1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tại sao các sử gia thế giới tôn vinh Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn là đệ nhất danh tướng thời Tr

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi division_commander, 04/07/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. division_commander

    division_commander Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Tại sao các sử gia thế giới tôn vinh Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn là đệ nhất danh tướng thời Trung Cổ

    Sức mạnh đoàn quân Mông Cổ và ba lần Hưng Ðạo Vương
    đại phá Nguyên Mông.
    Năm trước, trên Bóng Nước Xuân Nhâm Ngọ, chúng tôi đã
    thưa với các Cụ đồng hương rằng, thuở xưa, biên
    cương của Bách Việt rộng khắp vùng Hoa Nam ngày nay, rồi
    dần dần đã bị bọn bá quyền Hoa Hán xâm lấn và đồng
    hoá mà trở thành nước Tầu, người Tầu hết cạ May sao
    con cháu Rồng Tiên còn gìn giữ được một giải đất
    hình chữ S tựa lưng vào Biển Ðông làm " Nước Nhà". Coi
    như chúng ta mất quá nhiều, chỉ "còn một chút này", thế
    mà cũng không được yên vui, vì lịch sử nước nhà trong
    20 thế kỉ qua, đã luôn luôn được viết bằng máu và
    nước mắt. Tiền nhân của chúng ta đã phải liên tục anh
    dũng chống trả nhiều cuộc xâm lăng từ phương Bắc để
    bảo vệ bờ cõi giang sơn. Lịch sử minh chứng anh hùng hào
    kiệt thời nào cũng cọ Trong "một ngàn năm đô hộ giặc
    Tầu", đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng,
    bà Triệu, Lí Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Ðế, Phùng
    Hưng, Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Dương Ðình Nghệ và cuối
    cùng, năm 939 Ngô Quyền đã oanh liệt chiến thắng quân
    Nam Hán trên sông Bạch Ðằng, chấm dứt giai đoạn lệ
    thuộc phương Bắc dài một ngàn năm, đưa nước nhà sang
    thời tự chủ ngàn năm thứ hả Từ đó, nước ta trở
    thành một quốc gia độc lập, trung ương tập quyền, theo
    quan niệm ngày naỵ Thế nhưng nền độc lập quý báu của
    dân Việt có bao giờ được bọn bá quyền phương bắc
    tôn trọng. Trên thực tế, bất cứ khi nào một triều
    đại mới lên ở bên Tàu, khi vừa củng cố xong quyền
    hành, chúng liền nghĩ ngay tới việc xâm lăng nước tạ
    Thế cho nên lịch sử nước nhà mới còn ghi đậm nét
    những chiến công vệ quốc hiển hách của các anh hùng
    dân tộc, như vua Lê Ðại Hành chiến thắng quân nhà
    Tống, Lí Thường Kiệt còn đánh cả sang đất nhà Tống,
    10 năm trường kì kháng chiến giặc Minh của vua Lê Lợi
    và anh hùng Nguyễn Trãi, chiến dịch hành quân tốc chiến
    tốc thắng thần sầu quỷ khốc của vua Quang Trung Nguyễn
    Huệ năm 1789 đã đánh bật 20 vạn quân nhà Thanh ra khỏi
    bờ cõị
    Chắc các Cụ Cincinnati đang muốn nhắc nhở chúng tôi về
    vị anh hùng kiệt xuất Hưng đạo đại vương Trần Quốc
    Tuấn thời nhà Trần, 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông.
    Vâng, sở dĩ chúng tôi chưa vội kể tới Ngài trong số
    các vị anh hùng dân tộc ở trên là vì Xuân năm nay chúng
    tôi muốn chọn để giới thiệu Ngàị Thật sự bất cứ
    người Việt Nam nào cũng từng nghe danh Ngài, và bất cứ
    ai đã cắp sách tới trường ở quê nhà xưa chắc chắn
    đã được học những trang quốc sử hào hùng do Ngài
    viết nên . Xuân tha hương năm nay chúng ta cùng nhau ôn lại
    những trang sử sáng chói của Ngài, như một nén hương
    lòng thành kính hướng vọng dâng về tổ quốc thân yêụ
    Nhằm nêu bật tính anh hùng của Hưng đạo đại vương,
    chúng tôi sẽ trình bày sơ lược về kẻ thù mà Ngài đánh
    thắng, tức là đoàn quân Mông Cổ; sau đó xin tường
    thuật ba lần Ngài chiến thắng quân xâm lược; tiếp theo
    là bối cảnh xuất thân và những điểm hết sức đặc
    biệt trong cuộc đời của Ngài và bài học quý giá Ngài
    để lại: đặt nợ nước lên trên thù nhà ; cuối cùng
    là sự kiện ngày nay thế giới đã biết tới Ngài và
    vinh danh Ngàị


    [​IMG]
    Earn Money ...Click here
    http://greenhorse.com/join_now.ghc?r=7898434
    http://www.emailcash.com.au/join.asp?refer=E90923
    Support for me
  2. division_commander

    division_commander Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Ị Ðoàn quân Mông Cổ
    Thời Trung cổ, nước Mông Cổ, xét về dân số, chỉ là
    một nước nhỏ, nhưng họ đã làm rung chuyển thế giới
    thời đó vì họ có những thủ lãnh xuất chúng với một
    đạo kị binh thiện chiến giỏi cỡi ngựa, giỏi cung tên và
    vô cùng tàn ác, " nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cây cỏ
    cũng hết sống ".
    Thành Cát Tư hãn
    Bão táp bắt đầu nổi lên cùng với sự xuất hiện của
    Thiết Mộc Chân ( Temujin 1162-1227 ), sau này lấy danh hiệu
    là Thành Cát Tư Hãn, tức Genghis Khan. Vừa nắm được
    quyền hành, Thành Cát Tư Hãn đã khởi sự chiến tranh,
    theo đuổi mộng bá chụ
    - 1205-1209: chinh phục nước Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng
    đất Tây Thục sau nàỵ
    - 1211-1215: chinh phục nước Kim (Chin), vượt Vạn Lí
    Trường Thành, chiếm thủ đô Bắc Kinh của người Kim. Sau
    này, nước Kim sát nhập vào nước Tầụ
    - 1218-1219: chinh phục đế quốc Ba Tư (thời đó là
    Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất Ba Tư,
    Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan.
    - 1222: Tuân lệnh của Thành Cát Tư Hãn quân Mông tiến sang
    Âu châu, chiếm toàn vùng Caucasus, vượt sông Don, tràn vào
    Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên bờ sông Dnieper. Ông hoàng
    thành Kiev đưa 80 ngàn quân đánh quân Mông, nhưng đã bị
    Subotai và danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng
    Chepe bị bệnh chết, Subotai triệt thoái trên con đường
    dài 4000 dặm để bắt tay với đoàn quân trung ương.
    - 1226: Thành Cát Tư Hãn chọn con trai là Ogatai làm người
    nối nghiệp, rồi chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi trừng
    phạt quân Hạ và Kim là hai nước đã bị quân Mông Cổ
    đánh bại, nay liên kết với nhau chống lại quân Mông Cộ
    - 1227: Thành Cát Tư Hãn chết.
    Ogatai đại hãn và Kuyuk đại hãn
    Ogatai và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá chủ của chạ
    - 1231: Xâm lăng Cao li (Korea).
    - 1235-1239: Con Ogatai là Godan đánh chiếm Tây Tạng.
    - 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn quân trở lại Âu châu, gieo
    tàn phá, chết chóc khắp vùng phía Bắc nước Nga .
    - 1240: Chiếm Kiev, rồi Lithuania và Ba lan.
    - Tháng 4, 1240: Subotai hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân
    của vua Bela IV nước Hung.
    - Tháng 9, 1240 ; Ðánh tan liên minh quân Ðức, Ba lan, và
    dòng tu Hiệp sĩ Ðức (Teutonic Knights). Thủ lãnh của liên
    minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng với hầu hết
    hiệp sĩ của ông.
    - Cuối năm 1241, quân Mông tiến vào nước Ý, vượt qua
    thành Venice và Treviso, đồng thời ngược lên sông Danube,
    áp sát thành Viennạ Giữa lúc ấy, Ogatai chết. Theo luật,
    các anh em của vị đại hãn quá cố phải trở về Mông Cổ
    để bầu chọn vị đại hãn mớị Nhờ thế mà Âu châu
    thoát được họa diệt vong. Vậy mà trên đường triệt
    thoái, quân Mông Cổ còn đủ thì giờ để làm cỏ hai
    nước Bulgaria và Serbiạ
    - Năm 1246, con của Ogatai là Kuyuk được chọn làm đại hãn.
    Dưới thời ông, Ðức giáo chủ Innocent IV gửi đặc phái
    viên là thầy John di Piano Carpini, dòng Phanxicô, tới các
    thủ lãnh Mông Cổ để tìm hiểu ý đồ của họ ở Âu
    châụ Mới nắm quyền được ít lâu, còn đang lưỡng lự
    nên trở lại chinh phục Âu châu trước hay tiến xuống
    phía Nam để chiếm trọn nước Trung hoa trước, thì Kuyuk
    chết vào năm 1248.
    Mangu,tức Mông Kha đại hãn và em là Kublai,tức Hôt Tât
    Liệt đại hãn
    - 1251: Một người cháu nội khác của Thành Cát Tư Hãn là
    Mangu (còn viết là Mengke, ta gọi là Mông Kha) lên ngôi đại
    hãn. Mông Kha quyết định thôn tính Á châu, đặc biệt là
    nước Trung Hoa trước. Nước Trung Hoa thời đó chia làm
    Bắc Tống và Nam Tống. Mông Kha nắm quyền thống soái
    nhưng lại giao trọng trách cho người em kiệt xuất , đó
    là Hốt Tất Liệt (Kublai).
    - Mông Kha sai một người em khác là Hulagu trở lại thôn
    tính Ba Tư bao trùm khắp miền Ðông Nam Á châụ Ðồng
    thời khuyến khích người em họ là Batu khống chế khắp
    vùng Ðông Âu, toả lên Ba lan, Lithuania và Esthonia, rồi
    xuống Serbia và Bulgaria một lần nữạ
    - 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân Nam, từ đó phái
    một đạo quân mở cuộc xâm lăng bờ cõi nước ta lần
    thứ nhất vào năm 1257.
    - 1259: Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt (Kublai) lên ngôi đại
    hãn vào năm 1260. Lúc ấy đế quốc Mông Cổ trải rộng
    từ toàn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu Á, từ vùng thủ đô
    Moscow của nước Nga xuống biển Ðen, xuống Baghdad (Iraq)
    và Iran ngày naỵ
    - Nhận được tin Mông Kha chết, người em là Mangu đang
    chiếm đóng vùng Mesopotamia và Syria phải về Mông Cổ để
    bầu đại hãn mớị Trong khi ông vắng mặt thì, năm 1260,
    đạo quân của ông đã bị tướng Baibars (thuộc triều đại
    Mameluk cai trị Ai Cập và Syria) đánh bại trong trận Aint
    Jalut, gần thành Nazareth. Chiến công của Baibars có ý nghĩa
    hết sức quan trọng. Chứng minh đoàn quân bách chiến bách
    thắng Mông cổ suốt 70 năm không phải là không thể đánh
    bại,dấu hiệu suy thoái đã biểu hiện và toàn Âu châu
    sẽ thoát nạn Mông Cộ
    - 1268-1279: Hốt Tất Liệt không nuôi ý chí chinh phục thế
    giới như các đại hãn tiền nhiệm, ông dốc hết khả
    năng để chinh phục toàn cõi Trung Hoa trong một chiến dịch
    dài ngót mười năm. Năm 1263, ông rời kinh đô từ
    Karakorum về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến cuối cùng vào
    năm 1279 tại vịnh Quảng Ðông, Hốt Tất Liệt đã đánh
    bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu
    phải cõng vua nhảy xuống biển để cùng tử tiết, từ
    đó Hốt Tất Liệt cai trị toàn cõi Trung Hoa, xưng là
    hoàng đế, lập ra nhà Nguyên (Yuan Dynasty). Từ đây ta gọi
    họ là quân Nguyên Mông.
    - Dòm ngó Nhật Bản: Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân
    Nguyên Mông sang đánh nước Nhật. Nhưng " nhờ Trời ", cả
    hai lần chiến thuyền của quân Nguyên Mông đều bị bão
    táp đánh chìm vô số, phải quay vệ
    - 1292-1293: Với tay xuống mãi đảo Java (Nam Dương),nhưng
    không ở lại được.
    - Ðặc biệt nhất là ba lần quân Nguyên Mông xâm phạm
    bờ cõi nước ta vào các năm 1257,1284 và 1287. Cả ba lần
    xâm lăng đều chuốc lấy thảm bạị
    IỊ Ba lần đại phá quân Nguyên Mông
    Quân Nguyên Mông hai lần đánh sang Nhật, cả hai lần đều
    bị bão táp cản trợ Trời đã cứu nước Nhật thoát nạn
    Nguyên Mông. Trường hợp nước ta không được may mắn
    như thế, bởi ta liền sông liền núi với Bắc phương,
    thuận lợi bội phần cho kẻ xâm lược.
    [​IMG]
    Earn Money ...Click here
    http://greenhorse.com/join_now.ghc?r=7898434
    http://www.emailcash.com.au/join.asp?refer=E90923
    Support for me
  3. division_commander

