1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tại sao Việt Nam? - Patti

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thainhi_vn, 30/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Tại sao Việt Nam? - Patti

    "... Trận đánh đã trở thành cuộc đụng đầu dài nhất trong lịch sử hiện đại được bắt đầu ngay, không phải từ ở những thủ đô lớn của thế giới mà tại một ngôi làng nhỏ bé trong rừng không ai biết đến mang tên là Tân Trào". Trong những dòng đầu tiên của hồi ký "Tại sao Việt Nam?" (Why Vietnam?), thiếu tá OSS Patti đã viết như thế. Và cuộc chiến tranh này dù đã kết thúc 30 năm, vẫn để lại nhiều thắc mắc trong lòng của bao nhiêu người Mỹ và người Việt Nam. Tại sao? Tại sao Việt Nam?
    Nhân kỷ niệm 60 năm ngày Việt Nam độc lập dân tộc và 30 năm ngày Việt Nam thống nhất đất nước, xin gửi đến các bạn bộ hồi ký đồ sộ này, với mong muốn góp thêm cho Sử quán một tài liệu có giá trị.

    Thái Nhi
    www.vnthuquan.net

    ---
    TẠI SAO VIỆT NAM?
    (Why Vietnam?)
    BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ
    (Prelude to America?Ts Albatross)

    Archimedes L.A. Patti
    Lê Trọng Nghĩa dịch

    LỜI TỰA

    Đây chỉ là một sự cố gắng nhằm giải đáp cho nhiều người Mỹ hai câu hỏi khá phức tạp và tiếp liền nhau: ?oTại sao Việt Nam?? và ?oCái gì đã xảy ra ở Đông Dương vào năm l945??.
    Lịch sử viết về thời kỳ đó hiển nhiên còn có một khoảng trống mà cuốn sách này hy vọng có khả năng góp phần bù đắp được. Các bản tường thuật thiên vị hoặc rời rạc của người Pháp và người Việt cũng đã không trình bày nổi một cách khách quan vai trò của nước Mỹ trong giai đoạn lịch sử bi thảm của Pháp, Việt và Mỹ này.
    Trong nhiều năm qua, các nhà chức trách Washington cũng đã tốn rất nhiều lời giải thích cho những câu hỏi dai dẳng về việc dính líu của người Mỹ chúng ta vào Việt Nam. Một số những lời giải thích dó đã không làm thoả mãn được ai và đã bị rơi rụng dần vì không đáng tin cậy. Số còn lại, đã từng dược dùng làm chứng cứ cho lập luận rằng chúng ta phải ở đấy để giành lấy ?ohoà bình trong danh dự? cũng đã bị vứt bỏ qua sự kiện 30/04/1975. Các bản tuyên bố chính thức của Nhà Trắng, các tập hồi ký muộn mằn của các Tổng thống và các cố vấn thân cận của họ, các bản thuyết trình dày cộp ở Quốc hội mà nổi bật là tập hồ sơ Lầu Năm Góc ?ophơi trần mọi việc?; tất cả chỉ cố gắng nhằm biện bạch cho việc sa lầy càng ngày càng lún sâu của chúng ta và cũng chỉ có tác dụng bôi mờ, che giấu những mục tiêu cơ bản thực sự của chúng ta bằng những lập luận mơ hồ, những lời biện hộ và xác nhận sự bất hạnh của người Mỹ chúng ta ở đó.
    Là một bản tường thuật trực tiếp về sự có mặt đầu tiên của người Mỹ ở Đông Dương, cuốn ?oTại sao Việt Nam?? ít ra cũng đáp lại được phần nào câu hỏi tại sao người Mỹ chúng ta đã ở đó, đồng thời lại cho thấy những chủ trương cao siêu cua những năm 1940 đã làm chúng ta xa rời những tình cảm đã được diễn đạt một cách cao thượng trong Hiến chương Bắc Đại Tây Dương - các dân tộc có quyền tự do lựa chọn Chính phủ mình muốn và phải dược trả lại chủ quyền, quyền tự trị đã bị tước đoạt. Cuốn sách cũng không phải là một lời bào chữa hoặc một bản án kết tội ai mà chỉ là một sự trình bày thẳng thắn các sự kiện đúng như chúng đã diễn ra và được tác giả ghi lại theo dòng thời gian. Từ những sự việc được dẫn chứng, người đọc có thể tự rút ra những kết luận riêng của mình.
    Từ đó đến nay, cả một thế hệ con người đã trôi qua nên trong phần I của bốn phần của cuốn sách này, tôi thấy cần phải nhắc đến bối cảnh tình hình từ đầu năm 1942 đến thời điểm 1945. Phần II dành nói về các kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc giao dịch với người Pháp, Trung Hoa và Việt Nam ở Trung Quốc và cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Hồ Chí Minh. Phần III thuật lại việc phái đoàn của tôi tới Hà Nội, vai trò của tôi trong công tác đối với người Nhật, Pháp và Việt. Phần này tả lại thời kỳ sôi động Tháng Tám, Tháng Mười 1945, việc nảy sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập đầu tiên, sự thất bại trong mưu toan của người Pháp định trở lại kiểm soát Đông Dương, cuộc chiếm đóng tàn phá của người Trung Hoa, cái chết của đại tá A. Peter Dewey, người Mỹ nạn nhân đầu tiên ở Việt Nam và việc đầu hàng chính thức của Nhật Bản. Phần IV ?oHậu quả? nêu lên những điểm nổi bật trong chính sách sau Thế chiến thứ hai của Mỹ, chính sách đã đưa đến sự dính líu trực tiếp của chúng ta vào Việt Nam và sơ lược tóm tắt những vấn đề tồn tại mà chúng ta còn phải đương đầu.
    Khi kể lại các cuộc nói chuyện riêng giữa tôi với Hồ Chí Minh, tôi chỉ muốn chuyển đến người đọc một vài suy nghĩ sâu sắc nhất của tôi về nhà cách mạng bí ẩn đó cùng với những khát vọng đối với nhân dân, đối với tiền đồ đất nước Việt Nam mới mẻ của ông. Đã có nhiều người Việt Nam coi cuộc rút lui vừa qua của can thiệp quân sự Mỹ ở Việt Nam như là trận thất bại cuối cùng của Chủ nghĩa thực dân trên đất nước họ. Nhưng từ 1945, Hồ Chí Minh đã thấy rất rõ rằng dân tộc của ông sẽ còn vấp phải vô vàn khó khăn trong sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của kẻ thù.
    Điều mong muốn lúc đó của ông Hồ để Mỹ giữ một vai trò hoà bình và ổn định trong công cuộc phát triển đất nước ông, chưa bao giờ thể hiện xác đáng như hiện nay. Vì vậy trong khi chúng ta đang còn tiến từng bước ngập ngừng và chậm chạp trong việc lập quan hệ bình thường với nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, rõ ràng là đã đến lúc phải xem xét lại các nhận định cơ bản của chúng ta và xác định xem thực sự lợi ích tối cao của người Mỹ chúng ta là ở đâu.
    Người đọc có thể hỏi ngay tại sao đến nay tôi mới thuật lại câu chuyện này. Từ năm 1946, tôi đã phác thảo ra một bản tường thuật ngắn gọn về thời kỳ này nhưng còn vướng nhiều điều ràng buộc khác nên đành phải bỏ dở. Sau sự sụp đổ của Pháp ở Điện Biên Phủ, bản thảo của tôi cũng đã sẵn sàng để được cho in nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đất nước chúng ta bị lôi cuốn vào tình trạng rối ren của thời kỳ chủ nghĩa chống Cộng điên cuồng Mac Carthy hoành hành. Bộ Lục quân rất nhạy cảm với những lời phê phán thù địch của giới quân sự đối với chính sách đối ngoại của Mỹ, đã thông báo cho biết rằng việc tiết lộ công khai mọi tin tức hoặc ý kiến của tôi về vấn đề dính líu của Mỹ vào Việt Nam sẽ không làm cho chính quyền hài lòng và tôi có thể sẽ bị kỷ luật. Tôi phản đối nhưng vẫn phải chấp hành lệnh cấm của Bộ.
    Chỉ sau khi quân đội ta đã rút hết khỏi Việt Nam vào tháng 3-1973, tôi mới tập hợp lại các bản ghi chép cũ trong thời kỳ chiến tranh và dựng lại các sự kiện và tình huống, các chính sách và các hoạt động ban đầu của Mỹ ở Đông Dương. Công việc thu thập tài liệu khá phức tạp vì nhiều bức điện và báo cáo của tôi đã bị phân tán ở các cơ quan lưu trữ Bộ Ngoại giao, Bộ Lục quân và Cục Tình báo Trung ương. Việc sưu tầm những tài liệu đó ở Bộ Lục quân đã không mang lại kết quả. Nhưng ở Bộ Ngoại giao và Cục Tình báo Trung ương CIA thì mọi thứ còn gần như nguyên vẹn và các tài liệu đã rất có ích cho tôi. Ở đây tôi xin tỏ lời cám ơn sự giúp đỡ tận tình của R.M. Blum, nhân viên Uỷ ban Đối ngoại Quốc hội của nghị sĩ Fulbright, R. Spector thuộc Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Quân sự của quân đội Mỹ và Gail F. Donnalley, nguyên cán bộ lưu trữ Cục Tình báo Trung ương. Sự giúp đỡ của họ đã giúp tôi tìm thấy được những tài liệu gốc, nguyên bản, các bản viết tay, các hồ sơ thông báo, gồm cả tập ?oNhững quan hệ Mỹ - Việt Nam?, tập Romanus - Saunderland nói về các hoạt động của Mỹ ở Trung Quốc, Miến Điện, Ấn Độ, hồ sơ của OSS/SSU - những tài liệu vô cùng quí giá cho bản thảo 1946 của tôi.
