1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

tài liệu về bản chất và hậu quả của chiến tranh Việt Nam(1954-1975) gấp gấp

Chủ đề trong 'Hỏi gì đáp nấy' bởi martin, 21/04/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. martin

    martin Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/08/2003
    Bài viết:
    1.704
    Đã được thích:
    0
    tài liệu về bản chất và hậu quả của chiến tranh Việt Nam(1954-1975) gấp gấp

    gấp lắm gấp lắm , chỉ trong tối nay thôi , qua sáng mai là hết hạn rồi
    ai có hay biết ở đâu có thì chia sẻ với
  2. martin

    martin Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/08/2003
    Bài viết:
    1.704
    Đã được thích:
    0

  3. NCD

    NCD Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/04/2002
    Bài viết:
    7.059
    Đã được thích:
    1
    Cho đồng chí mấy cái link luôn, chịu khó tra cứu nhé
    1.Chiến tranh VN 1954-1959
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam_%28mi%E1%BB%81n_Nam%2C_1954-1959%29
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam_%28mi%E1%BB%81n_B%E1%BA%AFc%2C_1954-1959%29
    2.Giai đoạn 1960-1965
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam_%28mi%E1%BB%81n_Nam%2C_1960-1965%29
    3.1965-1968
    http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_T%E1%BA%BFt_M%E1%BA%ADu_Th%C3%A2n
    4.1968-1972
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_Paris
    5.1972-1975
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh
  4. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    Cái này em lấy được bên Lịch sử - Văn hoá (lâu rồi nên quên mất người viết là ai), không biết có liên quan gì đến vấn đề của bác không.
    Để chấm dứt chuỗi bài tranh luận của tôi trong một chủ đề đã quá dài và đã không còn ý nghĩa trao đổi, học hỏi, xin được tổng kết lịch sử cuộc chiến 30 năm của Việt Nam theo một lịch trình sự kiện thời gian. Tuỳ theo các giác độ, mỗi người có quyền cảm nhận và đánh giá các sự kiện theo trình độ tri thức và nhãn quan riêng của mình. Do hiện đang ở một nơi rất xa với cái thư viện nho nhỏ ở nhà, nên không thể dẫn chứng một cách chính xác về nguồn tư liệu trích dẫn các thông tin viện dẫn, vì vậy, sự nhầm lẫn về các mốc thời gian là có thể phát sinh. Xin được sơ lược về một lịch sử:
    - 1941, Hồ Chí Minh trở về Việt Nam sau hơn 30 năm lưu lạc ở nước ngoài, viễn du qua 23 quốc gia, thông thạo 6 ngoại ngữ phổ cập, và nghiên cứu một cách sâu rộng các luồng tư tưởng Đông Tây và tình hình thế giới.
    - Ngay khi thế chiến xảy ra, gần như ngay lập tức, HCM đã xác định vị thế đứng của phong trào cách mạng dân tộc Việt Nam: Phải đứng trong hàng ngũ đồng minh trong cuộc chiến chống phát xít. Sự nhạy cảm chính trị cộng với tư duy thực tế của một người từng đã đến nước Mỹ, nước Đức, nước Nga, nước Anh và nước Pháp giúp ông hiểu rằng, phát xít không thể thắng trong một cuộc chiến đường trường, và điều cần làm là phải đặt Việt Nam trong con thuyền của những người chiến thắng.
    - 1941-1942, vị trí lãnh tụ của HCM được khẳng định đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của người Việt Nam. Uy tín của Nguyễn Ái Quốc trong những năm tháng xa quê hương cộng với sự trợ giúp đắc lực của người Pháp trong việc tiêu diệt phần lớn những lãnh tụ cộng sản như Trần Phú... trong thời kỳ 1930 - 1940 đã giúp Hồ Chí Minh không mấy khó khăn khi khẳng định được vai trò đứng đầu của mình. Một lần nữa, lịch sử Việt Nam đã may mắn khi người Việt nam có cơ may có được một lãnh tụ tài năng kiệt xuất, và với ít sự chia rẽ, mà nếu có, sẽ gây không ít khó khăn trong đoàn kết sức mạnh dân tộc.