    division_commander Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Ạ Chiến thắng lần thứ nhất
    Năm 1257, Hốt Tất Liệt chinh phục xong vùng Vân Nam, đã
    sai sứ giả sang ra lệnh cho vua nước ta phải thần phục.Vua
    Trần Thái Tông chẳng những đã không thần phục lại còn
    bắt giam sứ giả, rồi lệnh cho tướng trẻ Trần Quốc
    Tuấn đưa quân lên trấn thủ phía Bắc.
    Hốt Tất Liệt liền sai tướng Ngột Lương Hợp Thai
    (Wouleangotai), từ Vân Nam, đem quân đánh xuống nước tạ
    Khí thế của giặc quá mạnh, Trần Quốc Tuấn lui về Sơn
    Tâỵ Vua Thái Tông thân chinh, cũng địch không nổi, phải di
    tản chiến thuật để bảo toàn lực lượng. Quân Mông Cổ
    thừa thắng tiến thẳng xuống tới Ðông Bộ Ðầu
    (huyện Thượng Phúc, phía Ðông sông Nhị). Bà Linh Từ
    quốc mẫu, phu nhân của Thái sư Trần Thủ Ðộ đã chỉ huy
    toàn thể triều đình rút lui thàng công về vùng Thiên
    Mạc (huyện Ðông An, Hưng Yên).
    Ðịch vào thành Thăng Long, thấy ba sứ giả của họ còn bị
    giam, mà một người đã chết, Ngột Lương Hợp Thai nổi
    giận, cho quân Mông Cổ mặc sức cướp phá, giết
    người, bất kể già trẻ lớn bẹ
    Trong tình thế đen tối ấy, vua dò ý quan Thái Uý Trần
    Nhật Hiệu, ông này muốn đầu hàng. Nhưng khi hỏi quan
    Thái sư Trần Thủ Ðộ thì ông khảng khái thưa: "Ðầu tôi
    chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo". Thái độ
    cương quyết của quan Thái sư đã làm cho vua an tâm.
    Thời gian là đồng minh tốt của quân tạ Quân Mông Cổ
    chiếm đóng càng lâu càng gặp nhiều khó khăn và để
    lộ nhiều sơ hợ Cho tới khi thời cơ chín mùi, vua Thái
    Tông ra lệnh tổng phản công quân địch ở Ðông Bộ
    Ðầụ Ðịch thua dần, cuối cùng phải rút về Vân Nam.
    Trong chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất, tướng
    Trần Quôc Tuấn, lúc ấy mới 29 tuổi, đã góp công lớn
    trong nhiệm vụ là tướng của đội quân tiên phong.
    B. Chiến thắng lần thứ hai
    Trận thắng lần đầu năm 1257 là ta thắng quân Mông Cổ,
    vì lúc ấy Hốt Tất Liệt tuy đã chiếm được Vân Nam,
    nhưng mãi tới năm 1279 mới dứt điểm được nhà Nam
    Tống lập ra nhà Nguyên, cho nên lần thứ hai và thứ ba
    là ta thắng quân Nguyên Mông.
    Sau khi đã an vị, Nguyên Thế Tổ, tức Hốt Tất Liệt,
    liền sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung sang nước ta, bắt
    vua ta sang chầu và nộp cống phẩm. Vua Trần Nhân Tông
    không chịu, cho chú họ là Trần Di Ái đi thay mình. Nguyên
    Thế Tổ phật ý, phong cho Trần Di Ái làm An Nam quốc
    vương, và sai Sài Thung đưa Di Ái về nước. Hay tin, vua
    Trần Nhân Tông sai tướng lên chặn đánh, bắn mù mắt
    Sài Thung và bắt sống lũ phản bội Trần Di Áị Thấy sứ
    giả bị bắn mù mắt chạy về, Nguyên Thế Tổ nổi giận,
    liền phong cho con là Thoát Hoan làm Trấn Nam vương, cùng
    bọn Toa Ðô, Ô Mã Nhi, A Bát Xích,v.v., đem 50 vạn quân
    tiến vào nước ta, lấy cớ mượn đường sang đánh
    Chiêm Thành! Ðạo quân Thoát Hoan tiến vào qua ngả Lạng
    Sơn, còn đạo quân Toa Ðô đi đường biển đánh vòng
    xuống Chiêm Thành.
    Ðược cấp báo quân Nguyên Mông động binh, vua Trần Nhân
    tông phong cho Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Tiết
    chế thống lãnh toàn thể lực lượng quân ta để chống
    giặc (1283), và triệu tập các bô lão khắp nơi về
    điện Diên Hồng để hỏi ý kiến nên hoà hay nên chiến.
    Tất cả các bô lão đồng thanh xin quyết chiến!
    Ban đầu thế địch quá mạnh (1284). Cánh quân Thoát Hoan
    thắng trận Ải Chi Lăng (Lạng Sơn), trận Vạn Kiếp, rồi
    đoạt thành Thăng Long. Thấy thế, nhà vua lo âu cho sinh
    mạng của dân nên tỏ ý muốn hàng, nhưng Hưng đạo vương
    Trần Quốc Tuấn tâu: "Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy
    chém đầu tôi trước đã". Vương soạn ra quyển Binh Thư
    Yếu Lược, rồi truyền Hịch để khuyên răn các tướng
    lãnh. Các tướng sĩ nức lòng, quyết chí đánh giặc, ai
    cũng xâm vào tay hai chữ "Sát Ðát" (giết quân Mông Cổ).
    Ðang khi đó, cánh quân do Toa Ðô chỉ huy, với sự trợ
    giúp của đạo quân Ô Mã Nhi, lại đánh từ phía Nam,
    Thượng tướng Trần Quang Khải không chặn nổi sức tiến
    của địch, phải rút lùi ra phía ngoàị Trấn thủ Nghệ An
    là Trần Kiện ra hàng giặc. Tại mặt trận Thiên trường
    ( khúc sông Thiên Mạc, huyện Ðông An, Hưng Yên), tướng
    Trần Bình Trọng của ta cũng thua, bị giặc bắt. Chính
    Thoát Hoan chiêu dụ ông:"Có muốn làm vương đất Bắc
    không?". Ông quát lên:"Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không
    thèm làm vương đất Bắc". Không chiêu hàng nổi một vị
    tướng can trường như thế, Thoát Hoan ra lệnh chém đầu
    ông.
    Tình thế hết sức nguy cấp, quân địch thắng khắp các
    mặt trận. Bọn hoàng tộc như Trần Ích Tắc, Trần Tú
    Viên ra hàng Thoát Hoan. Giữa cơn sóng gió tứ bề, nổi
    bật lên dáng đứng anh hùng của Hưng đạo vương Trần
    Quốc Tuấn, vị Tiết chế thống lãnh. Ngài vẫn bền lòng
    chỉ huy cuộc kháng chiến. Một mặt Ngài phụng giá đưa
    vua vào Thanh Hóa, mặt khác Ngài bình tĩnh điều binh
    khiển tướng quyết chiến thắng quân thụ
    Chiến thắng đầu tiên: tại Hàm Tử Quan, tướng Trần
    Nhật Duật đánh tan quân Toa Ðô: Toa Ðô chỉ lấy được
    Nghệ An mà không tiến ra phía ngoài thêm được vì bị
    Thượng tướng Trần Quang Khải án ngữ vững chắc, nên
    mới cùng Ô Mã Nhi kéo quân theo đường biển ra Bắc mong
    bắt tay với Thoát Hoan. Ðược tin, Hưng đạo vương tâu
    vua cử Chiêu văn vương Trần Nhật Duật và các tướng
    Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đem quân ra đón đánh quân
    Toa Ðô tại bến Hàm Tử (huyện Ðông An, Hưng Yên). Toa
    Ðô thua to, phải lùi ra cửa Thiên Trường. Chiêu văn
