra, lớn dần, lớn dần. Bà nhìn cây bàng và bà thở và bà thấy cả cây bàng là cây phế quản của bà, cành lớn cành nhỏ của cây bàng là những tiểu phế quản trong ngực bà. Bà già cảm thấy mình mạnh lên, tươi tắn ra.
    Bà già ngồi thu lu ở một góc, nhìn cây bàng chăm chăm. Và cây bàng thở với bà, thở dùm bà. Đứa cháu ở với bà, và bà con lối xóm xì xào với nhau là bà già khùng rồi.
    Không khùng sao được khi một bà già toe tóp, tóc bạc chỉ còn mấy sợi, mắt hấp háy, miệng hom hem, một bà già như vậy mà ngồi yên hàng giờ ngó cây bàng, đôi vài gầy nhô lên tụt xuống. Có người hỏi bà ngồi làm chi đó, bà làm thinh. Hay chỉ nói: Tui thở. Bà già khùng thiệt. Ai mà không thở!
    Đầu năm, có lệnh ?ođập? mặt tiền những nhà lồi ra ngoài đường quá mức qui định. Phải ?ođập?, thụt vô, xây lại. Để người ta tráng nhựa con hẻm. Cây bàng xấu số: Nó đứng ở cái chỗ thật chướng mắt. Nó nằm ngay ở ngã ba con hẻm.
    ?
    Khi bị đốn xuống, ngã cái rầm, con nít la hét um sùm. Người lớn thì lăng xăng dành nhau, hốt lượm cành lớn cành nhỏ gẫy văng tứ tung. Có ?oga?, có điện rồi, nhưng để dành được vài que củi vẫn hơn.
    ?
    Không đầy hăm bốn tiếng sau khi cây bàng bị đốn xuống, đứa cháu nhỏ hô hoán lên là bà ngoại nó chết rồi.

    linh
  3. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    (Xin chép lại phần giới thiệu sau cuốn ?oLầu Xép? để nếu ai có nhu cầu thì tiện tra cứu để đọc các tác phẩm)
    VÕ ĐÌNH
    Tên thật là Võ Đình Mai, sinh năm Quí Dậu, 1933, tại Huế. Chánh quán huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Những năm 50, du học ở Lyon và Paris, Pháp quốc.
    Triển lãm cá nhân đầu tiên: New York, 1961. Sau đó, họa phẩm đã được trưng bày trong hơn 40 cuộc triển lãm cá nhân và vô số những cuộc triển lãm tập thể ở Á châu, Âu châu, Gia Nã Đại và Hoa Kỳ.
    Văn phẩm đầu tiên được xuất bản ở New York năm 1970 (The Toad Is The Emperor?Ts Uncle, Doubleday &Co). Đã cho ấn hành hơn 40 ấn phẩm do ông sáng tác, dịch thuật hoặc minh họa.
    Công trình văn học nghệ thuật được ghi nhận trong Nhân vật Việt Nam (Sài Gòn 1974), Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-1995), Who?Ts Who In American Art, Contemporary Athors Printworld, The New York Art Review?
    Năm 1975 được trao giải nghệ thuật Christopher Award, New York.
    Năm 1984, được cơ quan văn hóa liên bang Hoa Kỳ, Washington DC tặng một Literature Program Fellowship.
    Họa sỹ/Nhà văn Võ Đình hiện cư ngụ tại một vùng thôn dã miền Đông Nam Hoa Kỳ.

    linh
  4. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    (?oChuyện cây đào? lười vẫn chưa gõ xong, xin gõ chuyện này mới đọc hôm qua thấy vừa ngắn vừa hay vậy?)
    LẦU XÉP
    -Võ Đình-

    Ở vùng thung lũng này, ánh sáng và bóng tối tương phản dữ dội. Chiều về, mặt trời vừa lặn khỏi đỉnh núi là đất trời tối sầm. Những lùm cây mới đấy còn váng vất ánh sáng bỗng sụp tắt. Đó là lúc những con ó gà* thật lớn, dang đôi cánh đen ngòm, nặng nề bay hút về phía rừng. Từ xa, bên kia núi, vẳng lại tiếng rầm rầm đoàn xe lửa xuôi Nam. Một tiếng còi đột ngột thét lên, vang dội cả thung lũng. Rồi tất cả im lìm.
    Đó cũng là lúc tôi bắt đầu nghe tiếng động trên trần nhà, bên trên trần nhà, trên lầu xép. Tôi ngồi yên, phập phồng, lắng nghe. Tiếng cọ sát nho nhỏ, rời rạc, khô khan. Tiếng động của một cái gì kéo lê chậm rãi trên sàn gỗ thô nhám. Ngôi nhà này xưa cũ lắm, tất cả các món xà, đòn, rui, mè toàn là thứ gỗ cứng cưa tay với lưỡi cưa dày răng lớn. Tôi ngồi yên theo dõi tiếng động tiến dần, tiến dần từ trái sau ra trái trước. Thoạt đầu, chỉ là tiếng động nhỏ, chậm chạp. Rồi lớn dần, nhanh dần. Rồi mạnh hơn, hình hịch, như thể có một cuộc vật lộn, dằng xé, quằn quại. Rồi yên lặng. Rồi một lúc sau, tiếng động lại nổi lên, đều đặn, chậm rãi. Tiếng động của một cái gì kéo lê trên mặt gỗ thô nhám bụi bặm.
    Tháng trước, tôi có việc phải kéo chiếc thang trần xuống, leo lên lầu xép. Tuy rằng ở nhà đó đã lâu, đã quá quen thuộc, mỗi lần lên lầu xép tôi vẫn thấy ngài ngại. Nhất là từ ngày các con đã lớn, đi xa. Nhất là từ ngày vợ tôi qua đời. Tôi không phải là người gan góc, lì lợm. Nhưng một ông già từng này tuổi, đã sống chết với đời bấy nhiêu, thật tình tôi cũng chẳng là một kẻ yếu bóng vuias. Vậy mà từ ngày ở một mình trong căn nhà xưa cổ, tôi thấy ngài ngại mỗi khi phải leo lên lầu xép. Ngại cái gì? Đã bao lần tôi tự hỏi, ngại cái gì, và tôi không biết là tôi ngại cái gì?
    Mới đây thôi, tôi vô buồng ngủ, với tay bắt lấy sợi dây thừng lòng thòng ở một góc trần. Kéo mạnh thì cái thang xếp ngã xuống, nảy ngửa ra, chống lên sàn nhà. Tôi cầm đèn ?opin? leo lên, lọt qua lỗ hổng, đứng thẳng dậy. Trần lầu xép rất thấp, cẩn thận mới khỏi va đầu vào rui gỗ. Tất cả vàng khè trong ánh sáng lu lít của một ngọn đèn hai-mươi-lăm nến. Lầu xép có một mùi kỳ lạ. Lần nào lên đó tôi cũng ngửi thấy. Ngày xưa chưa có xi-măng, người ta đắp tường đá với đất sét trộn vôi cát và các thứ như lông bò, đuôi ngựa... Tầng trệt và gác trên của ngôi nhà: tường còn được trét cho phẳng chứ lầu xép thì khỏi. Đá khối, đá tảng để trần chất lên nhau, gồ ghề, lổm nhổm, chỉ cần chạm nhẹ là đất cát khô róm rơi rụng rào rào. Nhà là thân xác, đá là xương, đất cát là da thịt. Ngôi nhà này là một thân xác còn sống, còn thở, còn khô ráo khi quang tạnh, còn lạnh ẩm khi gió mưa, nhưng da thịt đã héo hon lắm rồi. Thân xác trơ mắt ra nhìn da thịt tan rã. Thân xác trên con đường hủy hoại là căn nhà tôi đang ở. Và tôi ngửi thấy hoài cái mùi đó. Gỗ, đá, đất, bụi. Mùi của tan rã, hủy hoại, nát mục, tàn phai.
