1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tại sao Việt Nam? - Patti

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thainhi_vn, 30/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT NHÃN HIỆU ĐẶC BIỆT CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
    Sáng thứ bảy đó, tôi và Grélecki đi một vòng thành phố. Hôm sau, 2 tháng 9 là ngày lễ lớn, Ngày Độc lập, khắp nơi tưng bừng không khí ngày hội. Ai cũng bận rộn, hớn hở, và vội vàng nhưng không ai tỏ ra hấp tấp. Trước cửa nhà, trên ban công, ngoài cổng ra vào đầy các loại cờ đỏ hoa, đèn. Nhiều toán người hăm hở giăng lên ngang trên đường phố, những khẩu hiệu hô hào ?oĐộc lập và Tự do cho Việt Nam?, và hoan nghênh Đồng minh, đặc biệt là Mỹ. Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải dừng xe nhường đường cho một toán Scout(3), một đội nữ du kích hoặc một đơn vị vũ trang vượt qua. Giữa một vườn hoa nhỏ, một đội quân nhạc đang biểu diễn.
    Người Việt Nam hướng dẫn chúng tôi giải thích một cách trịnh trọng: ?oNgày mai Chính phủ mới sẽ ra mắt dân chúng và chế độ của người Pháp đã bị bãi bỏ?. Tôi hỏi ai sẽ cầm đầu Chính phủ mới, và anh ta trả lời ngay ?oHồ Chí Minh?. Anh ta chưa hề trông thấy ông Hồ, mà cả ảnh cũng không. Anh cũng chẳng rõ ông ở đâu về, ngoài việc chỉ được nghe nói Hồ Chí Minh đã ?oở ngoại quốc lâu năm? nhưng cũng không rõ ở đâu, Tôi hỏi anh ta có biết gì về xu hướng chính trị của ông Hồ. ?oỒ, có chứ, ông Hồ là *********, một đảng của nhân dân?. Có biết ********* là Cộng sản không? Người hướng dẫn tỏ vẻ lúng túng rồi thú thật rằng anh ta thực sự không hiểu tôi muốn nói gì về Cộng sản. Tôi không tiếp tục câu chuyện nhưng cũng nhận thấy ngay được rằng khi nói đến Hồ Chí Minh, giọng anh ta đượm vẻ tự hào cứ như ông Hồ là một người thân thuộc trong gia đình mình vậy. Tôi đã gặp hiện tượng này nhiều lần trong các tuần lễ sống ở Hà Nội.
    Trong buổi sáng, tôi cũng có dịp nói chuyện với một số thương gia. Nói chung, họ tỏ ra vui mừng trước triển vọng một Chính phủ gồm toàn người Việt, nhưng một số cũng tỏ ra vô thưởng vô phạt, còn một số ít thì hoài nghi không biết rồi sẽ có gì khác trước nhiều không. Tôi cũng thường gợi hỏi xem họ hiểu về ********* và Cộng sản thế nào. Nhưng chỉ có ba hoặc bốn người có thể trả lời, các câu trả lời của họ rất lộn xộn, từ ?okhông tốt? đến ?otuyệt vời?, ?obây giờ thì nhân dân sẽ chăm lo mọi việc?.
    Trong chiến tranh tôi đã sống với những người kháng chiến Pháp và Ý (trong đó có nhiều người Cộng sản). Giống như người Pháp, người Ý có ít nhiều không giống với các dân tộc khác về động cơ chính trị. Cả hai dân tộc đã đấu tranh để lật đổ một khái niệm tư tưởng mà Hitler và Mussolini đã đặt lên đầu họ, ngoài ra không có gì khác hơn. Khi đã đạt được mục đích đó, cả hai nước lại chuẩn bị để quay trở lại nguyên tình trạng cũ, chỉ không có khái niệm về chủ nghĩa quốc xã hoặc phát xít mà thôi.
    Tôi thấy phải chờ đợi một tình huống hoàn toàn khác ở Việt Nam. Người Việt Nam sẽ không thoả mãn chỉ với sự đánh bại chế độ phát xít của Vichy và Tokyo. Họ không muốn quay trở lại tình trạng trước chiến tranh của họ. Họ muốn có thay đổi. Họ muốn đòi lại đất nước họ và làm cho nó tự do và độc lập đối với sự đô hộ của bên ngoài. Đó cũng chính là điều tôi đã thấu hiểu được từ các nhà hoạt động chính trị trong 6 tháng trước đây ở Trung Quốc.
