1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tác phẩm Võ Đình (chắc nhiều người chưa biết đến cái tên này)

Chủ đề trong 'Văn học' bởi away, 25/04/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    *​
    Mới bước vào , anh nhận ra ngay. Tuy ngạc nhiên, Nghi không hốt hoảng: Anh có cảm tuởng anh chờ đợi giây phút đó đã từ lâu. Mười năm hơn trôi qua, anh vẫn nhớ đến người đàn bà xa lạ nọ. Người đàn bà lái chiếc xe mui trần, dừng lại ở một ngã tư đèn đỏ. Mái tóc đen nhánh, bờ vai nà nuột. Những chiếc răng nhỏ long lanh giữa đôi môi ươn ướt. Có khi, chẳng những chỉ nhớ lại những hình ảnh đó mà thôi, anh còn buông lung trí tưởng tượng đi xa hơn vào các chi tiết khác, tọc mạch hơn, rạch ròi hơn. Cứ thế, trong nhiều năm tháng, người đàn bà xa lạ không còn xa lạ đối với Nghi nữa.
    Anh không biết tên nàng, anh không biết nàng nhà ở đâu, chồng con, nghề ngỗng thế nào, nhưng anh lại biết quá rõ về đôi điều khác rất riêng tư về nàng. Anh gần gũi từ sợi tóc trên đầu nàng cho đến cái móng ngón chân út. (Nàng có đôi bắp chân thon dài, mu bàn chân đầy tròn, lòng bàn chân ưỡn cong lên, chiếc gót nhỏ mượt mà; chỉ có ngón út chân trái, có lẽ bị dập hư mới đây thôi, là bầm đen...) Anh biết đến, và mê say cả những đường nhăn nhỏ lăn tăn trên làn da bụng dưới, đáng ra thật mịn màng của nàng. Anh ngây ngất hít thở hương thơm toả ra từ toàn thân nàng... Cả cái gân xanh trên cổ nàng, cái đường gân phập phồng, phập phồng... Có lúc anh đã suýt nhay mạnh đến đứt để cho máu nàng phọt ra có vòi!...
    Hôm ấy, bước vào căn phòng trống, anh nhận ra người đàn bà ngay. Nàng ngồi bệt trên sàn nhà, một góc phòng, váy xếch lên tận đùi, hai chân dài duỗi thẳng. Hai chân mang vớ ni lông màu khói hương và giày cao gót đen. Trong ánh chiều, mái tóc dày xoã xuống, che khuất nửa mặt, chỉ để lộ miệng và cằm. Đôi môi đầy to son đỏ cam hé mở. Nghi thở gấp. Anh quỳ xuống ở một góc phòng, đối diện người đàn bà. Anh ngồi như vậy thật lâu.
    Nghi ngồi yên nhìn người đàn bà trong khi nàng vẫn giữ tư thế ngồi cũ, mái tóc trước trán che nửa khuôn mặt.
    Có tiếng chân người bước khẽ bên ngoài hành lang. Thằng con ******** bố xuống nhà ăn cơm. Nghi nói: Xuống ngay! Người đàn bà ngồi im lìm. Lâu hơn nữa, bóng tối đã lan ra, đầy căn phòng. Nghi ngước mắt lên: bên ngoài cửa sổ trời đã sẫm tối; một vài vì sao nhấp nháy trên xa... Anh nhìn qua góc phòng kia: người đàn bà chỉ còn là một bóng đen mơ hồ. Nghi khẽ đứng dậy. Anh đứng im hồi lâu, rồi anh lại lặng lẽ ngồi xuống. Một lúc sau, anh lại đứng lên. Anh ngửi thấy mùi hương thoáng nhẹ mà nồng nàn thoảng qua từ phía người đàn bà. Anh thở dài, ngây ngất. Anh đưa tay vói lấy cái công-tắc. Anh tần ngần, tần ngần. Rồi anh bật đèn. Anh sáng tràn ngập, Nghi nhìn quanh.
    Chỉ có một mình anh trong căn phòng trống trải.
    Chỉ một mình anh.
    =============================================
    Cảm nhận: Đọc truyện/chuyện này lại nhớ mấy câu trong November Rain:
    Sometimes I need some time...on my own
    Sometimes I need some time...all alone
    Everybody needs some time... on their own
    Don''''t you know you need some time...all alone

    và nữa:
    Don''''t ya think that you need somebody
    Don''''t ya think that you need someone
    Everybody needs somebody
    You''''re not the only one

    Khi người ta need every time to be alone thì everybody chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Và thế gian trở thành những căn phòng trống, mỗi ngày một đông, san sát nhau nhưng hoàn toàn biệt lập với nhau. Thành phố bây giờ cũng có nhiều nơi như thế. Chỗ mình ở chẳng hạn. Những căn phòng trống giống nhau như đúc ấy làm người ta hình dung đến những hạt cát song sinh không còn sự khác biệt để tạo nên "mâu thuẫn, động lực của sự phát triển". Rất may, trong những hạt cát ấy, còn những mâu thuẫn nội tại. Nhiều lần nghĩ mình biết đâu sẽ như bao người thành Nghi, thành những người xung quanh Nghi, đều có một căn phòng hoàn toàn trống rỗng trong lòng khi phần nhân loại còn lại không thể lấp đầy những khao khát nội tại, không cho những người ngờ hoặc thoả mãn một vài sự ích kỷ cần thiết đến lúc người ta bị dồn đến chân tường của sự ích kỷ toàn phần bất khả kháng. Người đàn bà lạ có lẽ tượng trưng cho những khao khát bị dồn nén trong tâm thức, thoắt ẩn thoắt hiện, cực kỳ mơ hồ mà cực kỳ cụ thể, rất vô thức mà lại ăn sâu vào ý thức. Nghe câu "Vợ nói: Lạnh lẽo quá. Nghi không nói trái ý vợ... Vợ hỏi: Anh làm gì trong đó? Nghi cười: Ngồi chơi" vừa buồn vừa thương vừa sợ. Chơi? Cuộc sống đông đúc hoá ra trở thành một nhà tù và căn phòng nhỏ bé, trống rỗng lại trở thành một chốn tự do. Bật công-tắc hay tắt công-tắc, trong bóng tối hay ngoài ánh sáng, anh đều chỉ có một mình. Nghịch lý đã trở thành một thứ bình thường, dễ hiểu.
    Con người ta tưởng thích nghi được với sự "hiện đại" mà tâm thức không thích nghi nổi với cường độ của nó, khi trong nội tại luôn có một khao khát yên bình nguồn cội. Sự mệt mỏi, cô độc, không tìm thấy hơi ấm giữa loài người khiến người ta muốn chui vào căn phòng thay vì "mà chân muốn đạp tan phòng, hè ơi". Bên ngoài là mùa đông lạnh lẽo người ta cần lẩn trốn chứ không phải mùa hè rạo rực thôi thúc. Cảm thấy như Nghi đang hạnh phúc trong trí tưởng tượng và tiềm thức theo kiểu mong manh của một người hít hêrôin. Nhân vật thì có cách sống của họ. Nhưng giả như ngoài đời, Nghi manh nha có một triệu chứng của một kẻ hoang tưởng, điên loạn. Căn phòng trống ấy, nó vẫn còn một cái cửa sổ, nhưng lại là cái cửa sổ nhìn ra hư không.
    Lại trách thầm trong nền giáo dục dạy người ta những câu "công danh giờ đã được hợp về nhàn, lành dữ âu chi thế nghị khen-ao cạn vớt bèo cấy muống-đìa thanh phát cỏ ương sen-kho thu phong nguyệt đầy qua nóc-thuyền chở yên hà nặng vạy then-bui có một lòng trung với hiếu-mài chăng khuyết nhuộm chăng đen" thật đến thế, hay đến thế mà nền kinh tế không cho người ta cơ hội dừng lại, thoát khỏi vòng xoáy miếng cơm manh áo (dù đã có đủ nhưng khó thoát) để làm điều đó.
    Chi bằng cứ phải tự thân hành động nhanh trước khi sự nghi hoặc, mệt mỏi phủ định, đóng băng hết mong muốn hành động. Chuyện đã cũ mà không cũ, thường ngày mà không thường. Đôi lúc, cần lạc đề và bồng bột như thế dù những cái bên lề này đôi khi làm cảm quan về tác phẩm mất hay. Không hẳn, tác phẩm này đưa người ta đi theo cách mà người ta muốn. Chuyện dùng một số biện pháp lặp, hơi rườm mà lại hợp lí, như đi xung quanh những mớ rối, gỡ ra hoặc làm nó rối thêm, như đi lòng vòng một mê cung, nhích thêm được, gần ra, rồi lại quay trở lại điểm ban đầu. Không quan trọng, vấn đề là người ta tìm thấy mình ở đâu trong mớ rối, trong mê cung loài người, bản thân, tự do, tù đày ấy.
    Những topic, chúng có phải những "căn phòng trống"?

