1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tài liệu về những anh hùng tình báo

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi kienpc, 29/07/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhà văn Vũ Bằng-Người tình báo mang bí số X10
    Năm 1954, với chiến dịch tuyên truyền của thực dân Pháp, một số người miền Bắc đã lên tàu di cư vào Nam. Trong đám người hỗn loạn và đầy hoảng sợ ấy có nhà văn nổi tiếng Vũ Bằng. Biết bao bạn bè và những người thân đã không giữ ông ở lại Hà Nội được. Ông đã lặng lẽ ra đi. Từ lúc ấy cho đến mãi sau này, rất nhiều người nghĩ ông là kẻ phản bội. Ông đã sống trong mất mát, thiếu thốn, đau khổ và cô đơn để hoàn thành nhiệm vụ của một chiến sĩ tình báo trong mấy chục năm trời. Trước khi khắc khoải chờ đợi sự minh chứng: VŨ BẰNG LÀ MỘT CON NGƯỜI CHÂN CHÍNH
    Quả thật lịch sử không bao giờ bị che lấp mãi. Còn bao nhiêu chiến công thầm lặng của biết bao người anh hùng vô danh trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc mà chúng ta chưa từng được biết đến. Khi xem bộ phim tài liệu nói về sự thật chiếc xe tăng đầu tiên vào Dinh Độc Lập sáng ngày 30-4 lịch sử, tôi sung sướng đến lạnh người. Những sự thật mà chúng ta đang ngày được biết đến-những sự thật không bị chôn giấu-chính là hành động nhân cách của một nền văn hoá, của một dân tộc.
    Trên báo Văn Nghệ ra ngày 11-3-2000, tác giả Văn Giá đã mang đến cho chúng ta một tin vui: Nhà văn Vũ Bằng đã chính thức được công nhận là chiến sĩ tình báo cách mạng. Cục Chính trị, Tổng Cục II, Bộ Quốc phòng, đã ra văn bản xác nhận:
    ?oTheo báo cáo của đồng chí Hàn Ngọc Cẩm (tức Trần Văn Hội), nguyên đại tá, cán bộ Tổng Cục II, Bộ Quốc phòng, đã nghỉ hưu. Đồng chí Ba Hội là người trực tiếp xây dựng và sử dụng nhà văn Vũ Bằng từ năm 1952. Sau Hiệp định Genève 1954, nhà văn Vũ Bằng được chuyển vào Nam công tác. Anh Vũ Bằng vào Sài Gòn tiếp tục hoạt động với tư cách là cơ sở khai thác tin tức phục vụ tình báo cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng 30-4-1975.
    Đánh giá về Vũ Bằng: Anh là người trung thực, thẳng thắn, dễ mến và tin tức thu lượm được trong tầm tay của anh. Đặc biệt anh là người rất chu đáo, ý thức kỷ luật tốt.
    KT.Cục trưởng Cục Chính trị
    Phó cục trưởng
    Đại tá Hà Khắc Thái?.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhà văn Vũ Bằng tên thật là Vũ Đăng Bằng. Ông sinh năm 1914 tại Hà Nội trong một gia đình đông con. Bố ông mất sớm. Mẹ ông mở một hiệu sách nhỏ ở phố Hàng Da để kiếm tiền nuôi sáu đứa con. Mẹ ông ao ước sau này ông sẽ theo nghề y, nhưng ông đã đưa chân vào đường văn chương. Và ông đã chọn đúng nghề. Ông nổi tiếng vì văn chương rất sớm. Nhưng ông cũng là người ăn chơi khét tiếng trong giới văn chương ở Hà Nội lúc bấy giờ. Ở tuổi đôi mươi, ông đã nghiện thuốc phiện rất nặng. Ông hút thuốc phiện trong 5 năm. Thế mà sau đó ông đã dứt bỏ được con ma khủng khiếp ấy. Hình như cái gì ông muốn ông đều làm đến tận cùng: đã hút thuốc phiện thì hút ra trò, khi thấy phải bỏ thì bỏ cho bằng được và không bao giờ hút lại. Viết văn cũng vậy, đã viết thì viết cho hay, chỉ một món ăn cũng viết nên những áng văn đáng giá. Nghị lực của ông thật đáng kính phục. Sau khi bỏ thuốc phiện rồi, ông viết một cuốn tự truyện lấy tên là CAI. Trong cuốn tự truyện ấy, tôi lại thấy lòng dũng cảm của ông. Ông không hề che giấu con người ông. Trong cuốn CAI ông viết: ?oBao nhiêu tiệm trong thành phố tôi biết hết. Tôi la cà hết tiệm nọ đến tiệm kia. Không phải tôi giữ tiếng, không muốn cho ai thấy tôi ngày nào cũng hút. Không, tôi cần nhắc lại rằng, tôi không sợ xấu hổ vì hút thuốc phiện đâu. Trái lại, tôi thấy thế làm danh giá. Bao nhiêu nhà văn, nhà báo đi trước tôi đều biết làm dăm khói. Sao toi lại không dăm khói như họ? Tôi yên trí rằng không hút thuốc phiện không thể nảy ra văn được. Tôi hút. Tôi hút. Hình như trời lại giúp cho tôi hút nữa. Hồi đó tôi gặp nhiều sự may mắn về tiền nong. Lấy cớ rằng, phải viết nhiều mệt óc và cạn kiệt cả nguồn văn, tôi lại càng hút lắm. Tôi chưa đến nỗi phải chấm chiếu, nhưng tôi đã bắt đầu hút sái?. Và ông kết luận: ?oSau này suy nghĩ mãi, tôi mới biết rằng bê tha điếu thuốc sái, chỉ vì tự phụ?. Ông là người chân thành và sòng phẳng. Một con người hay một xã hội nếu không nói ra sự thật thì con người ấy, xã hội ấy chỉ biết sống trong u tối và lừa lọc. Có lẽ thế mà người ta tin văn ông, yêu văn ông và nhớ văn ông. Bạn đọc chân chính đã đối xử với tác phẩm của ông một cách sòng phẳng ngay cả khi hầu hết mọi người nghĩ ông là kẻ bỏ chạy. Có lúc người ta còn coi ông là kẻ phản bội.