    Nhưng sáng nay tôi đã không bắt gặp cái động cơ chính trị đó trong những người dân mà tôi có dịp nói chuyện. Họ đã cũng không phải là người Việt Nam mà mới chỉ hai tuần lễ trước đây đã khuấy động Hà Nội lên để chiếm lấy chính quyền. Không, đây chỉ là những người dân ngụ ở thành thị, số dân đô thị đã được liên kết vào cộng đồng người Pháp, đã quen với sự giàu có và lối sống đầy đủ tiện nghi. Từ những câu trả lời rối rắm của họ, tôi kết luận họ không phản đối thay đổi. Đúng là họ đã không được thực là sung sướng với người Pháp hoặc các chúa tể Nhật, vì dù sao thì đó cũng vẫn là người ngoại quốc và không thể tin cậy được. Họ cảm thấy dễ chịu hơn với những người đồng chủng của họ, dù cho nhưng người đó là quan lại hay ?ochức dịch?, miễn họ là người Việt Nam. Nhưng rõ ràng là số dân chúng thực sự muốn có thay đổi không phải là trong giai cấp tư sản ở Hà Nội.
    Tôi nhớ lại điều ông Hồ đã nói với tôi hồi tháng 4 tại một gian buồng nhỏ ở biên giới Trung Quốc: Việt Nam là một nước nông nghiệp, 90% dân chúng sống nhờ vào ruộng đất, họ đã bị một chế độ phong kiến và quan lại đàn áp bóc lột dã man như đối với những người nô lệ; do đó, giống như các nước phương Đông, sự thay đổi kinh tế - xã hội ở Việt Nam phải do nông dân khởi xướng và được sự ủng hộ của công nhân. Nhưng muốn thắng lợi, phải có sự ủng hộ hoàn toàn của nông dân.
    Trên đường về biệt thự Gauthier, ngẫm nghĩ về điều ông Hồ nói, cuối cùng tôi đã hiểu sâu sắc rằng: quần chúng tiến hành cuộc cách mạng là từ ở miền thôn quê, các làng xóm và rừng núi - họ là nông dân.
    Một vị khách đã đợi tôi tại biệt thự. Đó là ông Bửu(4), một người Việt Nam dáng ưu tú, có thể khoảng gần 30. Tôi nhớ hình như đã trông thấy ông ở đâu nhưng không chắc chắn. Tôi và Bernique bắt tay và ông tự giới thiệu là do ?oBộ Nội vụ cử tới?, nhưng phát âm tiếng Anh hoàn hảo và giọng Oxford không che lẫn được của ông làm tôi sửng sốt, ngạc nhiên. Ông đưa cho tôi một thư viết tay trên hai mặt tấm danh thiếp của Giáp: Bộ trưởng Bộ nội vụ gửi lời chào v.v... Ông Bửu là đại diện cho cá nhân Bộ trưởng(5) và mong rằng phái đoàn sẽ làm dễ dàng cho công việc của ông.
    Bửu nói mục đích cuộc đến thăm là để báo cho tôi biết một ?otình hình nguy hiểm? đang làm cho Hồ Chủ tịch rất không yên tâm. Đó là việc phải đối phó với các hoạt động bí mật của Pháp được điều khiển từ Calcutta. Tôi đã tóm tắt câu chuyện của ông trong bản báo cáo gửi Côn Minh.
    ?oĐã nhận được nhiều báo cáo của ********* tại chỗ nói rằng nhiều nhân viên của Pháp đã được thả dù xuống nhiều nơi và đã bị ********* bắt giữ coi như tù binh chiến tranh. Người mới nhất, đại úy Dupré Louis, có mang theo mệnh lệnh do De Raymond ký thay cho tướng De Gaulle, nói rằng người cầm mệnh lệnh được Chính phủ Cộng hòa Lâm thời Pháp ủy nhiệm hoạt động ở Đông Dương, chỉ thị cho các nhà chức trách dân sự và quân sự hết sức giúp đỡ... và yêu cầu tất cả người thuộc Nhóm Kháng chiến nội địa của Pháp mà chưa bắt được liên lạc với một phái đoàn nào khác, thì phải tự đặt mình dưới quyền điều khiển của ông ta và phải tuyệt đối tuân theo chỉ thị của ông... Nhiệm vụ là chiếm lấy tất cả các dinh thự và công sở dân sự cũng như quân sự, cả của tư nhân nếu cần. Ông sẽ thay mặt Chính phủ Cộng hòa Lâm thời Pháp để giải quyết mọi vấn đề dân sự, hành chính và quân sự trong vòng được ủy nhiệm. Tất nhiên, ông ta sẽ từ bỏ chức trách của mình ngay sau khi có các đại diện chính thức có thẩm quyền của Pháp tới?.