    Lầu xép là nơi chất chứa những cái giữ thì không cần, không dùng, mà vất thì thương, thì tiếc. Lầu xép là cái góc nhỏ ít ai bén mảng của cuộc đời con người. Những vụn vặt, thừa thãi của quá khứ, quên đi, bỏ đi thì không đành mà nhớ đến và nâng niu thì không đáng. Biết rằng có đó nhưng không muốn thấy nữa. Cuộc sống tuần tự tiếp diễn và con người đành đoạn để quá khứ nghỉ yên. Đụng đến chỉ làm trổi thêm tro bụi. Ngôi nhà tôi đang ở có một cái lầu xép và lầu xép có một quá khứ xa xưa hơn cả ông cố ông sơ mấy đời của tôi.
    Thế là hôm ấy tôi leo lên lầu xép. Mỗi lần lên đó, tôi thường tay cầm đèn ?opin?, tay cầm gậy nhỏ. Có những hang hốc ngõ ngách tôi không dại gì thò tay vào. Màng nhện không nhiều nhưng có ong, thứ ong vàng bụng rằn đến xây tổ đất sét ngay trên xà nhà. Khi tôi sắp sửa tụt xuống lỗ hổng ở trần nhà thì nghe tiếng động nhỏ. Tôi leo lên lại, rọi đèn tìm xem. Hồi lau không nghe động tĩnh tôi mới cầm gậy thọc vô một góc dưới chỗ mái nhà tiếp giáp với sàn lầu xép. Chỗ tôi nghĩ rằng tiếng động phát xuất. Biết đâu lại là một con sóc hay con chim lọt vào đây qua một khe hở nào đó dưới chái. Đầu gậy chạm phải vật gì mềm mềm làm tôi giật mình, thụt lùi một bước.
    Trong chỗ tranh tối tranh sáng, tôi chỉ thấy loáng thoáng một vật đen đen. Tôi nhìn kỹ hơn. Vật đen đen di động. Tôi thụt lùi một bước nữa, tay chiếu đèn sát hơn, tay nắm chặt cây gậy. Vật đen đen óng mượt dưới ánh đèn, phản chiếu những đốm sáng lấp lánh. Rui dọc của mái nhà cách nhau chỉ chừng hai gang tay mà chỗ này lại chất chứa những thứ phế phải như hộp giấy, áo quần cũ, cả một con gấu bông đã rách nát, cho nên chỉ thấy được rõ mười, mươi lăm phân tây của cái vật đen đó. Tuy thế tôi cũng thấy được là ?onó? đang cựa quậy, đúng hơn nó đang xê dịch, xê dịch thật chậm rãi và đều đặn.
    Một lúc sau, vật đen đó biến mất, và tôi thấy được đằng sau đó, nhét sâu vào khe hở giữa sàn gỗ và chái nhà là một vật đen khác. Vật đen này loang lổ, lấm tấm đen, không óng mượt đen nhánh như trước. Tôi thọc gậy sâu vào, khời nó thì nó nằm yên. Cố mãi, tôi khời nó ra được.
    Đó là một cái áo lót đàn bà. Loại corset ngày xưa, có gắn ren, độn nẹp, có giây thắt ngang thắt chéo sau lưng. Cái thứ áo sáng mùa hè nọ Scarlett O?THara được bà vú mặc cho: Bà vú da đen to béo phốp pháp, tóc hoa râm, nụ cười hiền hậu, vú đứng sau lưng, hai tay nắm hai giây thắt ra sức gò rút trong khi Scarlett ưỡn ngực ra trước, má đỏ phừng, mắt long lanh, vú càng gò rút, ngực cô gái xinh đẹp Miền Nam càng nở, eo nàng càng thon, hông nàng càng đầy? Tôi bỏ gậy và đèn lên sàn, ngồi thụp xuống, trải thẳng cái áo cũ ra. Bụi khô tỏa lên loáng thoáng. Tôi hắt hơi mấy cái. Áo đã khá nát. Những sợi dây rút không còn nguyên vẹn. Những nẹp cứng làm bằng xương cá voi (?) cái thì gãy cái thì đâm thủng áo, lòi cả ra ngoài đường may. Đăng-ten đen chỗ còn chỗ mất trên nền lụa trắng ố vàng. Chính giữa ngực, giữa hai nịt vú, có gắn một nụ hoa nhỏ kết bằng lụa hồng. Tôi tần ngần một lát rồi chắt lưỡi, xếp cái áo nát lại. Thật gọn. Rồi dùng gậy đẩy cái áo vào chỗ cũ, tận trong xa, nơi tiếp giáp giữa mái và sàn, giữa hai cái rui dọc.
    Đêm đó, tôi ngồi một mình, nhâm nhi tí rượu mạnh trước khi đi ngủ, tôi lại nghe tiếng động trên sàn lầu xép. Tôi có ý kéo chiếc thang xếp xuống, leo lên, nhìn tận mắt cái gì đã gây nên tiếng đó. Nhưng tôi sợ. Tôi chỉ ngồi yên, ly rượu nhỏ trong tay. Tôi ngồi yên theo dõi tiếng động trên trần nhà cho đến khi không nghe được gì mới tắt đèn đi ngủ. Trong bóng đêm, tôi lắng tai, nhưng tất cả hoàn toàn yên tĩnh. Tôi nhớ lại mảng đăng ten đen trên nền lụa trắng, và cái hoa hồng nhỏ gắn giữa ngực. Màu hồng nụ tường vi đã phai đi nhiều tưởng chừng chạm vào cái hoa có thể bay ra thành bụi. Tôi loáng thoáng nghĩ đến người nữ nào đó đã mặc chiếc corset ấy, và tôi mơ màng tê tái, như tiếc nuối, như lẻ loi?
    Tuy thế, tôi đã mỉm cười một mình: Xưa kia, người ta không vứt áo quần cũ vào sọt rác, người ta để dành, người ta dùng chèn vào tường, vào chái nhà, như một thứ vật liệu cách hàn, cách nhiệt!
    Sau đó, tôi vẫn ngồi yên mỗi tối với ly rượu nhỏ, lắng nghe tiếng động trên lầu xép. Đôi khi tôi nhớ lại chiếc corset đăng ten đen có gắn nụ hồng nhỏ giữa ngực. Tôi lẩn thẩn nghĩ rằng làm sao mà một chiếc áo lót đàn bà kiểu cách cầu kỳ như vậy lại chui vào nằm trong góc lầu xép một ngôi nhà thô lậu nơi thôn dã hoang vu này. Đêm đêm, tôi vẫn nghe tiếng cọ sát nho nhỏ, rời rạc, khô khan như một cơ thể trần truồng trườn mình trên sàn gỗ thô nhám và bụi bặm.