    Tháng 10-1954, ông xuống Hải Phòng thực hiện một cuộc ra đi mà tôi nghĩ ông không mong đợi. Nhưng đối với ông cũng như đối với bao người Việt Nam khác: vì độc lập, tự do của dân tộc, họ sẵn sàng hy sinh cá nhân mình. Một người như ông thật khó mà sống xa Hà Nội. Chúng ta chỉ cần đọc THƯƠNG NHỚ MƯỜI HAI thì chúng ta biết tình cảm của ông với thành phố cố hương sâu nặng đến nhường nào. Và mùa đông năm 1954, năm hoà bình đầu tiên ở miền Bắc, ông rời hn. Ông đâu biết rằng, ông không còn dịp nào để trở lại nữa. Trong những dòng viết về cha mình, nhà giáp Vũ Hoàng Tuấn đã viết về cuộc chia tay ấy: ?oVào một ngày đầu đông, tôi được mẹ cho xuống Hải Phòng để gặp cha. Trên đường Bon-nan, hai cha con tôi đi bộ thong thả nói lời tiễn biệt. Tôi đòi theo cha vào Nam, cha tôi nói: Không, con không thể đi dược. Vào đó không học hành gì, một là đi lính, hai là sa ngã chơi bời vì vắng mẹ. Cha tôi cứ nắm chặt vai tôi khi tôi nài nỉ xin đi cùng. Cha tôi đã khóc và nói: Nếu chẳng may con vào đó có điều gì, cha biết ăn nói thế nào với bạn bè của cha? Tôi không hiểu hết câu nói của cha tôi. Trong bụng thầm oán giận cha mẹ. Lúc đó tôi đang chờ nhập học lại. Tôi đã học hết đệ nhị chuyên khoa, chờ sau hoà bình sẽ học lớp mười (lớp 12 bây giờ) và vào đại học. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là trong khi chờ nhà trường mở lại, tôi vào Nam hai năm sau lại ra mà thôi. Cha tôi ôm chặt tôi vào lòng, mắt người long lanh: Con còn trẻ, nước mình độc lập rồi, không lâu đâu, cha con gặp nhau. Tôi đâu có hiểu hết việc cha tôi ra đi, phải bỏ lại vợ con là vì nhiệm vụ lớn lao, dấn thân vào chốn hiểm nguy mà chỉ thấy oán giận cha?.
  3. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Em được đọc hồi ký của cụ Nguyễn Tài - tức Nguyễn Tài Khoái, họ hàng với nhà văn Nguyễn Công Hoan, trên trang nhà talawas. Không thấy ông Tài nhắc gì về chuyện mình bị tình báo Mỹ hay VNCH tra tấn, đánh đập gì. Ngược lại, ông được đối xử tử tế, nhiều khi tình báo Mỹ tiếp riêng ông mà không cho tình báo VNCH dính vào. Do đó, sau này, ông bị bên nội chính ta nghi ngờ mãi, phải đi minh oan suốt cả chục năm trời. Mà trong chính hồi ký của mình, ông Nguyễn Tài cũng nhận là ông có khai ra cho địch một số thông tin, nhưng lãnh đạo về sau này mặc dù có thông cảm hoàn cảnh nhưng vẫn chê. Nghe các bác bên Thành Đoàn hay bên Tổng cục Chính trị nói sao thì dân đen chúng em biết thế, chứ sự thực đằng sau các "anh hùng" thì ....
  4. MDB

    MDB Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2003
    Bài viết:
    947
    Đã được thích:
    0
    Nhiệm vụ của đại tá Thảo đâu phải là thu thập thông tin? Sự khác biệt là ông làm thay đổi chế độ. Vì vậy những thông tin tự ông thu thập, tự xử lý. Trước đây có bạn đã cho rằng tướng Nhạ, tướng Ẩn đều chỉ là những quân cờ tình báo, thì đại tá Thảo là vừa là quân cờ vừa là người chơi cờ. Chứ chả lẽ một người thông minh như ông mà lại không biết làm 1 mình, lại không có thế lực tình báo, nguy hiểm như thế nào sao?
    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ:
    Một bằng chứng nữa là Phạm Ngọc Thảo bị giết một cách mờ ám tại Tổng Nha Cảnh Sát hay An Ninh Quân Đội. Nếu là tình báo cộng thì có nhiều người còn gộc hơn cả Thảo Nguyễn Tài Khoái, Nhang Công Trang bị bắt mà còn được Trung ương Đặc ủy Tình báo VNCH giữ lại để moi và trao đổi thông tin với phe Cộng. Trong khi ấy, người ta cố tình giết Thảo 2 lần (một lần đem ra bắn tại vườn cao su, lần thứ nhì tại Tổng Nha CS) là để bịt miệng. Bí mật nào Thảo biết mà các phe phái muốn cho Thảo đem luôn xuống tuyền đài? Trong tình báo, mạng người có giá trị tương đương với thông tin mà người đó được biết. Một phe nào đó có thể thấy Thảo thuộc loại hết xài được và có thể bán thông tin bất lợi của mình cho các phe khác nên mới triệt Thảo. Nói cách khác, Thảo chỉ là quả chanh đã bị vắt hết vỏ rồi.
    [/QUOTE]
    Bác MDB lại quên rằng, đại tá Thảo tuy là người "bên kia" nhưng ông không làm nhiệm vụ thông tin nên làm gì có đồng đội hỗ trợ để khai đầu mối, có liên lạc về R đâu là có thông tin về phía bên kia. Vì vậy, không thể khai thác ông như những tình báo viên hay chỉ huy tình báo thông thường.
    Ông hoạt động độc lập, thông tin ông có được là người này người nọ cung cấp. Cái tài của ông là sử dụng những thông tin nội bộ để điều khiển theo ý đồ của cấp trên. Kẻ thủ tiêu ông vì do liên hệ của ông với các thế lực tình báo và chính trị khác nhau, đủ tạo cho ông một lớp sơn bóng loáng, trở thành người nổi trội rất nguy hiểm, có khả năng tranh giành địa vị với ...người ta.
    Một chút tóm tắt thời này (1963-1965). Bác MDB chắc cũng nhớ rõ cuộc đua chứ?
    Khởi đầu với Đôn, Đính, Kim, Xuân (minh chủ là tướng Big Minh), sau bị Khánh, Khiêm lật. Rồi Khánh hất Khiêm. Tướng Đức, Phát dứ Khánh lần 1, rồi Phát, Thảo dứ Khánh lần 2, cuối cùng Thiệu, Kỳ, Có hất Khánh. Thi chảnh, bị Kỳ hất ra ngoài. Có hơi "bóng loáng", lập tức bị Thiệu cho làm đại sứ. Rồi Kỳ, Thiệu kình nhau. Kết cuộc Thiệu thắng.