    - 1942 - 1943, trong một sự rủi ro không may, và là một sự thử thách cuối cùng của số phận với HCM, ông bị chính quyền Tưởng Giới Thạch cầm tù hơn 1 năm. Thời gian đó đủ dài để làm yếu đi sức mạnh của phong trào cách mạng Việt Nam, nhưng cũng là đủ lớn để HCM ghi một dấu ấn vào lịch sử với vai trò của một thi nhân: Tập thơ Nhật ký trong tù, một đỉnh cao về thi ca, phảng phất dấu ấn của một vĩ nhân, với tinh thần thép và hoài bão lớn đối với đất nước.
    - Năm 1944, Hồ Chí Minh thoát ngục tù, trong một ván bài chính trị khéo léo, ông đã chơi nước đôi với Trương Phát Khuê và Tiêu Văn (Hai cánh tay tin cậy của Tưởng) và gây nên một niềm tin ảo tưởng ở cả hai nhân vật này về cái ý tưởng có thể lợi dụng HCM phục vụ cho quyền lợi của TQ ở Việt Nam. Câu nói cuối cùng của HCM khi chia tay Tiêu Văn: "Tôi đã nói với ông tất cả 99% sự thật về tình hình chính trị Việt Nam, chỉ còn 1% là chưa nói". Nhưng chính cái 1% ấy lại là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại trong ý đồ thành lập một chính phủ thân Tưởng trong mưu đồ thôn tính Việt Nam sau này.
    - "Lịch sử nước nam" - Một trước tác văn vần, liệt kê một cách khái quát về lịch sử Việt Nam của Hồ Chí Minh, ra đời đầu năm 1944. Trong đó câu cuối cùng phản ánh một sự tiên tri có tính huyền thoại: "năm 1945, nước Việt Nam độc lập".
    - Mùa đông năm 1944, Hồ Chí Minh lâm bệnh thập tử nhất sinh, trong một phút tỉnh táo hiếm hoi giữa các cơn sốt, phân tích tình hình chính trị thế giới khi thế chiến sắp kết thúc, nói với hai đồng sự thân cận, HCM khẳng định: "Thời cơ đã đến, bây giờ dẫu có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết phải giành cho được độc lập". Ít tháng sau, Tổng khởi nghĩa thành công trên phạm vi toàn quốc. Người Việt Nam lần đầu tiên sau 80 năm có một chính phủ đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của mình.
    - Ngày 2/9/1945, Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, được long trọng đọc trong sự chờ đón của hàng triệu người Việt Nam.
    - 1945 - 1946, chính phủ HCM tồn tại như một huyền thoại. Đó là chính phủ duy nhất trong lịch sử mà các viên chức của nó hoạt động tình nguyện không nhận lương, và sự tồn tại của chính phủ cũng như mọi quyết sách là nhờ sự đóng góp tài chính, nhân lực của người dân Việt Nam một cách tự nguyện.
    - Tháng 3/1945, Người Pháp theo chân Anh quay trở lại Sài Gòn. Súng nổ ngay từ những ngày đầu. Nước Pháp quyết tâm tái chiếm thuộc địa.
    - 3/1945 - 12/1946, Mỹ, quốc gia duy nhất có khả năng và có tiềm lực để quyết định số phận Đông Dương, đứng khoanh tay, trong một chính sách căn bản: "tránh khỏi đông dương". Trong khi đó, người Pháp, với thế mạnh vượt trội về quân sự, kinh tế và khoảng cách thời đại về nền văn minh, lần lượt gây hấn, tái chiếm Nam Bộ, tái chiếm Hải Phòng và một loạt tỉnh thành khác.
    - Mùa đông năm 1946, sau một loạt thất bại trong đàm phán ngoại giao, chiến tranh toàn diện bùng nổ giữa một bên là chính phủ HCM quyết tâm giữ vững độc lập, và một bên là nước Pháp, khao khát tái chiếm thuộc địa và kiêu căng trong thế mạnh vượt trội.
    - 1/1946, nước Mỹ chính thức khẳng định thái độ ủng hộ Pháp, bằng việc phê chuẩn chuyển giao số khí tài chiến tranh của Anh, được Mỹ trang bị theo chương trình Lend - Lease cho quân đội Pháp tại Sài Gòn. Lưu ý rằng lúc này thế chiến đã hoàn toàn kết thúc, và không có lý do nào để biện minh trong hành động trang bị cho quân đội Pháp tại Đông Dương, ngoài việc ủng hộ cuộc chiến tái chiếm Việt Nam của người Pháp.
