1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

[Tài liệu tham khảo] Red Brotherhood at war (Grant Evans và Kelvin Rowley)

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi nguyenquang, 24/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Năm 1956, chế độ miền Nam của Ngô Đình Diệm đã buộc người Hoa lấy quốc tịch Việt Nam, nếu không bị đuổi ra khỏi Việt Nam. Bắc Kinh phản đối hành động đó, nói rằng những biện pháp của miền Nam là ?omột điều vi phạm quyền hợp pháp của người Trung Quốc hải ngoại ở Nam Việt Nam". Hà Nội ủng hộ Bắc Kinh và đó là tuyên bố duy nhất của Hà Nội về quy chế của người Trung Quốc ở miền Nam trước năm 1978. Tuy nhiên, Mặt trận dân tộc giải phóng đã đưa ra một số lời tuyên bố giữa năm 1960 và 1968 đặc biệt nói rằng ?otất cả các đạo luật và biện pháp của chế độ bù nhìn Mỹ về người Hoa sẽ bị huỷ bỏ? và ?ocác người Hoa có quyền tự do chọn quốc tịch của mình?.
    Khi những người cộng sản Việt Nam vào Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề người Hoa vẫn chưa được giải quyết. Người Hoa tiếp đón họ ở Chợ Lớn với cờ nước Trung Hoa và ảnh của Mao Trạch Đông. Đó có lẽ là ý đồ của người Hoa muốn tỏ ra rằng họ đứng về phía những người lãnh đạo cộng sản mới của họ, nhưng với tình hình ngày càng căng thẳng trong quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, ý đồ đó tỏ ra không thành công. Ngược lại, nó tăng thêm những nghi ngờ của những người cộng sản Việt Nam về lòng trung thành dân tộc của người Hoa ở Việt Nam.
    Tháng giêng năm 1976 để thăm dò chiều sâu của vấn đề, chính phủ Việt Nam ra lệnh cho người Hoa đăng ký quốc tịch của họ; đa số người Hoa lúc đó đăng ký là người Trung Quốc, không thừa nhận việc họ buộc phải nhận quốc tịch Việt Nam trong những năm 1956-1957. Rõ ràng có phần lo ngại, chính phủ lại ra lệnh cho họ đăng ký lại trong tháng 2, lần này theo quy chế đã nêu dưới chế độ Diệm.
    Vấn đề người Hoa đã được Hà Nội nhận thức như là một thử thách của chủ quyền Việt Nam, chứ không phải như là một vấn đề đối nội đơn giản.
    Các quan hệ năm 1976 giữa Việt Nam và Trung Quốc còn thân thiện và dường như phần đông người Hoa ở miền Nam tuân theo những hành động của chính phủ Hà Nội. Nhưng khi cuộc xung đột giữa hai chính phủ nổi lên thì người Hoa bị kẹp vào giữa.
    Bắc Kinh không bình luận gì về vấn đề người Hoa cho đến cuối năm 1976, thậm chí đến giữa năm 1977, có thể vì các nhà lãnh đạo Trung Quốc quá bận rộn với cuộc đấu tranh phe phái nội bộ của họ. Nhưng tháng 2 năm 1977 các xã luận của tờ Nhân dân Nhật báo và tờ Hồng Kỳ cho thấy sự quan tâm trở lại đối với vấn đề người Trung Quốc hải ngoại.
    Tháng 6 năm 1977, phó thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm đưa vấn đề người Hoa ở Việt Nam ra cho thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông ta trách ông Đồng đã ?okhông tham khảo Trung Quốc" về vấn đề đó và cảnh cáo rằng ?omỗi nước đều có trách nhiệm bảo vệ các quyền hạn và lợi ích chính đáng của công dân của mình sinh sống ở các nước khác?. Lý ngụ ý rằng tất cả người Hoa là kiều dân Trung Quốc ngày nay cho dù họ đã lấy quốc tịch Việt Nam. Điều này đã bị Hà Nội xem như một thách thức đối với chủ quyền của họ. Cùng với cuộc tranh chấp âm ỉ trên biển Đông, và tình hình xấu đi nhanh chóng tại biên giới Việt Nam-Campuchia vấn đề người Hoa đã đặt hai nước vào một quá trình xung đột.
    Do đó, khi Bắc Kinh bắt đầu một chính sách mới hung hăng về người Trung Quốc hải ngoại vào cuối năm 1977, họ đã gây ra sự lo ngại ở Việt Nam. Những lo ngại của Hà Nội đã được tăng lên khi chính sách mới đó được phác hoạ trong Nhân dân Nhật báo ngày 4 tháng giêng năm 1978. Nó nói đến người Trung Quốc hải ngoại như ?omột phần quốc gia Trung Quốc? với số phận của họ gắn liền chặt chẽ với số phận của tổ quốc?, và ý định của Bắc Kinh là ?ocủng cố công tác ngoại kiều? và ?ođoàn kết với những người Trung Quốc hải ngoại thuộc giai cấp tư sản? và ?olàm việc tích cực với họ? để thành lập một mặt trận yêu nước thống nhất rộng rãi? nhằm phục vụ mục tiêu bốn hiện đại hoá. Đây là bước tách xa các chính sách những năm 1950 của Chu. Rồi ngày 26 tháng 2 tại Đại hội Quốc dân lần thứ năm ở Bắc Kinh, chủ tịch Hoa Quốc Phong tuyên bố rằng Trung Quốc chống lại mọi âm mưu buộc các người Trung Quốc hải ngoại thay đổi quốc tịch.
  2. doduonghien1980

    doduonghien1980 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/02/2006
    Bài viết:
    159
    Đã được thích:
    0
    Ối ông wang với ông ling ơi, các ông đang ở phương nào. Sao không pot tiep bai đi. Tôi đang đi công tác không về HN được, đành trông chờ vào các ông thôi. Hay mấy chú có quan tâm có sách hết roài, chỉ còn mình tớ ở xa. Tủi wa. Đến khi nào về HN các ông biết tay tôi. nhưng trước hết fải tạm ứng cho mỗi ông vài tí đã
  3. nguyenquang

    nguyenquang Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/10/2002
    Bài viết:
    208
    Đã được thích:
    0
    chiều ý bác!