    Bửu hỏi xem tôi có được báo cho biết về các hoạt động này của Pháp không và cần giải thích cho ông rõ về ý đồ của người Pháp. Tất nhiên là tôi có biết ý đồ của người Pháp mặc dù không được báo riêng cho biết về kế hoạch cụ thể của họ và tôi đã bảo thẳng Bửu là đã có nhiều quan chức cai trị dân sự được phái tới Việt Nam trong thời gian phái đoàn chúng tôi tới Hà Nội. Tôi giải thích thêm, dựa vào kinh nghiệm trước đây ở châu Âu, người Pháp đã cho xúc tiến một thời kỳ quân dân quản trong các vùng mới được giải phóng và các toán được thả dù xuống Việt Nam hình như đúng là những nhân viên cai trị để nhằm thực hiện công việc đó. Tôi nói thêm là đã hỏi Giáp chung quanh vấn đề Messmer nhưng Bửu trả lời không biết gì. (Giáp cũng đã không trả lời gì khác).
    Qua việc cử Bửu tới, Giáp cũng ngầm cho biết ********* đã ở khắp mọi nơi, nắm được chính xác tất cả những gì xảy ra ở Việt Nam, và Chính phủ Lâm thời sẽ không ngồi yên một cách vô tích sự trong khi người Pháp âm mưu quay trở lại bằng vũ lực. Tôi cảm ơn Bửu đã thông báo tin tức nhưng cũng không để lộ ra tôi sẽ có làm gì hay không. Bửu cũng chẳng hỏi tôi xem có hành động gì không, nhưng cho rằng (rất đúng) tôi sẽ báo cho Trùng Khánh. Thực là không may, câu chuyện của Bửu đã chẳng mang lại được điều gì để làm yên lòng cho Sainteny. Tôi cũng chẳng rõ được các toán người Pháp ở đâu và hoàn cảnh của họ bị bắt giữ như thế nào.
  2. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Ông Hồ mời Gréleki và tôi đến dự bữa cơm chiều trước ngày Độc lập. Đúng 4 giờ 30, lần đầu tiên chúng tôi vào cổng cuốn Bắc Bộ phủ, trước đây là dinh của Thống sứ Pháp. Người gác chào một cách lịch sự và một sĩ quan trẻ tuổi dẫn chúng tôi đến một phòng trên tầng hai. Một phòng rộng, thanh nhã nhưng bày biện đơn sơ, chỉ có một đi văng, một số ghế thông thường và một bàn trà. Rõ ràng trái ngược với nhũng phòng choáng lộn của Sainteny ở dinh Toàn quyền.
    Chủ tịch Hồ, có Giám và Giáp bên cạnh, ra đón chúng tôi một cách sốt sắng như là đã lâu lắm không gặp nhau. Vì rằng chúng tôi chính đã họp với nhau chỉ 2 ngày trước đây trong một ngôi nhà cũ ở phố Hàng Ngang, nhưng đây mới thật là lần đầu tiên gặp nhau trong khung cảnh chính thức. Ông Hồ giới thiệu với tôi những người có mặt khác(6) rồi cũng đi sang phòng bên cạnh, ở đó đã có bày sẵn bàn ăn. Tôi ngồi bên phải ông Hồ, còn Grélecki ở bên trái. Giám ở bên phải tôi và Giáp bên trái Grélecki, đối diện vối tôi. Các món ăn, như thường lệ, cũng giản đơn, ngon và theo kiểu Việt Nam.
