1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tài liệu quân sự về VNCH (1949-1975)

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi PVNhanDan, 03/06/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. marsandmoon

    marsandmoon Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    31/12/2007
    Bài viết:
    492
    Đã được thích:
    0
    Cái bonus viết không có thừa đâu. đây là so với viện trợ thực tế \ viện trợ báo giới viết ko hề có ý so với miền bắc
  2. nhinnguthia

    nhinnguthia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2008
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    bạn lươn saruman ,

    bạn lươn saruman tự nhận mình là "lươn thiệng tri thức" đâu mất rồi ? quay zề đây giải thích giùm mình trường ca Ba tàu cắt viện trợ vũ khí sau 1972 và bài cải lương 1975 đã nhan nhản cụm từ "bọn bành trướng Bắc Kinh" trên báo Việt nam lại đi nào bạn ,

    hay bạn lươn lại bận đi tắm xà phòng xát muối i-ốt rồi vậy bạn saruman lươn ?

  3. saruman

    saruman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    1.684
    Đã được thích:
    140
    À vầng, thế mời bợn ngu thế rửa mắt đọc lại bài của thủ trưởng Đoàn trang trước rồi hãy gào thét cái nhẩy[:P] Nếu lười quá thì tớ dẫn lại cho

    Từ năm 1972, sau cuộc gặp Nich-Mao thì TQ đã ngừng viện trợ quân sự (các loại vũ khí) cho VN. Theo đường link trên của quansuvn, tuy có một số loại khí tài được giao cho VN sau 1972 nhưng thực ra thuộc những gói viện trợ từ những năm trước, TQ giao nốt theo hiệp định đã ký với VN mà thôi, không phải viện trợ mới!

    Tớ còn bận làm việc kiếm ăn, đâu có thời gian rảnh suốt ngày lướt net như bợn mà bắt tớ cãi tay đôi với hạng cùn như bợn:)):))
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Hehe, kì thực là T-54 ăn đạn bắn thẳng của mấy cái xe tăng bên kia cầu và pháo hạm từ sông bắn lên.[-X
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Bợn lại lươn rồi. Dẫn cả đoạn trong cái link ra thì thế này

    Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn.

    Như vậy tổng vẫn đúng, thiếu số 6 là do lỗi đánh máy. Hi vọng bợn hiểu toán cộng trừ[:P] Mấy bài trước bợn chỉ dẫn 1 nửa đoạn này, giấu tiệt cái tổng số vẫn đúng để lừa ai hả bợn nhu thế=))
  4. nhinnguthia

    nhinnguthia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2008
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    hê hê , mình dẫn link đàng hoàng chứ nào thèm dấu , mình nói là có đứa gõ sai tổng số tấn vũ khí viện chợ chứ đâu có nói là nó gõ sai tổng số tấn hàng viện chợ (vũ khí và hậu cần) của riêng trung quốc =)) , mình phòng thủ kín lắm bạn lươn ạ , đừng có vội tưởng mình ngu như bạn nhé =))

    giấu (dốt) là mấy đứa biết 49.246 tấn vũ khí viện chợ là số liệu sai mà vẫn cố tình rêu rao là Trung quốc cắt viện chợ vũ khí từ sau 1972 đó , vậy chính bạn lươn đã công nhận là có đứa gõ sai rồi nhé , và mình nghĩ là có cả một đống đứa khác biết là sai mà vẫn cố tình lươn theo =)) , ôi làng nước ôi Trung quốc nó cắt viện chợ vũ khí cho bắc việt Nam sau 1972 =))

    đừng tổ lái nữa bạn lươn , bạn lươn từ post đầu lươn lẹo thế nào thì chưng ra bằng chứng đê :

    * 1975 đã nhan nhản trên báo cụm từ "bọn bành trướng Bắc Kinh" , vậy bằng chứng của lươn đâu , chỗ này mình có đề nghị Mop cần nghiêm khắc kỉ luật bạn lươn saruman vì vu cáo nền báo chí nước nhà và cố í phá hoại tình hữu nghị Việt - Trung anh em mặn nồng thiết thắm ,