    vương Trần Nhật Duật là chú của vua Nhân tông, có biệt
    tài ngoại giao và nói được nhiều thứ tiếng.
    Chiến thắng Chương Dương Ðộ (giữa năm 1285): Vừa
    được tin tướng Trần Nhật Duật Thắng trận đầu,
    Hưng đạo vương tâu vua xin lợi dụng khí thế, mở mặt
    trận tái chiếm kinh thành Thăng Long. Thượng tướng Thái
    sư Trần Quang Khải xin đánh trận nàỵ Thượng tướng
    Trần Quang Khải cùng các tướng Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ
    Lão đưa quân đi đường biển vào tới bến Chương
    Dương thì ra lệnh tấn công chiến thuyền địch. Quân ta
    dũng mãnh, địch bị đánh tan. Thừa thắng, quân ta truy
    kích địch tới chân thành Thăng Long thì đụng đại binh
    của Thoát Hoan. Bị Thượng tướng Trần Quang Khải dùng
    phục binh đánh úp, Thoát Hoan bỏ kinh thành chạy qua sông
    Hồng,chiếm giữ Kinh Bắc (Bắc Ninh). Trần Quang Khải dâng
    biểu báo tin chiến thắng và vào thành Thăng Long mở
    tiệc khao quân. Thượng tướng Thái sư Chiêu minh vương
    Trần Quang Khải cũng là chú của vua Nhân tông.
    Chiến thắng Tây Kết, tướng giặc Toa Ðô tử trận: Toa
    Ðô đóng quân ở Thiên Trường, cách xa Thoát Hoan cả 200
    cây số chưa bắt tay đuợc với chủ tướng Thoát Hoan,
    nên về đóng tại Tây Kết (Khoái Châu, Hưng Yên). Hưng
    đạo vương tâu với vua sai Thượng tướng Trần Quang Khải
    và Chiêu văn vương Trần Nhật Duật ngăn cản, không cho
    hai đạo quân Nguyên Mông liên lạc được với nhau, rồi
    đích thân Ngài đem quân ra đánh Toa Ðô trước, đánh
    Thoát Hoan saụ Tới nơi, quân của Ngài tiến công mạnh mẽ,
    quân địch thuạ Toa Ðô và Ô Mã Nhi lên bộ chạy ra bể,
    nhưng Toa Ðô bị trúng tên bắn chết, còn Ô Mã Nhi lẻn
    xuống thuyền chạy thoát về Tầụ
    Chiến thắng Vạn Kiếp (tháng sáu năm Ất dậu,1285): Thời
    cơ đã tới giai đoạn quyết định.Hưng đạo vương sai các
    tướng Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão đưa quân mai phục ở
    rừng sậy bên bờ sông Vạn Kiếp, rồi sai hai con của Ðại
    vương là Hưng võ vương Nghiễn và Hưng hiếu vương Uý
    chặn đường địch sẽ rút về châu Tư Minh. Ðích thân
    vương chỉ huy tấn công bản doanh Thoát Hoan ở Bắc Giang.
    Bị quân ta giáng cho những đòn sấm sét, quân địch nao
    núng, Thoát Hoan dẫn đại binh rút chạy, tới bến Vạn
    Kiếp, quân mai phục của Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão đổ
    ra đánh, tiêu diệt phân nửa số quân địch, tướng địch
    là Lí Hằng tử trận. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng
    để tránh tên bắn và được các bộ tướng Phàn Tiếp,
    A Bát Xích, Lí Quán cố sức đánh mở đường thoát thân.
    Tàn quân của địch chạy về gần châu Tư Minh, bất thần
    bị phục binh của Hưng võ vương Nghiễn và Hưng hiếu
    vương Úy đổ ra đánh. Tướng giặc Lí Quán tử trận,
    Thoát Hoan và bọn Phàn Tiếp, A Bát Xích thoát về Tầu
    được.
    Thế là sau nửa năm xâm lược nước ta, 50 vạn quân
    Nguyên Mông đã bị quân ta quét sạch khỏi bờ cõị Chiến
    thắng vệ quốc lẫy lừng ấy là nhờ ta có tình đoàn
    kết vua tôi một lòng quyết chiến quyết thắng, nhờ vào
    tài điều binh khiển tướng và lòng trung quân ái quốc
    cao cả của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn.
    B. Chiến thắng lần thứ ba
    Bọn Thoát Hoan chiến bại trở về, khiến Nguyên Thế tổ
    Hốt Tất Liệt nổi giận, ra lệnh chém đầu, nhờ quần
    thần xin cho mới được thạ
    Lúc ấy nhà Nguyên đang chuẩn bị xâm lăng nước Nhật,
    nhưng vì muốn phục hận, nên đã đình chỉ việc đánh
    Nhật để dốc toàn lực vào việc chuẩn bị trả thụ
    Lần xâm lăng này, Thoát Hoan lại được cử làm đại
    nguyên soái, có bọn A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi,
    Phàn Tiếp, v. v., làm phụ tạ Mùa Xuân năm 1287, Thoát Hoan
    kéo 30 vạn quân tái xâm lăng nước ta, viện cớ đưa tên
    phản bội Trần Ích Tắc về làm An Nam quốc vương.
    Bên ta, nhà vua lại cử Hưng đạo vương thống lãnh toàn
    quân chống giặc. Vương bố trí các tướng trấn đóng
    các yếu điểm và chỉ thị các tướng áp dụng chiến
    thuật: khi địch mạnh thì tạm lui để bảo tồn lực
    lượng, đợi khi thời cơ tới thì xua quân tốc chiến
    tốc thắng.
    Quân Nguyên Mông tiến vào nước ta theo hai ngả: Thoát Hoan
    theo đường bộ, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp theo đường thủỵ
    Ban đầu thế giặc quá mạnh, quân ta chấp hành lệnh tạm
    luị Vua Nhân tông và thượng hoàng Thánh tông rời về
    Thanh Hoá, tuy nhiên lần này địch chỉ tiến được tới
    Vạn Kiếp, Chí Linh và Phả Lại chứ chưa đặt được chân
    vào kinh thành Thăng Long.
    Chiến thắng Vân Ðồn: Thoát Hoan đóng ở Vạn Kiếp sắp
    cạn lương, sai Ô Mã Nhi đem quân ra cửa Ðại Bàng (Hải
    Dương) để áp tải đoàn thuyền chở lương do tướng
    giặc Trương Văn Hổ chỉ huỵ Trên đường ra cửa bể, Ô
    Mã Nhi đã đánh thắng quân chặn đường của ta do Nhân
    huệ vương Trần Khánh Dư chỉ huy tại ải Vân Ðồn ( Quảng
    Yên). Nghĩ rằng đường vận lương đã được khai thông,
    nên Ô Mã Nhi trở về trước. Không ngờ Trần Khánh Dư,
    vì quyết chí phục hận, nên đã nhanh chóng bổ sung lực
    lượng và phục binh chờ đoàn thuyền của Trương Văn Hộ
    Quả nhiên , đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã
    trúng phục binh của Trần Khánh Dư và bị đánh cướp hết
    cạ Trương Văn Hổ chạy thoát về Quỳnh Châụ
    Chiến thắnh Bạch Ðằng Giang: Tháng 3, 1288, vì mất hết
    lương thực trong trận Vân Ðồn, địch cạn lương, lại
    thêm khí hậu khắc nghiệt, nhất là vì thấy thế của
    quân ta đã vững vàng khó phá nổi, nên Thoát Hoan quyết
    định lui binh. Thoát Hoan lệnh cho Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp
    rút về theo đường biển, Thoát Hoan sẽ rút theo đường