    Cũng lưu ý bác MDB luôn, "Được làm vua, thua làm đại sứ". Tướng Phát 2 lần đảo chính cũng chưa bị lên dĩa. Nhưng đại tá Thảo thì chiên xù ngay. Vì đại tá Thảo "thông minh quá hóa nguy hiểm" cho người ta.
    [/QUOTE]
    Nghe nhà bác thainhi nói bâng quơ thế thì Mộ gia biết là bác...chưa ******** báo bao giờ cả!
    Tình báo viên đơn tuyến, hay độc lập cỡ nào thì cũng phải liên lạc thường xuyên với cấp trên, và có nhóm hoạt động riêng của mình. Tay tình báo cự phách nhất của Liên xô thời thế chiến thứ hai tại Nhật là Richard Sorge (hình như bí danh là "Dàn Đại Dương Cầm Đỏ") bị bắt cũng vì tình báo Nhật phát hiện ra 2 người điện đài viên của ông này. Cỡ tép riu như Phạm Ngọc Thảo từ 1954 tới 1964, không thể nào trong 10 năm trời mà cấp trên chỉ vỗ vai phát "thôi nhớ, anh luyện cho chú xong rồi đấy, trong vòng 10 năm tới, chú hiểu ý anh rồi, cứ thế mà vô tư!".
    Phạm Ngọc Thảo trong truyện của Trần Bạch Đằng, trong phim của Lê Hoàng Hoa đi mây về gió, bá vai bá cổ Ngô Đình Nhu, nhảy đầm với Trần Lệ Xuân, vv.... Ngoài đời thực, Phạm Ngọc Thảo là một sĩ quan ********* chiêu hồi, lùn, lé, không loại trừ khả năng đã phải bán đứng nhiều đồng chí kháng chiến cũ của mình tại trung tâm chiêu hồi ********* (đọc thêm "Ông Cố Vấn") để được trọng dụng. Ông lần lượt kinh qua các chức vụ tỉnh phó an ninh, thanh tra quân đội, sĩ quan tham mưu viết bài cho tạp chí quân sự thời VNCH, rồi bị thất sủng với Ngô Đình Nhu nên bị đẩy đi học nước ngoài. Từ lúc được chính quyền Diệm dùng lại cho tới khi chết, ông không nằm ở vị trí nào để có thể ảnh hưởng tới chính sách của chế độ hay tới diễn biến chính trị chung. Ngay cả trong vụ đảo chính của tướng Lâm Văn Phát, Phạm Ngọc Thảo cũng chỉ là tay áp phe chính trị, là một tướng không có quân trong tay, mà chỉ đi xúi bẩy các sĩ quan khác. Do đó, vị trí của ông Thảo có lợi về mặt thu thập thông tin, chứ không phải là gây ảnh hưởng chính trị hay quân sự gì lên chế độ miền Nam. Các hành động của ông Thảo không phải là của một nhà tình báo chuyên nghiệp như Phạm Xuân Ẩn, hay thậm chí của một tép riu hơn là Đặng Trần Đức. Tất nhiên bây giờ những ông Phạm Ngọc Thảo, Vũ Bằng chết queo rồi thì ai nhận ngày ấy, giờ ấy cậu ta là "tình báo" của phe tớ thì ai biết chó vào đâu. CIA nó có bao nhiêu tay tình báo từ Bắc chí Nam nước ta thời ấy mà có bao giờ thấy nó hé răng nửa lời là thằng nọ thằng kia là điệp báo của tao đâu?
  5. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Cho nên bây giờ có kẻ cãi là họ đếch phải thế thì ai biết chó vào đâu. May mà ông Ẩn còn sống chứ ko thì cũng biết chó vào đâu được. Tuy nhiên nghì ngờ là quyền của nhà bác Mộ.
  6. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Tầm vóc nhà tình báo cách mạng Phạm Xuân Ẩn
    15:12'' 19/04/2005 (GMT+7)
    Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng càng tìm hiểu về Phạm Xuân Ẩn và đặt ông trong mối tương quan với các điệp viên hàng đầu trên thế giới, chúng tôi càng thấy kinh ngạc về tầm vóc của con người đã đạt đến "cảnh giới thượng thừa" trong nghề tình báo này.
    Phạm Xuân Ẩn.
    1. Givral là một quán café rất đặc biệt. Mặt tiền của nó là một vòng cung trên góc đường Đồng Khởi và Lê Lợi. Đối diện là nhà hát lớn Sài Gòn, nhìn chếch sang bên phải là khách sạn Caravelle, chếch sang bên trái là khách sạn Continental. Những bí ẩn trong quá khứ của quán café này tôi chắc bây giờ ngay cả chủ quán cũng không biết. Hồi chế độ cũ, đây là một trong những trung tâm của thời cuộc. Hằng ngày các chính khách, tướng lĩnh thường đến đây, các nhà báo trong và ngoài nước cũng đến săn tin tức, bởi vậy nơi đây cũng có mặt đủ các loại tình báo, từ các nhân viên Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo (chế độ Sài Gòn cũ) đến CIA, tình báo Anh, Pháp, Đài Loan... và cả "*********". Là một nhà báo nổi tiếng với những bình luận chính trị - quân sự sắc sảo và quen toàn "thứ dữ", Phạm Xuân Ẩn mặc nhiên trở thành "trung tâm" của quán café này. Chủ quán cũng dành riêng cho ông một bàn cố định. Buổi sáng, ông Ẩn dắt chó berger đến ngồi đó và... "chửi thề như bắp rang" (theo lời cựu dân biểu, chủ bút báo Tin Sáng Ngô Công Đức). Thỉnh thoảng có các cô gái đến ngồi với ông, đó là những "kỹ nữ", hễ bị cảnh sát rượt đuổi là "bám" vào ông như một chỗ dựa. Chuyện đó thành quen, đến mức người ta gọi luôn các cô gái đó bằng biệt danh là "bạn ông Ẩn"...