    * Trung quốc cắt viện chợ vũ khí sau 1972 , vậy bằng chứng của bạn lươn đâu ? cái số 649.246 tấn vũ khí viện chợ 1973-1975 niên khoá nó là mớ giấy lộn hả lươn ? Nếu lươn có cho rằng 649.246 tấn vũ khí viện chợ này là theo một số Hiệp Ước kí từ trước 1972 thì chưng ra mấy cái Hiệp ước đó cho đủ mấy trăm ngàn tấn đó đê =))


    "lương thiện tri thức", có gì nói đấy , xịt , cái phường bốc phét một tấc lên trời , đến Cuội còn phải thua xa =))
  5. nhinnguthia

    nhinnguthia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2008
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0

    mình đề nghị Mod cần có hành vi kỉ luật bạn lươn saruman với hành vi vu cáo (diễn giải sai) post của người khác. Như ở post trên mình đã nói rõ : người ta đã gõ sai tổng số tấn vũ khí khí tài
    của tất cả nước XHCN anh em viện chợ (649.246 tấn thành có 49.246 tấn ) , chứ không nói là có người gõ sai số tần hàng vũ khí & khí tài viện chợ của riêng Trung quốc là 620.354 tấn (trong tổng số 724.512 tấn hàng vũ khí và hậu cần)

    1973-1975 niên khoá , chỉ riêng số tấn hàng vũ khí của cả khối XHCH anh em viện chợ (Nga xô , Trung quốc , Đông Âu vv...) là 649.246 tấn cũng đã lớn hơn tổng số hàng hậu cần và vũ khí mà Trung Quốc đã viện chợ là 620.354 tấn

    trước tiên là vu cáo ngành báo chí nước nhà , sau là vu cáo người đối diện , nhân đã hỏng , trí cũng hỏng theo ,

  6. Negi91

    Negi91 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/04/2009
    Bài viết:
    898
    Đã được thích:
    1
    nhinguthe kinh nhỉ ;)) giờ ở đây toàn hổ báo thôi....
  7. soofar

    soofar Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    22/09/2008
    Bài viết:
    429
    Đã được thích:
    32
    ngày xưa ngày nào cũng phải vào đây,không vào thấy khó chịu còn hơn cả không gặp người yêu. Bay giờ vào đây càng ngày càng chán,toàn thấy mồ với mả....![r23)]
  8. sairagon

    sairagon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/09/2007
    Bài viết:
    2.252
    Đã được thích:
    125
    Ờ thì nhinnguthe đang muốn chứng minh một thực tế là VNCH bại trận là điều đương nhiên, và rằng dù BV không cần tấn công thì trước sau gì VNCH cũng sẽ chết khi những đồng viện trợ cuối cùng bị tiêu hết ^^

    Đúng là quân bù nhìn thì chỉ đến thế là cùng!

    Nói sơ sơ về hàng viện trợ của các nước phe XHCN dành cho VN thì không cần phải cao xa gì chỉ cần xem chất lượng của những lô hàng đó đến đâu thôi ... ^^
  9. nhinnguthia

    nhinnguthia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/02/2008
    Bài viết:
    94
    Đã được thích:
    0
    trời , thời thêm một bạn đặng răng hiểu mình lầm !/

    bạn bàn đến chất lượng lô hàng viện chợ có ích chi , mình khi lâu đã tỏ chất lượng lương khô và dép cao su ba tàu viện chợ thế nào chăng có , mình muốn nói đến trong đề tài răng là chế tài ba tàu hậu cần và vũ khí viện chợ không hề sụt giảm 1972 niên sau như một số luận điệu của một phân bộ lầm lạc thành viên tại nơi phòng vệ nước nhà chuyên mục tung ta suốt nhiều niên qua , mục đích không gì ngoài việc đề cao chiến thắng của bắc việt quân đội khi tương phùng tranh luận với các bạn khác về việt nam chiến cuộc tựu nhị thập kỉ nan ,