    Hôm kia, mưa gió tầm tã. Sấm chớp dữ dội cả tiếng đồng hồ. Tạnh được một lát rồi bỗng dưng sét đánh tơi bời và mưa đổ như thác. Tôi đứng ở căn buồng sau, ngó ra cửa sổ ngắm cơn thịnh nộ đất trời. Bỗng từ máng nước trái sau, một vật gì đen đen thò ra. Mỗi lúc mỗi lớn hơn, dài hơn.
    Tôi đẩy cửa sổ, ngoái đầu ra nhìn kỹ. Con rắn đen, thật dài, đen nhánh. Từ ống máng, con rắn vươn đầu lên, đung đưa. Mưa tuôn xối xả lên nó, những giọt mưa rơi lên thân hình đen bóng, bắn ngược lại, sáng ngời. Từ lâu, tôi nghe người trong vùng nói về rắn lớn nghe sấm bò ra tắm mưa mà bây giờ tôi mới thấy tận mắt.
    Con rắn uốn mình xuống, quấn quanh ống nước, rồi từ tự thụt toàn thân ra khỏi trái nhà. Đen nhánh, to bằng bắp tay, tôi đoán chừng dài cũng trên hai thước. Sau cánh cửa hậu, tôi đứng im lìm. Và con rắn, nó chậm rãi bò ra sân cỏ, rồi lẻn đi nhanh, mất biến về phía rừng.
    (*: Chicken hawk: Chim ưng lớn, thường bắt gà)
    linh
  5. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    CHUYỆN CÂY ĐÀO
    Võ Đình
    1.
    Đã giữa tháng tư rồi mà thời tiết như còn đang Đông: lạnh lẽo, ướt át. Tuy nhiên, hoa xuân đã bắt đầu ló dạng. Ngập ngừng, e lệ. Những loài hoa nhỏ như crocuses và daffodils, chúng không e lệ chút nào, chúng chỉ muốn vội vàng ló dạng để khoe sắc với đát trời. Nhưng peonies (mẫu đơn) thì mới chỉ đâm chồi, irises (diên vĩ) chỉ mới có lá và azaleas (đỗ quyên) đang toàn là nụ.
    Sau mấy ngày mưa dầm dề, trời lại nắng, tôi vội cho áo quần dơ vào máy giặt. Một trong những cái thú toàn vẹn của tôi là? phơi áo quần. Tôi cho rằng trong đời ít có cái gì thơm tho cho bằng quần áo giặt sạch rồi phơi ngoài trời nắng. Tôi ái ngại cho những ai bất đắc dĩ phải dùng máy sấy, cho cả những ai thích dùng máy sấy hơn là phơi nắng áo quần.
    Phơi đồ xong, tôi đi lòng vòng quanh vườn ngắm cây cỏ. Ngôi vườn sau nhà nhỏ thôi nhưng đáp ứng cũng đầy đủ cho lòng yêu thích khá lớn của tôi đối với cây cỏ. Hai cây đào loại ăn trái, một cây táo, hai cây đào loại để ngắm bông, ba cây ?ocẩu mộc? (dog-wood trees), nửa tá tùng, bách, loại cây lùn, và mấy bụi trúc. Vâng, có cả ba cây lệ liễu. Bạn bè thường than trách rằng cái vườn sau của tôi quá rậm rạp. Bạn bè có lí. Nhưng tôi ưa vậy. Có cái vườn rậm nhiều cây lá, đối với tôi, cũng như đông đúc bạn bè thân thuộc chung quanh mình. Chỉ khác một điều là cây cỏ dễ chịu hơn, làm mình ít mệt hơn! Tôi đi lòng vòng ngắm cây rồi đến đứng cạnh cây đào mà tôi yêu nhất, một cây đào ?osong hồng? (double-red peach tree).
    Năm nay xuân về khá trễ ở vùng tây bắc tiểu bang Maryland này. Cây đào mới chỉ có nụ, chưa nở ra hoa. Tuy nhiên, những nụ đào này có cái màu? Tuyệt vời? Sinh đẹp? Rực rỡ? Mấy từ này chúng ta dùng đã quá nhiều rồi. Đào này có cái màu như một phép lạ! Đúng thế. Không có một tĩnh từ nào xứng đáng hơn. Nghĩ coi, mới tháng qua, chúng ta đã phải gánh chịu trận bão tuyết lớn nhất thế kỷ, và hàn thử biểu chỉ dưới độ âm. Màu hoa đào này là một phép lạ. Một màu hồng mềm mỏng và nồng nàn, một màu hồng gợi nhớ dến cánh sen nhạt, có pha chút xíu tím? Thôi, màu hồng này đẹp quá, chữ nghĩ phải chào thua thôi. Đứng cạnh cây đào, tôi sực nhớ rằng đó là cái quà ?otụi nhóc? ở một trường trong quận đã tặng tôi mấy năm trước đây. Cây đào này là một cái quà, chứ không phải tôi đã mua nó. Như vậy lại càng quí hơn. Tôi xin kể vì sao.
    2.
    Năm sáu năm gì đó về trước, một ngày thu, chuông điện thoại reng và tôi trả lời. Một cô giáo mỹ thuật (art teacher) mời tôi đến làm việc với cô và học trò của cô. Trường cô ở thành phố nhỏ F, trung tâm hành chánh của quận chúng tôi, một quận thôn dã, nhiều núi đồi. Cô Kate (hãy gọi cô như vậy cho tiện) nói, thật ra tôi không phải ?odạy? gì cả, tôi chỉ cần đến để ?osinh hoạt? với lớp của cô, muốn làm gì thì làm miễn sao cho cả thầy lẫn trò được lợi lạc đôi chút nhờ kinh nghiệm của một họa sỹ chuyên nghiệp. Cô Kate mời tôi tham gia một chương trình đặc biệt điều hành bởi Hội đồng Nghệ thuật của tiểu bang và địa phương. Óc tò mò của tôi được khơi dậy. Tôi nghĩ rằng đó có thể là một lí do chính đáng để thỉnh thoảng bước ra khỏi cái phòng vẽ và cái vườn sau. Vì vậy tôi mới hỏi thêm cho tường tận. Cô Kate và tôi trò chuyện đại khái như thế này:
    - Học trò cô ở vào lứa tuổi nào vậy, thưa cô?
    - Ô, ?otụi nhóc? của tôi ấy à? mười, mười một tuổi, chín cũng có, thưa ông.
    - Nhỏ vậy à, cô?
    - Vâng, nhỏ vậy đó. Trường chúng tôi là một trường tiểu học, thưa ông. Tôi xin lỗi đã không nói ngay cho ông rõ?
    - Ấy, ấy, không can gì, cô Kate. Nhưng mà này, thưa cô, trường tiểu học? Học trò cô nhỏ quá há.