    Givral dĩ nhiên nằm trong "tầm ngắm" của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo. Người của Phủ hằng ngày đến theo dõi, ghi âm những ai phát ngôn "có lợi cho cộng sản". Ông Ẩn có thể đoán được ai là "thân cộng" và thường âm thầm bảo vệ bằng cách nói to lên, lấn át tiếng nói của người đó. Kết quả là những cuốn băng ghi âm "những chuyện quan trọng" đều không nghe thấy gì ngoài tiếng nói của Phạm Xuân Ẩn. Những người chỉ huy của Phủ càu nhàu với ông, rằng ông cản trở công việc của họ. Ông chỉ cười, bảo: "Làm sao tôi biết mấy ông đến đó ghi âm".
    Trước khi ký Hiệp định Paris, Phủ Đặc ủy dự đoán nếu thành lập Chính phủ 3 thành phần thì quán café này sẽ là nơi cần lắp đặt hệ thống thiết bị theo dõi đặc biệt, không thể dùng biện pháp "thủ công" được nữa. Khổ nỗi quán café đó là của tư nhân, Phủ không thể ngang nhiên đem thiết bị đến đặt trong nhà người ta. Họ tính chuyện phải mua lại quán café này thì mới làm được chuyện đó. Vấn đề là cần một người tin cậy ở ngoài Phủ đứng tên. Một hôm, một người chỉ huy của Phủ gặp ông Ẩn, nói rõ ý đồ đó và đề nghị vợ ông đứng tên chủ sở hữu quán café này. Ông Ẩn nói: "Nhà tôi không có vốn, lấy gì mà góp". Người kia nói: "Không cần góp vốn, tất cả tiền là của Phủ". "Nếu thế thì chia lãi như thế nào?". "Ông muốn thế nào cũng được, muốn lấy bao nhiêu thì lấy". Ông Ẩn bảo cách làm đó không sòng phẳng, nên dứt khoát từ chối. Tôi hỏi ông vì sao người ta đề nghị ông chuyện đó, ông cười, bảo rằng chính ông là người đã "tham gia sáng lập" ra cái Phủ ấy (ông Ẩn được mời bàn bạc để lập ra cơ quan này), lâu nay họ vẫn coi ông là "người nhà". Sau đó họ cũng đã mua lại một nửa tiệm café này, bố trí làm một tiệm bánh mì, ai đứng tên thì ông không rõ. Và nhân việc sửa chữa toàn bộ cái tiệm, Phủ đã thừa cơ lắp đặt một hệ thống thiết bị nghe trộm hiện đại ngay chính giữa tiệm café. Và hằng ngày thông tin nhận được đem về Phủ, vẫn không nghe được gì ngoài những tiếng chửi thề của ông Ẩn. Họ biết quá rõ tính cà rỡn của ông nên cứ "ngậm bồ hòn làm ngọt", tuyệt đối không nghi ngờ gì hết.
    2. Là một nhà tình báo chiến lược, đồng thời là một nhà báo chuyên nghiệp, Phạm Xuân Ẩn bao giờ cũng có cái nhìn khách quan về đối phương. Hạ thấp trình độ của đối phương là đồng nghĩa với việc khinh suất trong chiến lược, chiến thuật mà hậu quả là tổn hao xương máu, điều đó cũng có thể vô tình hạ thấp ý nghĩa chiến thắng của chúng ta.
    Ông bảo rằng người Mỹ "chọn" Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống chế độ Sài Gòn là có ý của họ. Chọn được Nguyễn Văn Thiệu, người Mỹ đã bảo vệ ông ta bằng mọi giá. Ông nói: "Họ ngăn tất cả các cuộc đảo chánh, vì muốn giữ Nguyễn Văn Thiệu đến phút cuối cùng. Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, ông Graham Martin giỏi lắm, nhóm nào hơi động tĩnh là biết ngay, tìm cách ngăn các âm mưu đảo chánh từ trong trứng nước". Và cuối cùng, như mọi người đã biết, trước nguy cơ sụp đổ của Nguyễn Văn Thiệu, mặc dù Martin và người phụ trách CIA ở Sài Gòn tìm mọi cách để thuyết phục Quốc hội Mỹ không bỏ rơi Nguyễn Văn Thiệu, kể cả việc bưng bít thông tin tình báo, chỉ báo cáo những thông tin có lợi cho Nguyễn Văn Thiệu, nhưng mọi nỗ lực đều trở thành vô vọng. "Nguyễn Văn Thiệu đã chửi oan chính quyền Mỹ, thực ra họ đã cố gắng đến cùng. 26/4/1975, ngày mà Nguyễn Văn Thiệu di tản, người Mỹ đã ra lệnh ngưng mọi hoạt động quân sự và mọi cuộc di tản, tất cả các máy bay không được cất cánh trên bầu trời miền Nam để bảo đảm an toàn cho Thiệu. Mãi đến khi máy bay chở Thiệu ra khỏi không phận miền Nam, các sân bay mới được phép hoạt động trở lại".
    Còn người đứng đầu chế độ Sài Gòn đánh giá như thế nào về Phạm Xuân Ẩn? "Phạm Xuân Ẩn là ký giả chống cộng số 1 của miền Nam", đó là lời Nguyễn Văn Thiệu, được trích dẫn trong cuốn sách của một tác giả người Việt viết về chiến tranh Việt Nam xuất bản ở Mỹ. Dĩ nhiên là "ký giả chống cộng số 1" này không bao giờ viết một bài nào chống cộng, dù là để ngụy trang che mắt đối phương. Và sau khi biết Phạm Xuân Ẩn là tình báo của "*********", chắc hẳn báo TIME đã kiểm tra lại tất cả những bài viết của Phạm Xuân Ẩn đăng trên báo này, người ta cũng không hề thấy Phạm Xuân Ẩn viết bất cứ điều gì làm tổn hại đến uy tín của báo TIME. Ông là một nhà báo chuyên nghiệp và chính trực. Ông đã tự vệ, đã "tàng hình" bằng sự chính trực đó.