    Những lo ngại của HN đặc biệt tập trung vào vấn đề lòng trung thành chính trị của cộng đồng người HOA ở miền NAM.Ở đây ,các nhà kinh doanh TQ luôn giữ độc quyền các cty buôn bán và xuất nhập khẩu,với tư cách là 1 nhóm lắm quyền lực to lớn,đã thường cản trở 1 cách có hiệu quả các cố gắng cải cách KT dưới chế độ THIỆU.Chế độ CS mới cũng vấp phải vấn đề tương tự như vậy,khi giao thiệu với tập đoàn đầu sỏ thương mại đó.Một tạp chí của ĐCS VN đã phân tích như sau về tình hình miền NAM tháng 8/1978 "Giai cấp tư sản thuộc dòng dõi TQ ....kiểm soát hầu như tất cả các vị trí KT quan trọng,và đặc biệt kiểm soát 3 lĩnh vực then chốt :chế biến,phân phối,tín dụng.Vào cuối năm 1974 chúng kiểm soát hơn 80% các cơ sở về lương thực,hàng dệt,hoá chất,kim khí,CN XD và điện. và hầu như nắm độc quyền thương mại,100% bán buôn,hơn 50% bán lẻ,90% xuất nhập khẩu.Chúng hoàn toàn kiểm soát việc mua thóc gạo..Vì chúng kiểm soát việc cung cấp hàng hoá cho thị trường,chúng có thể thao túng giá cả...thông qua hệ thống xuất nhập khẩu,hệ thống vận tải và thông qua các nhà buôn vừa và nhỏ thuôc nguồn gốc TQ...chúng xây dựng một thế giới khép kín dựa trên quan hệ huyết thống ,trên một kỷ luật nội bộ triệt để và một hệ thống các bè phái,mỗi bè phái có người đứng đầu,để tránh sự can thiệp của chính quyền địa phương.Mỗi phái có ngân sách riêng có trường học ,bệnh viện,báo chí,có tổng hành dinh và nghĩa địa riêng với 1 ngành hoạt động đặc biệt .Đó thực sự là 1 quốc gia trong 1 quốc gia..."(tờ VIETNAM Courrier số 78 tháng 11/1978).
    Một tỷ lệ lạm phát 80% năm 1977 và những vấn đề thiếu lương thực và đầu cơ tích chữ không chấm dứt được,đã làm cho những người CS tiếp tục thấy rõ sức mạnh của các nhà TB ở miền NAM.HN sợ rằng chúng dễ bị lôi kéo vào các mục tiêu chính sách đối ngoại của BK và điều đó kết hợp với sự sa sút ngiêm trộng của nền KT ở miền NAM do cuộc xung đột với CPC gây ra làm cho các nhà lãnh đạo lo ngại về 1 cuộc suy sụp của đất nước từ bên trong và từ bên ngoài theo ý đồ của TQ.
    Tiếp theo Phom Penhc không chịu đáp ứng một đè nghị hoà bình quan trọng của HN 5/2/1978 ,TW ĐCS VN họp phiên thứ 4 rất ý nghĩa và thông qua 2 quyết định gắn bó với nhau về mặt chiến lược:
    -Quyết định 1 là tìm cách lật đổ PON POT
    -Quyết định thứ 2 là đập gãy lưng tập đoàn do TQ khống chế ở miền NAM
    Cuộc tiến công vào "tập đoàn thương mại" ở SAIGON-CHỢ LỚN đã được tiến công vào ngày thứ 6 24/3/1978 khi nhiều nhà buôn lớn chuẩn bị đi nghỉ cuối tuần ở VŨNG TÀU,khoảng 70 km Ở đông nam TP.Khoảng 30000 nhà kinh doanh bị quốc hữu hoá,những người CS trẻ được động viên tiến hành hoạt động này nói họ đã phát hiện được những kho cất dấu hàng hoá và vàng thỏi.Tuy nhiên hàng nghìn những nhà kinh doanh nhỏ khác và những người buôn lẻ vẫn được hoạt động .Những biện pháp này đã được mở rộng ra toàn miền NAM trong tháng 4.Rồi ngày 3/5 một đồng tiền quốc gia mới được đưa ra để thay thế cho các đòng tiền riêng rẽ ở miền Bắc và miền NAM.Việc này càng làm yếu thêm vị trí KT của các nhà buôn giàu và thắt chặt sự kiểm soát của chính phủ đối với nền KT.Những người mất việc do những biện phấp này bị buộc phải rời đô thị để đến các vùng KT mới ở biên giới CPC.Nhiều người thích rời đất nước hơn.
    Số người bỏ VN ra đi trong 3 năm đầu sau 1975 trung bình là 35.000 mỗi năm.Con số này tăng lên hơn gấp đôi trong 6 tháng đầu năm 1979.Phần đông những người này là những "thuyền nhân " chạy sang các nước ĐNA hoặc HỒNG KÔNG,và trong năm 1978-1979 tuyệt đại đa số là người HOA.Cộng với những "thuyền nhân" phải tính thêm khoảng 250.000 người HOA vượt biên giới sang TQ giữa tháng 4 /1978 và mùa hè 1979.
  4. sheva551984

    sheva551984 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2003
    Bài viết:
    310
    Đã được thích:
    0
    Tài liệu này rất hay, em đọc xong đã có những quan điểm khác hẳn về cuộc chiến tranh Campuchia của ta. Và bi giờ em ko cho rằng chúng ta đóng quân ở CPC quá lâu là sai lầm mà thực tế đã đẩy chúng ta phải như vậy. Chúng ta đã linh hoạt hết sức nhưng điều kiện thực tế ko cho phép chúng ta hành động khác.