    Quyển sách cũng sẽ không thể có được nếu như không có sự ủng hộ và giúp đỡ hào hiệp, được đánh giá cao của các bạn đồng nghiệp của tôi trong Chính phủ Liên bang, Viện Hàn lâm, những chuyên gia kỳ cựu về Đông Dương mà ở đây tôi chỉ nêu lên được một số tên. Tôi đã được sử dụng rộng rãi các tập hồ sơ lưu trữ quốc gia Mỹ, Thư viện Quốc hội, các phương tiện của Trung tâm Thư tín Quốc gia Washington ở Suitland, thư viện Mill Memorial ở Rollins College... Tôi đặc biệt cảm ơn F.E Taylor, cán bộ lưu trữ ngành Quân sự hiện đại trong sở Lưu trữ Qnốc gia, P. Dowling, cán bộ lưu trữ ngành Ngoại giao, Sở Lưu trữ Quốc gia. J.L. Mc Farland, phụ trách thư viện Mill Memorial... và nhiều người khác đã giúp tôi rất nhiều trong việc kiên trì xác định, sưu tầm và cung cấp cho tôi những văn kiện quân sự chủ yếu, hồ sơ của Bộ Ngoại giao, tài liệu tham khảo trong thư viện Quốc hội.
    Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn Mai van Elliot, Gareth Porter, Ngô Vinh Long và Trương Đình Hùng đã khéo léo giúp tôi làm sáng tỏ những điều rối ren trong nền chính trị và xã hội Việt Nam. Tôi đánh giá rất cao và đặc biệt cảm ơn ba nhân vật đã bảo trợ, khuyến khích giúp dỡ tôi: Elizabeth Mc D. Mc Jintosh, đồng sự và bạn chiến đấu của tôi ở Trung Quốc đã góp ý kiến cho bản thảo đầu tiên, Ch.E. Cuningham khi làm Tổng biên tập Nhà xuất bản trường Đại học Washington đã giúp tôi xử lý và sử dụng một cách có hiệu quả một số lớn tài liệu, A. Wang, Giám đốc nhà xuất bản Hill và Wang, đã soát lại bản thảo thứ ba và đã khích lệ tôi rất nhiều.
    Tôi hân hạnh nhắc tới sự giúp đỡ to lớn của nhân viên Nhà xuất bản Đại học California, đặc biệt là trợ lý giám đốc Stanley Holwitz đã giúp tôi nhiều trong việc soát lại và và làm dễ dàng việc ấn hành cuốn sách này.
    Sau hết, xin cảm ơn Margaret, vợ tôi, người đã chép lại các bản thảo từ bản đầu tiên đến bản thứ năm và bản cuối cùng luôn luôn với một phong cách riêng, trong sáng và sâu sắc, cảm ơn con gái Julie của chúng tôi đã bỏ thời gian nghỉ hè để sắp xếp các bản phụ lục. Đối với hai mẹ con phải chịu đựng nhiều bận rộn, phiền hà trong sinh hoạt gia đình với từng chồng sách vở, tài liệu, bản đồ đuợc bày ra, tôi thân ái mến tặng cuốn sách này.

    Archimedes Patti

    Được thainhi_vn sửa chữa / chuyển vào 20:39 ngày 30/03/2005
  2. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    PHẦN I
    WASHINGTON
    Chương 1
    Mở đầu một kỷ nguyên
    Tôi ở Côn Minh, Trung Hoa ngày 7-8-1945. Khi tin điện truyền đi khắp thế giới rằng nước Mỹ đã ném một ?oquả bom nguyên tử? xuống Hirosima. Hai ngày sau, Liên Xô tuyên bố tham chiến chống Nhật vào ngày 9-8. Và cũng vào ngày đó, chúng ta ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống Nagasaki. Đối với chúng tôi, những người đang chuẩn bị những cuộc hành quân rộng lớn chống Nhật, thật là sửng sốt khi nhận thức được rằng đó là sự báo hiệu kết thúc chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày hôm sau, 10-8, thế giới được tin Bộ Ngoại giao Mỹ đã chấp nhận đề nghị đầu hàng của Nhật theo các điều khoản Potsdam không làm tổn hại đến ngôi Thiên hoàng.
    Trong niềm vui to lớn đó, chúng tôi tin là chiến tranh đã chấm dứt đối với người Mỹ, với tất cả những người châu Á. Và do đó với mọi người. Chúng tôi đã không hiểu được rằng những cuộc chiến tranh mới để giành quyền lực, giành sự thống trị hay giành độc lập đã có thể ập đến gần như ngay tức khắc và cuộc sống của hàng triệu người lại bị cuốn sâu và ngay lập tức vào các cuộc chiến tranh đó như ở Trung Hoa, Ấn Độ, Indonésia và Mãn Châu và chỉ vì một số ít người.
    Trận cuối cùng trong Thế chiến thư hai được trả giá khoảng một triệu rưỡi sinh mạng con người (1), và trận đánh đã trở thành cuộc đụng đầu dài nhất trong lịch sử hiện đại được bắt đầu ngay, không phải từ ở những thủ đô lớn của thế giới mà tại một ngôi làng nhỏ bé trong rừng không ai biết đến mang tên là Tân Trào, nơi đây đã tiến hành Đại hội bất thường của các đảng phái chính trị Việt Nam từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 8 năm 1945. Tại Đại hội này, họ tuyên bố quyết tâm giành độc lập và bầu Hồ Chí Minh làm lãnh tụ của mình. Do hoàn cảnh mà tôi đã được có mặt tại nơi trung tâm các sự kiện đang diễn ra.
    Khi binh lính Mỹ ở Côn Minh và ở Trung Hoa ăn mừng chiến thắng Nhật thì Bộ chỉ huy quân đội Đồng minh ở Trung Hoa đã quyết định mở một số cuộc hành quân quan trọng sau cuộc đầu hàng. Cơ quan công tác chiến lược(2) đã nhận được chỉ thị của Chiến trường Trung Hoa yêu cầu phải thi hành một trong nhiều nhiệm vụ được giao là giải phóng các tù binh chiến tranh(3) của Đồng minh đang bị Nhật giam giữ tại một số trại ở Trung Hoa, Mãn Châu và Triều Tiên, còn ở Đông Dương thì không. Tới ngày 10-8, đại tá Riehard P. Heppner, chỉ huy tình báo chiến lược tại Chiến trường Trung Hoa đã cho xúc tiến các kế hoạch đánh bất ngờ do OSS chuẩn bị nhằm giải phóng và bảo vệ các tù binh chiến tranh của Đồng minh. Một số đội Mercy của OSS được nhảy dù xuống các trại tù binh của Nhật để bảo vệ tù binh của chúng ta và trả về cho Đồng minh kiểm soát. Vài ngày sau, các đội này đã được nhanh chóng đưa đến Mukden (nơi tướng Wainwright(4) bị giam giữ) rồi Bắc Kinh (nơi thủy quân đảo Wake và những phi công lái máy bay trận tập kích Doolittle bị giam giữ) và các trại khác.
    Sau một cuộc thảo luận quan trọng, Heppner thuyết phục tướng A.C. Wedemeyer(5), Tổng chỉ huy các lực lượng của Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa rằng một đội ?oMercy? cần được đưa sang Hà Nội và Đông Dương, nơi có đến vài nghìn tù binh (Mỹ, Anh, Úc, Ấn Độ và Pháp) đang bị giam giữ. Tôi phụ trách đội đến Hà Nội. Ngoài ra tôi còn được giao những nhiệm vụ khác như: Chuẩn bị sơ bộ cho việc giải giáp quân Nhật ở Đông Dương, chịu trách nhiệm điều tra tội ác chiến tranh và báo cáo tin tức tình hình chính trị, quân sự và kinh tế.
    Ít tuần lễ sau, Hồ Chí Minh đã nói với tôi về một chính sách ?otiêu thổ? đối với Việt Nam sau khi ông có linh cảm về điều đó. Nhưng lúc bấy giờ cả ông và tôi đều không lường hết tầm lớn lao của cuộc xung đột sắp xảy ra cũng như sự phân hoá mà nó có thể gây ra trong đời sống của người Mỹ và trong chính thể nước Mỹ.