    - 12/1946 - 12/1949, người Việt Nam, dưới ngọn cờ HCM chiến đấu một cách huyền thoại trong rừng núi phía bắc và mọi vùng nông thôn: Không đồng minh, không một sự công nhận, không nguồn viện trợ tiếp tế từ bên ngoài, không công nghiệp quốc phòng nhưng lực lượng ********* càng lúc càng phát triển.
    - Nước Mỹ hoàn toàn đứng về phía người Pháp. Thông cáo bộ ngoại giao Mỹ ngày 13/04/1947 khẳng định: "Chúng ta (Mỹ) cần phải hiểu rằng, trong trường hợp này lợi ích của thế giới phương tây (gồm Mỹ) là đồng nhất.... Chúng ta nhất thiết phải cùng hội cùng thuyền với người Anh và người Pháp ở Đông Dương và Đông Nam Á...". Viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp tại Đông Dương liên tục tăng. Vào thời kỳ đỉnh cao, nó chiếm tới trên 80-% chiến phí của người Pháp tại Đông Dương (năm 1953, 1954).
    - Năm 1950, Hồ Chí Minh phá thế cô lập về ngoại giao. Trung Hoa dân quốc rơi vào tay Mao, ông Hồ lên đường công du bí mật Bắc Kinh và Matxcova. Chuyến đi của ông được đền đáp, Stalin và Mao cam kết viện trợ trang bị cho 6 đại đoàn *********. Lần đầu tiên, người Việt Nam có được một nguồn viện trợ súng ống từ bên ngoài cho cuộc kháng chiến giành độc lập trước người Pháp, vốn vẫn đã và đang được Mỹ trang bị đầy đủ. Lần đầu tiên, quân đội nhân dân Việt Nam có điều kiện loại bỏ một thứ vũ khí có từ thời trung cổ: Cây mác búp đa, khỏi trang bị của lính xung kích.
    - Ngay sau đó, người Pháp gánh chịu một thảm bại cay đắng, lớn nhất tại thuộc địa kể từ sau thất bại Quebech năm 1873: Hai binh đoàn cơ động Pháp (5000 quân chính quy) bị tiêu diệt, người Pháp mất Lạng Sơn, Cao Bằng và sáu tỉnh phía Bắc đồng bằng Bắc Bộ. Tâm lý thất trận lan tràn trong quân đội Pháp tại Đông Dương.
    - 1951, danh tướng De Lat nhậm chức, vực dậy được tinh thần của quân đội viễn chinh, nhưng không giành được lợi thế trước đối thủ kiệt xuất là Tướng Giáp. Cuộc đấu trí giữa Giáp và De Lat diễn ra cam go, De Lat rút về cố thủ đồng bằng, dựng lên phòng tuyến nổi tiếng tốn kém và vô dụng: hệ thống Boongke De Lat. Cuối năm 1953, De Lat mất toàn bộ vốn liếng trong cuộc chiến Đông Dương: Đứa con trai duy nhất và thất bại tại Hoà Bình. Ông ta chết vì ung thư trước khi quân Pháp phải chạy khỏi Hoà Bình ít ngày.
    - 1950 - 1953, tình hình chiến sự diễn ra ngày càng bất lợi. Nước Pháp tìm kiếm một lối thoát cho chiến tranh, tìm cách san xẻ bớt sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam cho chính phủ Hồ Chí Minh. Giải pháp Bảo Đại ra đời. từ 1949 cho đến 1953, theo sự bình luận của J.F Kennedy (TT Mỹ sau này), nước Pháp đã 3 lần long trọng trao độc lập đầy đủ và hoàn toàn cho chính phủ Bảo Đại. Câu hỏi Kennedy đặt ra và không có câu trả lời: "Tại sao lại phải những 3 lần?" ai cũng hiểu, bởi chẳng có lần nào là sự thật. Trong khi đó, tại Paris, khi Bảo Đại có một hành động hân hoan hơi quá trớn sau khi được trao trả độc lập lần 3, các vị bộ trưởng Pháp tuyên bố: "Tay này (Bảo Đại) đã bắt đầu bất chấp cả chúng ta.". De Lat, La Lande, Na Va hơn một lần tuyên bố: Sẽ là phi thực tế nếu viện trợ của nước Mỹ được rót vào Đông Dương mà không thông qua người Pháp. Trong nhiều năm, chính thể Bảo Đại tồn tại trên giấy với không quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, quân đội và nguồn thu tài chính.