    Người ta thấy ngay, đây cũng là một dịp mang nhiều ngụ ý chính trị. Ông Hồ mở đầu câu chuyện và nói rằng cuộc đi thăm phố phường của tôi buổi sáng đã gây ra một sự ?oxôn xao nho nhỏ?. Dân chúng đã vui sướng khi thấy tôi quan tâm đến công việc chuẩn bị của họ cho buổi lễ ngày mai và ông cũng muốn được nghe tôi nói về đdiều đó. Tôi có thỏa mãn về những điều đã được nghe và thấy không? Ông tỏ ra tò mò và quan tâm một cách nghiêm chỉnh. Không phải ông không biết những điều đã được phát biểu ra đâu, vì trong số những người tò mò ở dọc đường nhất định có nhân viên cảnh sát và chắc rằng họ đã báo cáo lại mọi câu chuyện đã nói. Nhưng chính là ông muốn thấy phản ứng cá nhân của tôi vì ông biết rằnng những phản ứng đó sẽ được phản ảnh trong báo cáo của tôi gửi về Trung Quốc. Để tránh khỏi dính líu vào các vấn đề chính trị và tư tưởng, tôi phát biểu đã có ấn tượng mạnh mẽ đối với công tác chuẩn bị cho ngày lễ và sự cởi mở của dân chúng mà tôi đã bắt chuyện. Tôi ca tụng tài tổ chúc của nhũng người điều khiển các hoạt động ngày hôm sau và sự hân hoan của quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ của họ.
    Các vị khách tỏ ra hài lòng và Giám đã phấn khởi nói xen vào là mặc dù quỹ để tổ chức buổi lễ do Thành phố đài thọ, nhưng hiện nay thì chính bản thân nhân dân đã bỏ tiền ra thanh toán các chi phí để sửa sang, làm sạch và trang trí cho thành phố. Ông nói thêm là không phải sử dụng đến các quỹ của Chính phủ và thực ra thì Chính phủ cũng chẳng có. Ngân hàng Đông Dương và các ngân hàng phụ thuộc vẫn còn nằm trong tay người Nhật và Chính phủ Lâm thời cũng chẳng có cách nào để có được tiền.
    Tôi hỏi xem có chuẩn bị diễu binh không. Với một giọng chán ngán, Giáp trả lời cũng muốn có một số đơn vị đi diễu hành, nhưng bộ đội ?ovừa mới ở rừng về? không có đủ thời gian luyện tập, nên đành phải bằng lòng với những đơn vị ?osắp hàng đứng tại chỗ? vậy. Ông Hồ ngắt lời và nói điều đó không hề gì, bộ đội sẽ đến đó để cho dân chúng xem, và ?oquân đội nhân dân? cũng có thể xem Chính phủ của họ mới được thành lập.
    Chúng tôi trở lại gian phòng lớn để dùng trà. Trừ ông Hồ, Giáp, và Giám, còn những người Việt khác đều rút lui, có thể phải đi chuẩn bị cho ngày mai. Năm người chúng tôi quay quần lại chung quanh bàn trà trong khi ông Hồ rót cà phê nóng của Pháp vào trong những tách nhỏ Trung Quốc xinh xắn. Với một giọng thân mật, ông phát biểu mời chúng tôi dự bữa cơm trước ngày lễ Độc lập của Việt Nam, để tỏ lòng biết ơn của cá nhân ông và các đồng sự của ông trong Chính phủ đối với Mỹ về sự ủng hộ vật chất và tinh thần mà phong trào của ông đã nhận được trong những năm gần đây. Ông đặc biệt cảm ơn OSS(7), về sự cộng tác từ năm 1943 và mong rằng tinh thần ?ohợp tác hữu ái? đó sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới. Nhớ lại sự cộng tác trước đây của ông với người Mỹ ở Trung Quốc và sau này tại vùng núi rừng Bắc Ký, ông đã nhắc tới tướng Chennault, đại tá Helliwell, tới Glass với những lời lẽ đầy nhiệt tình, và tới cả các ?obạn chiến đấu? của ông, các thiếu tá Thomas và Holland cùng với những người khác trong các toán của họ.
    Trong một lúc dừng chuyện trò, Giám nhận xét rằng qua Hội nghị San Francisco(8) của Liên Hợp Quốc, người ta có thể rút ra kết luận là Mỹ đã không hiểu thấu một cách đầy đủ về cảnh ngộ của người Việt Nam. Ông tự hỏi không hiểu tại sao vấn đề ?othực sự? của Đông Dương lại không được nêu lên, ngoại trừ trong những lời lẽ nói về vai trò của Pháp như là một cường quốc thực dân. Chẳng phải rõ ràng là người Việt Nam cũng rất thiết tha với cái mà người Mỹ đã đấu tranh cho công cuộc cách mạng của họ, ?ogiải phóng khỏi ách áp bức của ngoại quốc và giành độc lập dân tộc đó sao??, người Mỹ ?otừ năm 1776 đã mở đường cho thế giói bước vào một kỷ nguyên độc lập dân tộc?, hơn ai hết, cần phải đánh giá được cái điều mà người Việt Nam đang ra sức làm cho bản thân mình. Và, chắc là để nhắc nhở tôi, ông nói thêm rằng, ?ongay cả nước Ý? năm 1848 cũng đã học tập một trang lịch sử của Mỹ.