    - Vâng, thưa ông, tiểu học, đúng thế. Học trò nhỏ xíu à. Có lẽ ông nghe đã ớn rồi. Người như ông đâu lại phí thì giờ đi sinh hoạt với ?otụi nhóc? làm gì! (Cô Kate dùng chữ my kids)
    - Ấy, xem nào? Tôi ậm ừ. Tôi hoãn binh.
    Cả đời, kinh nghiệm với ?otụi nhóc? của tôi chỉ giới hạn ở mấy đứa ?onhóc? của chính tôi. Năm nói chuyện với cô Kate đó, con út của tôi cũng hai mươi rồi. Và cả đời, kinh nghiệm dạy học của tôi cũng chỉ lèo tèo đôi ba khóa hè dạy vẽ sơn dầu cho sinh viên năm thứ tư ở một trường đại học gần đây. Tôi tự hỏi, nếu tôi nhận lời cô Kate thì rồi đây tôi phải làm gì trong mấy tiếng đồng hồ mỗi ngày với ?otụi nhóc? tiểu học?
    Yên lặng một hồi khá lâu. ?oThế, thế ông nghĩ sao, ông đến với chúng tôi chứ?? cô Kate lại hỏi. Một ý nghĩ lóe sáng trong đầu. Tôi trả lời: ?oVâng, đến chứ, thưa cô, tôi sẽ đến??. Trong một khoảng khắc, tôi biết tôi sẽ làm cái gì. Tôi sẽ đem lại cho ?otụi nhóc? một vài cái quà mà tôi tin rằng sẽ còn lại với chúng thật lâu dài. Tôi chấp nhận lời mời của cô Kate. Và chúng tôi định ngày giờ gặp nhau một bữa ở trường, với sự hiện diện của ông hiệu trưởng, để bàn thêm các chi tiết.
    3.
    Một ngày cuối tháng ba năm sau đó, tôi ngồi ở một cái bàn dài với nửa tá trẻ em. Trường đã chọn mười tám học sinh cho tham dự chương trình đặc biệt. Cô Kate và ông Hiệu đã chia các em thành ba nhóm với sáu em trong mỗi nhóm. Tôi ?olàm việc? với nhóm A, rồi nhóm B buổi sáng, nhóm C buổi chiều. Có vẻ trường đã chọn được những học sinh ?oxuất sắc?, các em ?ocó khiếu về nghệ thuật? từ những lớp khác nhau. Có em đến từ lớp năm, có em đến từ lớp sáu. Lại có dăm ba em nhỏ xíu đến từ lớp bốn. Mỗi nhóm A và B và C có đủ mặt các lớp khác nhau. Tất cả đều nghiêm chỉnh, biết lắng nghe, tuy có phần e dè, bẽn lẽn. Cô giáo Kate thầm thì riêng với tôi: lần đầu tiên trên đời, ?otụi nhóc? của cô được thấy tận mắt một họa sỹ ?othứ thiệt?! Một họa sỹ gốc Á Đông. Gặp gỡ nhau lần đầu tiên, tôi nói ngay cho ?otụi nhóc? của cô Kate biết rằng tôi không đến trường của quý cô quý cậu để ?odạy? cái gì cả. Tôi chỉ đến ?ogóp mặt? với các em thôi. Để ngồi chơi cũng như để làm việc. Để giúp các em làm những gì mà nếu không có tôi thì các em chẳng thể nào có cơ hội và khả năng làm được trong một lớp học bình thường. Để chia xẻ với các em một ít những gì tôi đã thu thập được trong những tháng năm sống cuộc đời của một nghệ sĩ. Tôi cũng ?ocảnh giác? các cô các cậu bé là chương trình này không phải là chuyện giỡn đâu. Chúng ta sẽ làm việc thiệt nhiều, sẽ để rất nhiều tâm trí vào công trình cần thực hiện, và sẽ rất tôn trọng kỷ luật. Tôi sẽ không cho phép nói chuyện tầm phào trong lớp, nhai kẹo cao su, làm ồn, vân vân và vân vân. Cô cậu nào ngại, muốn rút lui khỏi chương trình thì cứ tự nhiên. Ngay bây giờ. Ai muốn rút lui thì giơ tay lên. Không ai cả. Tốt, bây giờ chúng ta hãy xếp đặt công việc và thì giờ là vừa.
    Lần đầu tiên trong đời tôi ?olàm việc? với trẻ em tuổi nhỏ như vậy. Tôi ngạc nhiên thấy các em (tôi không ưa dùng từ này) khá khôn ngoan. Thỉnh thoảng, hơi có trục trặc về giữ yên tĩnh một chút (tôi vốn dị ứng với sự náo nhiệt), nhưng nói chung thì ?otụi nhóc? của cô Kate dễ thương, hồ hởi, phản ứng nhặm lẹ.
    ...
    (còn nữa)

    ...có khi yêu đến xế chiều
    cúi đầu nhận tội mình yêu chính mình...
  6. bach

    bach Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    77
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn away, bạn cho biết một chút tiểu sử và các tác phẩm chính được nhận định của nhà văn Võ Đình được không. Tôi mới nghe thấy cái tên này lần đầu, nếu chỉ đọc những chuyện bạn gõ lên do nó ,,,ngắn thì lầm lạc cả.
    Đọc chuyện Cây bàng, thấy nó cũng nhàn nhạt như những bi kịch kết thúc có hậu khác, Có nghĩa là chỉ hợp với một số tạng nào đấy chứ không phải là văn chương cho nhiều người
  7. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    4.
    Chúng tôi bàn lui bàn tới, tính ngược tính xuôi, và cuối cùng quyết định rằng một trong những bức tường của hành lang chính trong trường cần được làm đẹp đôi chút. Chúng tôi quyết định vẽ một bức tranh lớn, thật lớn, rồi đem... che phăng cả bức tường ấy đi. Chúng tôi sẽ làm một cái mural, một bích họa. Mur không là một từ Pháp có nghĩa bức tường là gì. Chúng tôi mượn cái thước cuộn (tap ruler) của bác lao công để đo bức tường. Ngang mười bộ dọc mười bộ. Ván ép ở tiệm gỗ có những tấm lớn cỡ 4?Tx8?T. Vậy chúng tôi sẽ mua hai tấm ghép lại thành 8?Tx8?T. Ấy, tôi phải nhớ đừng đi quá sâu vô các chi tiết linh tinh. Chỉ cần nói thêm là một tuần lễ đầu, chúng tôi tập cầm cọ, tập quét sơn cho... ngon, tập cả rửa cọ, vv... Tuần lễ thứ hai, chúng tôi chuẩn bị đầy đủ cho những gì sẽ cho lên bức bích họa. Và hai tuần lễ cuối, chúng tôi vẽ trực tiếp lên tranh.
    Và chúng tôi nói chuyện. Không phải tán gẫu, bi bô ba láp. Chúng tôi nói về những chuyện đang làm.
    Ví dụ, lần nọ, tôi thấy Jenny, đang xài xể một cây cọ, coi tàn nhẫn quá, tôi hỏi:
    - Này, Jenny, em có biết có làm bằng gì không?