    - 1954, trong một nỗ lực đỉnh cao về tập trung sức người, vật chất và nghệ thuật chiến tranh, người Việt Nam giành thắng lợi vang dội tại Điện Biên Phủ. Nỗ lực chiến tranh cuối cùng của nước Pháp chấm dứt, nước Pháp bại trận, ký hiệp định Gieneve và rút khỏi Việt nam.
    - 1954 - 1956, nước Việt Nam đứng trước một cơ hội hoà bình hiếm hoi về hy vọng một cuộc tuyển cử thống nhất đất nước. Ngô Đình Diệm, trước sự ủng hộ triệt để của người Mỹ, thâu tóm quyền lực thông qua một cuộc bầu cử gian lận nực cười, và hùng hồn tuyên bố: "Tôi không ký hiệp định Gieneve, ai ký, người đó thi hành". Người Việt Nam bị tước mất cơ hội hoà bình hiếm hoi.
    - 1956 - 1963, Diệm vật lộn với phong trào tố cộng diệt cộng toàn miền nam. Khủng bố đạt đến mức cao với trên 42.000 người bị thủ tiêu bí mật hoặc hành quyết không cần xét xử mỗi năm. Hà Nội cố gắng cứu vãn bằng một giải pháp ngoại giao. Thực tế rằng cuộc chiến suốt những năm 1956-1963 ở miền Nam gần như là một phong trào tự phát của những người kháng chiến cũ ở miền Nam. Jonh Pon Van, một nhân vật cao cấp thứ 3 của Mỹ tại Việt Nam (sau Westmollen và đại sứ Mỹ) trong một báo cáo tổng kết về sự phát triển của phong trào đấu tranh tại miền nam năm 1965 đã miêu tả: Thực tế chính sự khủng bố tàn khốc của Diệm đã dẫn tới sự đấu tranh ngày một mạnh khắp của nông dân miền nam. Những người kháng chiến cũ bị chết rất nhiều, nhưng con số ít ỏi 2000 người còn lại đã trở thành một hạt nhân không thể tiêu diệt được. Họ nhanh chóng phát triển lên đến con số 23.000 vào khoảng những năm 1960, và tăng gấp đôi lên 46.000 khi trận Ấp Bắc xảy ra. Nguồn tiếp tế và chi việc của họ, không phải đến từ miền Bắc, mà là chính từ nguồn vũ khí dồi dào người Mỹ viện trợ cho quân đội quốc gia, bị đánh cắp, mua lại hoặc bị cướp đoạt trong các trận chiến du kích. Mãi tới cuối năm 1963, lần đầu tiên, Hà Nội cho chuyển súng lớn và các đơn vị chủ lực vào mặt trận miền nam. Nỗ lực chậm chễ của họ, một phần vì việc xây dựng tuyến đường Trường Sơn đòi hỏi rất nhiều thời gian, điều thứ hai, họ muốn giành thời gian phát triển các nguồn lực hạn chế của miền Bắc, và quan trọng là, vẫn tìm cách có một giải pháp ngoại giao để có thể kết thúc cuộc chiến với ít tổn thất nhất. Ngoài ra, Hà Nội cũng không thể trì hoãn thêm, nếu không muốn những người kháng chiến ở miền Nam tự phát tách khỏi sự điều khiển và tiến hành một mình cuộc kháng chiến đang tỏ ra trên đà thắng lợi, điều đó sẽ làm xói mòn tính thống nhất của Việt Nam vốn được ghi trong hiến pháp của Hà Nội.
  5. Pagan

    Pagan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/08/2004
    Bài viết:
    3.118
    Đã được thích:
    1
    - 1963 - 1965, chiến sự nhanh chóng phát triển đến một tầm mức cao. Với sự nỗ lực gia tăng của chính phủ Hồ Chí Minh, và sự lớn mạnh không ngừng của phong trào giải phóng miền nam, giờ đây đã được chi viện hữu hiệu, quân đội cộng hoà nhanh chóng thất bại và tan rã từng mảng. Chính thể VNCH không thể tồn tại thêm nếu thiếu sự tham chiến trực tiếp của người Mỹ. Không còn hy vọng vào sự tự tồn tại của một chính thể không được lòng dân, để duy trì ảnh hưởng và quyền lợi của nước Mỹ tại VN và ĐNÁ, nước Mỹ không còn con đường nào khác là trực tiếp nhảy vào vòng chiến. Điều đó diễn ra vào thời gian năm 1965.