    không có xấu xí chiến thắng , mà chỉ có xấu xí thất bại , việc chi các bạn cứ phải hạ thấp chất lượng và số lượng những lô hàng viện chợ làm chi , họ viện chợ vô tư để cho các bạn chiến thắng cuối cùng chứ không răng để các bạn sau lưng sỉ vả lòng tốt của họ dường như vầy , đó gọi là sự vô ơn mà đồng chí Đặng tổng bộ quân uỷ trưởng đã từng phải thất vọng thốt lên khi nói về việt Nam thời 1979 niên , tất nhiên đó chăng chỉ là một bộ phận người Việt bất thân trung Quốc


    1969-1972 (4 năm): hơn 1 triệu tấn vũ khí và hậu cần hàng viện chợ
    1973-1975 (3 năm): 724.512 tấn tấn vũ khí và hậu cần hàng viện chợ


    vầy là bạn đã thấy rõ tốc độ viện chợ cho bắc việt không hề sụt giảm mạnh 1972 niên sau , cũng đặng không hề có chuyện ba tàu cắt vũ khí viện chợ 1972 niên sau như một số luận điệu lầm lạc của phường bán ngôn mua tước đã tung ra , bây giờ bạn lại xoay ra nói là chất lượng các lô hàng viện chợ là không tốt , như vầy thật mình không còn gì để nói , ^:)^ ,

    thật sự nếu một bạn người Nga Xô từng sống qua thời việt nam chiến cuộc hoặc chăng một bạn Trung hoa đại lục có người thân phải chết đói trong Đại văn hoá cách mệnh , họ sẽ cảm thấy bị lợi dụng cũng như là bị sỉ nhục ghê ghớm nếu nghe được những luận điệu con nhà lính tính nhà quan như vầy xuất ngôn ra từ chính các bạn bắc việt Nam ^:)^
  10. sairagon

    sairagon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/09/2007
    Bài viết:
    2.252
    Đã được thích:
    125
    Việc gì mà phải inh ỏi thế nhỉ bạn nhinnguthia ^^