    Vào một buổi chiều nóng ẩm, chúng tôi đã gặp nhau để thảo luận việc bảo đảm an toàn cho những người Pháp sống ở Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác trên miền Bắc; nhưng, như ông đã thường làm trong những lần gặp trước, ông đã lái câu chuyện sang yêu cầu cấp bách của ông về sự ủng hộ của Mỹ cho nền độc lập của Việt Nam - và một lần nữa, tôi lại trả lời rằng vấn đề ấy không thể giải quyết vào thời điểm này và cần phải được xem xét và giải quyết sau chiến tranh qua hội đàm giữa Hà Nội và Paris hoặc có thể ở Liên Hợp Quốc. Ông Hồ im lặng một lát, đoạn hạ giọng nhưng với sự quả quyết sâu sắc, ông nói rằng nếu người Pháp cố tình trở lại Việt Nam ?onhư là những tên đế quốc để bóc lột, tàn sát và giết hại đồng bào tôi?, ông dám khẳng định với họ và thế giới rằng - đất nước Việt Nam có thể biến thành tro bụi, điều đó thậm chí có nghĩa là đối với tất cả cuộc sống của mọi người đàn ông, đàn bà, trẻ con, chính sách đó của Chính phủ ông cũng sẽ là một trong những chính sách ?otriệt để tiêu thổ đến cùng?. Lời nói này đã được phát ra từ một con người biết tự chủ trong cách nói cân nhắc về ngoại giao nên tôi hiểu đó không phải là một lời đe doạ vẩn vơ, và đến nay tôi vẫn còn nhớ như in trong óc.
    Buổi nói chuyện đó của chúng tôi ở Hà Nội, vào lúc các cuộc giao chiến đã chấm dứt nhưng trước khi người Nhật ở Đông Dương đầu hàng, và cũng trước khi các lực lượng quân sự Trung Hoa kéo đến để tiếp nhận sự giải giáp quân Nhật và điều khiển việc hồi hương của họ.
    Trong 6 tháng trước đó, tôi là người chỉ huy công tác tình báo bí mật của cơ quan mật vụ(6) thuộc OSS ở Đông Dương và đóng ở Côn Minh. Tôi đã cảm nhận đôi điều tai họa về tính không khoan nhượng của Pháp về qui chế của Đông Dương, một thái độ làm cho tương lai không tránh khỏi rắc rối. Có những khoảnh khắc mà chỉ cần một bước nhỏ trong hướng đi cũng có thể làm thay đổi một tiến trình lịch sử.
    ---
    (1) Khoảng 60.000 người Pháp, 56.000 người Mỹ và 1.500.000 người Việt Nam
    (2) OSS: Office of Strategic Services
    (3) POW: Prisoners of War
    (4) tướng Jonathan Mayhew Wainwright (1883-1953), nguyên tư lệnh quân Mỹ tại Philippin, là tù binh Mỹ cao cấp trong tay quân Nhật (1942-1945), sau được toán Mercy (toán công tác Cardinal) do thiếu tá R.F. Lamar chỉ huy giải thoát. Tướng Wainwright cũng là người bên cạnh tướng Mac Arthur trong buổi lễ tiếp nhận quân Nhật đầu hàng ngày 2-9-1945 trên chiến hạm Missouri.
    (5) tướng Albert Coady Wedemeyer (1897-1989), tư lệnh quân Mỹ trên Chiến trường Trung Hoa, đồng thời là Tổng tham mưu trưởng của thống chế Tưởng Giới Thạch
    (6) SI: Secret Intelligence
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 2
    ?o?Nếu Trung Quốc thất bại...?
    Hồi tưởng lại cũng thấy kỳ quặc, vì lần đầu nhận được sự gợi ý điều tôi sang Đông Dương khi bóng tối bao trùm trên chiếc ghế lạnh của chiếc tầu đổ bộ Mỹ lắc la lắc lư gần bãi biển Anxio nước Ý. Tất nhiên vào những lúc ấy hoàn toàn không phải là việc không bình thường cho những cuộc thảo luận quan trọng tại những nơi mà không có lấy một chỗ ngồi - nó hoang vắng, một lâu đài bị bom đạn phá huỷ, một bãi biển bùn lầy, hoặc bất cứ đâu. Đó là chiến tranh.
    Vào tối ngày 21-1-1944, một nhóm chúng tôi ngồi xổm xung quanh tướng William J. (Wild Bill) Donovan, chỉ huy của OSS. Nhóm này có cả một vài chuyên viên hoạt động bí mật, dại tá John.T.Whitaker(1) và tôi. Donovan đã thảo luận các hoạt động ở Ý, Balkan và ở Pháp rồi tóm tắt lại cho chúng tôi về các kế hoạch của OSS cho cuộc hành quân Overlord, vượt eo biển vào chiếm Pháp. Ông khuyên Whitaker và tôi nên đi trước Overlord để thi hành một nhiệm vụ đặc biệt ở Viễn Đông. Ông không gặp khó khăn mấy trong việc hoàn chỉnh tổ chức các đội hoạt động ở châu Âu nhưng đối với chúng tôi thì ông nhắc thêm là cũng có nhiều rắc rối. Chúng tôi đồng ý nhưng muốn biết kỹ hơn. ?oSau khi chúng ta chiếm Rome?, Donovan chỉ trả lời gọn lỏn như vậy. Một giờ sau nửa đêm, sáng ngày 22, chúng tôi đổ bộ vào bờ biển Anxio.
    Cái gì đang chờ đợi được diễn ra trong cuộc dạo chơi ngắn ngủi 25 dặm đến Rome để thay cho một cuộc hành trình đẫm máu trong 5 tháng mới tới được thủ đô nước Ý. Quân đội chúng ta đã không tiến vào các phố xá của Rome trước ngày 4-6, đúng 2 ngày trước khi đổ bộ vào đất Pháp. Nhưng dù sao thì vào hạ tuần tháng 6, tôi cũng đã được rút khỏi Chiến trường Địa Trung Hải và trên đường về Washington.
    Whitaker gặp tôi tại địa điểm liên lạc và chúng tôi lái xe đến thẳng hiệu ăn Harvey, nơi tướng Donovan đang đợi tại một chiếc bàn khuất lối. Ông cho sửa soạn một bữa ăn trưa để họp nhằm tránh sự ngắt quãng như ở nhiệm sở. Tại đó, lần đầu tiên tôi biết rằng Donovan đã chọn tôi để cầm đầu một nhiệm vụ của OSS ở Đông Dương.
    Trong mùa hè 1944, chiến tranh ở châu Âu diễn ra ác liệt và ở đó còn nhiều trận phải giành được chiến thắng nhưng ở đó đã có một mục đích lớn chung cho tất cả và không khí tràn đầy lạc quan. Bức tranh ở Viễn Đông lại hoàn toàn khác. Cuộc xung đột nhiều mặt vì những lợi ích khác nhau chống lại sự thống nhất của Đồng minh. Tâm trạng ở Washington, London và Trùng Khánh là thất vọng. Ở Trung Quốc, Nhật kiểm soát hết các đường giao thông trên đất liền, ngoài biển và hầu hết các khu thành thị - công nghiệp nhưng không kiểm soát được các nông thôn rộng lớn chung quanh. Ở đó đang diễn ra cuộc chiến tranh phân liệt giữa các lực lượng gọi là Quốc gia của Tưởng Giới Thạch và những người Cộng sản của Mao Trạch Đông. Cuộc đấu tranh huynh đệ tương tàn này bị bọn quân phiệt có thế lực làm phức tạp thêm; bọn này lúc kết cấu với bên này lúc lại chuyển sang phía kia và là những kẻ mà bất luận trong tinh huống nào cũng không chịu phục tùng hoàn toàn đối với những nhà cầm quyền Chính phủ Trung ương của Tưởng. Vì những lý do trên nên các lực lượng vũ trang của Trung Quốc không thể sánh được với các lực lượng có kỷ luật và được tổ chức tốt của phương Tây.
    Sự thiếu thống nhất giữa các nước Đồng minh ở Viễn Đông bộc lộ rất sớm. Sự sụp đổ của Singapore vào tháng 2-1942, tiếp theo là thảm hoạ ở Miến Điện đã làm tổn thương niềm kiêu hãnh dân tộc của nước Anh một cách nhanh chóng. Churchill, con người được thừa nhận là kẻ đứng đầu trong việc đề cao vị trí của nước Anh trong khu vực thuộc địa ở Đông Nam Á đang lo lắng đến sự an ninh của Ấn Độ. Ông ta coi Miến Điện là thành lũy cuối cùng cần phải giữ với bất cứ giá nào. Tất nhiên những ưu tiên tối thượng của ông ta luôn luôn vẫn là đảm bảo cho nước Anh tồn tại và là chiến lược ?oChâu Âu trước hết?.
    Tưởng Giới Thạch càng lo lắng trực tiếp hơn đối với cuộc chiến đấu ở Miến Điện vì đó là vấn đề bảo vệ biên giới của ông ta và bảo đảm cho bản thân ông luồng tiếp tế theo chương trình ?oVay-Mượn? từ nước Mỹ.
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    ROOSEVELT ?" CHURCHILL - TƯỞNG
    Tổng thống Roosevelt đồng tình với chiến lược ?oChâu Âu trước hết? của Anh nhưng muốn Churchill có một lập trường hiệu quả hơn ở Viễn Đông. Mấy năm qua, chúng tôi đã cam kết ủng hộ Tưởng trong cuộc đấu tranh chống tham vọng Liên Á của Nhật và Trung Quốc đã bị ép rất mạnh. Roosevelt sợ rằng Nhật tăng cường nỗ lực ở Trung Quốc, nắm lấy sự kiểm soát quân sự ở đó, và Trung Quốc có thể sụp đổ với nhũng hậu quả về chiến lược không lường hết được.