    - 1965, trận đụng độ đầu tiên giữa chủ lực Bắc Việt và thuỷ quân lục chiến Mỹ diễn ra tại Ia Drang, 235 sinh mạng Mỹ tổn thất trong hai ngày, cộng với số bị thương gần 400 người. Quân đội Mỹ mất gần 2 tiểu đoàn chiến đấu trong trận chiến. Số người chết của Bắc Việt lớn hơn thế bởi người Mỹ đã sử dụng cả B52 trong chi viện cho lục quân trong trận đánh này, tuy nhiên, điều quan trọng ở đây, chủ lực Hà Nội đã chứng minh được: Lục quân Mỹ có thể bị đánh bại và tiêu diệt khi giáp chiến mặt đối mặt, dù rằng cái giá về sinh mạng phải trả là lớn hơn. Điều đó sẽ làm xói mòn niềm tin của Mỹ trong chiến tranh.
    - 1965-1967, nước Mỹ tiếp tục nỗ lực tiến hành chiến tranh, cuộc chiến được mở rộng ra miền Bắc. Với một cái cớ được giàn dựng, Mỹ ném bom huỷ diệt Bắc Việt, mục tiêu thực sự là để khuất phục Hồ Chí Minh, bởi người Mỹ cho rằng ông không còn là một người nổi dậy không còn gì để mất, mà phải bảo vệ thành quả ít ỏi đã xây đắp trong mấy năm qua ở Hà Nội. Người Mỹ lầm, HCM không phải là người non gan, và điều quan trọng là, đối với vị lãnh tụ này và với mọi người Việt Nam: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Người Mỹ, quen đánh giá mọi thứ trên đồng Dolla đã không hiểu và không muốn hiểu điều đó. Nhà báo Mỹ Ellberd, được tạo điều kiện đi khắp miền Bắc đã viết trên Wasington Post vào năm 1968: "Hầu như không thấy một sự suy giảm nỗ lực chiến tranh nào ở miền Bắc, sau những cuộc không kích khủng khiếp của không quân Mỹ. Những cố gắng tiến hành chiến tranh của đất nước này là gần như không có giới hạn". Trong lúc đó, Krulak, tư lệnh hải quân Hoa Kỳ lên một bản báo cáo: "Hà Nội có thể hy sinh trong cuộc chơi chết chóc này nhiều người hơn Hoa Kỳ. Hà Nội có ở miền Bắc một lực lượng dự trữ quân sự 2.600.000 người, và nếu lấy tỷ lệ 1 lính Mỹ chết đổi lấy 5,3 lính Bắc Việt, một con số được đánh giá là lạc quan, thì cũng phải chết 10.000 lính Mỹ để làm suy giảm tiềm lực quân sự của Bắc Việt chưa đến 3%". Con số này gây ấn tượng với Mỹ, nhưng nước Mỹ chưa từ bỏ mọi nỗ lực chiến tranh.
    - Năm 1968 đánh giá một nỗ lực đỉnh cao đối với cả hai bên tham chiến. Nước Mỹ đưa vào Việt Nam một số quân kỷ lục trên 520.000 người cộng với số quân Nam triều Tiên và một số chư hầu lên tới con số 90 vạn quân. Lực lượng này, nếu như theo Westmollen là đủ lớn để tiến hành tiêu diệt 28 vạn quân của mặt trận giải phóng miền nam đang có. Đúng lúc đó, Hà Nội giáng một đòn mạnh mẽ bằng cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân. Cuộc tấn công gây ra một sự kinh hoàng về khả năng tiến hành chiến tranh của Việt Nam, quân Mỹ tổn thất nặng nề, mặc dù tổn thất của Hà Nội là nhiều lần hơn thế. Cuộc chiến kết thúc với việc Mỹ tiếp tục củng cố được chỗ đứng tại Việt Nam, nhìn bề ngoài, hình như họ đã thắng, nhưng thực tế, điều quan trọng về mặt chiến lược Hà Nội đã làm được: "Dù ngay cả khi Mỹ đã tăng cường nỗ lực đạt đến đỉnh cao trong những năm chiến tranh Việt Nam, Hà nội vẫn có khả năng giáng cho họ những đòn mạnh mẽ, và điều quan trọng là, cuộc chiến sẽ tiếp tục là một cuộc chiến tiêu hao kéo dài khủng khiếp với nước Mỹ, và không nhìn thấy được ngày kết thúc. Ý chí tiến hành chiến tranh của nước Mỹ bị đánh quỵ kể từ Mậu Thân 1968".