    Bác Nguyenquang bẵng một thời gian ko lên mạng nên em đã liên hệ với plinh photo đọc hết rùi. Lần sau có tài liệu gì bác lại post, hay em lại mượn đi photo nhá.
  5. qthac

    qthac Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/04/2004
    Bài viết:
    46
    Đã được thích:
    0
    Quyển này quả là hay. Các bác có kiếm được cuốn của W. Bớc sét ấy, em thấy cũng nói nhiều về chiến tranh Việt Nam, cả đối với Mẽo và Khựa. Bác Bớc sét ấy yêu Việt Nam lắm nhé, và viết nhiều cái hay lắm. Tớ không ở nhà, chứ đang ở nhà em cũng theo đà tơ pót lên cho các bác thưởng lãm.
    Quyển "Chân lý thuộc về ai " (Tức "Red brotherhood War") tớ đọc mê tít, thích lắm. Cảm ơn bác nguyenquang nhé.
  6. rongxanhpmu

    rongxanhpmu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/03/2006
    Bài viết:
    2.079
    Đã được thích:
    1
    ------------------
    Các bác có kiếm được cuốn của W. Bớc sét ấy, em thấy cũng nói nhiều về chiến tranh Việt Nam, cả đối với Mẽo và Khựa. Bác Bớc sét ấy yêu Việt Nam lắm nhé, và viết nhiều cái hay lắm. Tớ không ở nhà, chứ đang ở nhà em cũng theo đà tơ pót lên cho các bác thưởng lãm. [:) ---------------------->>>>>>>>>>>>>. Các bác qua vnthuquan.net àm đọc, bên đấy họ đưa cả cuốn hồi ký này lên rồi.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chủ đề này chìm sâu quá, em kéo lên phục vụ các bác
    Những lo ngại của Hà Nội đặc biệt tập trung vào vấn đề lòng trung thành chính trị của cộng đồng người Hoa ở miền Nam. Ở đây, các nhà kinh doanh Trung Quốc đã luôn luôn giữ độc quyền các công ty bán buôn và xuất nhập khẩu, và với tư cách là một nhóm năm quyền lực kinh tế to lớn, đã thường cản trở một cách có hiệu quả các cố gắng cải cách kinh tế dưới chế độ Thiệu. Chế độ cộng sản mới cũng vấp phải vấn đề tương tự như vậy, khi giao thiệp với tập đoàn đầu sỏ thương mại đó. Một tạp chí của ********************** đã phân tích như sau về tình hình ở miền Nam tháng 8 năm 1978: ?oGiai cấp tư sản thuộc dòng dõi Trung Quốc? kiểm soát hầu như tất cả các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt kiểm soát chặt chẽ ba lĩnh vực then chốt: chế biến, phân phối và tín dụng. Vào cuối năm 1974, chúng kiểm soát hơn 80 phần trăm các cơ sở về lương thực, hàng dệt, hoá chất, kim khí, các công nghiệp xây dựng và điện, và hầu như nắm độc quyền thương mại, 100 phần trăm bán buôn, hơn 50 phần trăm bán lẻ và 90 phần trăm xuất nhập khẩu. Chúng hoàn toàn kiểm soát việc mua thóc gạo? Vì chúng kiểm soát việc cung cấp hàng hoá cho thị trường, chúng có thể thao túng giá cả? thông qua hệ thống xuất nhập khẩu, hệ thống vận tải và hệ thống các nhà buôn vừa và nhỏ thuộc nguồn gốc Trung Quốc? Chúng xây dựng một thế giới khép kín dựa trên một hệ thống các bè phái, mỗi bè phái có người đứng đầu, để tránh sự can thiệp trực tiếp của chính quyền địa phương. Mỗi phái có ngân sách riêng, trường học, bệnh viện, báo chí, tổng hành dinh và nghĩa địa riêng với một ngành hoạt động đặc biệt. Đó thực sự là một quốc gia trong một quốc gia?? (tờ Việt Nam Courrier, số 78 tháng 11 năm 1978).
    Một tỷ lệ lạm phát 80 phần trăm năm 1977 và những vấn đề thiếu lương thực và đầu cơ tích trữ không chấm dứt được, đã làm cho những người cộng sản tiếp tục thấy rõ sức mạnh của các nhà tư bản ở miền Nam. Hà Nội sợ rằng chúng dễ bị lôi kéo vào các mục tiêu chính sách đối ngoại của Bắc Kinh, và điều đó, kết hợp với sự sa sút nghiêm trọng của nền kinh tế ở miền Nam do cuộc xung đột với Campuchia gây ra, làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam lo ngại về một cuộc suy sụp của đất nước từ bên trong và từ bên ngoài theo ý đồ của Trung Quốc. Tiếp theo Phnôm Pênh không chịu đáp ứng một đề nghị hoà bình quan trọng của Hà Nội ngày 5 tháng 2 năm 1978, Trung ương ********************** họp phiên thứ 4 rất ý nghĩa và thông qua hai quyết định gắn bó với nhau về mặt chiến lược: quyết định thứ nhất là tìm cách lật đổ Pol Pot; quyết định thứ hai là đập gãy lưng tập đoàn do Trung Quốc khống chế ở miền Nam.
    Cuộc tiến công vào ?otập đoàn thương mại? ở Sài Gòn-Chợ Lớn đã được tiến hành một ngày thứ sáu (24 tháng 3) khi nhiều nhà buôn lớn chuẩn bị đi nghỉ cuối tuần ở bờ biển Vũng Tàu, khoảng 70 kilômét đông nam thành phố. Khoảng 30.000 nhà kinh doanh bị quốc hữu hoá; những người cộng sản trẻ được động viên tiến hành hoạt động này nói họ đã phát hiện những kho cất giấu hàng hoá và vàng thỏi. Tuy nhiên, hàng nghìn những nhà kinh doanh nhỏ khác và những người buôn lẻ, được tiếp tục hoạt động. Những biện pháp này đã được mở rộng ra toàn miền Nam trong tháng 4. Rồi, ngày 3 tháng 5, một đồng tiền quốc gia mới được đưa ra để thay thế cho các đồng tiền riêng rẽ của miền Bắc và miền Nam. Việc này càng làm yếu thêm vị trí kinh tế của những nhà buôn giàu và thắt chặt sự kiểm soát của chính phủ đối với nền kinh tế. Những người mất việc do những biện pháp này bị buộc phải rời các đô thị để đến các vùng kinh tế mới tại biên giới Campuchia. Nhiều người thích rời đất nước hơn.