    ...em có thấy trái tim đời không
    mong manh như hoa giữa cơn giông...

    Được away sửa chữa / chuyển vào 16:49 ngày 31/07/2003
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Võ Đình được biết đến trước hết là một hoạ sĩ hải ngoại. Theo đánh giá của J, văn chương của ông cũng chỉ ở hạng trung bình.
    To away: Lâu lắm ko có dịp sang thăm mày. Thời gian tới có lẽ tao lại phải đi xa rồi, tranh thủ ủng hộ mày mấy bài của Võ Đình
    Truyện hết sức ngắn I
    Lời tác giả:
    Truyện có dài, vừa, thật hay cực ngắn. Hai truyện sau đây hết sức ngắn.
    Mấy ngày liền, ý nghĩ chưa có bài cho Hợp Lưu Xuân cứ lởn vởn trong đầu. Đêm qua, tôi nằm mơ hai giấc ngắn: viết bài cho Hợp Lưu. Sáng dậy, sợ quên, chép xuống ngay.
    ______________________________________

    Truyện I
    Vợ chồng tôi đặc biệt ưa thích rau dưa, thường chỉ rau, cá kho. Hôm nọ, xong bữa, con cá còn nguyên. Vốn nghề cầm phấn, vợ lấy làm thú, đọc Nguyễn Công Trứ:
    Ngày ba bữa vỗ bụng rau...
    Tôi tiếp: bình bịch
    Vợ bàn thêm: bịch, bịch, bịch, bịch, bịch...[1]

    Truyện II
    Lâu ngày không ăn, nhớ trứng luộc dầm nước mắm, ớt bột. Vợ bận, tôi bảo:
    ?oAnh luộc hai trứng ăn cơm hí??
    Vợ nói:
    ?oGia tài chỉ có hai trấng [2] mà đem luộc à??