    - Từ 1968 - 1972, nước Mỹ từng bước tìm kiếm lối thoát, triệt thoái dần quân Mỹ, tăng cường trang bị cho quân VNCH, nhưng điều đó tỏ ra không hiệu quả, đặc biệt sau trận đụng độ của chiến dịch đường 9, nam Lào. Sư 308 của Bắc Việt đã giáng một đòn chí tử vào lực lượng ưu tú nhất của VNCH, thực tế cho thấy, đội quân này không có khả năng chiến thắng.
    - Về mặt kinh tế, từ 1960 - 1972 là 12 năm ác mộng đối với nền kinh tế Mỹ. Theo thống kê của Viện nghiên cứu kinh tế Đông Dương, cơ quan trực thuộc BQP Mỹ, thì tính đến tháng 8/1971, nước Mỹ đã tiêu tốn ở Việt Nam 220 tỷ USD chiến phí trực tiếp. Mỹ đã dội xuống Việt Nam hơn 7 triệu tấn bom; 7,6 triệu tấn đạn các loại và trên 70 triệu lít chất độc hoá học. Nền kinh tế Mỹ bị xói mòn, liên tục là các giải pháp tăng thuế, và dân Mỹ trở nên nghèo đói. Jonhson thú nhận năm 1965: "Thực tế là nước Mỹ đang nghèo đi, và chúng ta phải chấp nhận một thực tế là có nhiều người Mỹ đang đói ăn. Nhiều, rất nhiều nam và nữ thanh niên Mỹ đang đói ăn. Mặc dù chúng ta có thể bàn cãi về quy mô của nạn đói, nhưng chúng ta phải chấp nhận một thực tế là nó đang tồn tại" và theo một viện nghiên cứu của Anh, thì thời điểm đó, có đến 15 triệu người Mỹ lâm vào tình trạng sinh hoạt không đầy đủ. Sự hưng phấn do tăng trưởng dựa vào sự gia tăng chi tiêu quốc phòng trong hai năm 1964, 1965 nhanh chóng qua đi. Nền công nghiệp Mỹ tỏ ra không thể đáp ứng cùng lúc cả nhu cầu sản xuất chiến tranh và nhu cầu thời bình đang ngày càng tăng ở một nước Mỹ ưa hưởng thụ. Tình trạng quá tải buộc Mỹ phải nhờ tới các nền kinh tế phụ thuộc như Nhật Bản đảm trách giúp một phần nhu cầu sản xuất quốc phòng. Nhật có được một cơn gió thần kỳ nhờ xuất hàng cho Mỹ, và nước Mỹ nhanh chóng lâm vào tình trạng nhập siêu với Nhật. Nước Nhật tận dụng rất tốt cơ hội này, và Mỹ không bao giờ còn xuất siêu với Nhật trong những năm sau này được nữa. Cán cân thanh toán của nước Mỹ nhanh chóng xấu đi. Nước Mỹ ngày càng phải chi nhiều tiền hơn, và số Dolla giấy phát hành vượt quá nhiều lần số vàng trong kho dự trữ của nước Mỹ. Tìm kiếm lối thoát bằng tăng thuế hàng nhập khẩu, lập tức các đồng minh thân cận là khối Tây Âu hợp sức trong một nỗ lực kháng cự. Tình hình kinh tế trở lên bi đát, các tay săn vàng theo đúng nghĩa của từ này giữ một khối lượng Dolla giấy lớn gấp 3 lần số lượng vàng dự trữ của Mỹ, và tìm mọi cơ hội săn số vàng dự trữ này. Cuộc chiến mậu thân 1968 giáng một đòn nặng nề khiến kinh tế Mỹ không thể cầm cự lâu thêm. Mỹ buộc phải tuyên bố từ bỏ đảm bảo vàng cho Dolla, một sự suy yếu cực kỳ lớn của tiền tệ Mỹ kể từ thế chiến thứ hai.