    Số người bỏ Việt Nam ra đi trong ba năm đầu sau năm 1975 trung bình là 35.000 mỗi năm. Con số này tăng lên hơn gấp đôi trong sáu tháng đầu năm 1979. Phần đông những người này là những ?othuyền nhân? chạy sang các nước Đông Nam Á hoặc Hồng Công; và trong năm 1978-1979, tuyệt đại đa số là người Hoa. Cộng vào với những ?othuyền nhân?, phải tính thêm khoảng 250.000 người Hoa vượt biên giới sang Trung Quốc giữa tháng 4 năm 1978 và mùa hè 1979.
    Những nhà lãnh đạo cộng sản ở Bắc Kinh rêu rao rằng người Việt Nam ?okhai trừ, hành hạ và đuổi các Hoa kiều?. Để trả lời, tờ Nhân dân, ngày 29 tháng 5 năm 1978, hỏi tại sao Trung Quốc lại quan tâm tha thiết như vậy với ?omột nhóm tư sản Việt Nam gốc Trung Hoa? trong khi không hề biết đến hàng nghìn người Trung Quốc ở Campuchia đã bị hành hạ, giết hại và đuổi ra khỏi nước.
    Trái với miền Nam, người Hoa ở miền Bắc duy trì những tiếp xúc chặt chẽ với Trung Quốc, và họ không phải trực tiếp đương đầu với vấn đề quốc tịch. Nhưng như một người tị nạn giải thích, tất cả đã thay đổi năm 1978. Anh ta nói: ?oĐầu tháng 5 năm 1978, Xuân Thuỷ (người đã thay mặt cho Hà Nội tại cuộc hội đàm hoà bình ở Paris) trả lời một buổi phát thanh của đài Bắc Kinh tố cáo Việt Nam hành hạ người Hoa. Ông ta ghi nhận rằng Trung Quốc và Việt Nam đã thoả thuận năm 1954 rằng người Hoa sẽ dần dần trở thành những công dân Việt Nam. Lời công bố đó là một điều bất ngờ đối với chúng tôi. Nó chưa hề được bao giờ đưa ra công khai. Điều làm cho chúng tôi lo ngại nhất là việc phải đi lính, mà chúng tôi xem là con đường chắc chắn dẫn đến cái chết. Nó cũng có nghĩa là người Hoa có bà con ở Trung Quốc sẽ không còn có thể đi thăm họ nữa. Điều này rất quan trọng về những lý do kinh tế cũng như tình cảm. Theo thói quen, người Hoa có thể cứ ba năm thì về thăm Trung Quốc một lần. Những người đi có thể mang hàng hoá của Việt Nam sang Trung Quốc và mang hàng hoá Trung Quốc trở lại Việt Nam để bán ở chợ đen, như vậy, công bố nói trên cũng có nghĩa là một sự thiệt hại về kinh tế?.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong một không khí như vậy, những tin đồn hoảng hốt về chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam và về điều có thể xảy ra cho người Hoa nếu họ tiếp tục ở lại Việt Nam, đã thúc đẩy một cuộc tháo chạy khỏi miền Bắc. Cả người Việt Nam lẫn người Trung Quốc đều đổ cho nhau về việc làm cho những tin đồn đó lan rộng. Việc bỏ chạy ở miền Bắc qua biên giới trên đất dễ thực hiện hơn qua hải phận (ít có người Hoa nào ở miền Nam muốn chạy sang Campuchia của Pol Pot). Bruce Grant đã viết: Một khi đã được bắt đầu thì ?ophong trào ra khỏi Việt Nam và vào Trung Quốc không thể nào chặn lại được, bởi vì nó bị thúc đẩy vì tin đồn, sự khiếp sợ và sự tuyên truyền ngày càng hiểm độc về chiến tranh giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Một khi đã bắt đầu, phong trào tự nó tiếp tục phát triển nhanh chóng. Những đợt ra đi từ miền Bắc ảnh hưởng nhanh chóng đến cộng đồng người Trung Quốc ở miền Bắc ảnh hưởng nhanh đến cộng đồng người Trung Quốc ở miền Nam cũng như những biện pháp quốc hữu hoá và cải cách tiền tệ ở miền Nam cũng gây những tác động không ổn định đối với người Hoa ở miền Bắc. Vào giai đoạn này các nhà chức trách Việt Nam vẫn còn tìm cách làm cho người Hoa nản lòng không bỏ miền Bắc vì họ là một bộ phận có ý nghĩa trong lực lượng lao động lành nghề, nhất là ở các mỏ và trong thành phố cảng Hải Phòng.
    Ở miền Nam, nhiều người Hoa đã nhiệt liệt đáp ứng chủ trương của Trung Quốc giành quốc tịhc Trung Quốc trở lại cho họ. Họ hy vọng rằng với tư cách là kiều dân nước ngoài họ sẽ làm ăn tốt hơn về mặt kinh tế, sẽ tránh được quân dịch và có thể rời đất nước giống như những kiều dân Pháp và Ấn Độ ở miền Nam. Những tính toán này của họ ít liên quan đến lòng trung thành chủng tộc hoặc quốc gia đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam không nhìn tình hình đó bằng cách như vậy, và những cuộc biểu tình của người Hoa ở Chợ Lớn đòi quốc tịch Trung Quốc càng làm tăng thêm những lo ngại của Hà Nội đối với họ.