    X- 1999
    (Ðã đăng trên Hợp Lưu)
    _________________________
    [1]Ngày xưa, ở Thừa Thiên/Huế, xe gắn máy (xe mô tô) được gọi là ?oxe bình bịch?.
    [2]Cũng ngày xưa, ở Thừa Thiên/Huế, trứng gọi là trấng.
    Truyện hết sức ngắn II
    Bà bạn tên Ngọc. Chồng Ngọc là René, Mỹ gốc Pháp. Mới tháng trước, René chết, thình lình. Không bệnh hoạn, không tai nạn chi cả. Hôm qua, gặp Ngọc. Bà khóc. Mếu máo cái gì mà ?ochẳng ai thương mình cả...? Một bà già trong bữa cơm đặt tay lên vai Ngọc: ?oĐừng tưởng vậy. Trên đầu có Trời thương. Dưới chân có Đất thương. Cứ nhớ vậy nhé.?
    Người bạn thầm lặng
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 21:13 ngày 20/08/2003
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 21:18 ngày 20/08/2003
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Láng giềng
    ?oHạnh phúc là chinh phục lớn nhất trong đời, cưỡng lại số phận đã được áp đặt lên kiếp người.?[1]
    Albert Camus
    (Thư cho một người bạn Đức quốc, 1948)
    Tôi nói với ông láng giềng: tên riêng của ông, Tim, Timothy gọi tắt, tiếng Việt có nghĩa là "heart". Tim thích chí, cười ha hả, đấm vào ngực trái bồm bộp, rồi kéo tôi đi theo ông. Đến gốc dừa nhỏ mới trồng, ông vén lá ra. Dưới đáy cuống lá non trong cùng, có con nhái bén nhỏ xíu nằm im thin thít, hai mắt long lanh, láo liên. Tôi cũng thích chí, cười ha hả, đưa tay thoi nhẹ vào bụng Tim, cái bụng đồ sộ nằm bừa bãi trên thắt lưng. Tôi nói: You?Tre O.K. Từ hai ông láng giềng chúng tôi trở thành hai người bạn.
    Tim thua tôi bốn tuổi. Vậy là năm nay ông cũng đã 65, tuổi về hưu. Nhưng ông nghỉ ?ocày? sớm hơn, từ năm mới 62. Gặp ông lần đầu, tôi không mấy thiện cảm. Mỹ trắng, gốc Hòa lan, da dẻ phốp pháp, ửng hồng, không râu nhưng tóc rậm, lượn sóng, bạc phơ. Người vừa cao, vừa mập, rất đồ sộ. Bắt tay ông, tôi đã có phản ứng e dè: bàn tay to tướng, mềm mại, âm ẩm. Hai vợ chồng Tim dọn đến đường này cả mấy năm sau chúng tôi. Nhà họ thật lớn, mái ngói mới tinh, tường vôi sơn quét hai màu, ngà và hồng, sáng sủa, bóng bẩy. Điều trước nhất khiến nhà tôi và tôi nghĩ rằng khó có thể gần gũi với những người láng giềng mới đến vì thái độ của họ đối với cây cỏ. Bao nhiêu cây lớn chung quanh nhà, như thông, như tràm, bị đốn xuống hết. Chỉ để lại một sân cỏ mênh mông, xanh mướt, trần trụi. Cây cối đẹp đẽ là thế mà bị cưa xuống, dồn thành đống bên đường cho xe rác bốc đi.
    Từ lâu, tôi có thói quen xem sự dị biệt giữa mình và người khác, nhất là dân bản xứ, như chuyện đương nhiên. Chỉ cốt giữ sao cho được một liên hệ chừng mực và nhã nhặn là quá đủ, quá tốt. Không mong gì hơn.
    Tuy thế, từ ngày được Tim vén cọng lá dừa chỉ cho xem chú nhái bén nằm thu lu dưới đáy cuống, tôi tự nhủ: Một người biết để tâm tới một con nhái như thế là một người ?ođược? lắm. Nói như Mỹ, một người ... O.K.
    *
    Nhà tôi có thói quen nghịch ngợm thay đổi tên họ người ta ra một thứ têu tếu. Có những âm Việt tương đương với âm Anh, âm Pháp. Ví dụ: Clark Gable, tài tử gạo cội, trở thành ông ?oQuạt Gắp?, Charles Bronson trở thành ?oSạt Bung Xung?, ông René, người Gia nã đại gốc Pháp, trở thành ?oMonsieur Renard? (Renard tiếng Pháp là chồn cáo), bà Ellen được gọi là bà Ái Liên. Nhà tôi gọi ông bà láng giềng Thomas là ông bà ?oCà Chua?, vì Thomas giống chữ tomate của Pháp. Bà ?oCà Chua? lại là người Pháp chính cống, quê đâu ở vùng Poitou, gần cả hai thành phố danh tiếng La Rochelle và Poitiers. Bà ?oCà Chua? nhỏ con, bề ngang, bề cao gì cũng chỉ bằng nửa ông chồng. Tên Marie, gọi tắt là Mimi. Có một khoảnh đất trong vườn dành cho riêng bà. Ông Tim đóng cọc, căng lưới, dựng giàn, rắc vỏ cây dưới chân, rồi giao khoán cho bà. Mimi trồng một ngàn thứ trong khoảnh đất đó! Từ bông giấy đến chuối cho đến phượng vĩ. Nhà tôi nói riêng với tôi: ?oTrồng cây như vậy thì mở tiệm bán cây con mấy hồi!? Nhà tôi và bà Mimi có cùng sở thích, nhưng cách nhìn, cách trồng cây cỏ khác nhau, cho nên chỉ ?odung? nhau mà thôi. Ông Tim và tôi có những sở thích khác nhau, rất khác, cho nên ai đi đường nấy, khỏi phải bàn cãi, đề nghị, xúi giục, hay thuyết phục lôi thôi gì nhau cả.
    Ông Tim mê ... chơi xe lửa. Xe lửa tí hon (miniature trains) Cũng đầu máy, cũng toa này toa kia, cũng đèn, cũng chuông, cũng đường rầy sắt, cũng ?oghi? để đổi hướng chạy. Nhưng bộ phận nào cũng bé tí xíu. Trước, tôi tưởng người ta mua các thứ ấy về, lắp ráp đại khái, rồi cắm điện cho chạy. Ông Tim không ?ochơi? chơi như thế. Ông ?ochơi? thiệt . Ông sưu tầm xe này máy nọ như người ta chơi tem, chơi đồ cổ. Với ông, không phải chỉ có mấy ?ogoon? xe chạy trên đường rầy. Xe phải có lúc dừng ở nhà ?oga? nào đó. Nhà ?oga? đó, vào thời nào đó, phải như thế nào mới đúng kiểu, đúng từ cái mái cho đến cái cửa ra vào, đúng từ phòng đợi cho đến ... cầu tiêu. Ông cho tôi xem một cái ?omô-đen?: trong cầu tiêu có cả chỗ ngồi, có cả giây giật nước. Ông cất cả ngàn cuốn ca-ta-lô in ra từ thuở ông và tôi còn mặc quần cụt (shorts), tức những năm của thập niên 30!
    Đâu chỉ có dăm ba toa xe móc cái này sau cái kia. Chỉ mỗi từ miền Đông sang California đã có đến 3 hệ thống khác nhau: Union Pacific, Northern Pacific, Southern Pacific. Ngoài ra có những đường riêng của tiểu bang như Pennsylvania Railroad, như New York Central... Mỗi đường chạy, mỗi hệ thống, liên bang hay tiểu bang, đều khác nhau. Với hình dáng riêng, màu sắc riêng, phong cách riêng. Những sự riêng biệt này lại còn thay đổi, vài ba năm một lần. Cho nên Union Pacific 1935 khác với Union Pacific 1938, chẳng hạn. Tìm kiếm một cái gạt tàn thuốc cho toa hạng nhất New York Central năm 1950 ư? Ca-ta-lô New York Central 1950 có in hình cái gạt tàn thuốc ấy, với con số đặc biệt của nó cùng giá tiền (giá năm 2002!) Chỉ cần bốc phôn gọi, trả tiền bằng thẻ tín dụng, cái gạt tàn được gửi đến tận nhà. ?oNghề chơi cũng lắm công phu?. ?oNghề chơi? cũng tốn kém thì giờ và tiền bạc lắm. Láng giềng Tim mê chơi ... ?ochoo- choo trains? là thế.