    Soạn: AM 262755 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS

    3. Phạm Xuân Ẩn thích 3 con vật: chó, chim và cá. Ông yêu quý ba con vật đó như những người bạn. Mỗi con vật được ông nâng lên thành một triết lý. Nhiều bạn đọc biết đến "Người nuôi chó số 1 Sài Gòn" Nguyễn Văn Lãng, người này cũng là người số 1 về nuôi cá cảnh. Ông Lãng quen biết với ông Ẩn từ những năm 1960, sự quen biết đó bắt đầu từ những con chó. "Ổng siêu đẳng hai thứ, vừa chó vừa chim", ông Lãng quả quyết, còn chuyện chơi cá của ông Ẩn thì ông Lãng coi không ra một "ký lô" nào. Ông coi trọng ông Ẩn là coi trọng hai thứ đó, mặc dù ông biết ông Ẩn là nhà báo Mỹ "chơi toàn với thứ dữ", tướng lĩnh, chính khách nào cũng thân quen. Hồi đó trên đường Hàm Nghi có một cái tiệm café - tiệm Chao Kuen, sáng nào "dân chơi chim chơi chó" cũng ngồi đó, ông Ẩn cũng thường ngồi đây từ 7h đến khoảng 8h30, đến 9h thì sang Givral hay Brodard ngồi với báo chí và chính khách. Ông chủ tiệm bánh mì Văn Lang giới thiệu ông Lãng đến tiệm café này tìm ông Ẩn. Ông Lãng bảo: "Tôi mua của ông Ẩn 1 con chó, 2 con chim". Con chó đó là con boxer, rất hiếm. Còn 2 con chim, đến bây giờ ông Lãng vẫn còn nhớ như in: "Đầu tiên là con chích chòe lửa. Con chim đó rất kỳ lạ, nó có thể hót được cả một đoạn dài bài Le pont de Kwai (Cầu sông Kwai), là bài hát nổi tiếng lúc bấy giờ, ông Ẩn dạy cho nó hót đó. Tôi thích con chim này quá, năn nỉ mãi, ổng thương tình nên để lại. Một thời gian sau, tôi thấy ổng có con sơn ca hay quá.
    Giới chơi chim chuộng nhất là sơn ca, mà con sơn ca của ông Ẩn thì rất đặc biệt, nó hót một hơi đến 2-3 phút, vừa hót vừa múa, đặc biệt nhất là lông nó quắn chứ không phải mượt như những con khác, sơn ca chỉ duy nhất con này lông quắn thôi. Nói đến con chim Huế thì hồi đó dân chơi chim ai cũng biết, vì nó nguyên là của một ông thầy giáo người Huế, không biết sao ông Ẩn mua được. Nuôi chim sơn ca công phu lắm, phải nuôi từ lúc còn non thì mới dạy được, chim già rất khó dạy. Tôi lại năn nỉ, ổng không cầm được lòng, lại bán cho tôi. Ông Ẩn lúc nào cũng có chim, không có con này ổng lại tìm con khác. Có lần tôi thấy ổng mua một con chim xanh, đó là một loại chim rừng nuôi rất khó, nhưng ổng nuôi được, tiếng hót của nó lạ vô cùng".
    Ông Lãng kể tiếp: "Chó cũng vậy, rời con này thì ổng có ngay con khác. Sau này ổng có một con berger, tên là King. Con chó này lúc đó là nhứt hạng. Ông Ẩn không cho ai biết xuất xứ, nhưng tôi chắc không phải của người Việt Nam. Con berger này hơi già một chút nhưng ligne (hình dáng) của nó thật oai dũng, màu lông rất đẹp, chân trước cao hơn chân sau, đuôi thẳng, thòng xuống, đuôi berger mà cong lên thì hổng có giá trị gì. Con chó đó hổng chê vào đâu được. Nuôi chim hay nuôi chó, ông Ẩn đều rất kén, không như những người khác gặp con nào nuôi con đó".
    4. Để nói lên trình độ uyên bác của Phạm Xuân Ẩn, một cán bộ chỉ huy tình báo lão thành từng là cấp trên của Phạm Xuân Ẩn kể: Sau giải phóng 30/4/1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng (nguyên Tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, sau này là Bộ trưởng Quốc phòng) vào Sài Gòn gặp Phạm Xuân Ẩn. Tướng Dũng đã nghe Phạm Xuân Ẩn nói chuyện về tình hình nội bộ Mỹ - Thiệu từ sau trận Phước Long (1/1975). Nghe xong những đánh giá sắc sảo của ông Ẩn, tướng Dũng nói rằng nếu như gặp được Phạm Xuân Ẩn sớm hơn thì những tin tức mà ông Ẩn cung cấp "sẽ giúp Bộ Chính trị hạ quyết tâm nhanh hơn để giải phóng Sài Gòn".
    Đó là giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Trong giai đoạn này, ông đã báo những tin tức hết sức quan trọng về các kế hoạch phòng thủ Sài Gòn, về việc Mỹ tìm cách thương thuyết để đi đến một giải pháp chính trị và khẳng định dứt khoát trong trường hợp quân đội Sài Gòn thua thì Mỹ sẽ không viện trợ quân sự, không đem quân trở lại tham chiến. Và ngay trong ngày vợ con ông phải "di tản" sang Mỹ, ông vẫn báo trước tin Nguyễn Văn Thiệu bị nội bộ ép phải từ chức. Những tin tức đó là vô cùng quan trọng, đã góp phần xác định quyết tâm và tập trung lực lượng để giải phóng hoàn toàn miền Nam.
    Còn ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, Phạm Xuân Ẩn là điệp viên quan trọng cung cấp những tin tức chiến lược và các kế hoạch quân sự của đối phương. Ông đã gửi nguyên bản toàn bộ các kế hoạch về chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Tướng Nguyễn Đức Trí, nguyên thủ trưởng cơ quan tình báo miền kể rằng, khi tài liệu này được chuyển ra Hà Nội, Tổng bí thư Lê Duẩn đã biểu dương cơ quan tình báo quân sự và coi đây là "chiến công có tầm cỡ quốc tế".
    Và trong suốt cuộc chiến tranh, Tổng hành dinh kháng chiến "biết Mỹ" chủ yếu cũng thông qua ông Ẩn. Ông đã báo trước những thay đổi chiến lược, các kế hoạch quân sự hằng năm cùng các cuộc hành quân càn quét lớn, các chương trình bình định nông thôn, kế hoạch xây dựng biệt kích dù, các kế hoạch về tình báo, kế hoạch xây dựng quân đội Sài Gòn khi Mỹ thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh... Ông còn báo trước thời điểm Mỹ rút quân khỏi Campuchia, kế hoạch tấn công Hạ Lào từ đường 9; báo trước âm mưu, ý đồ của Mỹ trong các cuộc bầu cử Tổng thống Sài Gòn, cảnh báo về âm mưu phá hoại Hiệp định Paris của Mỹ và Nguyễn Văn Thiệu...