    Khi Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công bố ngày 26 tháng 5 năm 1978 rằng họ đang đưa tàu biển đến Việt Nam để đón ?ocác Hoa kiều nạn nhân?, thì khoảng 250.000 người Hoa ở Chợ Lớn đã đăng ký xin đi. Sau khi gây ra việc xin hồi hương của người Hoa, người Trung Quốc lại không chịu tiếp tục công việc đó, lấy cớ rằng Việt Nam không chịu thừa nhận rằng ?ocác kiều dân Trung Quốc" đang bị khai trừ và hành hạ. Việc đó làm cho giới lãnh đạo Việt Nam cảm thấy càng không chắc chắn về lòng trung thành của người Hoa đồng thời cũng làm cho người xin ra đi bị lộ mặt và dễ bị chính phủ đàn áp. Kết quả cuối cùng là Hà Nội nhìn toàn bộ vấn đề là một phần của âm mưu Trung Quốc làm cho Việt Nam mất ổn định. Chính liền sau sự kiện đó và trong tình hình căng thẳng ngày càng tăng ở các biên giới Việt Nam-Campuchia và Trung Quốc-Việt Nam, mà Bộ Chính trị ********************** đã quyết định tháng 6 năm 1978 ?orõ ràng xác nhận Trung Quốc là kẻ thuc chính của Việt Nam".
    Khi Trung Quốc đóng cửa biên giới của mình đối với những người tị nạn tháng 7 năm 1978, thì người Việt Nam nhanh chóng xem đó là một âm mưu nhằm duy trì ?omột quốc gia Trung Quốc nhỏ trên lãnh thổ Việt Nam" có thể được dùng để ?ogây rối và náo động?. Bởi thế cho nên từ tháng 9 trở đi, Hà Nội bí mật cộng tác với các nghiệp đoàn người Trung Quốc hải ngoại hoạt động ở Hồng Công, Đài Loan và Singapore để làm dễ dàng việc đưa ra khỏi Việt Nam những người Hoa đã tỏ ra ?okhông trung thành? bằng việc muốn trở lại quốc tịch Trung Quốc và muốn rời đất nước.
    Việc chính phủ Việt Nam tham gia vào việc tổ chức cuộc ra đi tất nhiên đã làm tăng một cách đột ngột số người ra đi. Trong thời gian tháng 12 năm 1978 và tháng giêng năm 1979, việc ra đi ngừng lại một lúc, nhưng tiếp theo cuộc xâm lược của Trung Quốc, nổi lên một tâm lý chống Trung Quốc trên khắp nước, làm cho số người ra đi ở cả miền Bắc lẫn miền Nam tăng vụt lên như rocket. Nhiều người Hoa ra đi bởi vì họ biết rằng trong cuộc xung đột đang tăng lên giữa Trung Quốc và Việt Nam, thì những người Trung Quốc ở Việt Nam sẽ không tránh khỏi số phận của món thịt kẹp giữa bánh sandwich. Những người khác thì bị quét đi vì khiếp sợ. Và nhất là từ giữa năm 1978 trở đi, một số lớn người, cả người Hoa lẫn người Việt Nam ở mức độ thấp hơn, muốn ra đi để tránh các điều kiện kinh tế đang xấu đi. Dù lý do muốn đi của họ là gì, tất cả đều biết rằng ra đi bằng con đường chính thức sẽ quá chậm và kéo dài, họ muốn ra đi ngay, chứ không phải trong vòng 5 năm, và ký giao kèo với cái mà các nhà báo gọi đùa là ?oCông ty du lịch bằng thùng gỉ?.
    Nhưng thật ra không phải là đùa. Để được đi càng nhanh càng tốt, thuyền nhân sẵn sàng chịu những mạo hiểm hơn. Họ bị những chủ thầu vô lương tâm lừa lọc, và cái giá của sự thoát thân của họ chưa phải trả xong khi đã thanh toán bằng tiền và vàng. Họ thường ra đi trên những chiếc thuyền nhỏ, quá đông người và ọp ẹp dùng chạy sát bờ biển chứ không phải ra khơi. Ít người trong họ thạo nghề đi biển hoặc hàng hải. Họ thường thiếu lương thực và nước vì tính toán không đúng thời gian và khoảng cách, và nhiều thuyền bị đánh vỡ ở giữa đại dương. Nhiều người định đi đến các bờ biển Thái Lan hoặc Malaysia bị chết trong các cuộc tiến công tàn ác của những cướp biển hoạt động trong Vịnh Thái Lan.
    Người ta rêu rao trong năm 1979 rằng khoảng 40 đến 70 phần trăm thuyền nhân đã chết trong cuộc chạy trốn của họ. Những con số như vậy đã được lấy làm cơ sở để buộc tội rằng chính phủ Việt Nam phạm phải tội diệt chủng đối với người Hoa, rằng chính phủ đó đã cố ý dùng đại dương như ?ophòng hơi độc của người xấu số?. Tất nhiên, chínhh tính chất của cuộc ra đi làm cho không có những con số chính xác được, nhưng rõ ràng là những con số đó đã bị thổi phồng quá đáng. Tỷ lệ chết thực sự của các ?othuyền nhân? thấp hơn nhiều, khoảng dưới 10 phần trăm. Nhưng ngay sự ước tính đã giảm đi đó cũng còn là đáng sợ, nghĩa là trong bốn năm 1976-1979 ?ohơn 300.000 sinh mạng đã chết một cách không cần thiết ở biển?.
    Có lẽ cuộc ra đi này của thuyền nhân làm tổn hại hình ảnh quốc tế của Việt Nam hơn là cuộc xâm lược Campuchia. Ngay trong năm 1978, dòng người ra đi đã làm tổn thương nghiêm trọng đến các quan hệ đang phát triển của Việt Nam với các nước ASEAN, là những nước phải chịu gánh chính. Tất cả các nước đó đều có vấn đề người Trung Quốc hải ngoại của riêng mình và vào năm 1979, nhiều người ở ASEAN xem các hành động của Việt Nam như là một âm mưu làm mất ổn định phần còn lại của Đông Nam Á.