    Hưng đạo vương biết được kế hoạch lui binh của địch,
    nên đã sai tướng Phạm Ngũ Lão dẫn quân lên Lạng Sơn mai
    phục sẵn, rồi sai tướng Nguyễn Khoái bí mật cho quân
    đóng cọc nhọn bịt sắt khắp lòng sông Bạch Ðằng. Khi
    nước thuỷ triều lên, giả đò ra khiêu chiến và thua
    chạy, dụ cho địch vượt qua khá xa vùng đóng cọc. Khi
    nước rút thì lập tức đốc quân phản công đẩy chiến
    thuyền địch lui vào vùng cọc nhọn. Mọi diễn tiến đã
    xẩy ra đúng kế hoạch của Ðại vương. Ðúng vào lúc
    Nguyễn Khoái dồn được chiến thuyền địch vào vùng tử
    địa thì đại quân của Hưng đạo đại vương cũng kịp
    thời kéo tới tiến công như vũ bãọ Nhiều chiến thuyền
    địch vướng cọc nhọn bị chìm. Quân Nam lợi dụng thời
    cơ, đã tiêu diệt gọn địch quân. Các tướng địch Ô Mã
    Nhi và Phàn Tiếp bị bắt. Hưng đạo vương toàn thắng.
    Thoát Hoan được tin thất trận Bạch Ðằng, liền kéo
    quân rút chạỵ Về tới ải Nội Bàng bị phục binh của Phạm
    Ngũ Lão đổ ra đánh, tướng giặc Trương Quân bị Phạm
    Ngũ Lão chém chết. Quân Nam tiếp tục truy kích, thêm hai
    tướng giặc là A Bát Xích và Trương Ngọc bị tử trận.
    Riêng Thoát Hoan được tùy tướng Trình Bằng Phi hết
    lòng phò nguy, mới chạy thoát được về Tầụ
    Thế là sau ba lần xâm lăng nước ta, đạo quân Nguyên
    Mông hùng mạnh nhất thế kỉ 13 đã chuốc lấy thảm bại
    và chịu từ bỏ hẳn mộng xâm lăng nước tạ Những chiến
    công hiển hách ấy là thuộc về các vua, quan và dân
    nước ta đời nhà Trần, song sáng chói nhất là vị thống
    soái Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn. Chiến thắng của
    nước ta chẳng những đã bảo vệ được bờ cõi giang
    sơn nước nhà mà còn giúp làm tiêu tan tham vọng của Hốt
    Tất Liệt muốn xâm lăng nước Nhật cho bằng được.
    Nhìn rộng hơn, chiến thắng của nước ta, của Hưng đạo
    đại vương, cũng làm suy yếu dần dần thế lực của
    Nguyên Mông trên phạm vi toàn thế giới và ngay tại Trung
    Hoa đang bị người Mông Cổ cai tri
    IIỊ Hưng đạo vương đặt nợ nước lên trên thù nhà
    Trong bài trước, chúng ta đã thấy Hưng đạo vương nổi
    bật với tài ba của một vị tướng kiệt xuậ Nhưng
    không phải chỉ có thệ Ngài còn lưu tiếng thơm muôn
    đời sau vì đã nêu gương trung trinh ái quốc, biết đặt
    nợ nước lên trên thù nhạ
    Thời nhà Lí suy vi, vua Lí Huệ tông (1211-1225) ươn hèn,vô
    trách nhiệm. Vua sinh hai công chúa: Thuận Thiên và Chiêu
    Thánh. Năm 1224, Huệ tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công
    chúa, tức Lí Chiêu hoàng mới lên 8 tuổi, rồi vua cha lên
    tu ở chùa Chân Giáọ Chiêu hoàng là vua nữ duy nhất trong
    lịch sử nước tạ
    Trong tình hình ấy, quan Thái sư Trần Thủ Ðộ nhận định
    vận nước nguy nan, chỉ có nhà Trần ra tay mới cứu
    được. Cho nên Trần Thủ Ðộ đã dàn dựng cuộc hôn
    nhân vương giả Lí Chiêu hoàng lấy cháu của ông là Trần
    Cảnh, rồi lại thu xếp Lí Chiêu hoàng truyền ngôi cho
    chồng, tức là vua Trần Thái tông.
    Lấy nhau lâu, hoàng hậu Chiêu Thánh đã 19 tuổi vẫn chưa
    sinh con nối dõị Ðó là một mối nguy cho triều đại
    mớị Trần Thủ Ðộ liền ra tay một lần nữa, bắt
    Thuận Thiên (chị ruột của Chiêu Thánh) là vợ của Trần
    Liễu (anh ruột của Trần Cảnh, tức vua Thái tông) đang có
    bầu gả cho Trần Cảnh; bắt vua phế Chiêu Thánh hoàng hậu
    xuống làm công chúa, nâng Thuận Thiên lên chức hoàng
    hậụ
    [​IMG]
    Earn Money ...Click here
    http://greenhorse.com/join_now.ghc?r=7898434
    http://www.emailcash.com.au/join.asp?refer=E90923
    Support for me
  4. division_commander