    - ? Jenny ngớ ra.
    Tôi cầm cây cọ một tay, tay kia chỉ vào phần cán:
    - Cái này này này, em biết cái này làm bằng gì không?
    - Gỗ! Jenny hớn hở ra mặt.
    - Còn cái này, cái này làm bằng gì? Tôi sờ phần ngọn của cây cọ.
    Jenny nghiêng đầu, trán nhíu lại, môi trề ra, suy nghĩ rất lung:
    - Ni lông!
    - Không. Không phải ni lông. Cái này người ta lấy từ một động vật.
    - Nai?
    - Không phải.
    - Chồn?
    - Không phải.
    Jenny càng nhíu trán, rồi cười toe:
    - Ấy, em biết rồi! Lông chim!
    - Cũng không phải!
    Khi cả năm em còn lại bắt đầu ?ooanh tạc? tôi với đủ thứ tên súc vật, tôi thấy đã đến lúc phải nói lên cho rồi:
    - Thỏ.
    Và trước khi cả lớp nhảy qua chuyện thỏ thiệt, thỏ bông gòn, thỏ sô cô la (sắp đến mùa Easter bunnies), tôi giải thích:
    - Thật vậy, đây là lông thỏ, các em ạ. Vì vậy các em nên đối xử với các cây cọ cũng như các em săn sóc con thỏ nuôi ở nhà. Khi rửa cọ với nước ấm và xà phòng, các em hãy xoa nhẹ đầu cọ vào lòng bàn tay, chứ đừng cà như điên xuống đáy chậu sần sùi kia. Khi đã hết sơn màu rồi thì hãy xả nước trong cho thật sạch. Xong rồi, một tay cầm cán cọ, tay kia vuốt đầu cọ giữa ngón cái và ngón trỏ. Như vậy, lông cọ sẽ chụm lại tròn trịa và nhọn hoắt, chứ không xơ xác thảm thương hư cái ?omốp? chùi nhà kia!
    Sáu đứa trẻ đồng loạt đưa cọ lên, vuốt đầu lông cọ, miệng thì thầm âu yếm như thể đang vuốt ve một con ?opet? ở nhà. Từ bữa đó, mỗi lần tôi thấy em nào ?ohành hạ? bút vẽ, tôi chỉ cần nói ?oÁi! Đau quá!? là em hiểu ngay. Sau mỗi giờ làm việc của nhóm, cô Kate đều cố ghé qua thăm dăm ba phút. Lần nào cô cũng trầm trồ thích thú thấy mấy cây cọ nằm ngay hàng thẳng lối trên bàn, sạch sẽ, óng chuốt, với những đầu lông cọ tròn trịa, nhọn hoắt.
    Một hôm, hồi chương trình mới bắt đầu, tôi thấy Mark, một em lớp năm, đang còng lưng chúi mũi vào một bức vẽ. Coi bộ thích chí ghê gớm. Em kêu to: Nó đụng đậy! Tôi bước lại gần Mark, hỏi: Cái gì thế? Cái gì mà đụng đậy thế? Mark vẫn dí mắt vào bức vẽ, trả lời: Sơn màu! Tôi cúi xuống, và tôi cũng thấy ?onó? đụng đậy thật. Một vạt màu đỏ đang từ từ, từ từ tiến đến một vùng còn ẩm ướt sơn vàng. Cả lớp túa lại quanh Mark và tôi. Chúng tôi ngắm, sững sờ. Như phún thạch nóng quá hóa thành chất lỏng, vũng màu đỏ tiến dần, tiến dần đến màu vàng. Tôi nghe cả hơi thở của ?otụi nhỏ?. Thế rồi, ngay trước mắt, trước khi chúng tôi kịp ý thức sự thay đổi, vùng ?obiên giới? của hai màu đỏ vàng đã trở thành một màu cam nồng ấm, rực rỡ. Lát sau, tôi mới nói với Mark và các bạn:
    - Mấy em thấy chưa, đó là cái mà tôi muốn chia xẻ với các em. Lần sau, khi thấy một màu sơn ?ođụng đậy? như vậy, thôi, cứ lấy ví dụ màu sơn đỏ đi, các em cứ tưởng tượng mình là một trong hằng hà sa số những phân tử nhỏ li ti trong cái thành phần sơn màu đỏ đó. Tưởng tượng là mình đang trôi theo sắc màu. Trôi theo nước sơn. Các em trôi đi, trôi đi, cho đến khi các em cặp đến bờ của vũng màu vàng... Khi đó, các em, như những phân tử màu đỏ sẽ la lớn: Xin chào bà con! Chào các anh chị em! Và những phân tử màu vàng, chúng cũng la lớn chào lại: Ha! Các anh chị đến rồi đó hả? Và rồi bên đỏ lật đật lên bờ, bên vàng hớn hở chạy ra, và rồi hai bên ôm chầm lấy nhau, tíu tít vui mừng. Và rồi, hốt nhiên, đỏ và vàng nhập vô nhau, hòa lẫn với nhau, và trời đất chan hòa một màu cam nồng ấm! Các em biết người lớn họ gọi đó là cái gì không? Họ gọi sự giao thoa đó là ?obí mật màu sắc?. Ha! Bí mật!
    Cứ như thế, chúng tôi làm việc và chúng tôi nói chuyện. Hai tuần lễ trôi qua, chúng tôi làm xong từng đống tranh nhỏ đủ kiểu, đủ cách, và không biết cơ man hình ảnh cỏ cây, hoa lá, súc vật. Và mây, và chim, và sâu, và bọ. Không nhớ ai đó đã vẽ một lá cờ Maryland, cái cờ thật đẹp của tiểu bang chúng tôi, với những màu trắng và vàng, đen và đỏ, cái cờ làm mình nghĩ tới thời Trung Cổ, thời của những lâu đài kiên cố hiểm trở, xây toàn đá, những hiệp sỹ cỡi ngựa cầm thương, những tiểu thư, quận chúa kiều diễm... Và không nhớ em nào đó cũng đã vẽ cái bãi đậu xe của trường, một bãi đậu xe như vô số bãi đậu xe tầm thường khác, với cột đèn, với những bảng Stop, những mũi tên, v.v... Vậy là chúng tôi đã chuẩn bị để xông lên bắt tay vào công việc hoàn thành cái bích họa khổng lồ.
    Hai tấm ván ép lớn quá, phải cho chúng nằm dẹp xuống sàn nhà mới làm việc được. Chúng tôi phải, khi thì ngồi chồm hổm, khi thì còm mình, khi thì... bò lên gỗ mà vẽ. Thế mà rồi, sáu mươi tư cái bộ vuông cũng đầy cả mây trời, súc vật, cỏ cây. Chúng tôi cắm cái cờ Maryland lên đỉnh ngôi nhà gọi là trường đó. Jason, cu cậu có óc cơ khí nhất trong bọn, vẽ vô vài chiếc xe hơi. Chàng thêm vô cả một chiếc school bus, xe buýt vàng to tổ bố, với tên quận chúng tôi và hai cái bảng Stop hai bên hông xe. Rồi trước ngày cuối của chương trình một hôm, chính tôi, người ?ohọa sĩ thứ thiệt?, tôi trồng vô tranh, với sự tiếp tay của cả lớp, đương nhiên, một cây thật lớn. Táo, đào? mận, mai? Mộc lan? Chẳng biết cây gì nữa. Chỉ biết đó là một cây đang nở rộ hoa. Để mừng xuân lại về.