    Một trong những tác động quan trọng nhất của cuộc khủng hoảng người tị nạn là nó đẩy các nước ASEAN cùng nhau phối hợp các chính sách đối với Việt Nam và Đông Dương của họ và do đó mà làm yếu đi nền ngoại giao của Việt Nam trong vùng.
    Vào tháng 7 năm 1979, cuộc khủng hoảng người tị nạn trên thực tế đã đến đỉnh cao. Tại Hội nghị Geneva tháng đó, Tổng thư ký Liên hợp quốc đã có thể nói trong diễn văn bế mạc của ông rằng: ?oChính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã cho phép tôi báo với các bạn rằng trong một thời gian phải chăng nữa, chính phủ đó sẽ tìm mọi cách chấm dứt các cuộc ra đi bất hợp pháp?. Trong ba tháng tiếp theo, số người tị nạn rời Việt Nam giảm xuống một cách hấp dẫn; việc đó đã làm cho người ta không tin như trước vào những lời phản đối chính phủ Việt Nam rằng Chính phủ đó đã không kiểm soát được cuộc ra đi, và từ đó các cuộc ra đi đã giảm đi một cách vững chắc. Vào giữa năm 1979 thuyền nhân rời Việt Nam với tỷ lệ gần 5 phần nghìn một tháng. Đến năm 1983, chỉ còn khoảng 3.000 mỗi tháng. Và càng về sau, họ ra đi ít vì lý do chính trị hơn là đi tìm sự giàu có của phương Tây.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đỉnh cao tiền định
    Khi cuộc xung đột với Trung Quốc và cuộc khủng hoảng trong nước tăng lên thì cuộc chiến đấu với lực lượng Pol Pot cũng tăng lên. Tháng 6 năm 1978, khi ban lãnh đạo ********************** quyết định xác nhận dứt khoát Trung Quốc là kẻ thù chính của Việt Nam, họ cũng quyết định sẽ can thiệp ở Campuchia để tiêu diệt chế độ Pol Pot. Công cuộc chuẩn bị cho cuộc xâm chiếm đã bắt đầu. Trong khi đó thì Hà Nội khởi xướng một cố gắng tuyệt vọng cuối cùng nhằm bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Ngày 11 tháng 7, thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền công bố ở Tokyo rằng Việt Nam sẽ bỏ tất cả các điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Chính quyền Cater không chịu thừa nhận sự thay đổi đó, nhấn mạnh rằng không được thông báo chính thức và đòi ?ophải có văn bản viết?.
    Trên thực tế, một cuộc đấu tranh lớn đang xảy ra trong nội bộ chính phủ Mỹ về chính sách đối ngoại lúc đó. Cố vấn an ninh quốc gia của Cater, Brê-din-xki cho rằng Mỹ phải có đường lối cứng rắn chống Liên Xô bằng việc chơi ?ocon bài Trung Quốc" chống lại ảnh hưởng Xô Viết ở châu Á. Ở Đông Dương thì thái độ đó có nghĩa là ủng hộ Trung Quốc, và mở rộng ra, là ủng hộ Pol Pot trong cuộc tranh chấp của họ chống lại chính phủ thân Matxcơva ở Hà Nội. Còn ngoại trưởng của Cater, Xây-rớt Van-xơ thì bảo vệ một nền ngoại giao mềm dẻo hơn khi giao thiệp với Liên Xô, đặc biệt là duy trì hoà dịu chứ không phải cố ý làm trầm trọng thêm những căng thẳng chiến tranh lạnh. Tháng 3 năm 1978, Hôn-brúc, một người ủng hộ Van-xơ đã lập luận chống lại Brê-din-xki và cho rằng Mỹ không được cột mình quá chặt vào chính sách của Trung Quốc ở Đông Á và chính vì lợi ích của Mỹ mà phải tìm cách ổn định vùng Đông Nam Á bằng việc bình thường hoá quan hệ với Hà Nội. Nhưng vào giữa năm thì rõ ràng là Brê-din-xki chứ không phải Van-xơ định ra bước đi của chính sách đối ngoại Mỹ.
    Vào giữa năm 1978 Việt Nam bị lún sâu vào khủng hoảng kinh tế và một lần nữa ở trong tình trạng chiến tranh, và nhu cầu viện trợ từ thế giới bên ngoài trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Ngày 29 tháng 7 năm 1978 Việt Nam trở thành thành viên của Hộí đồng tương trợ kinh tế (COMECON). Trong tuân tiếp theo sau đó, Trung Quốc chậm dứt tất cả viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam, gọi số nhân viên kỹ thuật còn lại về nước và xi vả hết lời giới lãnh đạo Hà Nội, nào là theo đuổi ?obá quyền khu vực?, nào là đóng vai trò ?oCu-ba của phương Đông? và nào là ?obạn nhỏ cùng hội? trong mưu đồ Xô-viết kiểm soát Đông Nam Á.
    Tại Mỹ Brê-din-xki lợi dụng bước đi đó của Việt Nam đề lâm cơ sở cho lấp luận về sự lệ thuộc của Việt Nam vào Liên Xô. Cố vấn của ông ta về Trung Quốc, Mi-ca-en Ốc-xen-hơ (Michael Oksenberg) (nổi tiếng về nhận xét của ông ta rằng Việt Nam là ?ohầm chứa phân của nền văn minh?), gợi ý rằng Việt Nam có thề bi mật bị buộc phải cho người Xô-viết các quyền dặt căn cứ tại vịnh Cam Ranh. Hôn-brúc nhanh chóng, bằng một báo cáo của CIA, bác bỏ lời tố cáo đó, và kết quả là Hôn-brúc được phép bắt đầu hội đàm với thứ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Những cuộc hội đàm đó bắt đầu ngày 16 tháng 9: Việt Nam một lần nữa đòi viện trợ xây dựng lại, nhưng nhanh chóng gạt bỏ ý kiến đó để bình thường hóa mà không cần điều kiện trước; rõ ràng đây là một có gắng thăm dò cuối cùng: Cả hai bên đã đồng về nguyên tắc việc bình thường hóa. Rồi ông Thạch thúc việc ký vào tháng 11, rõ ràng nhằm đi trước bật kỳ hành động nào của Việt Nam chống Cam-pu-chìa. Hôn-brúc trì hoãn, nói rằng cần phải đợi các cuộc bầu cử nghị viện và việc ký có thề tiến hành vào tháng 11, chừng nâo không có thay đổi gì trong các quan hệ của Việt Nam với Liên Xô và không có hành động nào chống Cam-pu-chia.