    division_commander Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/06/2003
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    0
    Bị mất vợ,Trần Liễu tức giận, làm loạn. Vua Thái tông cũng buồn lòng, bỏ lên chùa Phù Vân trên núi Yên Tử (Quảng Ninh). Trần Thủ Ðộ dẫn quần thần lên chùa đón
    vuạ Vua nói dỗi: Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nài mãi không được, Trần Thủ Ðộ bảo các
    quan: Hoàng thượng ở đâu, tức triều đình ở đấỵ Nói xong, Thủ Ðộ truyền xây cung điện tại chùa Phù Vân. Nhà sư trụ trì vội van lậy vua hồi triềụ Vua Thái tông
    bất đắc dĩ phải nghe theo. Ðược ít lâu, Trần Liễu nhắm không thành công, đang
    đêm cải trang, lẻn lên thuyền vua, xin hàng. Hai anh em ôm nhau khóc. Trần Thủ Ðộ biết chuyện, tuốt gươm toan chém Trần Liễụ Vua Thái tông lấy thân mình che cho anh và xin chú tha cho Trần Liễụ Vua còn cắt đất An Sinh cấp cho anh và phong cho ông là An Sinh vương. An Sinh vương Trần Liễu chính là cha của Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Còn vua Thái tông (tức Trần Cảnh) lại là cha của vua Thánh tông và các ông Chiêu minh vương Trần Quang Khải, Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc (tức kẻ phản bội, đầu hàng quân Mông Cổ), và Chiêu văn vương Trần Nhật Duật. Trần Liễu được tha tội làm loạn, được cấp đất và phong vương, nhưng không thể quên được mối thù hận mất vợ, cho nên đã răn dậy Trần Quốc Tuấn phải chăm chỉ học tập, văn ôn võ luyện kiêm toàn , để sau này có dịp rửa mối nhục cho ông. Trần Liễu trăn trối:"Sau này, nếu con không vì ta mà đoạt thiên hạ thì ta nằm dưới lòng đất sẽ không nhắm mắt được".
    Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn nhớ lời cha trăn trối, nhưng Ngài không bao giờ thực hiện, bởi vì Ngài biết đặt nợ nước lên trên thù nhà trước cường địch, Ngài biết chủ động giải mối thù hận giữa hai gia đình để cùng nhau chung sức cứu nguy đất nước. Chuyện kể một lần Quốc Tuấn mời Thái sư Trần Quang Khải lên thuyền mình trò truyện, đánh cờ và sai nấu nước thơm để đích tay lau rửa cho Trần Quang Khải. Làm thế để muốn vĩnh viễn xoá bỏ hận thù giữa hai gia đình Trần Liễu và Trần Cảnh. Chuyện khác kể, có lần Ngài đem chuyện thù oán giữa hai gia đình ra hỏi dò các con. Một người con tên Trần Quốc Tảng khích Ngài nên cướp ngôi, vương nổi giận, toan chém. Các con và bọn tâm phúc van xin vương mới tha cho
    Tảng, nhưng nghiêm khắc mắng :"Từ nay cho tới khi nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa".
    Ðối với vua, với nước thì như thế, còn với những kẻ lầm đường lạc lối thì saỏ Sau chiến tranh vệ quốc toàn thắng, triều đình dâng sớ tâu vua về những kẻ phản nghịch, đầu hàng giặc. Vua hỏi ý Ngài về cách xử trị Vương đã xin đốt bỏ hồ sơ để xoá hết hận thù, tránh cho kẻ lầm đường phải mang mặc cảm tội lỗi, hoặc là vì bị cùng đường sẽ sinh loạn. Ðó là tấm lòng khoan dung, đại lượng của bậc anh hùng.
    Tóm lại, Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc kiệt xuất văn võ song toàn, tài đức siêu quần bạt chúng. Toàn dân Việt Nam muôn đời nhớ ơn Ngài,noi gương Ngàị Chẳng những thế, dân còn tôn Ngài lên bậc hiển thánh và thờ phụng Ngài tại Ðền Ðức Thánh Trần ở Kiếp Bạc (Bắc Việt), tại Ðền Ðức Thánh Trần
    đường Hiền Vương, Sài Gòn,v.v..
    Hai tháng trước khi Ngài qua đời, vua Trần Anh tông đến thăm và hỏi Ngài:" Thượng phụ một mai khuất núi, nếu giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao" Ðại vương tâu vua nhiều điều tâm huyết, xin trích một ý:"Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rệ Ðó là thượng sách giữ nước". Vua Thánh tông đã tưởng thưởng sự nghiệp vĩ đại của Ngài bằng cách vua đích thân làm bài văn kể hết công lao của Ngài, cho khắc vào bia đặt vào đền sinh từ để thờ
    sống Ngài. Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tí (1300), vừa nghe tin Ngài qua đời, vua Trần Anh tông khóc to lên:" Thượng phụ là trụ thạch của nước nhà, mặc áo giáp, cầm mũi nhọn, quét sạch bụi Hồ, lấy lại thần kinh, vỗ yên muôn họ, nay bỏ
    trẫm mà đi, tìm đâu được người lo cho dân, yêu nước như Thượng phụ".
    Sau đó thượng hoàng Trần Nhân tông và vua Anh tông truyền chỉ các quan mặc áo đại tang, vua đi xe mộc, ngựa trắng, thân hành tới tận nơi chủ trì tang lệ. Theo lời di chúc, thi hài Ngài được hỏa táng, chôn trong vườn, đất san bằng và trồng cây lên như cũ, không xây lăng mô Vua phong cho Ngài là Thượng Quốc Công Bình Bắc Ðại Nguyên Súy Long Công Thịnh Ðức Vĩ Liệt Hồng Huân Nhân Vũ Hưng Ðạo Ðại Vương, cho lập đền thờ ở Thiên Trường và Vạn Kiếp.
    Mặc dù còn hận chiến bại, nhưng sử sách nhà Nguyên vẫn tỏ ra kính trọng Ngài bằng cách không dùng tên húy của Ngài mà gọi là Hưng đạo vương. Trong giới dân giả người Trung Hoa vẫn thường doạ con nít:"Hình tầu tài vương" (Hưng đạo đại vương). Có nơi còn viết 4 chữ đại tự này dán lên đầu giường để trấn áp ma quỷ!
    IV. Ðệ nhất danh tướng thời trung cổ Nói chung, trước đây thế giới coi nước ta chỉ là một nước "nhược tiểu" so với những nước vùng Ðông Á như Nhật và Trung Hoạ Nhiều "sử gia" Âu Mĩ thường viết rất thiên lệch và thiếu sót về Việt Nam. Xin lấy ngay một thí dụ trong cuốn Viet Nam của tác giả David K. Wright, xuất bản ở Chicago, năm 1989. Khi viết cuốn này, tác giả đề ở trang đầu là đã tham vấn với hai giáo sư tiến sĩ Clark D. Neher,Ph.D. và Robert L. Hillerich, Ph.D.. Vậy mà ở
    Chương nói về các danh nhân của nước ta xưa nay, tác giả đã lần lượt nêu tên: Hồ Chí Minh, Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Võ Nguyên Giáp! Như thế đó và chỉ có bấy nhiêu thôi! Thật đáng mắc cở cho một người đã mất công viết cả một cuốn sách!
    Riêng về những cuộc xâm lăng nước ta của quân Mông Cổ do chính Hốt Tất Liệt (Kublai) ra lệnh thì các sách Âu Mĩ không nói tới, nếu có nói cũng chỉ nói sơ sài và bao giờ cũng ngưng lại ở chỗ quân Mông Cổ tiến vào nước ta cách dễ dàng, không thấy tường thuật là họ ở lại được bao lâu và tại sao họ lại rút về, rút về có "ôm
    đầu máu" không, hay là ra về được bình an thơ thớỉ! Lấy thí dụ trong cuốn Area Handbook For Mongolia của 13 đồng tác giả viết làm tài liệu cho các Ðại học Mĩ, do Hội Ðánh Giá và Nghiên Cứu Sử thực hiện (Historical Evaluation and Research Organization), ấn bản đầu ra năm 1970. Sách này viết:"In 1252 and 1253 Kublai conquered Yunnan&..Tonking was then invaded and pacified, the conquest ending with the fall of Hanoi in 1257". Sự thật thì khi chinh phục xong Vân Nam, đúng
    là Hốt Tất Liệt đã sai tướng Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) sang đánh nước ta và có hạ được thành Thăng Long vào năm 1257. Nhưng cuộc chinh phục không chấm dứt ở việc "ổn định"(pacified) gì cả, trái lại, chỉ sau một thời gian ngắn, đoàn quân xâm lăng của Ngột Lương Hợp Thai đã bị quân ta đánh bại tại Ðông Bộ Ðầu và
    phải rút chạy về Vân Nam. Các "sử gia" người Mĩ không biết gì về cuộc tháo chạy "té khói" ấy và đọc tiếp cũng không thấy nói chi đến hai cuộc xâm lăng nước ta tiếp theo vào các năm 1284 và 1287. Trong hai lần xâm lược sau, khi tháo chạy về Tầu, nhiều danh tướng của đoàn quân Nguyên Mông đã phải bỏ xác tại trận như đã tường thuật trên đây. Thân phận "nhược tiểu" thường chịu nhiều thiệt thòị
    Chuyện tầm vóc quốc gia mà còn như thế, huống chi là chuyện của những cá nhân, dù cá nhân có là bậc anh hùng hào kiệt như Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Thế nhưng mới đây, may mắn sao, bên Anh Quốc, lần đầu tiên, những cuộc chiến thắng quân xâm lược Mông Cổ của dân nước ta đã được biết đến và danh tiếng lẫy lừng của vị chỉ huy thống soái Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn đã được công nhận.
    Theo tác giả Trọng Minh trong cuốn Vẻ Vang Dân Việt, tuyển tập 3, thì Ông đã căn cứ vào tài liệu của Viện Khoa Học Hoàng Gia Anh để tường thuật về sự việc này như sau: "Tháng 2 năm 1984, Hội Hoàng Gia Anh, tức viện Khoa Học
    Hoàng Gia (Royal Society) đã triệu tập một phiên họp, gồm 478 nhà khoa học về lịch sử quân sự của các nước, phần đông cũng là các nhà quân sự có vai vế của thế kỉ, để bầu ra 10 vị tướng soái kiệt xuất nhất trong lịch sử nhân loại, qua các thời đại: thượng cổ, trung cổ, cận và hiện đạị Mục đích là để chuẩn bị cho
    việc xuất bản cuốn Bách Khoa Toàn Thư nước Anh. Sau khi liệt kê 98 thống soái tài ba nhất của các nước trên thế giới, phiên họp đã bầu ra 10 tướng soái cho
    cả 4 thời đạị Thời thượng cổ 3 vị; cận đại 4 vị; và hiện đại 2 vị, trong số này có nhiều vị chỉ được 70% số phiếụ Riêng thời trung cổ, Hưng Ðạo vương Trần
    Quốc Tuấn là vị tướng soái duy nhất được chọn với tuyệt đại đa số phiếu 100%. Ðiểm đáng chú ý là trong số phiếu còn ghi rõ Hưng Ðạo vương Trần Quốc Tuấn là
    người đã đánh thắng kẻ thù mạnh nhất thế giới là quân Nguyên Mông".( Sd. Trang 26)
    Mặc dù chúng tôi chưa có trong tay tài liệu mà tác giả Trọng Minh đã thủ đắc, song chúng tôi cho sự việc này là đáng tin. Bởi vì nếu mở bộ Bách Khoa Toàn Thư
    nước Anh năm 1991 (The New Encyclopaedia Britannica, volume 11, 15th e***ion, trang 892 và 893), ta thấy đã nói tới 35 dòng về Nhà Trần ở nước ta, trong đó công nhận 3 lần Nhà Trần đánh đuổi quân xâm lược Mông Cổ, và dành riêng
    31 hàng để nói về Trần Hưng Ðạo, đã mô tả Ngài là một chiến lược gia sáng chói, ba lần đánh bại những đoàn quân của Hốt Tất Liệt (a brilliant military strategist
    who defeated Kublai Khan's Mongol hordes). Chúng tôi còn tin là từ việc làm tốt đẹp của Viện Khoa Học Hoàng Gia Anh nêu trên, đã gây ảnh hưởng trong một
    số cuốn sách xuất bản những năm gần đây ở Hoa Kỳ. Chẳng hạn như trong cuốn Viet Nam Rebuilding A Nation của Sherry Garland, Dillon Press, Inc. xuất bản tại Chicago năm 1990, đã viết như sau :"The Mongol emperor Kublai Khan attacked Dai
    Viet. Khan's great army outnumbered the Vietnamese more than two to one, but the VN general was a master of guerrilla warfarẹ VN became one of the few countries in the world to drive off the famous Mongol invaders." Sd. Trang 37. (Hoàng đế Mông Cổ Hốt Tất Liệt Ðại hãn đã tấn công Ðại Việt. Ðại binh của Ðại hãn
    đông gấp đôi quân nước Việt, nhưng vị thống soái VN là bậc thầy về chiến tranh du kích. Vì thế, VN trở thành một trong ít nước trên thế giới đã đánh đuổi
    được quân xâm lược Mông Cổ). Và trong cuốn Vietnam của Karen Wills, do Lucent Books xuất bản tại San Diego năm 2000, đã viết: "Three hundred thousand Mongols
    proved no match for the guerrilla battle tactics of the Vietnamese" . Sd. Trang 30. (Ba trăm ngàn quân Mông Cổ đã không thắng nổi thuật du kích chiến của người Việt". Như thế, ngày nay, một số tác giả Âu Mĩ đã bắt đầu nói đúng, mặc dù vẫn chưa nói đủ, chưa nói hết sự thật như tính khách quan của môn sử đòi hỏị Nhưng ít ra có vẫn hơn không. Thế giới sẽ phải nói về lịch sử nước ta một cách công bằng như đang nói về nước Nhật, nước Tầu, và chắc chắn lịch sử sẽ ghi nhận Việt Nam nước ta đời nhà Trần, thế kỉ thứ 13, đã 3 lần đánh thắng đạo quân Mông Cổ hung hãn nhất thời Trung cộ Ðó là một nhân tố hết sức quan trọng làm cho hùng khí ngất trời của đạo quân Mông Cổ bắt đầu suy tàn dần. Có thể nói Việt Nam ta thời đó đã đóng góp đáng kể vào nền hoà bình của thế giới, mà vị thống soái kiệt
    xuất của đạo quân vệ quốc anh hùng ấy chính là Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn vậy.
    Được Metalism sửa chữa / chuyển vào 01:47 ngày 05/07/2003
  5. ctech