    Tổng thống đã bộc lộ sự lo lắng đó vào đầu năm 1942 với con trai của mình, Elliot khi ông hỏi: ?o... Nếu Trung Quốc thất bại, theo con thì có bao nhiêu sư đoàn lính Nhật sẽ rảnh tay - để làm gì? Chiếm nước Úc, chiếm Ấn Độ - và điều đó sẽ giống như một quả mận đã chín mùi chỉ còn chờ được hái. Tiến quân thẳng vào Trung Đông... một cuộc bao vây gọng kìm rộng lớn của người Nhật và Đức quốc xã, gặp nhau ở một nơi nào đó ở Cận Đông, cắt đứt hoàn toàn người Nga, chia cắt Ai Cập, cắt toàn bộ các đường giao thông liên lạc qua Địa Trung Hải? Chúng ta làm thế nào để tiếp tế cho Trung Quốc?... Con đường Miến Điện ?" và nếu nó bị sụp đổ?... Ấn Độ? Vậy đó!?.
    Sau này, trong một cuộc thảo luận giữa ông với Elliot, Roosevelt nói thêm: ?oĐiều mà chúng ta biết là thế này: Người Trung Quốc đang giết người Nhật và người Nga đang giết người Đức. Chúng ta cứ để cho họ tiếp tục, cho đến khi quân đội và hải quân của ta sẵn sàng giúp đỡ được?.
    Churchill cho rằng cuộc tấn công của Nhật vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) có thể kéo ngược lại sự ủng hộ của Mỹ đối với các nước Đồng minh châu Âu và Churchill đã nhanh chóng đến gặp Roosevelt tại Nhà Trắng ngay trong ngày Noel 1941. Vấn đề cơ quan chỉ huy thống nhất của Đồng minh ở Viễn Đông đã được đưa ra thảo luận và Bộ Chỉ huy Mỹ, Anh, Hà Lan và Úc (ABDACOM) thuộc quyền chỉ huy của tướng Archibald P. Wavell đã nhanh chóng được thành lập. Cơ cấu chỉ huy mới đã loại Trung Quốc ra ngoài vì Roosevelt và Churchill đều nhất trí rằng Tưởng Giới Thạch có thể chống lại bất cứ sự kiểm soát nào của nước ngoài trên lãnh thổ của Trung Hoa.
    Tuy vậy, Roosevelt vì những lí do chiến lược và chính trị vẫn lo lắng về việc giữ Trung Quốc trong chiến tranh và thuyết phục Churchill cũng nên để cho Tưởng có một địa vị chính thức trong các nước Đồng minh. Người Anh tán thành đề nghị đó của tổng thống, nhưng với điều kiện là không để Trung Quốc tham gia Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp (CSS). Kết quả cuối cùng là lập ra Chiến trường Trung Hoa riêng biệt, đặt dưới quyền chỉ huy của TưởngThống chế, bao gồm cả những phần đất như Thái Lan và Đông Dương lúc đó vẫn do Đồng minh chiếm đóng, nhưng không có Miến Điện. Tưởng được mời làm Tư lệnh tối cao Đồng minh, có một Bộ Tham mưu Đồng minh giúp việc.
    Thấy có lợi về chính trị và chiến lược, Tưởng chấp nhận vai trò độc đáo của một tư lệnh Đồng minh ?ođộc lập? chỉ chịu trách nhiệm với chính mình và yêu cầu Mỹ gửi sang một sĩ quan cao cấp người Mỹ để giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tham mưu Đồng minh ở Trùng Khánh. Nhưng chỉ trong ít tuần, Wavell và Tưởng đã xung đột với nhau về vấn đề kiểm soát và phân phối hàng chi viện Vay - Mượn ở Miến Điện và về phương hướng trung tâm của chiến lược Đồng minh ở Viễn Đông. Mối hằn thù của họ đã làm suy yếu sự thống nhất của Đồng minh và là thảm họa đe dọa các mục tiêu quân sự của Mỹ cả ở Viễn Đông lẫn Thái Bình Dương.
    Gần như tiếp ngay sau đó, các cuộc tiến công nhanh chóng của quân đội Nhật chống người Anh và người Trung Hoa đã đặt ra cho tam cường vấn đề là phải cải tổ lại cơ cấu chỉ huy của họ. Trong vòng không đầy 2 tháng, ABDACOM của tướng Wavell bị tê liệt và đúng như nhận định của Churchill lúc trước cho rằng Tổng thống Mỹ phải có nhiệm vụ chủ yếu là làm việc với Trung Quốc trong tất cả mọi mặt và toàn bộ Thái Bình Dương (kể cả Trung Quốc) phải được đặt dưới quyền chỉ huy của Mỹ, mặc dù Tưởng vẫn còn nắm quyền điều hành tác chiến ở Trung Quốc. Wavell được cử giữ chức ?oTư lệnh tối cao Ấn Độ?, có trách nhiệm về hành quân tác chiến ở Miến Điện. Phạm vi trách nhiệm của Anh được vạch ra từ Singapore đến bao gồm cả Trung Đông.
  5. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    STILWELL NHẬP CUỘC
    Theo yêu cầu của Tưởng muốn một người Mỹ làm tham mưu trưởng Bộ Tham mưu Đồng minh, tướng Marshall đã chỉ định thiếu tướng Joseph W. Stilwell(2) vào chức vụ đó. Ngày 6-3-1942, Stilwell được phái đến chỗ Tưởng với hàm trung tướng vừa mới được phong. Ông đã được Tưởng Thống chế và phu nhân tiếp đón thân mật ở Trùng Khánh, nhưng cũng ở đây ông đã thấy rõ được sự quan tâm của Tưởng đối với vấn đề chỉ huy ở Miến Điện và những khó khăn trong quan hệ Trung - Anh. Điều ngạc nhiên đối với ông là Tưởng tuyên bố rằng Stilwell chỉ là tham mưu trưởng các lực lượng Đồng minh (tức là Mỹ - Anh) mà thôi chứ không phải của quân đội Tnmg Quốc.
    Điều này đã đặt Stilwell vào một tình thế khó khăn từ những buổi ban đầu. Tưởng chọn và giữ lại một người bạn tin cậy cũ của mình, tướng Hà Ứng Khâm (Ho Yingchin) làm Tham mưu trưởng các lực lượng Trung Quốc. Stilwell đã được cử sang Trung Quốc để nhằm giúp Tưởng hoàn thành các nhiệm vụ của Tư lệnh Tối cao của một chiến trường Đồng minh, đã nhận thấy quyền lực của mình bị cắt xén đi quá nhiều. Ông cũng thấy ra được rằng mình làm cho một con người tự do và những quan niệm về lợi ích của Trung Quốc của người đó thì không phải lúc nào cũng phù hợp với lợi ích của người Anh và Mỹ. Khi có sự khác nhau xảy ra, Stilwell đã phải đóng vai trung gian dung hoà giữa những ý muốn của Tưởng với tư cách là chỉ huy một Chiến trường Đồng minh độc lập với những chỉ thị quân sự của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (Mỹ) và hỗn hợp (Anh - Mỹ).
    Stilwell còn đảm nhận thêm ba chức vụ khác nữa: Tổng chỉ huy các lực lượng quân đội Mỹ ở Trung Quốc, Miến Điện và Ấn Độ (CBI); đại diện quân sự của Tổng thống Mỹ ở Trùng Khánh, và trách nhiệm phân phối toàn bộ đồ viện trợ chương trình ?oVay - Mượn?. Việc phân phối hàng tiếp viện ?oVay - Mượn? đã thường xuyên gây nên sự tranh chấp gay gắt.
    Tình trạng lộn xộn và giẫm đạp lên nhau này kéo dài mãi cho đến tháng 8-1943 mới chấm dứt khi Tổng thống, Thủ tướng và các Tham mưu trưởng của họ gặp nhau ở Quebéc để họp hội nghị Quadrant. Lần đầu tiên những người tham dự hội nghị đã hoàn toàn nhất trí với nhau về kế hoạch đánh bại Nhật Bản. Họ đã đi đến kết luận dùng Trung Quốc làm một căn cứ cực tốt cho các cuộc tập kích đường không vào các cứ điểm phòng thủ của Nhật Bản, các đường giao thông dẫn đến các biển phía Nam và cho cuộc xâm chiếm chính quốc Nhật.
    Kế hoạch của họ dự tính một cuộc tiến công bằng hai mũi từ phía đông và tây để chiếm lấy khu vực Quảng Đông ?" Hongkong. Mũi tiến công phía đông có lực lượng không lục hải quân phối hợp, lần lượt đánh chiếm các đảo để cuối cùng tập trung mở một cuộc tấn công thuỷ bộ vào bờ biển Trung Quốc. Từ phía tây, các lực lượng của Tưởng theo đường bộ tiến ra gặp các đạo quân Đồng minh đổ bộ vào đất liền. Sau đó hai cánh quân sẽ đánh lên phía Bắc Trung Quốc. Mốc thời gian cho các cuộc hành quân vào chính quốc Nhật Bản được ấn định vào năm 1947.