    Một hội thảo quy mô tổng kết cuộc chiến tranh ở Việt Nam được tổ chức ở TP. HCM trong hai ngày 14 và 15-4.
    Trong số các bài đọc ở hội thảo, các tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng ở Viện lịch sử Quân sự Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc chiến với Mỹ.
    Tham luận ghi nhận trong 21 năm chiến đấu, Việt Nam đã "nhận được sự ủng hộ chí nghĩa, chí tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em."
    Bài viết thống kê những con số về vũ khí, đạn dược và trang bị kỹ thuật mà khối XHCN đã viện trợ.
    Khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ từ năm 1955 đến 1975, qua từng giai đoạn:
    Giai đoạn 1955-1960: tổng số 49.585 tấn, gồm: 4.105 tấn hàng hậu cần, 45.480 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: viện trợ 29.996 tấn, Trung Quốc viện trợ 19.589 tấn.
    Giai đoạn 1961-1964: tổng số 70.295 tấn, gồm: 230 tấn hàng hậu cần, 70.065 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 47.223 tấn: Trung Quốc 22.982 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 442 tấn.
    Giai đoạn 1965-1968: tổng số 517.393 tấn, gồm: 105.614 tấn hàng hậu cần, 411.779 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 226.969 tấn, Trung Quốc: 170.798 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 119.626 tấn.
    Giai đoạn 1969-1972: tổng số 1.000.796 tấn, gồm: 316.130 tấn hàng hậu cần, 684.666 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô 143.793 tấn, Trung Quốc 761.001 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 96.002 tấn.
    Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn.
    Tính tổng cộng qua 20 năm, theo thống kê chính thức của Việt Nam, số viện trợ mà Việt Nam nhận được là 2.362.581 tấn hàng hóa; khối lượng hàng hóa quân sự trên quy đổi thành tiền, tương đương 7 tỉ rúp.
    Về chủng loại vũ khí, đạn dược và phương tiện chiến đấu, các tác giả ở Viện lịch sử Quân sự cho biết số liệu:
    Súng bộ binh (khẩu): Liên Xô 439.198; Trung Quốc 2.227.677; các nước khác 942.988
    Súng chống tăng (khẩu): Liên Xô 5.630; Trung Quốc 43.584; các nước khác 16.412
    Súng cối các loại (khẩu): Liên Xô 1.076; Trung Quốc 24.134; các nước khác 2.759
    Đạn tên lửa (quả): Liên Xô 10.169
    Máy bay chiến đấu (chiếc) Liên Xô 316; Trung Quốc 142
    Trong bài viết được báo Quân đội nhân dân trích thuật, các tác giả kết luận: "Thắng lợi của chính sách ngoại giao thời đại *********** là thắng lợi của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; của chính sách ngoại giao trên tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, mềm dẻo, có tình, có lý."
    "Chính vì vậy, ở vào thời điểm hai nước Liên Xô và Trung Quốc xảy ra những bất đồng quan điểm, vào lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam được Mỹ đẩy lên tới mức cao nhất, thì sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc cho cách mạng nước ta vẫn được bảo đảm."
    Các số liệu trong bài viết được ghi nhận là tương tự số liệu trong công trình tổng kết "Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học" (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996).
    Theo đánh giá của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh của Việt Nam đưa ra năm 2000, tổng chi phí Hoa Kỳ bỏ ra từ 1954 - 1975 cho cuộc xung đột ở Việt Nam là hơn 700 tỉ đôla.
    Cuốn sách "Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: Thắng lợi và bài học" ghi nhận bình quân mỗi ngày Hoa Kỳ tiêu tốn 77 triệu đôla, và một năm tiêu tốn 700 triệu đôla, bằng 3% thu nhập cả nước Mỹ
    Hội thảo do Bộ Quốc phòng Việt Nam phối hợp với Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Thành ủy TP. HCM tổ chức tại hội trường dinh Thống Nhất.
    Mang tên "Đại thắng mùa xuân 1975-bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam”, hội thảo tập hợp nhiều tham luận của các sử gia và tướng lĩnh trong quân đội nhân dân Việt Nam.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Sự cạnh tranh Liên Xô - Trung Quốc trong cuộc chiến VN

    Trung Quốc và Liên Xô nhìn nhận vấn đề chiến tranh Việt Nam như thế nào?
    Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, mối quan hệ giữa hai cường quốc cộng sản này thực tế đầy sóng gió do các mâu thuẫn về tư tưởng và chính sách.
    Ở bối cảnh đó, Việt Nam trở thành vấn đề gây ảnh hưởng giữa hai cường quốc này.
    Trong một tiểu luận gần đây, Eva-Maria Stolberg, giáo sư ở ĐH Bonn, đã phân tích về mối quan hệ này.
    Bài viết in trong tập sách “America, the Vietnam War and the World” do NXB ĐH Cambridge ấn hành tháng Chín 2003.