    Trong khi ông Hồ gật đầu tỏ vẻ bằng lòng, còn Giáp vẫn ngồi phớt lạnh thì Giám làm một tràng phê phán các tội lỗi xấu xa của người Pháp. Người Pháp đã cho họ là những ?ongười cách mạng? và ?odân An Nam vô ơn bạc nghĩa?. Đúng, họ là những ?ongười cách mạng?! Họ đã nổi dậy chống thực dân Pháp, các chúa tể ngoại quốc bóc lột họ. Còn ?ovô ơn?, thì họ đã chịu những ân huệ gì? Phải chăng là quyền ưu đãi được làm lao động khổ sai, làm những con đường đẹp đẽ dẫn đến các dinh thự nguy nga, những đồn điền trù phú của người Pháp?
    Giáp không thể kìm chế được nữa và nói xen vào là Pháp đã xây dựng nhiều nhà tù hơn trường học, nhiều trại lính hơn nhà ở cho dân... Tất nhiên Pháp cũng lập ra một số trường tốt cho một số ít người Việt Nam được ưu đãi, nhưng chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích thực dân của họ. Nếu có người muốn ra nước ngoài du học, họ cũng không được tự do, ngay cả sang Pháp.
    Điều nhận xét trên gợi cho tôi cảm thấy hình như ông quá gay gắt và tôi có phần dè dặt trong việc nhận định chính ông cũng đã được sự giáo dục của Pháp, giống như Giám, Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu và nhiều người khác nữa; họ đều là sản phẩm của hệ thống giáo dục Pháp. Làm sao có thể dung hòa được điều đó với những lời kết tội của ông đối với Pháp trong lĩnh vực giáo dục? Giáp thừa nhận có ngoại lệ và nói rằng một vài người trong số cộng sự của ông xuất thân từ những tầng lớp giàu sang, nhưng phần lớn thì không phải thế. Số đông này thường phải chịu đựng những điều sỉ nhục tàn tệ và sự phân biệt đối xử trong học tập?
    Ông Hồ nói chắc chắn là tôi đã rất thông thạo về chế độ thuộc địa của Pháp nên cũng không cần bàn luận về dĩ vãng làm gì, và tốt hơn hết là nên nhìn vào tương lai. Ông nói ý nghĩ của mình về những tháng sắp tới sẽ có tính chất quyết định cho Việt Nam, vì vậy người Việt Nam có nhiệm vụ phải biểu thị cho các nước Đồng minh biết lòng tin tưởng sắt đá và quyết tâm không gì lay chuyển nổi để tự giải thoát mình khỏi ?omọi sự cai trị của bên ngoài dù cho đó là người Pháp, Nhật, Trung Quốc hay bất kỳ ai?, và nhân dân Việt Nam đã đạt tới một ?otrình độ trung thành về chính trị? cho phép họ có quyền được quản lý lấy mình. Ông Hồ luôn luôn nhắc tới ?o14 điểm? của Wilson và Hiến chương Đại Tây Dương, và ông trích dẫn lời hứa hẹn riêng cho Việt Nam của Mỹ.
    Tiếp đó, ông nêu lên những lời đặt điều xung quanh vấn đề xu hướng chính trị của ông, và tôi chăm chú nghe. Ông nói có được biết nhiều về những lời buộc tội của Pháp, Anh, Trung Quốc cho ông là một ?otay sai Xô Viết? và ********* là sự bành trướng của ?obộ máy Matxcơva ở Đông Nam Á?. Nhưng Mỹ, dưới ?osự lãnh đạo sáng suốt của Tổng thống Roosevelt vĩ đại?, đã công nhận quyền của tất cả các đảng phái được cùng tồn tại sẽ không bận tâm gì về cái nhãn hiệu Cộng sản được người ra gắn cho phong trào của ông. Ông Hồ giữ vững quan điểm là trong lúc đặc biệt này, ********* là một ?ophong trào dân tộc, bao gồm một cách dân chủ tất cả các đảng phái cách mạng Việt Nam?. Tất nhiên, ông công nhận, Đảng Cộng sản Đông Dương là một nhân tố lãnh đạo trong phong trào giành độc lập dân tộc, nhưng các đảng viên của họ ?otrước hết phải là người dân tộc chủ nghĩa, sau đó mới là đảng viên của đảng?.