    Nhưng Việt Nam không thề chấp nhận những cam kết mơ hồ như vậy Việt Nam đang chịu sức (ép bên trong và bên ngoài đòi hỏi phải đẩy nhanh biếu thời gian ngoại giao quân sự đã được quyết định hồi tháng 6. Vào tháng 10, Việt Nam thấy rõ ràng phái cứng rắn đang khống chế chính quyền Mỹ và mọi trì hoãn thêm nữa sẽ chỉ để cho Trung Quốc có thời gian tô vẽ hình ảnh quốc tế của Phnôm Pênh và để cho họ tiếp tục cuộc chiến tranh biên giới tai hại.
    Ngày 3 tháng 11 năm 1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghi và hợp tác 25 năm với Liên Xô. Hiệp ước gồm 6 hiệp định kinh tế và một điều khoản quân sự yêu cầu các bên tham khảo ý kiến nhau khi có đe dẹa tiến công chống một trong hai bên. Điều này rõ ràng là một có gắng của Việt Nam nhằm chống lại một sự trả đũa của Trung Quốc tiếp theo cuộc phản công Phnôm Pênh mà Việt Nam định cho tháng 12.
    Cùng ngây, Xai-rớt Van-xơ cuối cùng thừa nhận rằng Việt Nam đã xóa bỏ tất cá các điều kiện tiên quyết cho cuộc hội đàm với Mỹ. Nhưng việc này đã quá chậm để có thể ảnh hưởng đến sự diễn biến của các sự kiện: hiệp ước Xô-Việt đã bị Brê-din-xki vồ ngay lấy cho nên khi Hôn-brúc và Thạch gặp nhau cuối tháng đó đề tìm cách kết thúc cuộc hội đàm về bình thường hóa, thì ông Thạch phát hiện rằng Mỹ cửng rắn nêu các điều kiện tiên quyết. Việt Nam sẽ phải bảo đảm không xâm chiếm Cam-pu-chia, và, theo cách nhìn của Mỹ, không khuyến khích việc nhập cư bất hợp pháp vào các nước khác, và không gây ra một cuộc chiến tranh được Liên Xô ủng hộ, với Trung Quốc. Ông Thạch đã bác bỏ tất cá các điều nói bóng gió về các yêu sách đó. Trước tình hình như vậy, cả hai người cho những tài liệu không được ký kết vào cặp và với bộ mặt nghiêm nghị ở cả hai bên, cuộc gặp tan vỡ.
    Rõ ràng là các kh ?ohoà bình? lạc quan của những năm 1975-1976 nhằm xây dựng lại Việt Nam sau chiến tranh đã bị thất bại. Nhưng không có bằng chứng rằng đó là do chủ nghĩa bành trướng cuồng tín của phía Hà Nội. Ưu tiên bao trùm của họ là phát triển một đất nước còn rất nghèo. Trong quan hệ của họ với phương Tây trong giai đoạn ngay sau chiến tranh, người Việt Nam cố dùng ngoại giao để giành lợi ích kinh tế lớn nhưng đã không thành công. Các quan hệ của họ với các nước ASEAN đã phát triển thuận lợi cho đến khi bị phá hoại vì cuộc khủng hoảng ghép đôi vấn đề Cam-pu-chia và vấn đề thuyền nhân trong những năm 1978-1979.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    3-Lào: Sự lu mờ của chủ nghĩa cộng sản ?otrung lập?
    Sự chấm dứt viện trợ Mỹ cho Lào giữa năm 1975 đã thực sự chấm dứt thời gian Lào nằm trong phạm vi ảnh hưởng của phương Tây, trong khi việc tiếp quản hoàn toàn của Pa-thét Lào tháng 12 năm đó ghi nhận bước chuyển quyết định của Lào vào ?ophe xã hội chủ nghĩa?. Chính vì sự hiểu biết quá đơn giản của các nhà báo và viện sĩ viết về Đông Dương mà từ lúc đó trở đi, Lào đã trở thành một ?othuộc địa? của Việt Nam. A?"tơ J.Đôm-men (Arthur J.Dommen) tác giả của một công trình nghiên cứu lớn về Lào trước khi xảy ra cuộc tiếp quản của cộng sản, bây giờ goi đất nước đó là ?omột chư hầu của Việt Nam" và chính phủ Viêng Chăn là ?obù nhìn? của Hà Nội (xem quyển ?oLào: chư hầu của Việt Nam" của A?"tơ J.Đôm-men-ND). Một chuyên gia khác Mác-tin Xtu-át-Phốc (Martin Stuart-Fox) đã viết về Lào: ?oTất cả các lĩnh vực làm ra quyết định lớn, từ chính sách ngoại giao cho đến kế hoạch kinh tế và an ninh quân sự đều phụ thuộc vào sự chỉ huy của Việt Nam?o. Thực vậy, nhiều người đã lập luận rằng Lào là một nguyên mẫu cho việc thành lập ?oLiên bang Đông Dương", gồm có Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Không có ai đưa quan điểm này ra một cách mạnh mẽ bằng Đôm-men: ?oViệc đóng quân của Việt Nam ở Lào ngày nay rõ ràng nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc xây dựng văn hoá không phải của Lào mà của một Đại Việt Nam, mà những người kế tục ông Hồ Chí Minh dự tính và được khối Xô-viết ủng hộ. Nước Đại Việt Nam còn quá hơn trong Liên bang Đông Dương mà ông Hồ dự kiến khi ông còn bận tâm với việc đuổi người Pháp? Việt Nam đã thay Pháp với tư cách là một cường quốc thực dân ở Đông Dương" (xem quyển ?oLào: chư hầu của Việt Nam? đã dẫn-ND).