    Hè vừa qua, tôi giúp ông di chuyển những thùng lớn, thùng nhỏ đựng vô số các thứ lỉnh kỉnh, từ ?oga-ra? ra workshop. Không ngờ nhiều đến thế. Nhiều khiếp đảm. Bên ngoài mỗi thùng các-tông đều có ghi những gì ở bên trong. Tôi nghĩ thầm: đây là một tay có óc tổ chức ngoại hạng. Thế rồi, từ mấy tháng nay, Tim đóng giàn gỗ, đặt đường rầy. Xe lửa của ông không chạy khơi khơi kiểu ta thường thấy cảnh đồ chơi đêm Giáng sinh trên TV. Xe lửa ông chạy qua thành phố lớn, thị trấn nhỏ, leo núi, qua đèo, băng sông, vượt suối. Mọi phong cảnh, mọi tình huống, phải đúng đắn. Tôi hỏi: ?oÔng tính khi nào thì xong hết?? Tim nói: ?oCó lẽ sang năm.? Vậy là ông bỏ ra gần hai năm trời cho mấy đoàn xe lửa tí hon. Đúng là ?oNghề chơi cũng lắm công phu?.
    Vài ba tuần, tôi ghé qua, xem công việc của ông đã tiến tới đâu, Tim mừng lắm. Chỉ cho xem cái này cái nọ, tôi nghe không hiểu gì cả vì chuyện máy móc, điện điếc, quá phức tạp đối với tôi vốn là đứa không có khiếu khoa học kỹ thuật. Nhưng ông láng giềng nói thì cứ nói, và tôi thì cứ gật đầu tấm tắc. Tim tưởng rằng tôi thưởng thức cái khéo của ông. Sự thật, tôi tấm tắc không phải vì tôi thẩm thấu những gì ông mới làm mấy tuần qua, mà vì tôi cảm phục cái công lao, cái kiên trì, cái chăm chỉ của ông. Thấy tôi ố á như vậy, anh chàng khoái tỉ, lại càng chưng các thứ ra, lại càng giải thích. Đến một lúc nào đó tôi phải kiếm cớ rút lui. Bằng cách hỏi thăm Herman.
    Herman cũng là một láng giềng, một con nhái. Không phải chú nhái bé như đồng xu 1 cent nằm dưới đáy cuống lá cây dừa nhỏ. Anh Herman này to lớn, bệ vệ hơn. Trong khoảnh đất của Marie có cái chuồng nhỏ đóng lên cột cao để chim vào làm tổ. Không thấy chim đâu, chỉ thấy anh nhái ngồi trong chuồng, lò đầu ra ngoài cái lỗ nhỏ. Ông Tim đưa tay vuốt má, vuốt cằm nó. Herman lim dim mắt, có vẻ khoan khoái. Tim phân trần: Có bữa, nửa đêm, xách đèn pin ra vườn xem thử, thấy chuồng chim trống rỗng. Sáng hôm sau, lại thấy cái đầu Herman lò ra ngoài lỗ. What does that mean? Thế nghĩa là sao? Ông hỏi rồi ông trả lời: ?oThế có nghĩa là đêm hôm chàng đi đâu mình chẳng rõ, nhưng cu cậu biết về ?onhà? sau đó. Chứng cớ là Herman vẫn trấn đóng nơi đây. Hà hà...?
    Tim cười hà hà sau câu giải thích là lúc chúng tôi đã bước đến đường cái, và tôi ra về. Mỗi lần ghé xem công việc của Tim đã đến đâu, nhìn ngắm những họa đồ vô cùng tỉ mỉ, nhiêu khê của ông, nghe ông giảng giải, tôi chóng cả mặt. Nhưng trong lòng tôi thầm cảm phục sự gắn bó, nỗi say mê của ông, mặc dù cái thích, cái khoái của ông, tôi ?ohổng có ke? tí nào cả!
    *
    Nghĩ cho cùng, cái thích, cái khoái của tôi, ông Tim cũng ?ohổng có ke?! Viết lách như tôi, ông Tim không biết để làm cái chi. Ông hỏi tôi viết rồi đăng ở đâu, mỗi bài được trả bao nhiêu tiền, vân vân, cực chẳng đã tôi phải nói qua quít đôi lời về nền báo chí hải ngoại của người Việt. Ông nghe, ơ hờ. Tôi mừng thấy ông không lưu tâm gì lắm đến chuyện này nên vội vàng đổi đề tài. Chẳng lẽ lấy cái thú vị (?) sự viết lách của tôi đem lại cho bạn đọc so sánh với cái vui sướng công trình của ông láng giềng đem cho người khác. Tôi đã có dịp thấy tận mắt: Đầu máy hú còi, đèn xanh đèn đỏ chớp chớp, mấy cái ?opít-tông? chuyển động, thụt tới thụt lui, rồi bánh sắt bắt đầu lăn lăn... Người lớn nghiêm trang mấy cũng phải cười toe, trẻ con thì vỗ tay đôm đốp, nhảy cỡn lên. So sánh thế nào được!
    Ngày xưa, ông láng giềng của tôi chưa xong trung học đã vì gia cảnh lăn vào đời kiếm sống. Nhờ chút năng khiếu thiên về kỹ thuật, may mắn được Bell, hãng điện thoại khổng lồ ngày nay vẫn còn , nhận cho vào làm với đồng lương tối thiểu. Việc dạy việc, ông ?ocày? cho hãng trong mấy chục năm, leo lên đến ?ochuyên viên kỹ thuật hạng Nhất?. Rồi về hưu. Không giàu có, nhưng với tiền hưu trí và tiền già cũng đủ phương tiện để ở một ngôi nhà đồ sộ (nhà cửa đất đai vùng này rẻ hơn nơi khác nhiều), rồi còn xây thêm một căn phía sau, một workshop, cả ngàn bộ vuông, chỉ để có chỗ cho xe lửa chạy chơi. Nghe Tim kể chuyện, tôi mới phát giác ra rằng ông ta đã mê cái ông gọi là ?ochoo-choo trains? từ thuở lên mười.
    Tôi hình dung cái cảnh thằng nhỏ nhà nghèo, không tiền mua xe lửa điện đành đứng ngoài hè phố dán mắt vào tủ kính ngắm nghía những đầu máy xe nhỏ xíu, những đầu máy xe lửa có đủ cả trục, cả bánh, cả ống khói, cả cái chuông đồng sáng choang, thỉnh thoảng kêu leng keng, leng keng... Những ngày cuối tháng 12, cận lễ Giáng sinh, trời lạnh và khô, những bông tuyết nhỏ và xốp rơi lốm đốm trên mái tóc vàng thằng bé mải mê ngắm đồ chơi sau lớp kính dày...
    Ngày nay, ông già với cái bụng bự và mái tóc trắng phau loay hoay thực hiện ước mơ của thằng nhỏ ngày xưa đó thôi. Có những bộ phận xe lửa tí hon nhỏ quá những ngón tay chuối mắn của ông già không cầm được phải cầu cứu đến cái nhíp thép, thứ bà Mimi ngày trước dùng nhổ lông mày! Mắt Tim còn khá tốt, nhưng lắm khi ông phải cần đến kính phóng đại. Nhìn ông láng giềng lui cui với những việc ?oruồi bu? như vậy, một hôm tôi chợt vỡ lẽ:
    Thuở hồng hoang, Sisyphus của thần thoại Hy lạp bị cực hình. Nỗi đọa đày của vị ?oanh hùng? (hero) là ngày ngày phải hì hục lăn tảng đá thật lớn, một boulder, lên núi. Gần tới đỉnh, đá lại rùng rùng lăn xuống chân núi. ?oAnh hùng? lại lò mò xuống núi, hì hục lăn đá lên lại. Lăn đá lên, đá lại lăn xuống, đời đời kiếp kiếp như vậy.
    Chuyện chỉ có thế mà ông Albert Camus cũng viết được cả một tiểu luận từ lâu giới trí thức coi như tuyệt phẩm nói về phận người. Trong ?oHuyền thoại Sisyphus?, Camus viết rằng: ?oNhững thần linh có lý phần nào khi họ nghĩ rằng không có trừng phạt nào ghê gớm cho bằng làm một công việc vô ích và vô vọng.?[2]
    *
    Tôi chắc chắn là láng giềng Tim cả đời chưa hề nghe nói đến huyền thoại Sisyphus. Tôi cũng chắc chắn rằng ông chả biết Camus là cha căng chú kiết nào. Tim không đọc sách có ?ochất lượng?. Ông chỉ dò ca-ta-lô để mua các bộ phận cho đoàn xe lửa mà thôi.
    Tôi ngờ chừng nếu Tim biết ngày ngày tôi cầm cây bút để viết ra những chuyện ?oruồi bu? như thế này, e rằng ông tức cười lắm. Ông sẽ bảo: ?oĐể đấy cái đã, qua đây chơi choo-choo trains với tôi đi!?
    (2002)
    _________________________
    [1]?oLe bonheur est la plus grande des conquêtes, celle qu?Ton fait contre le destin qui nous est imposé.? Albert Camus, Lettre à un ami allemand, 1948
    [2]?oIls avaient pensé avec quelque raison qu?Til n?Test pas de punition plus terrible que le travail inutile et sans espoir.? Albert Camus, Le Mythe de Sisyphe, 1943
    4 4 1, 1 4 4
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 21:21 ngày 20/08/2003
  4. baconcua