    Cũng như các lần trước, sự bất đồng giữa người Anh và người Mỹ lại nổ ra về vấn đề các cuộc hành quân ở Miến Điện, điểm then chốt đảm bảo sự thực hiện thành công của chiến lược mới được đưa ra. Người Mỹ chủ trương ngay sau khi đánh được quân Nhật khỏi miền bắc Miến Điện thì cấp thiết phải tiến quân về phía nam, chủ yếu để mở thông cảng Rangoon, tăng thêm dòng tiếp vận cho Trung Quốc. Người Anh lại có ý định giành lại Sumatra để lấy làm bàn đạp đánh chiếm lại Singapore và bán đảo Mã Lai. Do dó họ thích đi vòng và bỏ qua Rangoon.
    Các Tham mưu trưởng liên quân Mỹ mặc dầu đồng ý cho các phương hướng tiến công nói chung trong kế hoạch của Anh là đúng đắn nhưng trong thâm tâm họ lại sợ người Anh có thể tính toán đến một cuộc thương lượng hoà bình với Nhật Bản và như thế thì sẽ bỏ mặc cho người Mỹ chiến đấu đơn độc ở Thái Bình Dương. Họ đã chống lại bằng cách đưa ra đề nghị nhằm thực hiện một kế hoạch cấp tốc đánh đuổi quân Nhật ra khỏi Miến Điện, bảo vệ các đường tiếp vận ở bắc Miến Điện, củng cố cảng Rangoon và ấn định thời hạn đánh bại Nhật là 12 tháng sau khi Đức sụp đổ. Đề nghị của người Mỹ về một chiến dịch tấn công cấp tốc hướng trực tiếp thẳng ngay vào chính quốc Nhật đã bị người Anh bác bỏ một cách quyết liệt. Đối với họ, một thắng lợi sớm ở châu Âu và việc cứu vãn đế quốc thuộc địa của họ ở Viễn Đông còn quan trọng hơn nhiều so với việc trước mắt Nhật Bản bị đánh bại.
    Nỗi bực tức gây ra vì những sự bất đồng đó đã được phản ảnh trong nhật ký của huân tước Alanbrooke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Hoàng gia Anh viết ngày 1-10-1943, như sau:
    ?oMột buổi sáng đấu nhau dồn dập với COS(2) tới mãi 12 giờ trưa; sau đó họp với P.M(3), các tham mưu trưởng, Dickie Mountbatten và Pownall. Cuộc họp đã dẫn đến một trận đấu căng thẳng kéo dài một tiếng đồng hồ giữ tôi và P.M về vấn đề rút quân từ Địa Trung Hải để bổ sung cho cuộc tấn công ở Ấn Độ Dương. Tôi từ chối việc làm suy ýêu tiềm năng các lực lượng đổ bộ tổng hợp ở Địa Trung Hải để nhằm tổ chức trận tập kích táo bạo cho Mountbatten đánh vào Sumatra. Ngược lại, P.M lại sẵn sáng phá bỏ chính sách cơ bản của chúng ta và đặt Nhật lên vị trí trước cả Đức. Nhưng, cuối cùng tôi đã đánh bại hầu hết những ý đồ của ông ta?
    Mối đe doạ mới ở Viễn Đông, đặc biệt là các hoạt động tác chiến ở Ấn Độ Dương và bắc Sumatra đã thu hút sự quan tâm của Churchill nhưng ông ta vẫn không chịu chấp nhận ý kiến của Roosevelt cho rằng Trung Quốc là nhân tố cơ bản để đánh bại Nhật và các cuộc hành quân ở Miến Điện là có ý nghĩa quyết định cho vấn đề này.
    Trong một cuộc thảo luận quan trọng khác ở Hội nghị Quadrant, Churchill, đã lái câu chuyện sang việc thành lập một Bộ Chỉ huy Đông Nam Á (SEAC) mới cho các cuộc hành quân của Đồng minh ở châu Á. Roosevelt được biết tham vọng của Churchill là chiếm lại Singapore và sắp đặt một vị trí chỉ huy then chốt cho huân tước Louis Mountbatten, cháu của vua và là con trai của một bạn đồng nghiệp cũ của Churchill, công tước Louis de Battenberg. Tổng thống đồng ý thành lập SEAC; và ông, Thủ tướng cũng như các Tham mưu trưởng của họ đều tán thành bổ nhiệm phó đô đốc Mountbatten, cựu trưởng ban tác chiến hỗn hợp, làm Tư lệnh tối cao chiến trường Đông Nam Á. Việc bổ nhiệm một đô đốc Hải quân hoàng gia chỉ xác nhận những sự nghi ngờ của Bộ Tham mưu Mỹ tại hội nghị là Churchill coi SEAC là một chiến trường thuỷ bộ hơn là một chiến trường mặt đất, một bộ chỉ huy mà ông ta muốn dùng để tiến hành chiến dịch Sumatra mà ông ta hằng ấp ủ để chiếm lại Singopore, biểu tượng của quyền lực đế quốc Anh ở châu Á.
  6. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Một lần nữa, vị trí chỉ huy của Stilwell, như đã từng xảy ra, lại phải được điều chỉnh cho thích hợp với sự sắp xếp đã thay đổi từ chóp bu. Trong một bức điện tỉ mỉ ngày 17-8-1943, tướng Marshall đã giải thích một cách kiên nhẫn và khéo léo vị trí của Stilwell dưới quyền Mountbatten. Ông nhấn mạnh rằng chiến lược Miến Điện vẫn không thay đổi, nhưng thời biểu tác chiến phải gấp hơn do những khả năng tiếp tế trên các đường Miến Điện, cả đường bộ lẫn đường không, đã tăng lên. Tuy nhiên, Marshall nói tiếp, các quan hệ chỉ huy bên trong SEAC quá ư phức tạp. Việc thành lập SEAC có nghĩa là tới 4 chiến trường, ba chiến trường địa lý và một chiến trường tác chiến, đại biểu một cách tương ứng cho những lợi ích của ba nước và ba cơ quan tình báo, tất cả đều đang hoạt động trong cùng một khu vực. SEAC phải là một bộ chỉ huy của Anh - Mỹ, bao gồm Miến Điện, Ceylon, Sumatra và Malaysia, nhưng không có Ấn Độ. Ấn Độ nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ Chỉ huy Ấn Độ, có trách nhiệm đối với Trung Đông là nơi các sư đoàn Ấn Độ đang chiến đấu cũng như đối với Viễn Đông. Tất nhiên, ở Trung Quốc, có Chiến trường Trung Quốc của Tưởng. Chiến trường tác chiến của Mỹ, CBI, hoạt động tất cả ở ba khu vực địa lý. Nó không phụ thuộc vào SEAC.
    Quân đội Trung Quốc ở Ấn Độ, do Stilwell chỉ huy, dựa vào Bộ Chỉ huy Ấn Độ về tiếp tế hậu cần, nhưng lại chiến đấu trong khu vực của SEAC dưới quyền chỉ huy của Mountbatten. Đội không quân thứ 14 của Mỹ dưới quyền chỉ huy của tướng Claire L. Chennault đóng ở Trung Quốc để hoạt động, được tiếp tế từ Ấn Độ, nhưng về hình thức lại nằm dưới quyền Tưởng Thống chế. Việc cai quản, phòng thủ và an ninh nội bộ của Bộ Chỉ huy Ấn Độ đặt dưới quyền của tướng Claude J.E. Auchinlek là người chịu trách nhiệm chính với chính phủ Ấn Độ. Là đại diện của nội các chiến tranh của Anh và phó vương Ấn Độ, Thống chế Wavell là trọng tài về những thứ tự ưu tiên giữa Bộ chỉ huy Ấn Độ và SEAC, nhưng mỗi bên có thể khiếu nại về những quyết định của Wavell lên tham mưu trưởng của Anh. Việc liên lạc giữa SEAC và Tưởng gặp trở ngại bởi việc chỉ định Stilwell làm phó Tư lệnh tối cao Đồng minh ở SEAC, và nhiệm vụ của ông là xem xét người Trung Quốc đóng vai trò của mình như thế nào. Marshall gọi đó là một sứ mệnh ?okhông dễ dàng gì?.
    Thật dễ dàng nhận thấy rằng trong tình trạng rối rắm về chỉ huy ấy, không thể có một sự thống nhất của Đồng minh, và những bất đồng có thể xảy ra ở mọi cấp và mọi khu vực. Tuy nhiên Stilwell và Mountbatten bắt đầu mối quan hệ của họ một cách thuận lợi. Marshall đoán trước rằng Stilwell sẽ nhìn thấy ở đô đốc ?omột luồng không khí mát mẻ? và Stilwell đồng ý với điều đó khi ghi vào nhật ký của mình ?oLouis là một người rất tốt... đầy nhiệt tình và không thích sự chây ỳ và bảo thủ?. Vì thế Stilwell cũng đã có thể nói tới công việc của mình với tư cách Phó tư lệnh tối cao của Đồng minh rằng đã có một sự hợp tác thật sự với người Anh, Đồng minh chỉ yếu của Mỹ. Bất cứ một điều gì đe doạ chia rẽ hai nước này đều sẽ có ảnh hưởng đến toàn cầu. Như tướng Thomas T.Handy(4) diễn đạt về điều đó, nếu người Anh hát bài ?oCầu Chúa phù hộ Đức vua?(5) thì Stilwell không thể hát theo được, nhưng ít ra ông ta có thể đứng dậy.