    Giáp, thường khó mà im lặng được lâu, đã phát biểu một điều khá bất ngờ ?o********* đã làm theo kỹ thuật và chiến thuật tổ chúc của Cộng sản để lập ra các đảng chính trị khác nhau nhằm đấu tranh cho một nền độc lập trong một trật tự xã hội giống như chủ nghĩa Cộng sản, nhưng không phải vì thế mà nó có ý định thay thế một cường quốc bên ngoài khác vào chỗ của người Pháp của Việt Nam?. Tôi đã có ý muốn hỏi ngay xem ông có ý gồm Liên Xô vào lúc đó không, nhưng cảm thấy khiếm nhã và vô vị, nên thôi. Giáp không phải chỉ là một người Cộng sản mà còn là một người Việt Nam trung thực và thẳng thắn.
    Ông Hồ tiếp tục nói, riêng ông muốn Mỹ biết các yêu cầu của ông cho nhân dân Việt Nam rất ?onhỏ nhặt và giản đơn?. Họ muốn có một nền ?ođộc lập hạn chế?, không có sự cai trị của Pháp, có quyền sống tự do trong gia đình các nước. Ở đây có một sự thay đổi trong đường lối cứng rắn của đảng. Việc ông Hồ nói tới một nền độc lập ?ohạn chế? chứ không phải hoàn toàn, gợi cho thấy trong suy nghĩ của ông có điều nghi ngờ không biết có thể đạt được mục tiêu cuối cùng ngay trong vòng đầu này không. Có thể ông cũng đang muốn thỏa hiệp với người Pháp, hay cũng có khả năng với người Trung Quốc. Tôi phân vân và chỉ biết nghe.
    Ông Hồ nói tiếp, dân chúng Việt Nam khao khát được đi tham quan các nước ngoài, ?ođặc biệt là sang Mỹ, như tôi đã làm từ lâu?. Họ mong đợi đến ngày mà nước Pháp không còn chỉ là nơi duy nhất để học tập, ngày mà học vấn không chỉ hạn chế trong một số người được ưu đãi, ngày mà các sinh viên cũng có thể tới học tập tại nước Mỹ.
    Ông Hồ muốn được các chuyên gia kỹ thuật Mỹ giúp thiết lập một số công nghiệp mà Việt Nam có khả năng đảm đương được. Thấy Giám muốn nói, ông Hồ dừng lại. Theo quan điểm của Giám thì Việt Nam cần và muốn trước hết là quyền tự do buôn bán, các cảng tự do, và vốn của nước ngoài - ngay cả vốn của Pháp, mặc dù ông không tin rằng Pháp có khả năng cung cấp được. Theo ý kiến ông, điều mong muốn trước hết là vốn của Mỹ và việc buôn bán với Mỹ, và khi Việt Nam đã có diều kiện, sẽ mở mang các sân bay và bến tàu để có thể tiếp nhận hàng hóa của Mỹ một cách điều hòa(9). Giám tiếp tục nói dài về vấn đề này, về tương lai của Việt Nam.
    Ông Hồ nêu ngay lên một vấn đề hết sức cấp bách, tình hình nguy ngập về lương thực. Ông nói về nạn đói khủng khiếp năm 1944. Tình hình lương thực năm nay cũng không khá hơn vì mưa lớn và lụt lội. Thực tế thì số thóc dự trữ để làm giống cho vụ sau cũng đã mang ra ăn hết. Tình hình lương thực ?ovào đúng lúc này đã cực kỳ nguy hiểm?. Nếu như quân chiếm đóng Trung Quốc định tiếp tế bằng thị trường địa phương tại chỗ, thì ?omọi người sẽ chết đói?. Những báo cáo mới nhất từ phía bắc gửi về cho ông Hồ đã chỉ ra rằng quân đội Vân Nam ?ovô kỷ luật và không ai kiểm soát được?. Và ông Hồ e rằng họ tiến về Hà Nội và Huế thì tình hình lương thực ở đó đã khó khăn sẽ trở thành không sao chịu nổi. Do đó ông nói tôi cần phải kêu gọi sự chú ý của Chính phủ Mỹ cho tiến hành kiểm tra đối với quân chiếm đóng Trung Quốc và yêu cầu người Trung Quốc mua bán chứ đừng trưng thu các vật phẩm và lương thực trong thời gian họ chiếm đóng ?ođể tránh gây ra? tình hình người Việt Nam bắt buộc phải tiến hành chiến tranh đối với người Trung Quốc để bảo vệ cuộc sống và gia đình họ. Tôi đồng ý chuyển lời yêu cầu của ông.