    baconcua Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2003
    Bài viết:
    68
    Đã được thích:
    0
    Văn học VN không khá lên được là vì những tác giả như Võ Đình bị đánh giá là "chỉ ở hạng trung bình"
    Đọc Võ Đình
    Nguyễn Hưng Quốc
    sinh hoạt | diễn đàn | văn học | âm nhạc | sân khấu | tạo hình | sách | tạp chí Việt | nhóm chủ trương | help |
    thơ | tiểu luận | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn |
    văn học
    tiểu luận

    Nguyễn Hưng Quốc Đọc Võ Đình
    Đọc văn Võ Đình, tôi có cảm giác như đang tắm suối.
    Thật ra, tôi chỉ được tắm suối có một lần, ở một con suối nào đó trên Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, khoảng đầu thập niên 70, trong một dịp du ngoạn do một trường trung học tổ chức. Tôi quên tất cả các chi tiết của buổi du ngoạn, chỉ nhớ độc một cảm giác lúc tắm suối: nước thật mát, hơn nữa, thật tươi, hơn thế nữa, có cái gì như rờn rợn. Ngỡ như nước, mới từ lòng đất vọt lên, chưa hề bị ô nhiễm bởi những bùn, phèn dưới hạ lưu, vẫn còn tươi roi rói. Ngoài ra, mùi lá mục, tiếng nước reo lẫn với tiếng chim hót, tiếng lá rì rào, và cuối cùng, khung cảnh hoang dã của núi non khiến việc tắm suối trở thành một thứ phiêu lưu. Chỉ cần vắng tiếng cười tiếng nói của bạn bè một chút là đã nghe... sờ sợ.
    Đọc Võ Đình, tôi cũng có cảm giác y như thế. Cũng thấy chữ thật tươi. Lạ, xa Việt Nam đã hơn nửa thế kỷ, kể từ lúc chưa tới 20 tuổi, vậy mà vốn từ tiếng Việt của Võ Đình vẫn còn vô cùng giàu có. Không những giàu có, chúng còn được dùng một cách tinh tế. Mà không những tinh tế, chúng còn rất sống và rất động. Ở phần lớn các nhà văn được xem là tài hoa của Việt Nam, ngôn ngữ hiện hình như một thứ đồ vật được chạm trổ một cách kỳ khu: chúng như có gai, rất sắc, khiến người đọc thỉnh thoảng lại giật thót cả người, nhìn sững. Loại ngôn ngữ ấy có thể được xem là điêu luyện hay chải chuốt, nhưng khó nói được là tươi. Văn Võ Đình thì quả là... tươi thật. Tươi ở giọng văn: cấu trúc câu của Võ Đình thường hơi lỏng, có lúc gần gần như khẩu ngữ, tạo khoảng trống vừa đủ cho các con chữ... thở, từ đó, làm cho giọng văn ông lúc nào cũng phập phồng những cảm xúc. Tươi ở chữ: trong những cấu trúc câu như thế, nổi lên từ một giọng văn như thế, các chữ Võ Đình dùng, dù rất quen thuộc, thậm chí, có khi đã mòn, bỗng trẻ lại và có sức lôi cuốn lạ lùng.
    Trước sức lôi cuốn ấy, nhiều người tự nhiên trở thành bất công đối với Võ Đình: họ bị cuốn theo cái điều Võ Đình kể mà quên chú ý đến cái cách ông kể; ở cái cách Võ Đình kể, họ quá say mê trước những cái quen mà quên ghi nhận những yếu tố thật mới và thật lạ không dễ dàng tìm thấy trong văn chương Việt Nam. Nói chung, theo tôi, cho đến nay, mặc dù nổi tiếng trong cộng đồng văn học Việt Nam ở hải ngoại, dường như Võ Đình vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhắc đến ông, người ta vẫn nhắc, trước hết, đến tư cách một hoạ sĩ, sau đó, mới đến tư cách một nhà văn; trong tư cách là một nhà văn, điều người ta nhắc nhở nhiều ở Võ Đình chủ yếu là những bài tuỳ bút hay tiểu luận vốn được ông gọi là ?ochuyện? hơn là các truyện ngắn của ông. Tôi chưa có dịp xem nhiều tranh của Võ Đình và cũng không tự tin lắm vào kiến thức, kinh nghiệm cũng như sự nhạy cảm của mình trong lãnh vực nghệ thuật tạo hình nên không biết giữa hội hoạ và văn chương, nơi nào tài hoa của Võ Đình được thể hiện trọn vẹn và sắc nét hơn. Tôi chỉ tin chắc một điều là Võ Đình đã bước vào thế giới văn học Việt Nam một cách đàng hoàng như một cây bút chuyên nghiệp với tất cả sự thận trọng trong thái độ, sự chín chắn trong kiến thức, sự am tường các kỹ thuật viết lách để có thể biến mọi cái viết của mình thành những cái viết nghệ thuật, và quan trọng hơn hết, một tài hoa để làm cho những cái viết nghệ thuật ấy có một bản sắc độc đáo và có sức sống lâu dài. Trong thế giới văn học này, Võ Đình sử dụng bốn thể loại chính: phê bình, tiểu luận, tuỳ bút và truyện ngắn. Về phê bình và tiểu luận, ông viết tương đối ít, chỉ có một số bài in trong tập Sao Có Tiếng Sóng... (Văn Nghệ, 1991). Sau đó, các ý kiến về văn nghệ của ông được phát biểu dưới hình thức gần với tuỳ bút hơn là tiểu luận: ông gọi chung đó là ?ochuyện?. Hầu hết các ?ochuyện? này đều dễ đọc, vừa uyên bác vừa duyên dáng, vừa sâu sắc vừa nhẹ nhàng, do đó, thu hút khá nhiều độc giả. Khen ông, trên báo chí, người ta chủ yếu khen các bài gọi là ?ochuyện? này. Tuy nhiên, theo tôi, đó không phải là mặt mạnh, càng không phải là mặt mạnh nhất của Võ Đình: về ý tưởng, do bản chất khoan hoà, ông ít đi đến tận cùng các mạch lý luận, do đó, tuy uyên bác và sâu sắc, ông hiếm khi có được một phát hiện nào có ý nghĩa lớn về cả phương diện lý thuyết lẫn phương diện thực tiễn văn học và nghệ thuật; về văn phong, tính chất duyên dáng và nhẹ nhàng của ông chưa đủ sắc và mạnh để tạo thành hẳn một giọng điệu riêng không những không lẫn với bất cứ ai khác mà còn nổi bật lên hẳn từ vô số các giọng điệu khác. Mặt mạnh của Võ Đình, theo tôi, nằm ở thể truyện ngắn. Trong truyện ngắn của Võ Đình, yếu tố nổi bật nhất nằm ở phương diện kỹ thuật.[1] Trong kỹ thuật viết truyện ngắn của Võ Đình, đặc điểm đáng kể nhất là tính chất tân kỳ. Trong các yếu tố được xem là tân kỳ ấy, theo tôi, một yếu tố cần được chú ý nhất: vai trò của cái huyễn (the fantastic).
    Xin nói ngay, cái huyễn, thật ra, không phải là cái gì mới lạ. Nó đã xuất hiện trong văn học ngay từ thuở sơ khai, trong các huyền thoại, các truyền thuyết, các anh hùng ca hay truyện cổ tích nói chung. Nó cũng kéo dài đến tận ngày nay, đặc biệt trong các tác phẩm thường bị xem là có rất ít tính văn chương như truyện khoa học giả tưởng, truyện chưởng hay truyện ma quái, v.v... Ở những thể loại này, cái huyễn là cả một thế giới, ở đó, mọi hiện tượng đều được vận hành trên một nguyên tắc có tính siêu nhiên, nghĩa là mọi thứ đều được phép, mọi cái gọi là bất khả trong kinh nghiệm thông thường của con người đều có mặt: loài vật biết nói, người biết bay, thần linh và con người trần tục có quan hệ mật thiết và dễ dàng với nhau. Đó là một thế giới khác, nói theo J.R.R. Tolkien, là ?othế giới cấp hai? (secondary world), khác hẳn với thế giới hiện thực chúng ta đang sống. Đi vào thế giới ấy, để có thể thưởng thức trọn vẹn những sự ly kỳ do trí tưởng tượng của tác giả bày ra, chúng ta phải biết quên đi những câu hỏi ?otại sao?: như một điều kiện căn bản, chúng ta phải chấp nhận, ngay từ đầu, là thế giới ấy có những quy luật khác. Không chấp nhận điều đó, chúng ta không thể là một độc giả đúng nghĩa của thể loại này được.[2]