    ctech Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/05/2003
    Bài viết:
    381
    Đã được thích:
    0
    Đọc về hào khí Đông A đời Trần thật sướng. Tuy nhiên, thật đáng buồn là còn rất ít các tài liệu trên thế giới đề cập về các chiến công hiển hách này. Bộ The Encyclopedia of World History (2001) có đề cập đến cả 3 lần thắng quân Mông Cổ của VN nhưng cũng rất sơ sài ( http://www.bartleby.com/67/399.html ).
    Nhân tiện, thông tin thêm bộ Encyclopedia do Peter N. Stearns chủ biên này khá hay, các bác có thể dùng để tham khảo tương đối tốt http://www.bartleby.com/67/

    Ctech

    ------------------
    Không có tài cán gì, ngồi nói luyên thuyên vậy
  6. Metalism

    Metalism Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    764
    Đã được thích:
    0
    Trước khi quân Nguyên kéo sang lần thứ 3. Hưng Đạo Vương nói với vua Trần "Thế giặc năm nay dễ hơn trước". Vậy là quá đủ để chứng minh cho một vị tướng tài.
  7. bokhi

    bokhi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/04/2003
    Bài viết:
    99
    Đã được thích:
    0
    Tại sao các sử gia thế giới tôn vinh Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn là đệ nhất danh tướng thời Trung Cổ

    Xin lỗi bạn, bạn có thể nói rõ "các sử gia thế giới" đấy là ai, cuộc bầu chọn đấy được tổ chức với hình thức nào và diễn ra ở đâu được không? (Hoặc chỉ cần nêu tài liệu hoặc link trên NET, nếu có).
    Mình cũng rất quan tâm lịch sử và lịch sử quân sự (có lẽ cũng gần như bạn). Nhất là do mình hiện nay đang ở nước ngoài nên lại càng rất quan tâm xem người ta nghĩ về Việt nam như thế nào.
    Nói chung ở những cuốn sách nói về lịch sử quân sự chung chung mà mình được biết thì rất có ít cuốn sách nói về 3 lần chiến thắng của Đại Việt trước Mông Cổ.
    Trong thâm tâm, mình cũng rất tự hào về chiến thắng của dân tộc mình cũng như tài năng của Trần Hưng Đạo, nhưng mình sợ rằng trên thế giới kể cả với giới sử học và quân sự điều đó ít người biết đến.
    Mình nghĩ đấy cũng là không may mắn của nước mình (hiện tại thôi) - dù sao VN vẫn là một nước nghèo, chưa chứng tỏ được gì nhiều (ngoài quân sự) - do vậy cũng ít người quan tâm. Nếu mai đây VN cũng giầu có như Nhật hoặc Đại Hàn chẳng hạn. Chắc hẳn sẽ có nhiều người quan tâm tới VN hơn (đơn giản chẳng hạn: làm sao VN lại có thể trở nên giàu mạnh như vậy? Phải chăng VN cũng có một nền tảng vững chắc trong LS?...)
    Bài viết của bạn làm cho mình chợt nhớ hồi cách đây 2 năm mình về phép VN, nghe đâu đấy người ta đồn là Trần Quốc Tuấn và Võ Nguyên Giáp được bầu (cũng sử gia nước ngoài) là 2 trong 7 vị tướng nổi tiếng nhất mọi thời đại. Chuyện đó mình nghĩ là hơi khó... Thực ra những chuyện "bầu bán" như thế giới khoa học nghiêm túc rất ít khi bàn. Người ta có thể nói: ông này đem ra một chiến thuật mới, một chiến lược mới, hay ông này có ảnh hưởng lớn tới LS...
    Giả sử những cuộc bầu bán đấy là có thực. Chỉ kể ra những tên tuổi lớn ở châu Âu: Alexandr Đại Đế, Ceasar và Napoleon đã là ba người. Châu Á lại cộng thêm ít nhất là Thành Cát Tư Hãn đã là bốn người rồi. Đấy là những "giá trị chung" khó có ai có thể ngờ vực được. Bây giờ mình chỉ ví dụ, nếu có sử gia Nga đi bầu, liệu ông ấy có đặt VNG trước Suvorov, Kutuzov hoặc Zukov của nhà ông ấy không? Nếu là người Anh liệu không kể tới Drake hoặc Nelson? Nếu người Đức - một dân tộc có truyền thống quân sự như thế chả lẽ không kể ra được ai? (Nếu kể đến các nhà lý thuyết gia về quân sự thì không ai có thể quên được Clausewitz của Đức và Tôn Tử của TQ). Còn người Mỹ, người Nhật (chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật đầu thế kỷ 20 chẳng là chiến thắng đầu tiên của châu Á thời hiện đại)? Chưa kể một tâm lý khác. Giả sử như giới Âu-Mỹ tự chọn cho mình 5 chỗ đi, vậy còn thừa TCTH và thêm một chỗ nữa cho châu Á. Bạn nghĩ là họ sẽ chọn một ông tướng VN? Chả lẽ một nước như Trung Hoa, lớn như thế và truyền thống như thế mà họ lại không chọn ai? (Đây không bàn tới khía cạnh khả năng, chỉ nói về tâm lý, khi người châu Âu nghĩ về Viễn Đông, người ta nghĩ về Trung Quốc, sau đấy thì tới Nhật. Triều Tiên và VN... chỉ là vùng phụ cận mà thôi).
    Mình cũng tự hào về những kết quả mà dân tộc mình đã từng đạt được, nhưng mình không được lạc quan như bạn. Mà cái mà mình ngại nhất của VN bây giờ là những cái "lac quan tếu" như vậy.
    B.KH.
    PS: Cách đây vài ngày mình có đọc một cuốn sách do một người Mỹ viết (mình không muốn gọi là sử gia) Michael Lee Lanning - "100 nhà quân sự có ảnh hưởng nhất trong lịch sử". Tất nhiên là ông ta đặt Washington vào vị trí thứ nhất - nhưng những vị thứ sau có vẻ khá công bằng (theo mình :)), ví dụ Napoleon thứ hai, Alexandr thứ 3... Trong danh sách ấy cũng có một người VN, hẳn bạn cũng đoán được là ai - người đã chiến thắng Mỹ.
    Võ Nguyên Giáp được đứng thứ 40,nếu ở châu Á thì đứng sau Tôn Tử (23), nhưng trước Mao Trạch Đông (48).

  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tìm mãi chỉ thấy 1 đoạn về Trần Quốc Tuấn do 1 người Việt viết,
    STRATÉGIE ET SCIENCE DU COMBAT SUR L'EAU AU VIETNAM AVANT L'ARRIVÉE DES FRANCAIS
    LÉ Dinh Thong
    Tran Quoc TUan (1226-1300)
    Trân Quôc Tuân est resté dans l'iconographie nationale pour avoir vaincu les Chinois. Vainqueur de Chuong Duong (1285) et de Bach Dang (1288), il est le fils du prince Trân Liêu et neveu de l'empereur Trân Thai Tôn. Il est né entre 1226 et 1229 à Nam Dinh (Nord Vietnam). Partisan de la résistance à la première incursion mongole en 1285, il devient Quôc công tiêt chê (généralissime) pendant les deuxième et troisième incursions mongoles en 1285 et 1287. Ces campagnes de 1285 et de 1287 sont sans précédent. Jean Chesneaux a écrit :
    "A la fin du XIIIe siècle, les rois de la dynastie Trân vont repousser de même à trois reprises de nouvelles attaques que lancent les Mongols, à ce moment maîtres de la Chine. Celle de 1284, conduite en personne par un petit-fils de Gengis-Khan, réunissait pourtant 500 000 soldats, venus par terre et par mer ; le chef vietnamien Trân Hung Dao, qui leur tient tête avec l'appui des paysans du delta, est resté une figure légendaire; il sera longtemps l'objet d'un culte dans les pagodes bouddhiques 6".

    Trân Quôc Tuân était partisan de la résistance à outrance. L'historien Lê Thành Khôi cite "une proclamation du généralissime, affichée dans tous les villages, dans laquelle il ordonne à la population de lutter jusqu'à la mort contre l'envahisseur, ou si elle ne pouvait résister, de se réfugier dans les forêts et les montagnes, sans jamais se rendre 7".
    Lê Thành Khôi cite également une réplique historique de Trân Quôc Tuân à l'empereur Trân Nhân Tôn :
    "Nhân Tôn, à bord d'un sampan léger, était descendu à Hai dông (Quang Yên). Il fit mander Hung Dao et l'interrogea, soucieux : "La puissance de l'ennemi semble telle qu'elle me fait craindre qu'une guerre prolongée n'entraîne pour le peuple d'immenses destructions. Ne vaut-il pas mieux nous rendre pour l'en sauver ?" - Le généralissime répon*** : "Ces paroles manifestent les sentiments d'humanité de Votre Majesté, mais que deviendraient les Temples Dynastiques et les Dieux du Sol et de Moissons alors ? Si vous voulez vous rendre, faites d'abord trancher ma tête". Cette résolution inébranlable tranquillisa le souverain 8."

    Au 8e mois de Ky Hoi (1300), Trân Quôc Tuân était gravement malade.
    "Pendant sa maladie, Anh Tông qui régnait depuis 1293 était venu le visiter. Il lui demanda : "Le Prince une fois disparu, que faire si le Nord tentait une nouvelle invasion ?". Hung Dao répon*** : "L'ennemi en général se fie au nombre, et nous ne disposons que de faibles effectifs. Combattre le long avec le court, tel est l'art militaire. Quand l'ennemi avance à grand fracas comme le feu et le vent, il est facile de le dompter ! Mais s'il use de lenteur et de patience comme le ver à soie qui ronge la feuille de mûrier, s'il procède longuement et sans hâte, sans dépouiller la population, sans se soucier d'une victoire rapide, alors, il nous faut choisir de bons généraux et adapter la tactique à la conjoncture ainsi qu'au jeu d'échecs. Il importe que l'armée n'ait qu'une âme comme le père et le fils dans la famille. Il est essentiel enfin de traiter le peuple avec humanité afin d'obtenir de profondes racines et une base durable. Telle est la meilleure méthode pour conserver l'Etat 9."