    Đến 7 giờ 30, chúng tôi cho là đã đến lúc phải cáo lui vì ngày hôm sau là một ngày nặng nhọc. Ở cầu thang, Giáp nói riêng với tôi về những mưu toan xâm nhập của Pháp bằng cách thả dù một số ?oviên chức cao cấp?. Tôi hỏi có phải những người mà Bửu đã nói với tôi hôm trước không. ?oPhải?, ông trả lời và nói thêm là cũng có những người khác nữa. Ông nhắc tới ?othiếu tá Messmer từ Calcutta tới? cùng với 2 nhân viên khác thuộc toán của ông. Đến thứ hai, Bửu sẽ mang tới cho tôi một bản báo cáo đầy đủ. Giáp lắc đầu và bình: ?oKhông biết đến bao giờ họ mới hiểu được rằng họ không được hoan nghênh ở Việt Nam, trong tình huống hiện nay??.
    ---
    (1) Ban tình báo
    (2) S.L. Norlinger, đại tá, thuộc G-5, Bộ tham mưu chiến trường, cầm đầu đơn vị cứu tế xã hội đối với tù bình Đồng minh ở Hà Nội.
    (3) Hướng đạo sinh
    (4) tức Tạ Quang Bửu, một nhà chính trị độc lập
    (5) tức Võ Nguyên Giáp
    (6) Tôi không nhớ được tên 3 trong 4 người đã đến.
    (7) tức muốn nói về những cố gắng của OSS Trùng Khánh trong những năm 1943-1944 để xin thả ông ra khỏi nhà tù của Trương Phát Khuê
    (8) tức Hội nghị Liên Hợp Quốc từ 25-4 đến 26-6-1945.
    (9) Câu chuyện được các nhà viết sử (Devillers, B. Fall?) nhắc lại nhiều lần là cả ông Hồ và tôi đã thảo luận về các nhân nhượng kinh tế sau chiến tranh hoặc sự điều đình để đồi lấy việc Mỹ bào đảm nền độc lập của Việt Nam và những câu chuyện đồn đại ra ngoài phạm vi của vấn đề, đều là bịa đặt do các nhà văn Pháp đặt ra, giống như bài của Dessinger đăng trong Le Monde ngày 14-4-1947.
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 26
    Ngày lễ Độc lập
    TÔI NÓI ĐỒNG BÀO NGHE RÕ KHÔNG?
    Ngày chủ nhật đầu tiên trong tháng 9 là ngày lễ các Thánh tử vì đạo của riêng hơn một triệu dân Thiên chúa giáo ở Bắc Việt Nam(1). Có thể cũng chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà ông Hồ đã chọn ngày đó làm Ngày lễ Độc lập. Tại các nhà thờ Thiên chúa giáo, cũng như các chùa Phật giáo, buổi lễ vẫn tiến hành long trọng, các bài thuyết pháp có thêm những ý chính trị ủng hộ chính phủ mới thành lập và nền độc lập của Việt Nam.
    Từ sớm tinh mơ, dân chúng Hà Nội như các bầy ong, từng đoàn lúc lớn lúc nhỏ, lũ lượt dần dần kéo đến cạnh quảng trường Ba Đình.
    Ở nhiều chỗ là cả một khối dân chúng các làng ngoại ô. Đi theo trong biển người đó, có cả toán dân miền núi với y phục địa phương của họ và nông dân trong những bộ khăn áo cổ truyền.
    Giữa các khối khác nhau, người ta dễ dàng nhận ra các tổ chức của công nhân, sơ mi trắng, quần dài hoặc quần soóc trắng hoặc xanh. Phụ nữ mặc áo dài trắng hay màu sáng, tay khoác nón.
    Cho đến tận trưa, cả toán OSS chúng tôi lăn lộn ở ngoài phố, chụp ảnh, ghi chép về các nhóm người, các sự kiện, các khẩu hiệu, biểu ngữ, áp phích... Có nhiều khẩu hiệu bằng tiếng Pháp, Anh, một số bằng tiếng Việt Nam: ?oViệt Nam của người Việt Nam?, ?oHoan nghênh Đồng minh?, ?oHoan nghênh phái đoàn Mỹ?, ?oThà chết, không nô lệ??