    Theo Eva-Maria Stolberg, đối với Liên Xô và Trung Quốc, việc ủng hộ phong trào giải phóng của Việt Nam phục vụ ba mục đích: nó cho phép hai siêu cường biện minh hoặc chỉ trích các hệ tư tưởng của nhau; đó là một phần trong chiến lược của Liên Xô và TQ đối với Mỹ; và Việt Nam cũng là phương tiện để phục vụ những mục đích, quyền lợi bên trong cơ cấu nội bộ mỗi đảng.
    Trong loạt tư liệu nhân kỷ niệm 30 năm kết thúc chiến tranh, chúng tôi xin trích lược giới thiệu nội dung chính của bài viết. Xin lưu ý đây là những phân tích và quan điểm riêng của tác giả.
    Ngay từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949, liên minh Trung Quốc – Liên Xô đã có những chia rẽ mà đã tác động đến hệ tư tưởng, chính sách và chiến lược của cả hai nước trong thời chiến tranh Lạnh. Các quyền lợi quốc gia và quan niệm về an ninh bị định hình bởi quan niệm của lãnh tụ hai nước về cách thức mỗi nước có thể tồn tại trong môi trường toàn cầu khi ấy. Trong hoàn cảnh này, cuộc chiến Việt Nam là chỉ dấu đo đạc mang tính quyết định.
    Trong mùa đông 1949-50, khi Stalin và Mao Trạch Đông thương lượng Hiệp ước Trung – Xô, hai người đồng ý việc chia sẻ nhiệm vụ. Đông Dương và Đông Nam Á nằm ngoài quyền lợi của Liên Xô và vì thế trở thành ‘sân chơi’ của Trung Quốc. Khi ông Hồ Chí Minh, trong chuyến thăm Bắc Kinh và Moscow tháng Giêng – Hai 1950, yêu cầu sự hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp, Stalin nói ông Hồ hãy nói chuyện với Trung Quốc. Các bằng chứng mới từ văn khố Trung Quốc cho thấy Stalin khi đó bác bỏ sự dính líu tới Triều Tiên và Đông Dương.
    Khác biệt tư tưởng
    Người Trung Quốc khi đó có thái độ ngược lại: Họ sẵn sàng cung cấp vũ khí cho Việt Nam đánh Pháp, và sau đó Trung Quốc gửi cố vấn quân sự do tướng La Quý Ba dẫn đầu, người sau này trở thành đại sứ ở Hà Nội.
    Một sự thay đổi trong thái độ của Trung Quốc và Liên Xô đối với vấn đề Đông Dương đã diễn ra sau cái chết của Stalin và sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc.
    Bộ máy lãnh đạo mới ở Moscow giờ đây muốn có giải pháp hòa bình cho xung đột ở Đông Nam Á. Trung Quốc khi đó cũng muốn có sự thỏa hiệp với phương Tây để ngăn sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Tại hội nghị Geneva năm 1954, mục đích chính của Trung Quốc là đạt được uy tín quốc tế và quyền lực sau khi nước này bị cô lập vì cuộc chiến trên bán đảo Triều Tiên. Do sự thiếu kinh nghiệm ngoại giao quốc tế, Trung Quốc đã đứng đằng sau Liên Xô.
    Chính sách của khối Cộng sản ở Geneva được đánh dấu bằng sự nhất trí. Việt Minh, sau thắng lợi ở Điện Biên Phủ, muốn đuổi Pháp ra khỏi Đông Dương và thống nhất Việt Nam. Nhưng do sức ép của Liên Xô và Trung Quốc, họ phải chấp nhận việc chia đôi đất nước. Tuy vậy, người Cộng sản Việt Nam ngay sau đó yêu cầu Trung Quốc giúp củng cố chính quyền ở miền Bắc, với mục đích sẽ thống nhất đất nước bằng phương tiện quân sự. Tháng Sáu 1955, Bộ trưởng quốc phòng Võ Nguyên Giáp có cuộc họp ở Bắc Kinh với người tương nhiệm, Bành Đức Hoài và một đại diện của nhóm cố vấn quân sự Liên Xô tại Trung Quốc. Cuộc họp, kéo dài đến tháng Mười, liên quan việc hoạch định quân sự.