    Không ai chối cãi rằng mối quan hệ giữa Lào và Việt Nam là một mối quan hệ không ngang nhau, trong đó Hà Nội có nhiều ảnh hưởng hơn Viêng Chăn; một sự nghiên cứu lướt qua nhất về những khả năng chính trị mà hai chế độ đó có thể thu thập được cũng nhanh chóng cho thấy rõ thực tế trên đây. Thế nhưng nhiều nhà văn khi thảo luận mối quan hệ Lào-Việt Nam đã làm lu mờ tất cả các khác biệt cốt yếu giữa thôn tính thẳng thừng, liên bang, ách thực dân với việc thành lập các liên minh giữa những quốc gia có chủ quyền. Trong đoạn vừa trích dẫn, Đôm-men dường như tưởng tượng rằng việc thành lập một ?oLiên bang Đông Dương" là ngang với việc thôn tính của một quốc gia mà anh ta gọi là ?oĐại Việt Nam? và anh cũng cho rằng điều đó đã xảy ra ở Đông Dương. Trước một sự tưởng tượng võ đoán như vậy, cần phải có một vài nhận xét sơ đẳng. Trước tin, không có thực thể chính trị nào mà Đôm-men nhắc đến, đang tồn tại trên thực tế hiện nay. Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã được Liên hợp quốc, Mỹ, Trung Quốc và một loạt các chính phủ khác thừa nhận như một quốc gia có chủ quyền với mọi quyền hạn, trong đó có quyền lập liên minh với các quốc gia có chủ quyền khác mà họ muốn; nhưng không có thể chế nào có thể gán cho cái tên ?o?oLiên bang Đông Dương" hoặc ?o?oĐại Việt Nam?.
    Nếu chúng ta tập trung vào các mối quan hệ chính thức, mà không có chút nào là không quan trọng cả, thì những tuyên bố đó, có thể chứng minh là không đúng. Đấy chỉ là cách nói cẩu thả nguỵ trang thành một bản phân tích chính trị. Nhưng nếu chúng ta gạt sang một bên những lời lẽ hồ đồ mà họ dùng thì những điểm cơ bản mà các tác giả như Đôm-men và Xtu-át Phốc muốn nói có hai mặt: Mặt thứ nhất là mặc dù về chính thức của chính phủ Việt Nam. Mặt thứ hai là sự kiểm soát đó là có hại cho Lào. Nói một cách khác, người ta cho rằng mối quan hệ đó là theo kiểu mà một số tác giả gọi là ?othực dân mới?.
    Để cung cấp tư liệu cho lời rêu rao đó, cần phải có một sự nghiên cứu chi tiết và có kinh nghiệm hơn là các tác giả đó đã làm. Từ đầu, phải nhấn mạnh rằng vấn đề đang tranh cãi không phải là vấn đề không bình đẳng, hoặc là vấn đề ảnh hưởng của Việt Nam ở Lào, mà là vấn đề kiểm soát và bóc lột Lào của Việt Nam. Tính chất cho là hiểm độc của cường quốc Việt Nam phải được chứng minh đầy đủ, chứ không thể chỉ là sự khẳng định hoặc giả sử.
    Chắc chắn, không thể tranh cãi gì về thực tế rằng mối quan hệ giữa hai chính phủ đó là một mối quan hệ chặt chẽ, chính Thủ tướng Lào và Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã là người đầu tiên nói về ?omối quan hệ đặc biệt? giữa Việt Nam và Lào trong một diễn văn tại Đại hội lần thứ tư của ********************** cuối năm 1976: ?oTrong lịch sử của cách mạng thế giới, những gương của tinh thần sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản không thiếu, nhưng chưa hề bao giờ ở đâu có một liên minh của tinh đoàn kết chiến đấu tồn tại lâu dài đặc biệt như vậy. Tình đoàn kết và liên minh lâu dài đó đã đề cao giá trị của mỗi dân tộc. Mỗi bên hợp lực với nhân dân của hai nước kia để chiến đấu và đưa lại thắng lợi, đồng thời hoàn thành nghĩa vụ lịch sử cao quý trước mỗi nước chúng ta và trước phong trào cách mạng của thế giớí. Các quan hệ giữa Việt Nam và Lào đã trở thành những quan hệ đặc biệt rất trong trắng, khắc sâu với một lòng trung thành gương mẫu và hiếm có mà càng ngày càng được củng cố và phát triển". Chắc chắn là Đôm-men sẽ xem diễn văn này chẳng hơn gì một chư hầu ca tụng chủ của mình tại triều đình. Tuy vậy, như chúng ta sẽ thấy diễn văn của Cay-xỏn có lẽ là một ví dụ hiếm có của những lời lẽ chính trị nói lên những niềm tin thực sự.
    Phần lớn các bài phê bình ?omối quan hệ đặc biệt? Lào-Việt Nam cho rằng có một sự ?ođối kháng? tự nhiên giữa chủ nghĩa quốc gia Lào và chủ nghĩa quốc gia Việt Nam, và liên minh giữa hai nước bao hàm sự lệ thuộc của Lào vào Việt Nam. Phần lớn điều này đã không được dựa vào những quyết đoán mập mờ về những ?ođối kháng lịch sử" giữa hai nước và những bất đồng chủng tộc, nhưng không có ai thực sự tranh luận quan điểm này một cách đầy đủ, chi tiết, và cũng giống như nhiều vấn đề khác, nó vẫn là mọt giả định ?ocoi như là điều dĩ nhiên?.

Chia sẻ trang này