    Khối lượng những tin tức tình báo đồ sộ bằng nguyên bản kèm theo những phân tích đánh giá sắc sảo mà Phạm Xuân Ẩn đã cung cấp cho Tổng hành dinh kháng chiến trong suốt hơn 20 năm, theo chúng tôi, không có bất cứ điệp viên nào ở bất cứ thời đại nào trên thế giới có thể làm nổi. Ông làm những việc phi thường đó một cách hoàn hảo, ung dung tự tại và rất mực khiêm tốn. Không bao giờ nói đến những chiến công của mình, ông nhắc đi nhắc lại với chúng tôi rằng "không nên tô vẽ", rằng ông chỉ là một khâu, một mắt xích bé nhỏ trong hệ thống tình báo của chúng ta, rằng thông tin tình báo dù chính xác đến đâu cũng chỉ có giá trị 50%, 50% còn lại là tài năng phân tích, xử lý của cấp trên.
    Ông chỉ có một mục đích là vì nước vì dân, cả cuộc đời ông hiến dâng cho mục đích đó, nhưng ông không lấy mục đích biện minh cho phương tiện, ông dành cả cuộc đời để góp phần làm thất bại những mưu đồ của kẻ địch cướp đoạt đất nước mình, chống lại nhân dân mình chứ tuyệt đối không làm tổn hại đến cá nhân ai, dù người đó nằm trong hàng ngũ của đối phương. Ông không chỉ là một nhà tình báo vĩ đại mà còn là một nhân cách lớn.
    *
    Hoàng Hải Vân (Thanh Niên)
  7. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Chuyện hai nhà tình báo dưới một mái nhà
    Đại tá Lê Văn Trọng và đại úy Phạm Thị điểm.
    Trong căn phòng 212 ?" B1 tập thể Trung Tự (Hà Nội), có một cặp vợ chồng già người miền Nam sinh sống. Hai cụ rất hiền lành, tốt bụng, luôn gương mẫu và hăng hái tham gia vào công việc xã hội.
    Năm nay, cả hai cụ đều bước vào tuổi 76. Hàng xóm chỉ mang máng các cụ ngày xưa từng tham gia kháng chiến, rồi nghỉ hưu và về đây an hưởng tuổi già, chứ không ai ngờ được rằng đó là hai chiến sĩ tình báo: Đại tá Lê Văn Trọng - Đại úy Phạm Thị Điểm mà đời tư của họ đầy hy sinh, mất mát hiếm thấy?
    Lê Phương sinh ra và lớn lên trên đất Ninh Hòa ?" Khánh Hòa, Lê Phương tham gia hoạt động cách mạng từ khi còn nhỏ tuổi. Mới 17 tuổi năm 1946, Lê Phương đã bị địch bắt tống giam vào đại lao, bị ?oxơi? những trận đòn nhừ tử, nhưng Lê Phương vừa gan lỳ, vừa khôn khéo nên địch không khai thác được gì đành phải thả vì không có bằng chứng. Ra tù, Lê Phương tìm cách liên lạc với đồng đội và tiếp tục hoạt động suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp.
    Hòa bình lập lại. Năm 1954, Lê Phương lên đường tập kết ra Bắc. Mùa thu năm 1963, sau khi tốt nghiệp khóa chính trị Trung, Cao cấp, Lê Phương bỗng được lệnh gấp rút nhận ?onhiệm vụ đặc biệt?. Sau một khóa huấn luyện đặc biệt, tại căn phòng nhỏ ấm cúng, đồng chí Cục trưởng và trưởng phòng điệp báo nội trang trọng giao nhiệm vụ cho Lê Phương: ?oNhiệm vụ của đồng chí là xây dựng và lãnh đạo một mạng lưới điệp báo tại Vùng I chiến thuật ngụy. Thu thập tin tức tình báo chiến lược phục vụ công cuộc xây dựng bảo vệ miền Bắc, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Địa bàn trải dài từ Đà Nẵng ?" Huế đến vĩ tuyến 17 ?" giới tuyến quân sự tạm thời??.
    Vào một ngày cuối thu 1963, tạm biệt Thủ đô, Lê Phương vượt Trường Sơn Đông tới chiến trường Quảng Nam. Với tấm căn cước giả đóng dấu son đỏ chót của cảnh sát đô thành Sài Gòn, Lê Phương đóng vai một thương gia, ở chung nhà với viên thư ký cảnh sát đồn Hoàng Hoa Thám suốt mấy năm trời mà địch không mảy may biết chút gì. Sau khi đã tạo được vỏ bọc chắc chắn, Lê Phương đã xây dựng và củng cố được một mạng lưới điệp báo thông suốt từ Đà Nẵng ra Huế, Đông Hà - Quảng Trị, thu thập được nhiều tin tức tình báo có giá trị để chuyển ra Trung tâm.
    Trong số cơ sở mà Lê Phương gây dựng, có mẹ Tăng Thị Đương và con gái là Trà Thị Thanh Tâm. Tâm là một cô gái duyên dáng nhưng rất gan dạ và thông minh. Tình yêu nảy nở giữa chiến sĩ tình báo và cô giao liên Trà Thị Thanh Tâm. Được Trung tâm chấp thuận, ngày 12/10/1967, hai người tổ chức lễ cưới và đôi vợ chồng ?" chiến sĩ tình báo tiếp tục hoạt động dưới vỏ bọc ?oNhà dạy cắt may y phục Thanh Tâm? ngay trong lòng thành phố Đà Nẵng.
    Lê Phương năm 1972 tại Sài Gòn
    Tháng 6/1968, khi Thanh Tâm đang mang thai đứa con đầu lòng được 7 tháng, thì bị bọn địch bắt vì chúng nghi ngờ Thanh Tâm tuyên truyền cộng sản cho một số học sinh theo học cắt may. Dù bị tra tấn, Thanh Tâm quyết không khai. Không tìm được bằng chứng kết tội, địch buộc phải thả Thanh Tâm. Ngày 1/8/1968, Thanh Tâm sinh một con trai kháu khỉnh đặt tên là Lê Văn Hùng.