    Sous la dynastie Trân, l'ambiance religieuse imprégnait tout le peuple. Ces préceptes de Trân Quôc Tuân montrent l'influence du bouddhisme Thiên :
    "User d'esprit pour vous faire respecter du peuple et faire respecter l'esprit par le peuple sans être sûr que l'esprit triomphe.
    User de la loi pour dominer le monde et faire qu'il respecte la loi sans être sûr que la loi triomphe.
    Aussi l'esprit allié à la loi n'est pas le Bien au sein même du Bien.
    L'homme d'armes génial combat là où il n'y a pas de fortification(s), attaque là où il n'y a pas de rempart et livre bataille là où elle n'est pas prévue
    Et doit être léger comme la pluie sur le néant, se bâtissant une vie sans souci 10".

    Si "le néant est conçu comme une absence de tout" (Bergson), ce paragraphe peut être considéré comme le néant pour mener à bien les affaires militaires.
    D'après Dai Viêt Su Ky Toàn Thu, (Histoire complète du Dai Viêt ), Trân Quôc Tuân a composé une oeuvre militaire intitulée Binh gia diêu ly yêu luoc (Manuel des principes essentiels de l'art militaire). Par contre, Phan, auteur du Lich triêu Hiên chuong loai chi Phan, cite deux ouvrages de Trân Quôc Tuân : Binh gia yêu luoc ( Résumé de l'art militaire) et Van kiêp Binh Thu (Manuel militaire), notant que les deux ouvrages Binh gia Yêu luoc et Van Kiêp Binh thu ont été égarés. Mais les archives en langue sino-vietnamienne de la Bibliothèque des Sciences sociales à Hanoi conservent actuellement un manuscrit intitulé Binh Thu Yeu Luoc. La première page de cet ouvrage mentionne : "Binh Thu Yêu Luoc comprenant 4 tomes composé par Trân Hung Dao, *** Quôc Tuân".
    Le tome I comprend 9 chapitres :
    1 - Thiên tuong (Phénomène céleste ).
    2 - Tuyên mô (Recrutement ).
    3 - Tuyên tuong (Sélection des généraux).
    4 - Tuong dao (Conduite des généraux).
    5 - Gian luyên (Entraînement).
    6 - Quân lê (Rituel militaire).
    7 - Mac ha (Personnel attaché).
    8 - Binh cu (Armes).
    9 - Hiêu lênh (Instructions et Ordres).
    Le tome II comprend 11 chapitres:
    1 - Hành quân (Opération).
    2 - Huong dao (Guide).
    3 - Dôn tru (Casernement).
    4 - Tuân canh (Surveillance militaire)
    5 - Quan tu (Nourriture).
    6 - Hinh thê (Le terrain).
    7 - Phong bi (Défense).
    8 - Xem mua gio (Météorologie).
    9 - Binh trung (Présages militaires).
    10 - Dung gian (L'utilisation des agents secrets).
    11 - Dung tra (La duperie).
    Le tome III comprend 7 chapitres:
    1 - Liêu dich (Estimation de l'armée ennemie).
    2 - Da chiên (Combat champêtre).
    3 - Quyêt chiên (Opérations de guerre).
    4 - Thiêt ky (Les couleurs).
    5 - Lâm chiên (Combat forestier).
    6 - Son chiên (Combat montagnard).
    7 - Thuy chiên (Combat sur l'eau).
    Le tome IV comprend 7 chapitres :
    1 - Công thành (Attaque de la forteresse).
    2 - Thu thành (Défense de la forteresse).
    3 - Dôt vây (Le blocus).
    4 - Cuu ung (Le renfort de secours).
    5 - Lui tranh (Retrait).
    6 - Duoc thua (Victoire et défaite).
    7 - Dâu hàng (Capitulation).
    Le chapitre intitulé "Le Combat sur l'eau" est l'un des plus originaux.
    L'art militaire vietnamien, comme la peinture orientale, a des occupations de montagne et de l'eau. Son (montagne) précède thuy (eau). Le chapitre sur le combat sur l'eau suit donc celui sur le combat en montagne.
    Les principes généraux
    Trân Quôc Tuân a posé un certain nombre de principes concernant le combat sur l'eau.
    Les principes évidents
    - Les grands bateaux gagnent sur les petits.
    - Les bateaux solides gagnent sur les fragiles.
    - Les bateaux naviguant sous le vent gagnent sur ceux contre le vent.
    Les principes préventifs
    - Il faut préserver le bateau de s'échouer, du feu, du vent, d'être percé, du piquet (coc ) en fer.
    Les principes comparatifs
    - La collision entre un bateau foukienois et un bateau japonais se compare à un char qui écrase une sauterelle. Tandis que le bateau foukienois est solide comme une forteresse, la taille disproportionnée de son adversaire japonais est comparable à son compartiment. En pleine mer, les grands bateaux écrasent les petits. Ce n'est pas le combat à l'arme blanche, au corps à corps, qui décide la victoire. Ici, c'est la force qui triomphe de la faiblesse.
    - Ce dernier principe prétend révéler la prépondérance de la technique dans le combat sur l'eau: technique de la construction du bateau et celle de la fabrication des armes.
    - Le navire au vent présume qu'il a l'aide de Dieu. Au contraire, celui naviguant contre le vent risque d'être perdu dans la bataille.
    - Pour un combat sur l'eau, la navire en amont est plus favorable que celui en aval.
    Les principes exceptionnels
    - Pour détruire un navire ennemi plus fort que le nôtre, on jette des feux pour le brûler. Par conséquent, la faiblesse triomphe de la force, la fragilité triomphe de la soli***é.
    - Au cas où le bateau ennemi est sous le vent, nous nous cachons dans le coude d'une rivière ou derrière un buisson ardent en attendant son passage, puis nous retournons le bateau pour que le nôtre soit au vent et le bateau ennemi soit sous le vent, dans la direction opposée. De ce fait, on transforme une situation sous le vent en celle de contre le vent.
    - Le stratagème du reflux, utilisé par le généralissime Ngô Quyên lors du premier combat sur l'eau vietnamien en 939, comprend la plantation des pieux pointus dans le lit du fleuve Bach Dang. Ngô Quyên attaqua la flotte chinoise de Hoang Thao, héritier de la couronne des Han du Sud à la marée montante et feint de battre en retraite. Hoang Thao se lance à sa poursuite. A l'heure du reflux, le généralissime se retourne et, avec toutes ses forces, charge les jonques chinoises qui fuient et viennent s'empaler sur les pieux11.
    - On installe les deux gouvernails : l'un à l'arrière et l'autre à l'avant. Si le vent de l'Est souffle, le bateau se dirige vers le Nord. Ainsi donc, on peut prendre l'initiative d'installer un gouvernail supplémentaire de plus pour profiter de toutes les directions du vent.
    - En ce qui concerne l'incendie, on profite du vent fort pour brûler le bateau ennemi. D'autre part, on renforce les troupes d'infanterie courant sur les deux rives pour brûler l'objectif. Mais si on enduit de boue la coque de navire, les feux deviennent inefficaces. Ce stratagème a pour but de protéger du feu.
    - Si le navire coule à pic en pleine mer, un bidon d'eau vaut de l'or.
    - En cas désespéré, il vaut mieux percer la carène du navire ennemi que de garder fidèlement son bateau.
    - La chasse au navire ennemi vaut mieux que la chasse aux soldats car dans l'art militaire, l'ensemble vaut mieux que les détails.
    - Voici la manière d'éviter la percée: ou bien on double la coque garnie de clous en fer, ou bien on recrute de bons plongeurs pour surveiller le navire.
    - Au moment du combat, éviter de contraindre les ennemis à plonger dans l'eau. D'instinct, ils se battront de toutes leurs forces pour échapper à la mort.
    http://www.limsi.fr/Recherche/CIG/PN2_PENSEEVIET.htm
  9. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Em đọc một số tài liệu về của Pháp cũng thấy nhắc đến Trần Hưng Đạo nhưng không dài và nhiều,có lẽ là do cách chép sử của mình không lan truyền rộng rãi hoặc là có lí do nào đấy nên không thể phổ biến khắp nơi.nhưng chừng đó cũng đủ để đánh giá về một Trần Hưng Đạo kiệt xuất
    còn cách lập luận của bokhi cũng có cái đúng cũng có cái sai,bình chọn chỉ là việc để biết thôi chứ chẳng nêu lên được điều gì.tất nhiên khi các sử gia bầu thì cũng một chút thiên vị về dân tộc của mình nhưng bạn phải hiểu hoàn cảnh là người và đối thủ của các vị tướng đó là ai
    Quân Mông Cổ lúc đó quá mạnh,đánh đâu thắng đấy,đánh từ Châu Âu sang Châu Á nhưng tại sao đánh đến Việt Nam lại thua,mà thua tận 3 lần.trong trận đánh có thể 1 sai lầm sẽ đưa đến thất bại.ví dụ cứ cho là lần đầu là quân Mông Cổ chủ quan,lần thứ 2 là sai lầm về cách đánh hay là thiên không thời,địa không lợi,nhân không hoà nhưng đến lần thứ 3 thì chẳng có lí do gì để biện luận cho việc thua trận nữa,đó chính là lí do vì sao Trần Hưng Đạo được tôn vinh