    Tuy nhiên, cái huyễn không phải chỉ có mặt trong các tác phẩm thuộc văn hoá bình dân nặng tính chất giải trí mà còn có mặt cả trong cái gọi là văn học thực sự nghiêm túc và có giá trị thẩm mỹ cao. Theo Kathryn Hume, phần lớn văn chương thế giới đều thấp thoáng những cái huyễn, ngay cả trong các tác phẩm chủ yếu nhắm đến việc tái hiện hiện thực.[3] Theo Marguerite Alexander, cuối thế kỷ 20, cái huyễn đã phục sinh và phát triển mạnh mẽ nhất kể từ thời Trung Đại.[4] Có điều, dưới ngòi bút của nhiều nhà văn hiện đại và hậu hiện đại, đặc biệt các nhà văn thuộc trường phái hiện thực thần kỳ, cái huyễn không xuất hiện như một thế giới bao trùm mà chỉ như một thủ pháp nghệ thuật với một số chi tiết điểm xuyết trên cái nền hiện thực hoặc như một ảo giác hoặc như một biểu tượng. Trong cả hai trường hợp, cái huyễn không dẫn người đọc đi vào một thế giới cấp hai nào cả. Người đọc vẫn tiếp tục ở lại trên cuộc đời này. Chút huyễn hoặc loé lên bất ngờ chỉ đóng vai trò một sự gợi mở về ý nghĩa để người đọc nhìn hiện thực một cách khác hoặc nhìn thấy, từ hiện thực quen thuộc, một kích thước khác. Thế thôi.
    Trong các nhà văn Việt Nam đương đại, những người sử dụng cái huyễn như một thủ pháp nghệ thuật nhiều nhất có lẽ là Võ Phiến, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bùi Hoằng Vị, Trần Vũ, v.v... nhưng có lẽ không ai sử dụng một cách thường xuyên trong nhiều tác phẩm như Võ Đình.
    Không phải tất cả, nhưng phần lớn các truyện ngắn của Võ Đình đều bàng bạc những yếu tố huyền hoặc. Ngay cả ở những truyện, từ đầu đến cuối, mọi sự kiện đều diễn biến bình thường, Võ Đình vẫn cố tình đưa vào một hai chi tiết, có khi rất nhỏ, ngỡ như vu vơ, để trên cái nền hiện thực rất thực, bỗng dưng như thoáng có chút gì như là phi thực, khiến người đọc đâm ra hoang mang và ngỡ ngàng. Chẳng hạn, truyện ngắn ?oG.? in trong tập Xứ Sấm Sét. Thì cũng chỉ là một con chim thôi, con chim lớn và đẹp, bất ngờ bay đến vườn nhà nhân vật xưng ?otôi? trong truyện, nhưng khi được gọi là Gabrielle, thậm chí, gọi bằng tên tắt G., con chim ấy bỗng có nét gì hao hao như thần thoại. Hay, cái truyện ngắn, thật ngắn, nhan đề ?oCò? in trong tập Lầu Xép. Cũng chẳng có gì cả. Chỉ là cảnh hai vợ chồng già, một hôm, trong lúc dừng xe ở một ngã ba chờ đèn đỏ, chợt thấy một con cò trắng đứng bơ vơ trên một bãi cỏ; vài ngày sau, lại tình cờ nhìn thấy một xác con chim trắng nằm chết khô ở một cây xăng. Thế thôi. Không có gì chắc con cò kia và con chim này là một. Thế nhưng, với câu kết bâng quơ, dường như không dính dáng gì đến câu chuyện đã kể, ?oĐêm hôm đó, trời trở lạnh bất thường?, người đọc lại cảm thấy có cái gì không bình thường trong câu chuyện. Cái ?okhông bình thường? ấy là gì? Không biết. Không biết, nhưng cứ băn khoăn mãi.[5]
    Ở nhiều truyện ngắn khác, Võ Đình càng đi xa hơn vào cái huyễn. Trong tập Xứ Sấm Sét: một người đàn bà ?o********? với một cây sồi già ("Xứ sấm sét?); trong tập Huyệt Tuyết, một người đàn bà khác ******** với một con rùa (?oAn mạng?). Hình ảnh con rùa ấy lại xuất hiện trong một truyện ngắn in trong tập Lầu Xép: một người đàn bà cũng yêu một con rùa, lần theo vết bò của con rùa ra tới biển, rồi sau khi cởi hết quần áo, bước từ từ xuống biển. Từ từ. Cho đến khi mái tóc cũng từ từ chìm khuất dưới mặt nước. Mất dạng. Sau đó, một con rùa đá ở Huế bỗng dưng nẻ một đường dài; ?otừ vết nẻ ấy một mùi tanh tưởi bốc lên: nước thối ri rỉ chảy ra, đỏ bầm? (?oPhòng sau?). Trong truyện ?oLuân hồi trong một đêm tuyết?, khi hai vợ chồng đang ăn nằm với nhau, người đàn bà dạng hai chân ra và ?otoàn thân? - xin lưu ý, Võ Đình dùng chữ ?otoàn thân? - người chồng ?otuôn trợt? vào thân thể người đàn bà, ?otuốt luột mất hút? vào trong thân thể người đàn bà; sau đó, người đàn bà lại ?odạng hai đùi ra thật rộng? và toàn thân người chồng lại ?otrôi tuột ra ngoài, nhễ nhại như một đứa sơ sinh?.[6] Trong các truyện ngắn khác, một người đàn ông ngồi một mình trong căn phòng trống, ?onhìn thấy? một người đàn bà tình cờ gặp thoáng trên đường cả hơn mười năm trước (?oHoặc?); một người đàn ông khác ?onhìn thấy? một người đàn bà nằm chết trên tuyết, nhưng đến khi cảnh sát đến tìm thì lại không hề thấy dấu vết gì cả (?oHuyệt tuyết?); một người đàn ông khác nữa ăn nằm với một người đàn bà xa lạ có vẻ như là ma (?oĐoá dị thường?), v.v...
    Đàn bà. Trong các câu chuyện tôi vừa nêu, hầu hết các cái huyễn đều gắn liền với phụ nữ. Tại sao? Võ Đình tin ở mỗi người phụ nữ đều có một cái gì bí ẩn, khó hiểu, thậm chí vượt ra ngoài lý tính bình thường ư? Có thể lắm, ít nhất ở một số truyện nào đó. Như, chẳng hạn, trong truyện ngắn ?oXứ Sấm Sét?, người đàn ?o********? với cây sồi già được mô tả như ?omột cánh rừng già về chiều, mênh mông thu hút, nhưng bàng bạc một nỗi hoang vu bất trắc?.[7] Nghĩ về bà, người chồng, sau bốn mươi năm chung sống, vẫn có cảm giác như người ?oở trái đất đứng nhìn mặt trăng. Gần gũi nhưng xa xôi, yêu kiều mà lạnh lẽo: mặt trăng lúc nào cũng chỉ xoay một khuôn mặt về trái đất?.[8] Nhưng còn lý do nào khác không? Chắc có. Thế nào cũng có. Nhưng mà... thôi, cứ để cho các nhà nữ quyền Việt Nam sau này có việc mà làm.
    Riêng Võ Đình thì... im lặng. Khác với phần lớn các nhà văn Việt Nam khác, Võ Đình hiếm khi giải thích các sự kiện nêu ra trong truyện. Ông chỉ kể. Ông không giải thích. Thiếu một lời giải thích, nhiều khi một câu chuyện có vẻ bình thường cũng đâm ra như có cái gì huyền hoặc. Như truyện ?oĐầu đồng? trong tập Huyệt Tuyết, chẳng hạn. Chuyện kể một người đàn ông bị rắn đầu đồng cắn chết. Hai mươi năm sau, con gái của người ấy, nhớ lại cái chết của cha mình, bỗng đâm ra thắc mắc: tại sao cha của cô lại bị rắn cắn ở cườm tay? tại sao ông không cố lết vào nhà gọi điện thoại cấp cứu dù chỗ bị rắn cắn rất gần nhà ở? Bao nhiêu chữ ?otại sao? được nêu lên. Rồi bị bỏ lửng. Không có câu giải đáp. Mà cũng chẳng có ai bận tâm tìm cho ra lời giải đáp. Nhưng niềm nghi hoặc thì cứ ám độc giả mãi. Cái chết, thoạt đầu, có vẻ như một tai nạn; sau, thấp thoáng chút gì hao hao như một vụ án.
  5. baconcua