    ...có khi yêu đến xế chiều
    cúi đầu nhận tội mình yêu chính mình...
  8. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    5. Sáng ngày cuối cùng, chúng tôi mượn búa, kềm, đinh, thước cuộn, chúng tôi dựng bức bích họa lên. Mấy em bé gái còn bắc thang, lấy giấy lớn trùm lên tranh, kiểu như gói quà, che đi không cho ai thấy. Mọi người nô nức, hớn hở. Chiều hôm đó, sau khi hết giờ học, một buổi lễ nhỏ, một ?oparty? được tổ chức ngay trong hành lang, trước mặt bức bích họa.
    Ông hiệu trưởng, cố nhiên là hiện diện rồi. Ban giáo sư tề tựu gần như đông đủ. Đại diện hệ thống trường ốc cấp quận có mặt góp vui. Dĩ nhiên, vài vị ?onói đôi lời?, kiểu diễn văn khai mạc thu gọn. Rồi ông hiệu trưởng giúp cô Kate một tay kéo mấy thước giấy bọc bức bích họa xuống. Mọi người vỗ tay rôm rốp. Bánh kẹo được mời quanh. Nước ngọt rót một vòng. Ông bà, cha mẹ các học sinh có vẻ hãnh diện lắm. Người ta lần lượt bắt tay nhau. Và tất cả mọi người bắt tay tôi! Thế rồi cô Kate đằng hắng lấy giọng, thưa rằng cô và ?otụi nhóc? của cô xin được phép tặng cho ông họa sĩ cái quà nhỏ. Cô nói cứ nhìn bức bích họa là cô và ?otụi nhóc? của cô lại nhớ đến tôi, vậy tôi cũng phải có một cái gì đó để còn nhớ tới cô và học trò của cô chứ. Vừa dứt lời, cô Kate đưa hai tay ra, vỗ mấy tiếng khẽ. Ba bốn học sinh từ sau lưng bức tường khệ nệ khiêng ra một cái gì đó thật lớn, coi bộ khá nặng. Phần trên được trùm kín với giấy mỏng. Nhưng đoán đó là cái gì thì dễ ợt. Đó là một cây con, cao tới đầu tôi, còn ở trong chậu nhựa, sẵn sàng để đem trồng.
    6.
    Mấy năm trôi qua. Mỗi lần Xuân về, tôi lại tận hưởng cái đẹp của cây đào ?otụi nhóc? và cô giáo của chúng đã tặng tôi. Từ một cửa sổ của phòng viết, tôi có thể nhìn ra vườn sau, và thấy được cây đào.
    Mark và Jenny và Jason, và các bạn đồng học, chắc đã lớn và lên trung học từ lâu rồi. Tôi muốn tin rằng đâu đó trong lòng các em còn nhớ đến ngày chớm xuân năm xưa khi các em còn là ?otụi nhóc? tiểu học. Những ngày các em còn biết săn sóc cây cọ một cách nhẹ nhàng yêu thương như thể đó là một chú thỏ con cưng quý nuôi trong nhà. Những ngày các em còn biết tưởng tượng mình là một phân tử nhỏ tí ti trôi xuôi dòng nước sơn chảy loang trên nền giấy trắng. Tôi cũng ao ước rằng một ngày kia, khi các em đã thành người lớn, những ông những bà trung niên, những lão ông lão bà, các em cũng vẫn còn nhớ như vậy.
    Tôi mới sực nhớ lại là trong buổi ?oparty? mừng bức bích họa năm nọ, chính tôi, vốn ghét ?ođi?Tt cua đi?Tt kiếc?, chính tôi cũng ?ocó đôi ba lời?. Tôi nói rằng, thưa quí vị, tôi cầu mong một ngày, lấy Jenny làm người điển hình đi, một ngày Jenny, đã là một bà lão... chín mươi tuổi, quay về thăm trường cũ. Lưng bà còng lắm rồi, tay bà chống gậy, tay chỉ bức họa và nói với mấy đứa chắt: ?oCác cháu xem, Cố vẽ nó đấy, con thỏ kia kìa!? Rồi cố Jenny sẽ kể cho bọn chắt nghe về cái ông họa sỹ nhỏ con nọ (đối với đa số người Hoa Kỳ thì người Á Đông nào cũng nhỏ con cả!). Rằng ông ấy đã dạy cho Cố cách rửa cây bút vẽ lông thỏ. Rồi Cố Jenny sẽ nhớ lại những gì ông họa sỹ đã nói với cô và các bạn đồng học một hôm nào đó trước lễ Phục sinh năm ấy. Ông ấy nói ông ấy tin rằng nguồn vui sống lớn nhất, bất tận và toàn vẹn nhất ở đời là thiên nhiên. Không phải thiên nhiên là những bãi sa mạc mênh mông, những cánh rừng sâu thẳm, hay những ngọn núi cao, những con thác lớn đâu. Ông ấy nói rằng thiên nhiên, ở đâu cũng có, cái gì cũng là thiên nhiên. The Grand Canyon ở Arizona là thiên nhiên, mà viên đá nhỏ lăn lóc bên lề đường cũng là thiên nhiên. Những đại, đại cổ thụ sequoias ở California là thiên nhiên, mà một ngọn co hèn mọn sau vườn cũng là thiên nhiên. Thấy thiên nhiên thì cứ yêu thiên nhiên đi, hãy sung sướng đi. Just enjoy! Free of charge! Không tốn một xu nhỏ!
    Cố Jenny hồi tưởng như vậy đó, rồi bà ta sẽ ngó một vòng quanh ngôi trường cũ, rồi tia mắt bà sẽ ngừng lại ở cây ngọc lan trước sân trường, trĩu nặng búp lớn, trắng và hồng. Bà cố sẽ cảm thấy rễ cây ngọc lan đang cựa mình đâm sâu thêm xuống đất, đang hút nước và các chất bổ trong lòng đất, và đang đưa lên, đưa lên thân cây, cành cây, đến tận những búp hoa đang còn dùng dằng chưa rộ nở.
    Mấy năm về trước, mừng bức bích họa được hoàn thành bởi băm sáu bàn tay bé bỏng, với sự hỗ trợ của chính tôi, tôi đã nói như vậy cho Jenny, một em bé tiểu học lớp năm và mọi người nghe.
    Bây giờ đây, một ngày đầu Xuân, tôi cũng đang tận hưởng cái đẹp tuyệt vời của cây đào sau vườn. Cây đào mà Jenny, hồi ấy mới có mười tuổi, và các bạn đồng học cùng cô giáo, gã góp tiền mỗi người một ít, mua tặng tôi.

    ...có khi yêu đến xế chiều
    cúi đầu nhận tội mình yêu chính mình...