    Trước khi Mountbatten đến, qua thái độ công khai coi thường của Stilwell đối với thái độ ?okhông làm gì cả? của người Anh và người Trung Quốc trong việc đuổi người Nhật ra khỏi Miến Điện, ông đã được gọi là ?oJoe có bộ mặt câng câng?. Ông tỏ ra kiên quyết khi phê phán nạn tham nhũng của Quốc dân đảng Trung Quốc và việc sử dụng không đúng những hàng tiếp tế ?oVay - Mượn? của chúng ta cũng như chủ trương của Tưởng muốn tiến hành một chiến dịch riêng chống phe cộng sản của Mao. Stilwell dần dần trở thành một bête noire(6) ở Viễn Đông. Tưởng cũng biết quá rõ sự chống đối của Stilwell và đến khoảng tháng 9-1943, những bất đồng của họ đã đạt tới điểm gay go. Chennault thì quy sự bất lực của mình về xu thế trên không cho tình trạng thiếu máy bay chiến đấu và tiếp tế lúc đầu đã được hứa cho và đã quở trách Stilwell là người phân phối vũ khí ?oVay - Mượn?. Các viên chỉ huy Trung Quốc cũng buộc tội Stilwell vì đã từ chối những yêu cầu cung cấp binh lính và tiếp tế hậu cần cho họ.
    Khi Mountbatten tới Trùng Khánh ngày 16-10-1943, để gặp Tưởng Giới Thạch, ông đã được tướng Brehon B. Somervell cho biết rằng Tưởng đã công khai bày tỏ ý muốn của mình là Stilwell được rút đi. Đó là một sự bắt đầu khó khăn của Mountbatten trong việc giải quyết các vấn đề về bộ chỉ huy của ông. Sau một thời gian suy nghĩ, ông kết luận rằng không nên sử dụng bộ đội Trung Quốc nếu người đã chỉ huy họ hai năm rồi lại bị đuổi đi ngay trước khi tiến hành những cuộc hành quân chủ động và ông cho phép Somervell thông báo điều đó với Tưởng và cuộc khủng hoảng đã được giải quyết một thời gian với sự cam kết của Stilwell là sẽ hợp tác đầy đủ với Tưởng và sẽ nhũn nhặn hơn trong tương lai.
    Một vấn đề hóc búa khác nữa đã nổi lên tại cuộc gặp gỡ ở Trùng Khánh. Về sau này không một ai nhớ được chính xác, vấn đề ranh giới giữa SEAC và Chiến trường Trung Quốc đã được nêu lên như thế nào. Những vấn đề đã được đặt ra tại Hội nghị Quadrant và những người tham gia hội nghị nhớ lại rằng người Trung Quốc đã được nói cho biết là Đông Dương và Thái Lan thuộc về Chiến trường Trung Quốc. Sự thật là Bộ tham mưu hỗn hợp thấy cần phải chuyển hai xứ đó sang cho SEAC và điều đó đã được truyền đạt một cách khôn khéo cho Tưởng. Tưởng đã kịch liệt phản đối. Cuối cùng vấn đề này được giải quyết theo một đề nghị thoả thuận lịch sử của Mountbatten, sự thoả thuận này đã có ảnh hưởng lâu dài sau này. Thái Lan và Đông Dương sẽ được giữ lại trong Chiến trường Trung Quốc với điều kiện cả Mountbatten và Tưởng đều có quyền hành động ở đó và khu vực nào do ai chiếm đóng thì tất nhiên sẽ nằm dưới quyền của Bộ chỉ huy chiếm đóng. Cả hai Tư lệnh đều đã đồng ý, những sự thoả thuận ấy đã không được chấp nhận hay bị bác bỏ bởi Tổng thống, Thủ tướng và CCS, tất cả đều muốn để lại vấn đề gai góc này.
    Việc thành lập SEAC và việc buộc phải tạm ngưng xung đội giữa Stilwell và Tưởng đã không cải thiện được tình thế. Tướng Chennault, viên sĩ quan không quân cao cấp của Mỹ ở Trung Quốc đã kiên quyết phản đối quan điểm của Stilwell cho rằng những cuộc chiến đấu phải được tiến hành và giành thắng lợi trên mặt đất còn không lực chỉ là một cánh tay hỗ trợ. Ông ta cãi lại rằng Stilwell đã bỏ quá nhiều sức lực vào những cuộc cải tổ trong quân đội Trung Quốc và dành hết những phương tiện ít ỏi của mình vào công việc đó, do đó đã bỏ lỡ cơ hội để giành thắng lợi sớm hơn đối với Nhật. Chennault đã giành được sự ủng hộ của Tổng thống và của Tưởng, và đã được quyền ưu tiên nhận những hàng tiếp tế đó sang Trung Quốc, do Bộ chỉ huy Vận tải đường không của Mỹ thực hiện. Luồng tiếp tế cho cuộc chiến tranh bằng không quân của Chennault đã gây trở ngại rất lớn cho Stilwell trong việc trang bị và huấn luyện các lực lượng Trung Quốc để tiến hành chiến dịch của ông ở Miến Điện.
    Chennault đã sử dụng trọng tải đang tăng lên một cách rất thành công và đã tăng cường những cuộc tấn công bằng không quân của ông vào các cứ điểm của Nhật ở phía đông Trung Quốc đến mức người Nhật lo sợ rằng người Mỹ sẽ lập được căn cứ cho những máy bay ném bom tầm xa mới chế tạo của mình ở phía đông Trung Quốc, và từ đó sẽ dễ dàng tấn công chính nước Nhật. Kết quả trực tiếp là những cuộc phản công quyết liệt của người Nhật chống lại những sân bay tiền tiêu của Mỹ mà Chennault đã sử dụng để hoạt động. Cuộc tấn công của người Nhật mở ra trong tháng 4-1944 và tiến sâu vào Trung Quốc trước một sự kháng cự không đáng kể trên bộ. Thống chế (Tưởng) từ chối việc gửi vũ khí bất cứ loại nào, vũ khí Trung Quốc hay vũ khí ?oVay - Mượn?, cho những binh lính Trung Hoa phòng thủ ở các sân bay của Chennault. Các báo cáo tình báo của các quan sát viên Mỹ vạch ra rằng sự từ chối của Tưởng phản ánh một sự thoả thuận giữa một vài viên chỉ huy Trung Quốc địa phương với người Nhật với điều kiện người Nhật sẽ để cho người Trung Hoa yên ổn ở tây nam Trung Quốc nếu người Trung Hoa không can thiệp khi người Nhật tấn công các sân bay có thể đe doạ chính quốc họ.
    Mỹ đã tỏ ra lo ngại một cách dễ hiểu đối với việc duy trì sự kiểm soát các sân bay dùng để làm căn cứ trên mặt đất cho không quân yểm trợ các chiến dịch của Mỹ ở tây Thái Bình Dương và đã có cố gắng cứu vãn tình hình. Các Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ kết luận rằng nếu Stilwell nắm lấy quyền chỉ huy tất cả các lực lượng ở Chiến trường Trung Quốc, cả Quốc dân đảng lẫn Cộng sản, thì ông ta có khả năng ngăn chặn được việc người Nhật chiếm các sân bay. Tổng thống đã đồng ý.
  7. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    STIWELL RA ĐI, WEDEMEYER NHẬP CUỘC
    Toàn bộ lịch sử Trung Quốc sau chiến tranh chỉ rõ rằng mọi cố gắng nào nhằm thuyết phục Quốc dân đảng và Cộng sản liên kết vào một hành động chung để chống người Nhật đều bị thất bại. Nhưng chưa bao giờ đề nghị kiểu đó đã đi tới chỗ gần được chấp nhận như bấy giờ. Từ tháng 7 đến tháng 9-1944, đại diện đặc biệt của Tổng thống, tướng Patrick J. Hurley(7), đã cố thuyết phục Tưởng để bổ nhiệm Stilwell làm Tư lệnh dã chiến ở Chiến trường Trung Quốc. Lúc đầu Tưởng đồng ý về nguyên tắc, sau đó lại thay đổi hoàn toàn, cho rằng Stilwell tỏ ra chưa đủ trình độ, và cuối cùng lại yêu cầu bãi bỏ Stilwell. Cuối cùng Tổng thống cũng phải thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc về vấn đề này và ra lệnh cho Stilwell trở về nước, nhưng đã từ chối yêu cầu của Tưởng về việc cử một người Mỹ khác nắm quyền chỉ huy các lực lượng Trung Hoa ở Trung Quốc.