    baconcua Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2003
    Bài viết:
    68
    Đã được thích:
    0

    Võ Đình không giải thích ngay cả khi ông kể những sự kiện có vẻ như phi thực. Một số các nhà văn Việt Nam khác thỉnh thoảng cũng kể những chuyện có vẻ phi thực nhưng trong phần lớn các trường hợp, tác giả giải thích ngay, một cách trực tiếp hay gián tiếp, đó chỉ là một ảo ảnh hoặc một ẩn dụ, được sử dụng như một phương tiện để nói lên một cái gì khác thuộc phạm trù tâm lý hoặc triết lý. Trong truyện ?oXong cả?,[9] Võ Phiến sử dụng thủ pháp ấy: một nhân vật mơ thấy mình hoá ra con chim, lại là chim gõ kiến, lại là con chim gõ kiến trống si tình, đeo đuổi mãi một con chim mái. Bị những giấc mơ ấy ám ảnh đến độ, suốt ngày ông ngồi gõ tay lắc cắc trên mặt bàn. Ông không bỏ được thói quen gõ tay nhưng lại vẫn biết chuyện mình hoá thành con chim gõ kiến chỉ là một huyễn tưởng. Các nhân vật khác cũng biết đó là một huyễn tưởng. Họ cố tìm cách giải thích nguyên nhân cũng như ý nghĩa của cái huyễn tưởng ấy. Võ Đình thì khác. Trong truyện ngắn của ông, mọi sự kiện dù lạ lùng đến mấy, cũng được kể một cách tự nhiên như nhiên. Dường như ông không hề có chút hoài nghi gì cả. Dường như ông không tin vào những sự phân biệt giữa cái thực và cái phi thực, giữa cái siêu nhiên và cái tự nhiên. Dường như với ông, những thế giới ấy, ít nhất trong một lúc nào đó, chỉ là một. Với cách nhìn và cách tả như thế, có thể xem Võ Đình là một nhà văn thuộc trường phái hiện thực thần kỳ, một trường phái vốn xuất hiện từ giữa thế kỷ 20 và đến nay vẫn còn khá thịnh hành ở nhiều nơi trên thế giới, chủ yếu là tại các nước châu Mỹ La Tinh và Ấn Độ, được hình thành trên nền tảng sự kết hợp giữa hai yếu tố ngỡ như tương phản nhau: một mặt, giống các nhà văn hiện thực và khác các nhà văn thuộc khuynh hướng quái dị kiểu Liêu Trai Chí Dị, truyện chưởng hay khoa học giả tưởng, nó tôn trọng cái nhìn có tính chất duy lý về hiện thực; mặt khác, khác các nhà văn hiện thực và giống các nhà văn thuộc khuynh hướng quái dị, nó chấp nhận sự hiện hữu của những yếu tố siêu nhiên ngay trong đời sống thường nhật. Ở Việt Nam, Võ Đình không phải là người duy nhất sử dụng kỹ thuật hiện thực thần kỳ nhưng không chừng ông là người đầu tiên: truyện ?oXứ Sấm Sét? của ông được sáng tác từ năm 1978.
    Được sử dụng như một phương pháp sáng tác, ở Võ Đình, tính chất hiện thực thần kỳ không chỉ dừng lại ở các chi tiết. Nó còn lan ra cả trong cách cấu trúc của truyện. Ở sự xoá nhoà ranh giới thời gian và không gian. Trong truyện ?oPhòng sau?, khung cảnh Việt Nam và ngoài Việt Nam cứ xen kẽ vào nhau. Trong truyện ?oĐoá dị thường?, nhân vật nữ, thoạt đầu là một ?othiếu phụ?, sau đó, biến thành một ?ongười con gái?; nhân vật nam, ngược lại, thoạt đầu là một ?ongười con trai?, sau đó, trở thành một trong ?ohai người bạn già?. Câu chuyện bắt đầu ở Huế và kết thúc ở đâu đó, ngoài Việt Nam. Có thể gọi đây là tính không gian kép (dual spatiality), ở đó không gian như được lai ghép: nó vừa ở-đây lại vừa ở-đó, vừa thực vừa ảo. Tính không gian kép này, một lần nữa, cũng lại là đặc điểm chung của chủ nghĩa hiện thực thần kỳ.[10] Thế nhưng trong khi tính không gian kép trong các tác phẩm hiện thực thần kỳ ở châu Mỹ La Tinh hoặc Ấn Độ thường gắn liền với chủ nghĩa hậu thực dân, xuất phát từ nhu cầu tâm lý và văn hoá nhằm phân biệt không gian của kẻ cai trị và không gian của người bị trị, một không gian ?otrắng? và một không gian ?omàu?, vàng hoặc đen, một không gian trung tâm đầy quyền lực và một không gian ngoại biên yếu ớt, một không gian bản địa tiền hiện đại và một không gian đã được kỹ nghệ hoá; trong truyện của Võ Đình, tính không gian kép này dường như không gắn liền với quan hệ đế quốc và thuộc địa mà chỉ gắn liền với quan hệ giữa trong và ngoài quê hương, xuất phát từ tâm thế của một người lưu vong. Trong mối quan hệ này, một vấn đề nổi cộm lên: vấn đề bản sắc.
    Liên quan đến vấn đề bản sắc, hình như cách tiếp cận của Võ Đình không giống với phần đông các nhà văn Việt Nam cùng thời và cũng không giống phần đông các nhà văn hậu thực dân hay hiện thực thần kỳ trên thế giới. Sống với và sống giữa các mâu thuẫn chính trị triền miên, giới cầm bút Việt Nam, nói chung, hay có khuynh hướng tự định nghĩa mình theo các tiêu chuẩn chính trị xã hội: theo hay chống hay quay lưng lại trước một chế độ hay một ý thức hệ thống trị trong xã hội. Các nhà văn hậu thực dân và hiện thực thần kỳ trên thế giới, nói chung, vẫn tiếp tục tự định nghĩa họ trong tương quan với các quốc gia, về phương diện chính trị, đã từng thống trị họ trong quá khứ, và về phương diện văn hoá, vẫn tiếp tục khống chế cách nhìn và tầm nhìn của họ trong hiện tại, do đó, ít nhiều tự xem họ như một cái ?okhác?, một cái ?oOther?. Võ Đình thì khác. Mặc dù ông rời Việt Nam khi Việt Nam vẫn còn là một thuộc địa của Pháp nhưng quá khứ ấy đã quá xa xăm, hơn nữa, lại bị trùm lấp bởi một mâu thuẫn khác lớn hơn và nhức nhối hơn: mâu thuẫn trong nội bộ người Việt Nam với nhau. Tuy nhiên, Võ Đình lại không trực tiếp sống với những mâu thuẫn nội bộ ấy: suốt thời gian từ 1954 đến 1975, ông sống ở ngoại quốc, thoạt đầu ở Pháp, sau, sang Mỹ. Thành ra, các vấn đề chính trị không phải là một ám ảnh lớn của ông. Thế vào đó, ông có khuynh hướng nhìn vấn đề bản sắc từ góc độ siêu hình, nặng màu sắc triết lý, có lẽ, trong đó, đậm nhất là triết lý Phật giáo: ở nhiều truyện ngắn của ông, ranh giới giữa ta và người, giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba bị xoá nhoà hẳn. Ví dụ trong truyện "Đoá dị thường" nhắc ở trên, đoạn cuối, có hai nhân vật xuất hiện, "hai người bạn già mệt mỏi". Tuy nhiên, người đọc cứ có cảm giác hai người mà thật ra chỉ là một: trong cách mô tả của Võ Đình, hết "bạn nói" thì đến "bạn nhăn mặt", rồi "bạn cười thoải mái", và "bạn nói, không cười", cuối cùng, "người bạn trở về chung cư của mình". Có trời mới biết cái gọi là "bạn" ấy là bạn nào. Trong truyện ngắn ?oLuân hồi trong một đêm tuyết?, một truyện ngắn giản dị trong ngôn ngữ, táo bạo trong chi tiết, điêu luyện trong kỹ thuật và thâm trầm trong tư tưởng, hơn nữa, theo tôi, là một trong những truyện ngắn hay của Võ Đình đồng thời của văn học Việt Nam ở hải ngoại từ sau năm 1975, nhân vật xưng ?otôi? có khi là người chồng nhưng cũng có khi là người vợ, và có khi cả người chồng lẫn người vợ đều bị đẩy ra xa, thành ngôi thứ ba, trong những đoạn văn trần thuật, dưới mắt nhìn của một người nào đó, ở ngoài. Thủ pháp này được lặp lại trong truyện ?oAnne? in trong tập Lầu Xép: ở đoạn 1, nhân vật được gọi là Anne, ngôi thứ ba; đến đoạn 2, Anne tự nhiên biến thành ?otôi?, ngôi thứ nhất; đoạn 3, vẫn là ?otôi?; nhưng đến đoạn 4 và đoạn 5 thì ?otôi? lại biến thành Anne. Cuối truyện là một ?oBị chú? in chữ lớn, cùng khổ với các đoạn trên, giải thích một số chữ tiếng Pháp được sử dụng trong truyện. Đoạn này, không có đại từ xưng hô, hẳn là của tác giả, người có thẩm quyền hơn ai hết để xưng là ?otôi?. Cái ?otôi? thầm lặng này làm cho cái ?otôi? chỉ Anne trước đó trở thành một cái ?otôi? giả. Câu chuyện, trở thành một câu chuyện được kể: tự bản chất, nó không có thật. Mà đã không có thật thì ?otôi? hay ?oAnne? thì cũng thế. Chả có gì khác nhau cả.[11]
    Việc đổi ngôi của nhân vật, từ ngôi thứ nhất đến ngôi thứ ba hoặc ngược lại, không phải chỉ là một sự xoá nhoà ranh giới giữa ta và người, một thái độ hoài nghi đối với vấn đề bản sắc của cá nhân mà còn là một nỗ lực nhìn ngắm hiện thực từ nhiều góc độ khác nhau, từ bên ngoài, một cách khách quan, đến bên trong, sâu kín trong nội tâm, một cách chủ quan, qua thứ ngôn ngữ có tính tự bạch hơn là trần thuật. Có vẻ như Võ Đình muốn miêu tả hiện thực một cách toàn diện. Chỉ có vẻ thôi, bởi tôi đoán, qua cách viết của ông, ông không tin lắm vào những cái gọi là toàn diện ấy. Đối với hiện thực, ông thường có thái độ bất quyết. Hiện thực, dưới mắt ông, bao giờ cũng có vẻ bất định và thấp thoáng chút gì như huyền bí, ở đó, bên cạnh những điều có thể dễ dàng giải thích, có những điều không thể giải thích được; ở đó, có một không gian khá rộng cho những cái huyễn.
    Cần chú ý là trong truyện Võ Đình, những cái huyễn như thế không dẫn người đọc đi vào một thế giới khác nào cả. Trên căn bản, giống như mọi nhà văn hiện thực thần kỳ, Võ Đình trước hết là một nhà văn hiện thực: điều ông bận tâm đầu tiên là tái hiện thế giới này, cuộc đời này. Tuy nhiên, khác với các nhà văn hiện thực cổ điển hay hiện đại, ở Võ Đình, giữa bức tranh hiện thực bỗng dưng, có lúc, xẹt ngang những tia chớp kỳ ảo. Nó xẹt ngang rồi nó biến mất. Võ Đình không giải thích, hơn nữa, còn có vẻ như không hề ngạc nhiên, thậm chí, không hề chú ý đến những tia chớp huyền hoặc ấy. Thái độ bình thản của ông khiến người đọc có cảm giác là những tia chớp ấy không phải từ ngoài đến mà từ trong lòng hiện thực bùng lên. Chúng là một phần của hiện thực. Chúng giống như núi lửa nằm âm thầm dưới lòng đất. Chính cái phần âm thầm ấy làm cho hiện thực trở thành huyền bí hẳn. Nó trở thành đa tầng, đa phương và đa thanh, ở đó, quá khứ và hiện tại cứ đan cài vào nhau, Việt Nam và thế giới chồng lấp lên nhau, cái thực và cái hư nhoà lẫn vào nhau, tự nhiên và siêu nhiên rất gần nhau, nội tâm và ngoại giới cứ chập chùng ngỡ như là một, biên cương giữa cái khả và cái bất khả rất mờ nhạt. Cuộc đời, nhờ thế, trở thành một kết cấu phức tạp, trùng trùng điệp điệp, hết lớp này đến lớp khác, đầy bất ngờ và đầy bí ẩn. Câu chuyện, nhờ thế, trở thành thăm thẳm như không có đáy. Đọc, thoạt đầu, ngỡ như hiểu; sau, ngờ ngợ như cái hiểu của mình chưa hẳn đã chính xác và nhất là, chưa chắc đã đến tận cùng. Đọc lại, vẫn phân vân giữa niềm tự tin và nỗi nghi hoặc ấy. Đọc lại lần nữa, vẫn thế. Vẫn phân vân.
    Cứ thế, tôi đọc đi đọc lại Võ Đình không biết bao nhiêu lần. Lần nào cũng có cảm giác vừa tươi mát vừa rờn rợn. Như cái cảm giác tắm suối ngày nào. Đã lâu lắm.
    Nguyễn Hưng Quốc
    Melbourne 11.2002
    _________________________
    [1]Một số người cho đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn của Võ Đình là tính chất tuỳ bút. Điều đó quả không sai. Tuy nhiên, tôi ngờ đó là đặc điểm chung của đông đảo nhà văn Việt Nam, không riêng gì Võ Đình. Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam là ở chỗ: trong văn xuôi, thấp thoáng chất thơ; và như là một hệ quả của điều ấy, trong truyện, thấp thoáng chất tuỳ bút. Tôi cho những gì thoát ra ngoài những đặc điểm chung này mới có thể và nên được xem là đặc điểm của cá nhân.
    [2] J.R.R. Tolkien, ?oOn Fairy Stories?, in trong tập The Tolkien Reader, New York: Ballatine, 1974, đặc biệt trang 37.
    [3]Kathryn Hume (1984), Fantasy and Mimesis, Responses to Reality in Western Literature, New York: Methuen, tr. 22.
    [4]Marguerite Alexander (1990), Flights from Realism: Themes and Strategies in Postmodernist British and American Fiction, London: Edward Arnold, tr. 13.
    [5]Đặc điểm này cũng có thể tìm thấy trong hai truyện ngắn khác trong tập Lầu Xép: truyện ?oNgười chạy bộ? và ?oHai vợ chồng người đào vàng?. Ở truyện trên, yếu tố ?obất bình thường? nằm ở đoạn kết, khi tác giả, từ ánh mắt của một người thiếu phụ đẹp gặp gỡ trên các chuyến xe lửa, liên tưởng đến đôi mắt hấp hối của một con nai bị bắn mấy chục năm trước. Ở truyện sau, nó nằm ở ?ocục vàng? bằng khoảng ba viên gạch ông Hank đào được, suốt mấy chục năm trời, bỏ nằm lăn lóc dưới ngưỡng cửa sổ.
    [6]Xứ Sấm Sét, California: Văn Nghệ, 1987, tr. 158-9.
    [7]Xứ Sấm Sét, tr. 114.
    [8]Xứ Sấm Sét, tr. 115.
    [9] In trong tập Truyện Thật Ngắn, California: Văn Nghệ, (1995), tr. 139-179.
    [10]Về khái niệm ?odual spatiality? cũng như về mối quan hệ giữa chủ nghĩa hiện thực thần kỳ và chủ nghĩa hậu thực dân, có thể xem bài ?oBinarisms and duality: magic realism and postcolonilaism? của Zuzanne Baker, in trên tạp chí SPAN số 36 năm 1993 (có thể xem trên wwwmcc.murdoch.edu.au/ReadingRoom/litserv/SPAN/36/Baker.html).
    [11] Các truyện ngắn được giới thiệu trong bài này in trong các tập: Xứ Sấm Sét (Văn Nghệ, 1987), Lầu Xép (Văn Nghệ, 1997), và Huyệt Tuyết (Văn Nghệ, 2002).
    Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2003
  6. away