  9. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    Nhà văn họa sĩ Võ Đình sinh năm Qúi Dậu, 1933, tại Huế. Chánh qúan huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Những năm 50 du học ở Lyon và Paris. Năm 1961, triễn lãm hoạ phấm đầu đời ở New York City. Từ đó hơn 40 triễn lãm cá nhân và vô số triễn lãm tập thể ở Âu Châu, Á châu, Gia Nã Đại, và Hoa Kỳ.

    Năm 1970, hai văn phẩm đầu tiên được xuất bản: The Jade Song (Chelsea House, New York) và The Toad Is the Emperor Uncle's (Doubleday&Co,. New York). Tất cả, hơn 40 tác phẩm: sáng tác, dịch thuật, minh họa.
    Công trình văn học nghệ thuật của Võ Đình được ghi nhận trong Nhân Vật Việt Nam (Sài gòn, 1974). Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại, 1975 -1995 (Đại Nam, California, 1995), và những ấn bản hàng năm của Who's Who In American Art, Contemporary Authors, Prinworld, The New York Art Review... Năm 1975: Christopher Award, New York. Năm 1984: Literature Program Fellowship tu National Endowmentfor the Arts, Wahington, D.C.; Năm 1992: Bằng hữu bốn phương bày tranh và sách Võ Đình ở Montreal, Canada. Năm 2000: triễn lãm ở Pháp, kỷ niệm 50 năm về trước đặt chân -dến Paris . Năm 2002:tác phẩm mới nhất, Huyệt Tuyết (Văn Nghệ, California, 2002)
    Hoạ sĩ nhà văn Võ Đình hiện cư ngụ tại một miền biển có nhiều tùng bách, và các loại dừa, kè, thốt nốt, .... Đông Nam Hoa Kỳ.

    ...có khi yêu đến xế chiều
    cúi đầu nhận tội mình yêu chính mình...
  10. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    "HOẶC"
    Võ Đình
    Năm đó, Nghi bước quá tuổi bốn mươi. Anh thường nghe nói tứ thập nhi bất hoặc, bốn mươi tuổi rồi thì không còn nghi hoặc chi nữa. Nghi hiểu rằng hoặc đây có nghĩa là chưa nhất quyết, là còn hoang mang, lúng túng trên đường đời. Không biết hiểu thế có phải không, Nghi chỉ yên trí như vậy. Nghe nói tứ thập nhi bất hoặc, nhưng quá bốn mươi tuổi rồi anh vẫn còn "hoặc" quá xá. Anh "hoặc" công việc anh làm hàng ngày. Anh "hoặc" vợ, anh "hoặc" con, "hoặc" cả hàng xóm láng giềng. Nghi "hoặc" cả chính mình. Anh "hoặc" cả đất trời.
    Ấy vậy mà có một chuyện anh không "hoặc". Đó là cái phòng trống. Đúng thế, cái phòng trống. Trong hai mươi năm trời, từ ngày anh còn đi học, rồi đỗ đạt, đi làm, rồi lấy vợ sinh con, Nghi đã từng ở phòng thuê, ở chung cư, ở nhà riêng. Ở đâu, anh cũng cảm thấy nơi ăn chốn ở quá chật hẹp, tù túng. Thế giới bên ngoài, anh cũng không ưa. Phố phường, hàng quán, người qua kẻ lại, xe cộ, rác rưởi, bụi khói, anh khó chịu lắm. Về nhà thì bàn ghế, giường tủ và một vạn thứ lỉnh kỉnh khác, chúng làm khổ anh. Chúng nó tranh giành không gian của anh. Chúng nó hít thở không khí của anh. Anh lấn cấn, ngứa ngáy, bứt rứt. Một hôm, trong trí anh bỗng hiện ra một cái phòng. Một cái phòng trống, không có gì trong ấy cả. Bốn bức tường, trần và sàn nhà. Một cửa sổ không màn, không sáo. Cửa sổ nhìn ra khoảng trời trống trải. Nghi tưởng tượng anh đứng trong cái phòng ấy: Anh hết ngứa ngáy, bứt rứt, anh thấy nhẹ nhõm cả người. Anh lâng lâng. Từ hôm đó trở đi, Nghi tơ tưởng ngày đêm về cái phòng trống ấy. Anh ước ao một ngày anh sẽ ở trong một ngôi nhà và sẽ để dành ra được một căn phòng. Anh sẽ không để bất cứ gì trong cái phòng ấy cả. Anh sẽ để nó trống không.
    Cái phòng trống không đó là điều duy nhất Nghi không "hoặc". Anh biết rằng anh muốn có một căn phòng trống không trong nhà. Và anh tin rằng cái phòng trống đó sẽ làm anh lắng xuống những con sóng cứ thôi thúc mãi trong anh.
    *​
    Một hôm, tan sở, trên đường về, Nghi dừng xe lại khi đèn đỏ ở một ngã tư. Bên phải xe anh là một chiếc xe mui trần. Một thiếu phụ khoảng băm lăm, bốn mươi. Nước da trắng ngần, tóc bới cao, bờ vai nà nuột. Người đàn bà nhìn thấy anh, thoảng mỉm cười. Nghi ngây ngất.
    Tối đó, đang đánh răng, Nghi bỗng ngừng tay, nhìn mình trong gương. Anh nhớ lại người đàn bà xa lạ. Anh nhớ đôi môi đầy. Màu son đỏ cam óng lên, làm mái tóc đen càng thêm đen. Hai xe cách nhau xa thế mà Nghi thấy được những chiếc răng nhỏ. Đôi môi hé mở, ươn ướt. Những chiếc răng nhỏ lộ ra, long lanh. Đèn xanh, anh không hay. Chỉ khi nghe còi xe thúc giục sau lưng, Nghi mới rồ ga phóng tới. Anh liếc qua: chiếc xe mui trần đã mất tăm. Người đàn bà đó, chỉ thấy mặt trong chốc lát, Nghi nhớ hoài.
    *​
    Năm Nghi năm mươi tuổi, anh có địa vị nghề nghiệp hết sức vững vàng. Lương cao cho phép anh mua một căn nhà bề thế hơn. Nhà mới tậu được có đến năm phòng ngủ. Trần phòng khách cao gần ba mươi bộ. Toàn nhà lót sàn gỗ sồi vàng óng, bóng loáng. Các phòng tắm đều có bồn nước xoáy. Nhà dưới có thể chứa hàng trăm người, rất tiện cho những buổi "họp mặt" đông đảo. Sau nhà, có hồ bơi. Sau hồ bơi là cả một khu rừng nhỏ ba phần tư mẫu. Ở vùng đó quả là tấc đất tấc vàng. Ai thấy cũng tấm tắc. Người ta nói tuổi năm mươi là tuổi "biết mệnh trời". Nghi không biết mệnh trời ra sao, chỉ thấy rằng trời thương anh. Anh có đủ cả. Chỉ còn thiếu cái phòng trống. Năm Nghi năm mươi tuổi, anh quyết tâm có được cái phòng trống ấy.
    Căn phòng để dành cho khách phương xa - guest''s room - có đủ tiện nghi, ở tuốt mãi hành lang, trên lầu.
    Nghi nói với vợ:
    - Để căn phòng ấy trống nhé.