    Lúc này, người lãnh đạo mới của Liên Xô, Nikita Khrushchev, đề ra nguyên tắc ‘cùng chung sống hòa bình’ trong chính trị quốc tế. Trong hoàn cảnh Việt Nam, nguyên tắc này có nghĩa là phía Liên Xô muốn có sự chung sống giữa hai nhà nước Việt Nam và thống nhất thông qua trưng cầu dân ý. Ngược lại, Trung Quốc đề ra nguyên tắc ‘chiến tranh nhân dân’, nói rằng sự dính líu ngày càng tăng của Mỹ tại miền Nam Việt Nam là sự phản bội thỏa thuận Geneva.
    Việc Liên Xô rút cố vấn ra khỏi Trung Quốc năm 1960 đánh dấu sự tan vỡ quan hệ giữa hai cường quốc cộng sản.
    Lúc này, người cộng sản Bắc Việt tin rằng đã chín muồi cho đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Nhưng một quyết định chung cuộc đã bị đình hoãn do sự bất đồng chiến lược trong đảng – một bất đồng phản ánh cuộc tranh cãi lớn hơn giữa Liên Xô và Trung Quốc.
    Trong khi tướng Giáp tin rằng cách mạng ở miền Nam sẽ lâu dài và gian khổ, ông Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh ủng hộ chiến lược tấn công ồ ạt và đồng ý với quan điểm của Trung Quốc.
    Mùa xuân 1961, Tổng thống Kennedy chấp thuận gửi 400 cố vấn quân sự đến miền Nam Việt Nam, và Trung Quốc phản ứng. Trong cuộc họp với thủ tướng Phạm Văn Đồng ở Bắc Kinh tháng Sáu năm ấy, Mao ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang, trong lúc Chu Ân Lai thì muốn một con đường linh động hơn, sử dụng biện pháp ngoại giao, chính trị cùng với chiến thuật bí mật ở miền Nam.
    Trong chuyến thăm Hà Nội tháng Sáu 1963, chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ tuyên bố trong diễn văn là cuộc đấu tranh giữa phe xét lại (Khrushchev và Liên Xô) với ‘những người Marxist-Leninist chân chính’ (Trung Quốc) trên thực tế xoay quanh câu hỏi “liệu các dân tộc trên thế giới có thực hiện cách mạng hay không’. Ông Hồ Chí Minh đứng về phía ông Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh, những người ủng hộ chiến tranh ở miền Nam.
    Trong những tháng sau đó, có chiến dịch chống phe ‘xét lại’, mà chủ yếu là tướng Giáp, người bị nghi ngờ là ‘bạn của Khrushchev’.
    Nếu Chu Ân Lai và người ủng hộ ông đã chiến thắng trong cuộc tranh luận với Mao, thì có lẽ Trung Quốc sẽ chỉ đóng vai trò quan sát viên trong chiến tranh Việt Nam. Quan điểm đối đầu với Mỹ của ông Mao liên quan đến viễn kiến của ông về đấu tranh giai cấp và chiến tranh nhân dân. Quần chúng cần thực hiện viễn kiến đó cả bên trong và ngoài Trung Quốc.
    Trong hoàn cảnh đó, mùa hè 1962, Trung Quốc gửi cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa súng đạn đủ để trang bị cho 200 tiểu đoàn.
    Các đàm phán chi tiết tiếp tục trong các tháng sau đó. Cũng trong năm đó, Bắc Kinh đồng ý gửi tình nguyện quân vào Bắc Việt nếu quân Mỹ vượt qua vĩ tuyến 17. Tính từ 1956 đến 1963, Trung Quốc đã chuyển lượng vũ khí cho miền Bắc ở số lượng trị giá khoảng 320 triệu nhân dân tệ.
    Năm 1964, Mỹ bắt đầu chuyển hướng sự chú ý từ miền Nam hướng ra miền Bắc, và tuyên bố sẽ không chấp nhận việc tăng chuyển quân và vũ khí từ miền Bắc.