    - Nhân lực của nước Mỹ bị xói mòn, tổn thất về số phi công bị giết và bị bắt trên bầu trời Hà Nội trở nên không thể bù đắp kịp, vì việc đào tạo rất tốn thời gian và chi phí. Số Hạ sỹ quan và Sỹ quan cũng trở nên thiếu thốn. Trong nỗ lực tiến hành chiến tranh đỉnh cao trong năm 1968, nước Mỹ kinh hoàng nhận thấy rằng trong số 18 sư đoàn đóng ở chính quốc Mỹ (Mỹ có 27 sư đoàn chiến đấu, 7 tại Việt nam, 5 tại Tây Âu và một số lực lượng rải rác cỡ 2 sư đoàn tại Thái Lan, Philipin) không có sư đoàn nào được huấn luyện đầy đủ để đối phó với tình trạng khẩn cấp nếu có chiến tranh. Người ta đặt câu hỏi: "Nếu giả sử Thái Lan có chiến tranh thì nước Mỹ lấy đâu ra người?"
    - 1960-1972 cũng là 12 năm đánh giá một chặng đường buồn trong quan hệ của Mỹ với các Đồng Minh. Tìm mọi cách quốc tế hoá cuộc chiến Việt Nam. Nhưng không một đồng minh lớn nào của Mỹ tỏ ra rằng có sự quan tâm. Thành ra, cuộc chiến Việt Nam là một sự trình diễn đơn phương của Mỹ với một vài đồng minh nhược tiểu như Nam Hàn, Thái Lan... Khác với cuộc chiến Triều tiên, Mỹ đã lãnh đạo một lực lượng quốc tế lớn để tham chiến. Lần này đã khác, người Anh, người Pháp, người Đức, Nhật Bản và nói chung là toàn thế giới khao khát được thấy lần đầu tiên nước Mỹ bị xói mòn bởi chiến tranh, thay vì ngồi nhìn và hưởng lợi như trong hai cuộc đại chiến, và chỉ nhảy vào vào giờ chót. Thực tế thì trong các cuộc chiến lớn, nước Mỹ gần như là một công xưởng nguyên vẹn duy nhất sản xuất theo đơn đặt hàng của toàn thế giới, và thu được vàng, tài nguyên của mọi quốc gia. Giờ đây người ta thấy rằng Nhật và một số nước đang đảm nhận vai trò đó cho Mỹ. Và trong lúc hệ thống vận tải, tài chính, Công nghiệp Mỹ đang bận rộn tập trung cho các đơn đặt hàng của Bộ Quốc Phòng, thì các hãng Nhật Bản và Tây Âu nhanh chóng kiếm chác được các hợp đồng béo bở ngay trên đất Mỹ để phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng của Mỹ. Đó là một sự chảy máu con tim, làm suy yếu tiềm lực của người Mỹ. Và dễ hiểu tại sao người Anh ngồi im, người Đức ngồi im và người Pháp, đương nhiên ngồi im khi đã nếm trải quá đủ trái đắng. Các nước văn minh này khôn và chờ đợi cơ hội để hồi phục trình độ văn minh của châu Âu cho ngang bằng nước Mỹ.
    - Cố gắng của người Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam ngày một suy giảm. Nó như một ngọn nến bùng lên trong 12 ngày cuối năm 1972, với một cuộc ném bom huỷ diệt tàn bạo nhất lịch sử loài người, với tổng sức công phá vượt hàng chục lần những trái bom nguyên tử ném xuống đất Nhật, người Mỹ thất bại. Đàm phán và rút lui. Bỏ lại chính thể VNCH trong sự thất bại không thể đảo ngược được. Lê Đức Thọ nói với Henry Kissinger tại Paris: "Với hơn một triệu quân Mỹ và chư hầu trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, và đã thất bại, các ông còn có thể hy vọng gì ở cơ may chiến thắng?" Đương nhiên, không có câu trả lời. Và theo cách nói của người Mỹ: "I''ve had enough". Nước Mỹ đã có quá đủ.