    bài viết sau đây hy vọng có thể sẽ giúp cho các bạn hiểu rõ hơn về con người của Trần Hưng Đạo
    Hưng Đạo Đại vương, Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn, Anh hùng dân tộc, nhà chiến lược chính trị, thiên tài quân sự, nhà văn hóa tiêu biểu cho khí phách, bản lĩnh và tài năng dân tộc Việt Nam những thế kỷ phục hưng mạnh mẽ và rực rỡ văn minh Đại Việt độc lập sau cả nghìn năm nô lệ. Truyền thống quật khởi và nhân nghĩa Việt Nam mấy nghìn năm và văn minh độc lập Đại Việt mấy thế kỷ chung đúc nên Người.
    Khi Người tại thế, ba đời vua Trần, trăm vạn binh tướng, mười triệu dân Đại Việt ký thác vận mệnh vào Người với ý chí thép và tài thao lược đã trỏ cờ, vung gươm xung trận quét sạch tổng cộng một triệu quân xâm lược.
    Khi Người tạ thế, nhân dân tôn Người làm Thánh. Hơn thế, đời đời thờ phụng Người là Cửu thiên Vũ đế, ngự trên ngôi thánh cao nhất, con mắt thiêng của Người thấu dõi suốt ba cõi trên trời, nhân gian và dưới đất.
    Trần Quốc Tuấn hóa Thánh trong tâm thức dân ta, bởi nhân cách của Người, tài năng của Người, công nghiệp của Người kỳ vĩ, khác thường, dường như siêu phàm mà người thường không với tới.
    Nhân cách Hưng Đạo vương là ở "trái tim hừng hực lòng yêu xứ sở", yêu giống nòi, yêu văn hiến Đại Việt. Khí phách đạp lên muôn vàn gươm đao ngoại tặc để làm nên thắng trận, vận mệnh quốc gia và trăm họ cao hơn hết thảy, hơn cả ngai vàng. Trái tim người làm đuốc lửa dẫn đầu ba quân và trăm họ phá giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, đốt thuyền giặc trên sông Bạch Đằng, nhưng cũng giàu lòng vị tha, nhân ái như suối mát với dòng tộc, với muôn dân.
    Trái tim ấy không có chỗ cho hiềm thù nội tộc mà phương hại vận mệnh quốc gia. Lắng nghe lời trăng trối báo thù của cha - An Sinh vương Trần Liễu, người có hiềm khích với vua Thái Tông, cho đúng đạo làm con, nhưng Người không nuôi hiềm khích, không muốn đoạt ngôi dù dễ như trở bàn tay bởi biết loạn triều thì lòng dân ly tán, thì nước nguy vong. Trái tim ấy đùng đùng nổi giận, sáng lòe gươm tuốt, nếu không có người can ngăn thì đầu con trai Quốc Tảng rụng xuống khi người con này cất lời khuyên cha nên đoạt lấy ngôi cao. Trái lại, con tim động lòng đến rơi lệ trước nghĩa cả mà các tỳ tướng Yết Kiêu, Dã Tượng thốt ra lời: "Chúng con không muốn làm như thế (cướp ngôi vua) để tiếng xấu muôn đời". Chính vua Trần Thánh Tông, vào thời khắc khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288) bất chợt thốt lên: "Trung nghĩa (như Quốc Tuấn) thì không ai sánh kịp".
    Và trái tim cao cả ấy cháy rực trước nạn ngoại xâm. Giặc xâm lược kéo đến cướp nước, trước vua Thánh Tông, Trần Quốc Tuấn nói lời quật khởi của núi sông, của trăm họ, với khí phách mà các bô lão đến hội Diên Hồng hô lớn, còn binh lính thì thích chữ vào cánh tay cầm giáo: "Nếu bệ hạ muốn hàng, hãy chém đầu thần đi đã". Nghe câu ấy, vua đã hả hê xuất ý tức thì, làm bài văn bia ở đền thờ sống Trần Quốc Tuấn, gọi ông là Thượng phụ.
    Trái tim ấy, khi đập những nhịp cuối cùng (vào ngày 20-8 Âm lịch năm 1300), còn chan chứa niềm yêu dân, gửi lại muôn đời lời trăng trối: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, ấy là thượng sách để giữ nước". Trái tim Trần Quốc Tuấn vằng vặc như mặt trời, lớn rộng như biển cả, trọn vẹn đau đáu niềm yêu nước thương dân, cao cả và thánh thiện. Tài ba Trần Quốc Tuấn gồm cả văn lẫn võ.
    Văn của Người ở tầm "đại học vấn, đại uyên bác" như sử gia triều Nguyễn ngợi ca. Văn Người bất hủ với Hịch tướng sĩ: "Ta ngày thường quên ăn, đêm thường quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìạ..", tâm, óc và lời cuồn cuộn như lửa cháy, làm sáng bừng lên nghĩa khí Đại Việt, cuốn thiêu đi cạn hẹp lòng người, truyền khí phách từ Người tới ba quân tướng sĩ, trào lên muôn nghìn ngọn giáo xung trận trong trống thúc hồi hồi.
    Võ ở tầm nhà chiến lược, quân sự phương Đông, hơn thế, nhà lập thuyết quân sự và bày binh Đại Việt. Lý thuyết và nghệ thuật dùng binh thuở ấy được người hội nhập và sáng tạo bộ chủ gia binh pháp, gọi là Binh thư yếu lược, từ đó soạn ra Bát quái cửu cung đồ, gọi là Vạn kiếp tông bí truyền thư, làm nền tảng cấu trúc quân đội thời Trần và luyện quân, tập tướng. Con mắt nhà chiến lược sáng tỏ cả tạo thế, dùng lực và trận pháp trước mỗi cuộc kháng chiến với tương quan lực lượng chẳng giống nhau. Kháng chiến lần thứ nhất (1258) Người ung dung "lấy quân nhàn thắng giặc mệt", giáp trận ngay, tiến công mãnh liệt, khi giặc còn ở ngoài cửa ngõ Thăng Long một trận lớn Đông Bộ Đầu (Phú Xuyên, Hà Tây) đã kết thúc chiến tranh. Ba cuộc kháng chiến, tổn thất nặng nề, kinh thành bị phá phách, lăng miếu ở Long Hưng (Thái Bình) bị tiêu hủy, đến tượng ngựa đá cũng chịu nạn gươm đao, nhưng đất nước sạch bóng thù, ý chí xâm lăng của quân thù sụp đổ, "giang sơn vững âu vàng".
    Nhà chiến lược thiên tài cũng là vị chủ soái áo bào nhuốm khói cùng tướng sĩ. Người có mặt ở cả những trận đánh ác liệt nhất, rời trận địa cuối cùng ở những lần rút lui chiến thuật. Có lần, sau tất cả các vua, vương tộc và binh sĩ, Người chỉ kịp xuống thuyền Yết Kiêu, Dã Tượng đợi sẵn bờ sông Hồng thì quân giặc đã tràn đến la hét vang động mặt đê. Một bộ óc chiến lược thiên tài tính toán như thần, ít thời có được, mang cờ tiết và binh phù nguyên soái, trong một tư cách công dân - chiến sĩ như muôn quân.
    Các vua Trần, ba quân và trăm họ, thảy đều tôn vinh Người có công đầu không chỉ trong võ công hiển hách ba lần cả phá giặc ngoại xâm, như vị cứu tinh. Vua phong ông tới tột bậc: Đại vương, Thượng quốc công. Các đời sau, tướng lĩnh xuất quân, đều đến thắp hương ở một trong hàng trăm đền miếu thờ Người khắp nước, đặng đủ dũng lược và tài trí để mà thắng trận. Bởi hùng khí dân tộc, uy linh sông núi là bất tử, đã hun đúc nên con người Trần Quốc Tuấn, còn vận nước thời Trần thì đặt lên vai Người gánh nặng giúp vua trùng hưng như nhà chính trị, đặt vào tay người cây gươm chủ soái, cho nên thời ấy và mọi thời có Người thác rồi mà luôn linh hiển cùng sông núi và chúng dân, "hiển thánh" cùng các đời phá giặc, cái uy linh của "thanh kiếm dài tựa ngoài trời cao khi xưa, đêm thường kêu rít như gió trong vỏ hộp".
    Võ công lẫy lừng, phẩm tước tột bậc, nhưng nước yên, Người vẫn không ngước lên ngôi báu, mà trở về với thái ấp cũ vùng Kiếp Bạc. Người sống cho hậu thế, bằng những lời răn dạy đạo làm người. Bầy tôi phải tận trung. Anh em phải tận hòa. Vợ chồng phải tận kính. Bè bạn phải tận tín. Làm điều thiện. Bỏ điều ác. Bỏ uống rượu. Cấm tham ô. Chăm lo các nghề sĩ, nông, công, thương. Thế thì trăm điều lành đến, vạn phúc sẽ về...
    Từ giã cuộc đời, Người muốn hóa thân vào sông núi. Người không dặn xây lăng tẩm, lập đền đài, khắc bia vĩnh cửu. 72 năm, ba lần trận mạc, sống trọn vẹn với nước với dân, Hưng Đạo đại vương, Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn mất ngày 20-8 Âm lịch năm 1300, tại Thái ấp Vạn Kiếp của Người. Dân ta coi ngày đó là Giỗ cha (tháng 3, lễ Thánh Mẫu của Tín ngưỡng từ thời Hùng Vương mở nước, là Giỗ mẹ). Mãi mãi trong lòng dân ta. Người là vị Anh hùng dân tộc tiêu biểu cho khí phách, trí tuệ và tâm hồn con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam, xứ sở Việt Nam - Đức Thánh Trần.

    Hello,anh sờ tí sao em không đồng ý!!!! (Lionel Richie)
    Được thosan sửa chữa / chuyển vào 07:11 ngày 05/07/2003
  10. langbavibo

    langbavibo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/03/2003
    Bài viết:
    2.810
    Đã được thích:
    1
    Đoạn nói về Trần Hưng Đạo trong Bách khoa toàn thư Anh quốc
    http://www.britannica.com/eb/article?
    eu=75078&tocid=0&query=samo%20hung&ct=eb
    Tran Hung Dao
    Encyclopædia Britannica Article

    Article Index Entry
    E-mail this article Print this article Cite this article


    born 1229?
    died 1300 , Van Kiep, Vietnam
    original name Tran Quoc Tuan, also called Hung Dao Vuong figure of almost legendary proportions in Vietnamese history, a brilliant military strategist who defeated two Mongol invasions and became a cultural hero among modern Vietnamese.
    By the early 1280s the Vietnamese kingdom faced a growing threat from the Mongols under Kublai Khan , who had conquered China in the previous decade. When he was appointed?

Chia sẻ trang này