    Vợ nói:
    - Thì vẫn trống đấy. Có gì đâu!
    Nghi gắt:
    - Có gì đâu! Có giường , có tủ, có bàn ghế, có cả TV, VRC, hầm bà lằng!...
    Vợ anh phân trần:
    - Thì guest''s room đó. Phải có đủ cho khách chứ!
    Nghi thấy mình vô lý. Anh dịu giọng:
    - Biết rồi, nhưng thôi, chẳng ghét với ghiết làm gì. Tôi muốn để cái phòng ấy trống không vậy. Dẹp ra hết nhé!
    Vợ Nghi im lặng, chị thấy dạo này chồng hay trở chứng. Tóc anh bạc đi nhiều, rụng nhiều. Chuyện chăn gối, ít đi. Uống rượu lại nhiều hơn. Chị biết chồng loay hoay trăn trở với một nỗi day dứt nào đó. Chị biết chồng ăn nên làm ra, nhưng trong lòng vẫn hoang mang quay quắt. Bên trong, Nghi không phải là người đàn ông đĩnh đạc, tự tín, có người cho là cao ngạo, mà gia đình, bà con, bạn bè, đồng nghiệp thường thấy. Chị biết đủ thứ về chồng, nhưng điều cần biết thị chị lại không biết. Căn phòng trống, chẳng hạn. Chị không biết tại sao Nghi lại khăng khăng có cho được cái phòng trống. Thật ra, chị có biết cũng chẳng ích gì.
    *​
    Căn phòng vốn là guest''s room - để dành cho khách phương xa tá túc - có cửa sổ nhìn xuống khu rừng thưa sau nhà. Nghi cho dọn tất cả ra hết. Căn phòng trống không: Không giường tủ, không bàn ghế, không TV, điện thoại, không tranh ảnh, sách báo. Hoàn toàn trống không. Vợ nói: Lạnh lẽo qúa. Nghi không nói trái ý vợ. Ngày ngày đi làm về, anh thay quần áo ở nhà, rồi vô phòng ấy, khóa trái cửa lại. Vợ hỏi: Anh làm gì trong đó? Nghi cười: "Ngồi chơi".
    "Ngồi chơi" chỉ là một cách nói, cho xong chuyện. Trong căn phòng trống, Nghi một mình, có gì mà chơi! Vậy mà anh thích. Ngày ngày, đi làm về, Nghi để ra chừng nửa tiếng, bốn lăm phút cho đôi ba việc lặt vặt trong nhà, rồi anh rút lên lầu. Ngồi trong căn phòng trống không, anh nhẹ nhõm hẳn ra. Suốt ngày đầu óc anh nặng nề rối rắm với bao nhiêu thứ phiền toái. Những thứ chẳng có gì ghê gớm, nhưng phiền. Một chuyến đi công tác khó khăn phải thu xếp. Những trục trặc với cô thư ký mới chưa quen việc. Những lấn cấn trong liên hệ với vài anh chị đồng nghiệp. Cái xe, mới thế, đắt thế, mà cứ bệnh này bệnh nọ lắt nhắt hoài. Rồi những phiền hà trong gia đình. Ối, vợ con thì thôi, kể ra không hết. Chuyện lớn, chuyện nhỏ, chuyện vừa, chuyện sức khoẻ, chuyện học hành, chuyện tình cảm, chuyện tiền nong...
    "Nội vụ" là vậy, còn "ngoại vụ" nữa. Tết nhất, giỗ kỵ, đám hỏi, đám cưới, tiệc tùng lễ lạc liên miên. Đã sinh con sinh cái thì lại có những vụ Cúng Mụ, Đầy Tháng, Thôi Nôi. Rồi sinh nhật hằng năm. Dạo sau này lại có thêm một trò vui mới, khá tốn kém thì giờ và tiền bạc, là lễ kỷ niệm năm cưới - wedding anniversary - và lễ họp mặt hàng năm của các cựu học sinh để "cùng nhau nhớ lại mái trường cũ thân thương"... Làm công dân xứ xở người ta rồi, đã "nhập giang" rồi thì phải "tuỳ khúc". Lại có thêm dịp ăn nhậu, quà cáp, hát hò ngâm nga, văn nghệ văn gừng. Nói cho ngay, vợ chồng Nghi cũng không hẳn là người say mê "hội hè đình đám" cho lắm nhưng dẫu dù hai anh chị có giảm thiểu tối đa, những đòi hỏi thuộc loại này cũng xoay cho họ chóng cả mặt.
    Đầu óc Nghi đã rối rắm với bao nhiêu thứ phiền toái, thân xác anh cũng không thanh thản gì hơn. Cứ nghĩ đến những gì chui vào miệng anh mỗi ngày mà Nghi rùng mình. Thân xác anh là thế giới riêng tư của anh. Tưởng đâu đã là riêng tư thì anh có đủ thẩm quyền và khả năng để điều động và kiểm soát nó. Đâu được! Thân xác của anh, cũng như đầu óc của anh, nó chỉ biết trơ mắt ra chịu trận. Thịt xương anh, tim phổi anh, ruột già ruột non anh, chúng có phản đối, anh cũng chịu thôi. Anh có nghề nghiệp quá vững vàng, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm nhân thọ quá đầy đủ, lo gì. Ngày xưa, ông bà ta bảo "đói ăn rau, đau uống thuốc". Đói mấy mà làm một cái xì-tếch tươi rói là xong. Còn đau, thầy thuốc khối ra đấy.
    Ấy vậy mà Nghi lại thích rút lên lầu, "ngồi chơi" một mình trong căn phòng trống không. Anh công nhận rằng cái hình ảnh thình lình hiện ra trong trí anh năm xưa - hình ảnh căn phòng trống không - không phải là một hiện tượng vô cớ, vô bổ.Thuở còn đi học, anh từng có dịp làm quen - sơ sài thôi - với tâm lý học. Hình ảnh cái phòng trống không đó phải chăng trồi lên trong trí anh từ một đáy sâu âm u huyền bí nào của vô thức? Ngờ vậy thôi, Nghi không tìm hiểu. Anh chỉ biết rằng anh đã nảy ra ý muốn có căn phòng trống ấy, và ngày nay, đến tuổi "tri thiên mệnh", anh có được nó trong nhà. Và ngày ngày, anh được vô ngồi trong căn phòng ấy.
    Cứ bước vô phòng là anh cảm thấy sảng khoái ngay. Tất cả những ghét bẩn mốc meo được càn quét, được nạo sạch ra khỏi đầu óc anh. Nghi từng biết thế nào là uống thuốc xổ. Nhưng thuốc xổ, nó cũng làm cho thân xác mệt nhừ ra. Yếu xìu. Đằng này, căn phòng trống chỉ làm cho anh có cảm giác cả người anh được tống tháo trơn tru sạch sẽ, nhẹ hẩng lên. Mà lại thấy sảng khoái, tươi mát, thật hay.
    Nghi "ngồi chơi" trong căn phòng trống ấy được đâu vài hôm thì có chuyện.
    ...

    ...em có thấy trái tim đời không
    mong manh như hoa giữa cơn giông...

Chia sẻ trang này