    - 1972 - 1975, Trung Quốc bộc lộ rõ ý đồ kiềm chế Bắc Việt, trong phương châm duy trì tình trạng chia cắt của Việt Nam như Triều Tiên để dễ bề chi phối. Đặng chấm dứt viện trợ cho Bắc Việt Nam, và Matxcova, trong các ván bài mặc cả với Mỹ ở Trung Đông, cũng chấm dứt việc viện trợ khí tài quân sự hiện đại cho Hà Nội. Bằng một cố gắng chiến tranh phi thường, và trước đà bại vong không cản nổi của chính quyền VNCH. Miền Bắc giải phóng thống nhất đất nước trong tháng 4/1975. Cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt với tất cả các bên tham chiến.
    - Trong một cố gắng kỳ diệu, người Việt Nam đã đánh bại một lực lượng xâm lược mạnh nhất lịch sử, mà thời kỳ đỉnh cao của nó, lên tới gần 1 triệu người (năm 1968). Phải đương đầu với một khối lượng vũ khí huỷ diệt cao hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào đã từng xảy ra trong lịch sử: Hơn 7 triệu tấn bom, hơn 7,6 triệu tấn đạn, hơn 70 triệu lít chất độc hoá học mà sức huỷ diệt tương đương với hơn 1000 quả bom nguyên tử đã được ném xuống đất Nhật, và tính trung bình, một người Nam Việt Nam (khoảng 15 triệu trong chiến tranh) phải gánh chịu gần 3 kg chất độc hoá học (nguồn của BQP Mỹ, Viện nghiên cứu kinh tế Đông Dương). Thống kê trên là mới chỉ tính đến tháng 8/1971, và chưa tính đến nỗ lực chiến tranh của Mỹ trong năm 1972 và đặc biệt là 12 ngày đêm huỷ diệt bầu trời Hà Nội cuối năm. Người Việt Nam, đã sử dụng một lượng vũ khí ít hơn thế vài chục nghìn lần, không một trái bom, không một tàu sân bay, không một gram chất độc hoá học, mà cộng chung sức huỷ diệt vũ khí chưa được vài nghìn tấn, nhưng Việt nam đã thắng, và nước Mỹ đã buộc phải tháo chạy, để lại một vết thương lâu dài đối với niềm tự hào Mỹ.
    - Năm 1965, theo hồi ký của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp - "Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng", Hồ Chủ Tịch đưa cho Giáp một bài báo cắt ra từ báo chí phương tây, đăng hình chiếc máy bay ném bom chiến lược B52 và nói: "Đế Quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhưng trước khi thua ở Triều Tiên, chúng ném bom huỷ diệt Bình Nhưỡng, ở Việt Nam, chúng cũng chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội" Lời tiên đoán định mệnh và sáng suốt này đã làm nên nỗ lực chiến tranh huyền thoại của Việt Nam: Bằng những vũ khí cổ lỗ mà Mỹ đã nắm được hết tính năng, người Việt nam đã huỷ diệt 15% (số liệu Mỹ) đến 32% (số liệu VN) lực lượng không quân chiến lược toàn cầu của nước Mỹ. Đó là một đòn chảy máu con tim, dù rằng sự huỷ diệt phải chịu đựng là nặng nề.
    - Sau năm 1975, nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Và lịch sử đã ghi nhận có một nước Việt Nam bình đẳng tại LHQ trong năm 1977, và lịch sử lại ghi nhận tiếp tục một nước Việt nam đang tồn tại, và đang phát triển trong ngày hôm nay, dù rằng vẫn còn chưa vượt qua được nhiều căn bệnh trầm kha cần phải đương đầu. Nhưng, người ta có quyền tin vào một tương lai Việt nam, nhất là khi, người Việt Nam lại một lần nữa gặp lại người Mỹ, nhưng là trong tư thế bình đẳng và ngẩng cao đầu.
  6. deckelrand

    deckelrand Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/04/2006
    Bài viết:
    801
    Đã được thích:
    132
    Bác vào đây thử xem. Hơi dài, đến 14 trang, tại tranh luận rất nhiều, nhưng cũng đáng đọc.
    http://www2.ttvnol.com/f_533/595179.ttvn
  7. martin

    martin Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/08/2003
    Bài viết:
    1.704
    Đã được thích:
    0
    vâng cảm ơn các bác rất nhìu , tôi đang đọc và tổng hợp lại thông tin

Chia sẻ trang này