    Trong các giai đoạn cuối cùng của các cuộc thượng lượng không thành công này, tình thế của Đồng minh ở Thái Bình Dương đã được cải thiện đáng kể. Hải quân Mỹ đã đánh bại một cách quyết định Hải quân Thiên hoàng Nhật Bản trong trận đánh ở vịnh Leyte. Tướng Mac Arthur đã thiết lập vững chắc quyền lực của Mỹ ở Philippinnes. Và ngày 15-10, nguyên soái Xtalin tuyên bố với đại diện Mỹ ở Matxcơva và với Thủ tướng Anh rằng Liên Xô sẽ phái 60 sư đoàn sang chống Nhật Bản, trong vòng 3 tháng sau khi nước Đức thất bại.
    Trong không khí ấy, việc cứu các sân bay Trung Quốc trở nên ít khẩn trương hơn so với cuộc chiến tranh chống Nhật, nhưng vẫn còn một nguy cơ rất thực tế là Chính phủ Tưởng có thể ký một hoà ước riêng rẽ với Nhật hay chính bản thân Tưởng có thể bị lật đổ bằng một cuộc đảo chính do những phần tử thân Nhật tiến hành. Sự kiện nào cũng có thể giúp cho Nhật giải thoát được những lực lượng quan trọng để tăng cường sự bố phòng trên chính quốc Nhật. Đứng trước những khả năng đó, Tổng thống đã thay đổi ý kiến của mình và chỉ định thiếu tướng Wedemeyer làm sĩ quan cao cấp của Mỹ ở Chiến trường Trung Quốc và làm tham mưu trưởng cho Thống chế. Ngày cuối cùng tháng 10-1944, sau khi được thăng cấp lên trung tướng, Wedemeyer đến Trùng Khánh. Bốn hôm trước đó tướng Stilwell đã rời Karachi về Mỹ. Chennault vẫn ở lại.
    Những mệnh lệnh mà Wedemeyer nhận được từ Bộ chiến tranh và những phương tiện được đặt dưới quyền của ông rất khác với những thứ đã giao cho Stilwell hai năm rưỡi trước đây; dù rằng những vấn đề của ông, như chính ông đã biết rõ, vẫn như cũ: ?oTạo ra những điều kiện để sử dụng có hiệu quả tối đa những phương tiện của Mỹ trong khu vực? Người Trung Quốc phải được yêu cầu đóng một vai trò tích cực trong chiến tranh?. Plus ça change, plus c?Test la même chose(8).
    Từ mùa hè 1944, Bộ chiến tranh đồng ý tách Chiến trường Trung Quốc - Miến Điện - Ấn Độ (CBI) ra làm đôi. Kế hoạch ấy vẫn còn có giá trị, và Wedemeyer giữ chức chỉ huy Chiến trường Trung Quốc riêng biệt, bao gồm Trung Hoa lục địa, Mãn Châu, và Đông Dương, cộng với những hòn đảo ngoài khơi, trừ Đài Loan. Những sự thoả thuận mơ hồ giữa các bộ chỉ huy tối cao với các bộ chỉ huy chiến trường về Đông Dương về sau này chứng tỏ có tầm quan trọng sống còn đối với các kế hoạch của Pháp nhằm chiếm lại thuộc địa cũ của họ.
  8. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT BABYLON HIỆN ĐẠI
    Việc bổ nhiệm Wedemeyer ở Trung Quốc đã thách thức những quan niệm giáo điều và những giải pháp học viện về chỉ huy và kiểm soát ở một sân khấu chính trị phi lý.
    Ở phía bắc Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã thiết lập một nhà nước trong một nhà nước, ở đó có những người Cộng sản Trung Quốc hoàn toàn kiểm soát được một mảng lớn lục địa Trung Quốc với những bộ máy kinh tế và quân sự riêng của họ, độc lập với kiểm soát của Đồng minh hay với quyền uy không chắc chắn của Tưởng.
    Ở Trùng Khánh, Quốc dân đảng được mọi người biết tới như một chính phủ, cũng bị chia thành nhiều mảng. Sự bất đồng giữa những chỉ huy của họ đang lan rộng. Tình hình kinh tế tệ hại của họ lại càng nặng nề thêm do sự bao vây của Nhật và nạn lạm phát tăng dần lên. Tình hình đó đe doạ Quốc dân đảng Trung Hoa phân hoá thành một nhóm những bè phái đấu đá nhau. Còn về Tưởng Giới Thạch, thì như Wedemeyer đã nhận định vắn tắt cho tướng Marshall biết: ?obây giờ thì tôi phải kết luận rằng Thống chế và những người cùng cánh của ông ta đã hiểu rõ tính chất nghiêm trọng của tình hình, nhưng họ bất lực và bối rối?.
    Bộ tham mưu liên quân Mỹ, suy nghĩ về kinh nghiệm đã qua với Tưởng, đã bổ nhiệm Wedemeyer làm Tổng chỉ huy các lực lượng Mỹ ở Chiến trường Trung Quốc và đã cho cho phép ông ?ochấp nhận? thêm vai trò Tham mưu trưởng của Thống chế. Như vậy, Mỹ tránh lặp lại một tình thế không thể để xảy ra như tình thế của Stilwell trước kia. Sự thu xếp mới này, khi đã được phát triển lên, đã tỏ ra rất tốt. Wedemeyer và Tưởng đã thu xếp được một mối quan hệ cá nhân trơn tru và thân mật với nhau.
    Cơ cấu chỉ huy riêng của chúng ta, tuy vậy, cũng vẫn còn nhiều vấn đề. Ở Trung Quốc, Wedemeyer thấy các nhân viên người Mỹ ở các lực lượng Hải, Lục, Không quân đều thuộc vào các đơn vị khác nhau, các đơn vị đã tỏ ra độc lập hoàn toàn hay một phần với ông với tư cách chỉ huy chiến trường. Hạm đội Mỹ ở Trung Quốc thì báo cáo về Bộ Hải quân; OSS thì báo cáo về cho Ban tham mưu của mình ở Washington; cơ quan thu thập tình báo hỗn hợp (JICA) và Bộ chỉ huy máy bay ném bom XX thì đặt dưới quyền chỉ huy trục tiếp của Bộ tham mưu liên quân; còn Bộ chỉ huy vận tải đường không (ATC) thì độc lập với sự kiểm soát của các chiến trường Ấn Độ - Miến Điện cũng như Trung Quốc. Còn vô số phái đoàn Đồng minh và những tổ chức bí mật hoạt động bên cạnh người Anh và người Pháp ở Trùng Khánh.
    Đại sứ nước ta tại Trung Quốc, Clarence E. Gauss, mô tả tình cảnh ấy rất hay:
    ?o?Ở đây có quá nhiều sự hỗn độn? Những thư từ do Đại bản doanh gửi cho chúng tôi cho thấy OSS, cũng như Miles(9) và Tai Li (10) đang quan tâm đến những vấn đề Đông Dương; ?oHoạt động của OSS thông qua AGFARTS (sic)? Căn cứ của ?oĐội không quân thứ 14? đang thiết lập đường liên lạc của người Pháp ở Đông Dương một cách độc lập với phái đoàn quân sự Pháp ở đây và ?ongườ Trung Quốc và OSS đang hoạt động thông qua nhóm Gordon, một tổ chức hoàn toàn không được phái đoàn Pháp ưa thích? Như vậy chúng tôi có Miles và Tai Li, OSS và Gordon, Quân đội Mỹ; chúng tôi thấy phái đoàn quân sự Pháp thường đến gặp Quân đội và phái đoàn Pháp thường đến gặp chúng tôi với nhiều vấn đề; và không ai biết được cái gì đã làm ở đây hay cái gì phải được làm ở đây cả?.
    Theo quan điểm chỉ huy và kiểm soát, đó là một Babylon hiện đại, và vị tân Tư lệnh Chiến trường đã hỏi ngay Marshall về việc xác định mối quan hệ của ông với nhiều tổ chức và với tướng Hurley, đại diện riêng của Tổng thống. Tuy nhiên, sự trả lời lại vô thưởng vô phạt và chỉ nhắc cho Wedemeyer những chỉ thị lúc ban đầu. Trong thực tế, Wedemeyer không bị hạn chế vai trò chỉ huy của ông bởi những chỉ thị mới và chi tiết nào, nhưng các cơ quan độc lập cũng không bị giới hạn về hoạt động của họ vào những đường dây chỉ huy chính thức nào, miễn là họ ?othông báo? cho Tư lệnh chiến trường. Sự thu xếp có vẻ tiện lợi cho mọi điều có liên quan. Wedemeyer được chính Donovan lựa chọn êkíp riêng của ông và đã bắt tay vào việc cải tổ cơ cấu chỉ huy và thay đổi nhân sự theo những nhu cầu hoạt động riêng của ông. Ông sử dụng thì giờ của mình một cách khôn khéo hơn và xử sự một cách thận trọng với các cơ quan tình báo khác nhau.
    Trong số những vấn đề chính trị - quân sự mà ông gặp phải với tư cách Tư lệnh chiến trường, có vấn đề Cộng sản Trung Quốc ở Diên An và các Phái đoàn quân sự Pháp ở Côn Minh và Trùng Khánh. Vấn đề thứ nhất, về cơ bản là một vấn đề của Trung Quốc, phải được giải quyết với Tưởng. Vấn đề thứ hai lại có một lịch sử khác. Những hệ quả quốc tế của sự có mặt của Pháp ở Trung Quốc đã đụng đến những quyền lợi của Đồng minh và có liên quan với Mỹ một cách trực tiếp và nghiêm trọng.