    Giữa Tết Kỷ Dậu 1969, Lê Phương nhận được lệnh từ Trung tâm: ?oNhanh chóng bàn giao cơ sở cho B54. Về ngay Trung tâm chỉ đạo?. Do tính chất của công việc, Lê Phương đành giấu mẹ, vợ và đứa con mới 7-8 tháng tuổi, lên đường trở ra Bắc. Đó là một đêm lạnh giá, đợi cho vợ con đã ngủ say, Lê Phương tần ngần ngắm nhìn người vợ trẻ đang ôm đứa con bé bỏng trong lòng rồi gạt nước mắt ra đi. Anh không thể nào ngờ được rằng, đó là lần cuối cùng trong đời, anh được nhìn gương mặt những người thân yêu ấy.
    Cục trưởng chỉ thị: ?oMục tiêu của đồng chí đảm nhiệm lần này là ?otấn công? Bộ Quốc phòng ngụy. Công việc này không chỉ đòi hỏi lòng dũng cảm mà phải hết sức khôn khéo thận trọng. Đồng chí phải mau chóng thu xếp lên đường, hành quân bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Phải hết sức đề phòng vì bọn Hải quân Mỹ kiểm soát rất ngặt nghèo. Địa điểm đổ bộ là Nha Trang?.
    Lê Phương xuống Hải Phòng, trong vai ngư dân, xuống thuyền máy xuất phát. Sau mấy ngày đêm lênh đênh trên biển cả, Trịnh Hà (tên mới của Lê Phương), đã đổ bộ an toàn lên Nha Trang và ngay sau đó, trong bộ quần áo sang trọng, xách cặp da, Trịnh Hà nhanh chóng thâm nhập Sài Gòn. Chỉ sau một thời gian ngắn, Trịnh Hà đã tạo dựng được vỏ bọc khá vững trong vai một nhà giáo, thuê nhà trên đường Minh Mạng quận Phú Nhuận rồi bắt tay ngay vào xây dựng các đầu mối, cơ sở ngay trong Bộ Quốc phòng ngụy.
    Mùa đông 1971, trong một chuyến đi từ Sài Gòn ra Nha Trang để bắt liên lạc với giao thông viên từ Hà Nội vào, Trịnh Hà bị địch bắt tại một trạm kiểm soát.
    Ở ngoài Hà Nội, Trung tâm cực kỳ sốt ruột vì bỗng dưng Trịnh Hà mất tích. Trung tâm quyết định cử nữ tình báo giao thông Sáu Dung vượt Trường Sơn để đi tìm Trịnh Hà. Sáu Dung là một nữ chiến sĩ cực kỳ gan dạ và tháo vát, đã vượt Trường Sơn, vượt biển Đông ra Bắc vào nam như một con thoi để chuyển giao những tin tức, tài liệu tình báo quan trọng.
    Chị vốn quê Bình Sơn ?" Quảng Ngãi ?" một trong cái nôi của cách mạng miền Nam, tham gia cách mạng từ rất sớm, làm cán bộ phụ nữ huyện. Chồng Sáu Dung là Lê Long Châu, Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Vợ chồng đã có 2 con nhưng đều gửi ông bà nuôi giùm để tham gia hoạt động. Cuối năm 1954, khi Sáu Dung bắt đầu mang thai đứa con thứ 3, theo sự sắp xếp, chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Sáu Dung một mình lên đường tập kết ra Bắc, con gửi lại cho bố mẹ nuôi.
    Tháng 7/1955, Sáu Dung sinh con trai thứ 3 trên đất Bắc. Sau khi đã trải qua nhiều công tác dân sự, năm 1965, Sáu Dung được tuyển chọn ******** báo giao thông Bắc ?" Nam. Ngày 10/10/1968, trong khi đang hoạt động tại Sài Gòn, Sáu Dung đã bị địch bắt và bị giam tại nhà tù Nhơn Trạch ?" Biên Hòa. Sau hơn 1 tháng bị giam giữ, tra tấn tàn khốc, Sáu Dung vẫn không hé răng nửa lời. Không kết tội được, ngày 21/11/1968, bọn địch buộc phải thả Sáu Dung và liền sau đó, Sáu Dung tìm đường ra Hà Nội để báo cáo và nhận nhiệm vụ mới.
    Lần này Sáu Dung đã đột nhập Nha Trang tới điểm hẹn rồi vào tận Sài Gòn để tìm kiếm Trịnh Hà nhưng vẫn không nắm bắt được bất kỳ tin tức gì dù là nhỏ nhoi.
    Trong lúc đó, tại nhà giam chi cảnh sát quận Thủ Đức, bọn địch đang dùng mọi cực hình tra tấn hòng bắt Trịnh Hà khai nhận. Hơn chục ngày liền, nhưng người chiến sĩ tình báo kiên trung vẫn chỉ một mực ?onhận tội? là sử dụng chứng minh giả để trốn quân địch. Một bữa, có tên cảnh sát lân la gần Trịnh Hà và đưa cho anh một giấy của Tổng nha Cảnh sát ghi: ?oPhòng Yểm trợ Tổng Nha cảnh sát phúc đáp công văn số? căn cước của Trịnh Hà về phẩm chất cũng như lý lịch hoàn toàn giả mạo. Tuy nhiên, đây là căn cước giả loại mới. Chúng tôi giữ lại để nghiên cứu và gửi đến Quý Tòa khi Quý Tòa yêu cầu??.
    Trịnh Hà nghĩ thầm, may quá, bọn chúng vẫn không phát hiện được đây là căn cước do tình báo ta làm giả. Biết tên cảnh sát nọ có ý định moi tiền, Trịnh Hà liền nháy mắt, tên cảnh sát liền nhanh nhẹn gật đầu. Sau đó ít lâu, Trịnh Hà bị truy tố ra Tòa án Gia Định. Ngày 5/8/1972, Tòa sơ thẩm Gia Định đã mở phiên tòa xét xử Trịnh Hà về tội sử dụng căn cước và công chứng thư giả, phạt ?o45 ngày tù ở? và chịu án phí 50 đồng, chưa kể tốn phí bản án. Cái giá của bản án đó là 5 chỉ vàng và 80 ngàn đồng bạc cho mấy tên cảnh sát và thẩm vấn viên, chưa kể tiền thuê luật sư và đút lót một số tên khác.