    away Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/05/2002
    Bài viết:
    2.112
    Đã được thích:
    0
    Tôi cũng có đọc bài ?oĐọc Võ Đình? của Nguyễn Hưng Quốc, đọc không kỹ lắm, tìm lại thì ngại, bây giờ lại được đọc lại, cảm ơn bạn baconcua.
    Tôi thấy ví ?ođọc Võ Đình? giống cảm giác tắm suối ?ovừa tươi mát, vừa rờn rợn? cũng có lí. Cá nhân tôi thì cũng có cảm giác tươi mát nhưng rờn rợn rất ít, nghĩa là tôi thấy hay không như tắm suối, không hay ở cảm giác kỳ bí, huyền diệu mà hay theo cách khác, những bất ngờ. Điều đó lại phần nào khẳng định thêm giá trị của các tác phẩm: Đem lại nhiều góc nhìn.
    Lời nhận định "chỉ ở hạng trung bình" của Julian cũng có thể hiểu được. Anh chàng này mặc dù có khá nhiều hiểu biết và có những nét cảm nhận tinh tế hơn ?ohạng trung bình? nhưng chúa hay nhanh nhảu đoảng trong nhận định. Can tội có nhiều cái để đọc (tiền nhiều chẳng biết làm gì toàn mua truyện) nên không đọc kỹ được nhiều cái. Tôi thấy gã Julian này là một trong những kẻ mượn lời nói khắt khe giấu đi bản chất ủy mị, tình thương mến thương bên trong, đọc thơ ?osến? của nó là biết ngay.
    Ban đầu, đọc lướt lướt Võ Đình tôi cũng có cảm giác bình thường. Nhưng với tôi, bình thường đã là đạt được một tiêu chí nào đó rồi. Với phần lớn chữ nghĩa bắt gặp, theo cách vớ được gì thì đọc cái đấy, tôi thường cảm thấy dưới mức bình thường rất nhiều. Tuy vậy, từ bình thường đến đẳng cấp là một khoảng cách lớn. Để đi từ nhận định tác phẩm của Võ Đình bình thường đến có đẳng cấp tôi phải chú ý đến cảm giác của mình khá nhiều. Bởi vì, tôi chưa đọc hết hay đọc kỹ Võ Đình nên sẽ chưa nói đến ?ođẳng cấp cao?. Trong nhiều tác phẩm của Võ Đình, tôi thấy có những tác phẩm đạt được đến ?ođẳng cấp? và như vậy là có thể nhận định tương đối rồi. Ngay đến thơ chọn của Xuân Diệu thật lòng tôi cũng chỉ thấy đẳng cấp ở trên dưới mười bài. Còn để đi đến một nhận định thực sự nghiêm khắc về một đẳng cấp lớn thì tôi chưa dám vì chưa đọc đủ và ngẫm đủ. Tính ?onước chảy mây trôi? và vẫn ?okhông xa lánh đời? trong tác phẩm của Võ Đình đã tạo nên một trường phái đa dạng và độc lập cho ông trong các trường phái khác rồi. Nếu so sánh tác phẩm Võ Đình với các tác phẩm khác trong nền văn học thì chỉ là một sự khập khiễng vì phong cách khác nhau. Nhưng để nói về phong cách viết mà chúng ta bắt gặp, có thể coi là một đỉnh núi của những phong cách tương tự. Dù có nhiều đỉnh núi cao nhưng biết được thêm một đỉnh, thêm nhiều hình ảnh mới và đẹp cũng là một sự thú vị. Hơn nữa, đó sẽ là một sự thách thức lớn cho những người muốn đi theo phong cách này. Và chúng ta là người đọc, sẽ được hưởng lợi là được đọc các tác phẩm muốn vượt lên tầm cao ấy.
    Đoạn nhận định của Nguyễn Hưng Quốc về truyện ?oĐầu đồng? như sau:
    ?oKhác với phần lớn các nhà văn Việt Nam khác, Võ Đình hiếm khi giải thích các sự kiện nêu ra trong truyện. Ông chỉ kể. Ông không giải thích. Thiếu một lời giải thích, nhiều khi một câu chuyện có vẻ bình thường cũng đâm ra như có cái gì huyền hoặc. Như truyện ?oĐầu đồng? trong tập Huyệt Tuyết, chẳng hạn. Chuyện kể một người đàn ông bị rắn đầu đồng cắn chết. Hai mươi năm sau, con gái của người ấy, nhớ lại cái chết của cha mình, bỗng đâm ra thắc mắc: tại sao cha của cô lại bị rắn cắn ở cườm tay? tại sao ông không cố lết vào nhà gọi điện thoại cấp cứu dù chỗ bị rắn cắn rất gần nhà ở? Bao nhiêu chữ ?otại sao? được nêu lên. Rồi bị bỏ lửng. Không có câu giải đáp. Mà cũng chẳng có ai bận tâm tìm cho ra lời giải đáp. Nhưng niềm nghi hoặc thì cứ ám độc giả mãi. Cái chết, thoạt đầu, có vẻ như một tai nạn; sau, thấp thoáng chút gì hao hao như một vụ án?.
    Tôi có ý kiến thế này: Bên cạnh những nhận định đó. Hãy chú ý vào các chi tiết: Cái tên ?oĐầu đồng?, ?obị cắn ở cườm tay?, ?okhông gọi điện thoại cấp cứu? có thể suy ra một cách lý giải của truyện:
    Người đàn ông đã tưởng ?onó? là một cái gì đó quen thuộc, đã thò tay nhặt ?onó? lên và khi hiểu ra mình ngộ nhận, người đó sững sờ và chợt tự hỏi lòng: trời ơi, vì thói quen tích lũy ?onó? mà ta phải chết sao, ta sống vì ?onó? mà chết cũng bởi ?onó? sao. Có thể người đàn ông không tìm cách cứu mình vì muốn chết trong cơn giận dữ, xấu hổ và cảm thấy mình là một thứ nô lệ?
    Đó chỉ là suy luận của tôi từ những chi tiết mà tác giả Võ Đình đưa ra, và nếu đó là ý tác giả thì tôi thấy đó là một trong những truyện có đẳng cấp. Còn nếu ý tác giả không phải như vầy mà hướng tôi suy ra như vầy thì cũng là đẳng cấp gợi mở cho người đọc nhiều suy nghĩ. Với một tác giả như Võ Đình, muốn không ?obênh? cũng không được. Chưa hiểu đủ để ngưỡng mộ hoặc không, nhưng đủ để có một sự trân trọng. Tôi chỉ cảm giác tác phẩm Võ Đình như một cái mương nước, nhìn bình thường cũng đẹp rồi. Nhưng đi vào sâu hơn có thể tắm táp, bắt tôm bắt cá. Có thể, trong tác phẩm của Võ Đình có nhiều điều tinh tế mà nhà phê bình (theo tôi là tinh tế) Nguyễn Hưng Quốc cũng chưa thấy hết. Tiếc là nhiều người trong chúng ta vẫn lười đọc kỹ, tôi cũng không là ngoại lệ. Chỉ có thể gọi là có cảm tình với văn học thôi chứ gọi là yêu thì chưa xứng đáng.
    (To Julian: Mày cầm quyển ?ohuyệtuyết? của tao không? Không nhớ cho đứa nào mượn. Nếu cầm thì hôm nào qua chơi mang cho tao đọc lại luôn, chưa đọc hết thì phải.)
    441-144


    ...em có thấy trái tim đời không
    mong manh như hoa giữa cơn giông...

Chia sẻ trang này