    ---
    (1) thủ trưởng ban SI của OSS
    (2) Chief Of Staff: tham mưu trưởng liên quân
    (3) Prime Minister: thủ tướng
    (4) thủ trưởng Cục tác chiến và kế hoạch, WD
    (5) Quốc ca Anh
    (6) người đáng ghét nhất - tiếng Pháp
    (7) phái viên của tổng thống Mỹ, thay mặt SEAC bên cạnh Tưởng
    (8) càng thay đổi lại càng vẫn thế - tiếng Pháp
    (9) chỉ huy hạm đội Mỹ ở Trung Quốc
    (10) người đứng đầu cơ quan mật vụ của Tưởng
  9. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 3
    Đông Dương: Một điểm cấp bách
    F.D. ROOSEVELT VÀ CHỦ NGHĨA THỰC DÂN
    Tổng thống Roosevelt từ lâu đã nêu lên chính sách cơ bản của ông đối với vai trò của Pháp sau chiến tranh ở Viễn Đông.
    Ông coi chủ nghĩa thực dân là nguyên nhân chính của Thế chiến thứ hai. Khi thảo luận về nước Pháp với con trai mình ở Casablanca, ông cho rằng Pháp phải chịu trách nhiệm một phần về cuộc tấn công của Nhật ở Pearl Harbor (Trân Châu Cảng): ?oElliot ạ, đừng một lúc nào nghĩ rằng người Mỹ có thể chết trong cái đêm Thái Bình Dương ấy(1) nếu không phải vì cái tính tham lam thiển cận của người Pháp, người Anh và người Hà Lan. Liệu chúng ta có nên cứ để cho họ làm mọi cái một lần nữa không?... Liên Hiệp Quốc - một khi nó được tổ chức ra - phải nắm lấy các thuộc địa. Liệu nó có thể làm được điều đó không?? Dưới một chế độ ủy trị, hay một chế độ quản trị - trong một số năm nào đó chẳng hạn?. Roosevelt đã thúc ép đưa vấn đề quản trị ra ở Cairo, Teheran và Yalta và ông đã nhận được sự tán thành của Tưởng Giới Thạch và Xtalin. Nhúng Churchill đã lẩil tránh.
    Hồi ức của Cordell Hull, công bố năm 1948, còn nhấn mạnh vấn đề này hơn nữa. Ông viết, Tổng thống ấp ủ những quan điểm mạnh mẽ về nền độc lập của Đông Dương thuộc Pháp. Ông lưu tâm đến sự lệ thuộc của Pháp vì đó là bàn đạp để cho người Nhật tấn công: Philippin, Malaysia và vùng Đông Ấn của Hà Lan. Ông không thể quên được cách cư xử của Chính phủ Vichy khi trao cho Nhật Bản quyền đóng quân ở đó; mà không hỏi ý kiến chúng ta nhưng lại cố làm cho thế giới tưởng rằng chúng ta đã đồng ý.
    Về chế độ quản trị, Hull nói: ?oThỉnh thoảng Tổng thống nói thẳng với tôi và những người khác, ý kiến của ông rằng Đông Dương thuộc Pháp sẽ phải đặt dưới một chế độ qủan trị quốc tế ngay sau khi chiến tranh kết thúc, và để cho xứ này được độc lập càng sớm càng hay?.
    Hull cũng dẫn ra bản bị vong lục tháng Giêng 1944 của Tổng thống, trong đó nói rằng ?o... Đông Dương sẽ không bị trao trở lại cho nước Pháp mà sẽ được cai quản bởi một chế độ quản trị quốc tế??. Tuy tổng thống có những ý kiến mạnh mẽ như vậy, nhưng không có một tuyên bố chính thức nào về chính sách của Mỹ hay một sự thoả thuận nào của Đồng minh được chính phủ Mỹ hoặc Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh công bố cả.
  10. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    LẬP TRƯỜNG CỦA PHÁP
    Về phần mình, nước Pháp chưa bao giờ tỏ ra một chút gì muốn ?ogiải thoát? cho thuộc địa cũ của nó. Mục tiêu của Pháp có phần nào hợp pháp, vì nó đưôc Mỹ ba lần chính thức cam kết ủng hộ. Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Welles đã viết ngày 13-4-1943, trong một lá thư gửi cho Henri Haye, đại sứ Pháp ở Washington: ?oChính phủ Mỹ thừa nhận chủ quyền của người Pháp đối với lãnh thổ nước Pháp và đối với những thuộc địa của Pháp ở Hải ngoại... (và) nồng nhiệt hy vọng nước Pháp sẽ có thể khôi phục được nền độc lập của nước Pháp và sự toàn vẹn lãnh thổ của Pháp?; và đến tháng 11, một viên chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại giao ở Bắc Phi, Robert Murphy, đã viết cho Giraud rằng ?oChúng tôi hoàn toàn ủng hộ chủ quyền nước Pháp sẽ được phục hồi càng sớm càng tốt trên toàn bộ lãnh thổ, chính quốc và thuộc địa, trên đó cờ nước Pháp đã tung bay vào năm 1939?. Hiệp định Clark - Darlan về cuộc tấn công của chúng ta vào Bắc Phi cũng đã ghi nhận sự đồng ý giữa hai bên rằng các lực lượng của Pháp sẽ ?ogiúp đỡ và ủng hộ? Đồng minh trong việc phục hồi toàn bộ Đế quốc Pháp?.
    Do đó, một năm sau, ?onước Pháp tự do? dưới quyền của tướng Charles de Gaulle đã quyết định thời điểm để trưng cờ ba sắc ra và để bảo đảm cho nước Pháp sau chiến tranh một chỗ ngồi trong các nước Đồng minh ở chiếc bàn ký hoà ước. Với mục đích ấy, Pháp đệ trình Đại bản doanh Đồng minh (AFHQ), vào tháng 10-1943, những yêu cầu của mình về việc trang bị cho quân đội viễn chinh Đông Dương của Pháp (CEFEO) để sẵn sàng hành động vào mùa thu 1944. Đồng thời, đại diện Pháp ở Washington (2) nói cho tướng Marshall biết rằng các giới chức trách quân sự Pháp dự định yêu cầu được có đại diện trong Hội đồng chiến tranh Thái Bình Dương.
    Đối với những người vạch kế hoạch của Mỹ ở Washington, những yêu cầu ấy của Pháp là không cần thiết vì chiến lược Viễn Đông của Anh - Mỹ vẫn tiến triển yên ổn mà không cần có nước Pháp gánh thêm. Hơn nữa, ý đồ được nhấn mạnh của Pháp về việc giành lại đế quốc thuộc địa trước chiến tranh của nó là quá rõ ràng và đi ngược lại chính sách của Roosevelt đối với các dân tộc lệ thuộc.
    Cho đến cuối tháng 8-1944, chưa có một quyết định ở cấp cao nào được thông báo cho Pháp về sự tôn trọng ý định của nước này tham gia những cuộc hành quân ở Viễn Đông, đặc biệt ở Đông Dương. Sự thật là chưa đi tới được một quyết định nào vì những bất đồng giữa Anh - Mỹ về vấn đề thuộc địa. Trong tình hình ấy, không thể đồng ý với nhau về quyết định này và suốt cả cuộc chiến tranh cũng không đi tới một quyết định nào.
    Khi Wedemeyer được cử làm chỉ huy, những vấn đề của nước Pháp về trang bị cho Quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông và trở thành thành viên của Hội đồng chiến tranh Thái Bình Dương vẫn chưa được rõ ràng. Sức ép tiếp tục của De Gaulle đã vấp phải sự chống đối của chính quyền Washington và của tướng Eisenhower ở châu Âu. Để phá vỡ sự chống đối của Mỹ, De Gaulle gửi một phái đoàn quân sự lớn, do tướng Roger C. Blaizot cầm đầu, đến Ceylon. Ở đây, Pháp yêu cầu Mỹ tán thành và chính thức thừa nhận và nói với Mỹ rằng Pháp muốn có một qui chế giống như các phái đoàn Đồng minh khác đóng tại SEAC. Những yêu cầu ấy tỏ ra không đúng chỗ.
    Tuy nhiên cần phải ghi nhận rằng người Pháp đã nhận được một sự khuyến khích nhẹ dạ của một viên chức quân sự và ngoại giao Mỹ ở châu Âu. Rất dễ hiểu rằng những người Mỹ từng chia xẻ một số kinh nghiệm chiến tranh với những đồng nghiệp Pháp của họ không thấy khó khăn gì khi chấp nhận lập luận của ?onước Pháp tự do? sẽ tham gia hành động của Đồng minh ở Viễn Đông và nước Pháp sẽ ?ogiải thoát? Đông Dương khỏi kẻ thù chung. Điều đó cũng không phải là nhũng người Mỹ ở Paris ấy đã tiếp tay cho ý đồ của Pháp khôi phục lại chủ quyền thuộc địa của nó đối với Đông Dương, trái với những nguyện tắc của Hiến chương Đại Tây Dương và chính sách chống thực dân của Mỹ.

Chia sẻ trang này