    Quyết định của Mỹ gia tốc cuộc xung đột trong tháng Hai 1965 với các cuộc không kích miền Bắc cho thấy nếu Hà Nội muốn thống nhất đất nước bằng quân sự, họ sẽ phải phụ thuộc vào Liên Xô và Trung Quốc.
    Tại Liên Xô, Khrushchev đã không còn quan tâm đến Đông Dương trong mùa hè và mùa thu 1964; ông muốn Liên Xô tránh khỏi Đông Nam Á vì sợ một ‘khủng hoảng tên lửa Cuba thứ hai’. Cuộc chiến Việt Nam cũng có lợi cho Liên Xô ở chỗ nó thu hút sự chú ý của hai đối thủ là Mỹ và Trung Quốc; như thế Liên Xô có thể tập trung cho khu vực châu Âu và Viễn Đông.
    Tuy vậy, chính sách không can thiệp của Liên Xô lại khiến Bắc Việt hướng nhiều hơn về Trung Quốc. Tháng 12-1964, bộ trưởng quốc phòng TQ thăm Hà Nội và ký hiệp ước hợp tác quân sự. Việc này cần được nhìn trong bối cảnh tranh chấp Xô – Trung: sự miễn cưỡng của Liên Xô được diễn giải như là cơ hội cho Trung Quốc đưa Việt Nam vào quỹ đạo của mình.
    Cũng thời điểm đó, Khruschev bị hạ bệ và Leonid Brezhnev lên thay. Trung Quốc hy vọng sẽ có cải thiện trong quan hệ và trông chờ Brezhnev từ bỏ chính sách cùng chung sống hòa bình với phương Tây. Nhưng Anastas Mikoyan, thành viên trong Bộ Chính trị, sau đó tuyên bố Brezhnev sẽ tiếp tục chính sách chung sống này.
    Trung Quốc ban đầu hứa gửi phi công sang Bắc Việt, nhưng sau đó họ rút lại vì lo ngại ưu thế hơn hẳn của không quân Mỹ. Bộ binh trở thành lựa chọn tốt hơn và sau đó một số lượng đáng kể nhân viên quân sự Trung Quốc được gửi sang miền Bắc.
    Gần 320.000 người Trung Quốc đã có mặt tại miền Bắc từ tháng Sáu 1965 đến tháng Ba 1968. Họ không có nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu mà giúp xây sửa cầu đường, đường ray xe lửa. Ngoài ra, Trung Quốc xây một cảng bí mật ở Hải Nam, để từ đó vũ khí được chuyển cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc ở miền Nam.
    Chính sách ngoại giao của Mao Trạch Đông lúc này cũng cần được hiểu thông qua những quan ngại của ông về đối nội. Mao lo ngại về tương lai TQ, đặc biệt trong trường hợp ông qua đời và một bộ máy mới lên.
    Ông cảm thấy các nguyên tắc của cách mạng TQ sẽ bị phản bội và hệ thống chính trị trong tay lớp trẻ hơn rồi sẽ đưa TQ mở cửa với phương Tây.
    Vì thế, Mao sử dụng cuộc chiến Việt Nam khơi gợi tinh thần chống đế quốc trong nhân dân TQ để chống lại những người ‘xét lại’ trong bộ máy và để bảo đảm vị trí của ông trong lịch sử. Đây là mục đích chính của chiến dịch ‘Ủng hộ Việt Nam và chống Mỹ’ tại Trung Quốc. Có một sự liên hệ trực tiếp giữa cuộc chiến tại Đông Dương và sự cực đoan ngày càng tăng trong chính trị nội địa tại TQ.
    Thái độ Liên Xô thay đổi
    Đầu năm 1965, tân thủ tướng Liên Xô, Kosygin, thăm Bắc Kinh, Hà Nội, Bình Nhưỡng như một cách đánh dấu sự khôi phục chính sách châu Á của Liên Xô. Hoạt động ngoại giao con thoi này nhằm hai mục đích: hàn gắn quan hệ Xô – Trung và ngăn chặn hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam.
    Trong chuyến thăm Hà Nội, tháp tùng Kosygin có các chuyên viên tên lửa. Và ngày 10-2-1965, Liên Xô và Bắc Việt ký hiệp ước hỗ trợ kinh tế và quân sự.