    Khi Trịnh Hà được phóng thích, thì cũng là lúc Sáu Dung vượt biển Đông lần thứ 3 vào Sài Gòn để tìm đồng đội. Trên Đại lộ Trần Hưng Đạo, Sáu Dung đang chậm chạp đi về nơi hộp thư cố định. Sau một câu mật khẩu nhẹ nhàng, họ lướt qua nhau như không hề quen biết. Đường dây liên lạc giữa Trung tâm và Trịnh Hà chính thức được nối lại. Sáu Dung ra Bắc báo cáo toàn bộ tình hình cho Trung tâm.
    * * *
    Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Trong đoàn cán bộ tình báo theo chiến dịch có Sáu Dung. Sài Gòn hoàn toàn giải phóng. Hòa chung niềm vui của toàn dân tộc, Sáu Dung và Lê Phương gặp nhau giữa Sài Gòn mừng mừng tủi tủi. Họ nắm tay nhau mà không cầm được nước mắt. Giây phút bồi hồi xúc động dần lắng xuống, họ ngồi tâm sự bên nhau.
    Lúc đó, Sáu Dung mới kể về gia cảnh mình: hai con của chị độ này vẫn chưa biết sống chết ra sao vì kể từ 1954, Sáu Dung không hề được thăm lại các con. Còn chồng chị, anh Lê Long Châu đã bị địch bắt và tra tấn tới chết ở trong tù. Còn Lê Phương, tình cờ năm 1973, anh đọc được một bài báo của một ký giả phương Tây viết về sự hy sinh anh dũng của vợ Trà Thị Thanh Tâm.
    Lần đó, vào ngày 21/6/1973, Trà Thị Thanh Tâm nhận một nhiệm vụ tại Sài Gòn. Khi ra đi, Thanh Tâm bế cả con trai lúc đó mới 5 tuổi theo cùng. Do đã bị theo dõi từ Đà Nẵng, Thanh Tâm bị địch bắt tại Sài Gòn. Bọn địch nhốt cả hai mẹ con vào nhà tù và chúng đánh đập Thanh Tâm cực kỳ dã man cho đến chết. Sau đấy, cụ Tăng Thị Đương phải vô Sài Gòn đón đứa bé mồ côi về nuôi. Đây là vành khăn tang thứ 3 mà mẹ Đương đeo trên đầu. Trước đó, con trai mẹ là Trà Thanh Tá và con gái là Trà Thị Thanh Minh cũng đã anh dũng hy sinh.
    Cảnh ngộ đã đưa hai chiến sĩ tình báo ngày càng gần nhau. Biết chuyện của hai người, anh em, đồng đội trong Trung tâm rất thương cảm và tìm cách vun đắp nhân duyên cho hai chiến sĩ đã hy sinh hạnh phúc riêng tư cho cuộc kháng chiến vĩ đại. Và hai thương binh, hai cựu binh bị địch bắt tù đày, hai chiến sĩ tình báo ấy đã dùng phần đời còn lại để sưởi ấm cho nhau. Lễ cưới của họ được tổ chức giản dị nhưng hết sức đầm ấm và có cả những giọt nước mắt cho những liệt sĩ đã khuất.
    Giờ đây, Đại tá tình báo Lê Văn Trọng ?" Lê Phương ?" Trịnh Hà - Lê Hiền và nữ Đại úy tình báo Sáu Dung ?" Phạm Thị Điểm vẫn sớm hôm bên nhau, sẻ chia từng bát cơm, chén nước?
    Hà Nội, 1/2005
    Mạnh Việt
  8. tdna

    tdna Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/12/2001
    Bài viết:
    2.268
    Đã được thích:
    0
    Có 1 người rất nổi tiếng nữa nhưng vì 1 số lý do tế nhị mà tên tuổi của ông ít được biết tới . Đó là Nguyễn Tài . Nguyễn Tài chỉ huy nhóm Thanh Việt ( diệt Việt gian ) trong kháng Pháp . Sau này khi đánh Mỹ thì Nguyễn Tài chỉ huy biệt động thành miền Nam . Sau bị Mỹ bắt , Mỹ định giết thì ông Tài được biệt động cứu . Sau về làm thứ trưởng bộ nội vụ nhưng mắc mớ đến việc 1 tài liệu tiếng Anh của Mỹ bị VN bắt được có " dính líu " đến tên tuổi ông , thành ra bị cách chức . 11 năm kêu oan thì Nguyễn Tài mới được phục hồi . Nguyễn Tài chính là con trai của nhà văn Nguyễn Công Hoan . Ông rất giỏi tiếng Anh, Pháp xong giả vờ ko biết , khi người Mỹ hỏi cung thì vẫn phải nhờ phiên dịch . Nguyễn Tài có cái nhược là đấu tố bố - nhà văn Nguyễn Công Hoan - trong vụ án văn học Nhân văn giai phẩm
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    ... Sau bị Mỹ bắt , Mỹ định giết thì ông Tài được biệt động cứu => Tài liệu nào nói vậy bác?
    Đúng là Nguyễn Tài bị nghi ngờ về giai đoạn bị bắt. Vì vậy, đến khi được minh oan thì ông mới được phong Anh hùng LLVT và lúc đó tivi cũng làm một bộ phim tài liệu về ông.
  10. metamodel

    metamodel Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/12/2004
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    2
    Ai có tài liệu về Đại tá Nguyễn Minh Vân và Đại tá Đinh Thị Vân thì post lên. Hồi trước báo ANTG có đăng rồi, nhưng lâu rồi. Hình như trong chiến dịch Mậu Thân sau khi giải phóng Huế người ta quên mất không giải phóng 9 Hầm làm cho những nhà tình báo ưu tú lại phải mòn mỏi mong chờ ngày tự do đến 7 năm nữa ? Phải nói là tôi rất khâm phục và cảm động khi đọc chuyện về Đại tá Nguyễn Minh Vân, về ý chí và nghị lực sống của con người, sống trong hầm tối không giấy bút mà ông đã tự sáng tác và nhẩm thuộc lòng bài thơ hơn 3000 câu. Và cuối cùng để thấy rằng : Để có được chiến thắng cuối cùng, đã bao con người ưu tú phải hy sinh rất nhiều, đế quốc Mỹ trong quá khứ gây quá nhiều tội ác và bọn bán nước Ngụy thật đáng khinh bỉ. Qua đó càng thấy biết ơn và tự hào vì đất nước ta đã sinh ra những con người như vậy.

Chia sẻ trang này