    Điều này đáng chú ý vì chỉ mới vào tháng 12-1964, Bắc Việt đã tuyên bố sẽ không hoan nghênh các chuyên viên dân sự và quân sự Liên Xô. Rõ ràng, Hà Nội đã dùng sự hỗn độn quanh diễn biến thay đổi lãnh đạo tại Liên Xô và việc củng cố quyền hành của Brezhnev để gây sức ép cho người Nga. Bắc Việt cảm thấy họ đang được cả hai thế lực cộng sản tìm cách chinh phục.
    Sự hố̃ trợ quân sự to lớn của Liên Xô từ sau 1965 cũng có mục đích chung là giảm bớt mối liên hệ của TQ tại Việt Nam.
    Nhưng điều này không có nghĩa là Hà Nội giờ đây đứng về phía Moscow trong cuộc tranh chấp Xô – Trung. Thực tế, họ tìm cách nhận được hỗ trợ tối đa từ cả hai bên.
    Về cơ bản, có một sự khác biệt quan trọng trong thái độ của Liên Xô và TQ đối với vấn đề Việt Nam. Người Sô viết nghĩ rằng một nước XHCN như VN có quyền tồn tại và thống nhất đất nước, đặc biệt khi bị thế lực phương Tây đe dọa. Nhưng việc bảo vệ của một cường quốc XHCN, dù là Liên Xô hay TQ, chỉ có trong khuôn khổ cùng chung sống hòa bình.
    Ngược lại, Trung Quốc xem cuộc xung đột VN là một phần trong phong trào đấu tranh chống đế quốc tại Đông Nam Á - ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan.
    Tiến trình đi tìm một giải pháp hòa bình về câu hỏi VN diễn ra chậm chạp. Sự thay đổi trong tam giác Mỹ - Liên Xô – Trung Quốc diễn ra vào năm 1972 sau khi tổng thống Nixon thăm TQ.
    Đến giữa tháng Sáu, chủ tịch Liên Xô Podgorny thăm Hà Nội và thúc giục Bắc Việt đàm phán. Một phần lý do là viện trợ quân sự cho Bắc Việt đã gây tiêu cực cho kinh tế Liên Xô, nhất là khi người Sô viết coi vấn đề VN không liên hệ trực tiếp về an ninh cho Liên Xô.
    Trung Quốc lúc này cũng muốn có giải pháp hòa bình. Lý do quan trọng nhất là nhờ chuyến thăm của Nixon, TQ giờ đây có thể dùng Liên Xô đối chọi với Mỹ. Ngoài ra, lúc ấy họ hy vọng giải quyết vấn đề Đài Loan, nhưng buộc phải có sự hợp tác của Mỹ.
    Lúc này, sự thay đổi chính sách của Liên Xô và Trung Quốc là cú đánh tâm lý cho Bắc Việt. Họ cảm thấy bị bỏ rơi và phản bội.
    Moscow và Bắc Kinh có đủ lý do để hòa hoãn với Mỹ và ủng hộ một giải pháp ngừng bắn và chính trị tại Việt Nam. Các hội nghị thượng đỉnh Xô – Mỹ và Trung – Mỹ trong năm 1972 cho thấy rằng cả Liên Xô và Trung Quốc đều không muốn hy sinh quyền lợi quốc gia của họ, tức là cải thiện quan hệ với Mỹ.
    Ngày 27-1-1973 khi hiệp định Paris được ký kết, nó phản ánh một trật tự thế giới mới mà sẽ không thể có nếu thiếu sự hòa hoãn Mỹ-Xô-Trung năm 1972.
    Cuộc chiến Việt Nam cho thấy quan hệ tam giác Moscow – Hà Nội – Bắc Kinh rất khác với ngôn từ tuyên truyền chính thức về ‘tình hữu nghị quốc tế’.
    Mỗi bên đi theo một chính sách quốc gia riêng, tạo nên sự nghi ngờ lẫn nhau mà đã đóng góp vào việc kéo dài cuộc xung đột. Ngoài ra, trong suốt lịch sử, cả ba nước này thể hiện một thái độ yêu – ghét về nhau. Và sự khác biệt văn hóa giữa TQ và VN cũng góp thêm vào sự phức tạp trong tam giác này.

    Nguồn http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/04/050402_chinarussiavietnamwar.shtml

    Bài báo thôi đọc để cho đủ cái nhìn. Kết luận là do mình tự rút ra.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này