    Khoảng trưa, Knapp, Bernique, Grelecki và tôi đi về phía quảng trường Ba Đình. Tôi đã quyết định từ chối lời mời của ông Hồ đến khu vực lễ đài dành cho quan khách, để đi xem buổi lễ chỉ như một người quan sát trong quần chúng. Chúng tôi chọn được một điểm thuận lợi ngay trước lễ đài giữa đám viên chức địa phương.
    Trong khi chờ đợi ông Hồ và các quan chức tùy tùng tới, tôi nhìn thấy một toán cố đạo Thiên chúa giáo mặc áo thầy tu trắng và xanh den, có cả các chức sắc mang khăn quàng và giải viền đỏ.
    ? Cách họ không xa, là các nhà sư Phật giáo khoác áo cà sa màu da cam, rồi đến các chức sắc Cao Đài, áo dài trắng có tua và khăn quàng sặc sỡ.
    Đội danh dự và công tác bảo vệ được giao cho bộ đội của Giáp và Chu Văn Tấn, lực lượng được huấn luyện, trang bị, có kỷ luật nhất của họ. Mũ bấc, đồng phục kaki, quần soóc, tất cao, họ trưng bày các vũ khí mới một cách hãnh diện, lúc trong tư thế ?ođứng nghiêm?, lúc ?onghỉ?. Ở đó còn có các đơn vị ?otự vệ?, dân quân mặc áo lẫn lộn quần áo nhà binh Pháp hoặc Nhật hoặc quần áo ngắn xanh hay đen, mang theo một loạt các vũ khí cũng lộn xộn, từ súng kíp, gươm, dao rùa, mã tấu có cán gỗ dài và cả gậy tày... Có thứ hình như họ mới lấy từ các đình, chùa ở làng ra. Tất cả dựng lên một cảnh tượng sinh động và hoàng tráng(2).
    Mặt trời đã lên cao. Không khí oi bức. Nhưng đôi lúc cũng có cơn gió nhẹ thổi làm phất phới cả cái biển cờ trên quảng trường. Cao trên cột trước lễ đài, lá cờ đỏ với ngôi sao vàng lớn phấp phới bay.
    Bất chợt có tiếng còi và các hiệu lệnh quân sự phát ra từ các đội hình. Đội danh dự và các đơn vị bộ đội đứng thẳng và chăm chú theo dõi có người đã bắt đầu xuất hiện trên lễ đài. Mấy phút sau, nổi lên tiếng hô ?obồng súng, chào?, quần chúng bỗng im lặng trong khi các vị chức quyền tìm chỗ đứng vào đằng sau cái bao lơn được trang trí bằng màu trắng và đỏ. Trên lễ đài, mọi người đều bận đồ trắng, thắt cà vạt và để đầu trần, trừ một người nhỏ nhắn, mặc áo kaki màu sẫm và có cái gì như là cái khăn trùm đầu - đó là Hồ Chí Minh.
    Lê Xuân, nguyên là người liên lạc của chúng tôi, đã đến và sẵn sàng bình luận, nhận xét. Anh ta cũng đã đi một vòng và cho rằng quần chúng hết sức tò mò và quan tâm đến vị lãnh đạo ?omới? của Chính phủ. Mọi người đều muốn biết ?oông Hồ Chí Minh bí ẩn? này là ai? Ông ở đâu về?
    Nhưng không phải chỉ có người Việt Nam mới không quen thuộc với cái tên đó đâu. Ngay cả đến cơ quan Bộ Ngoại giao chúng ta ở Côn Minh và Trùng Khánh cũng không biết gì về vấn đề này, mặc dù là đã có nhiều báo cáo cụ thể của tôi. Một tháng sau, khi đọc một công văn của Sprouse, lãnh sự ở Côn Minh, tôi ngạc nhiên thấy còn nói đến ?oHo Chi Minh?. Lúc đó ai cũng nghĩ rằng đã biết tên thật của ông Hồ.
    Một tiếng trong loa phóng thanh nổi lên phá vỡ sự im lặng, giới thiệu ?oông Hồ là người giải phóng, vị cứu tinh của dân tộc?. Quần chúng được hướng dẫn của các đảng viên, lên tiếng hát và trong mấy phút liền hô vang ?oĐộc lập?. Ông Hồ ngồi yên mỉm cười, nhỏ nhắn trong tầm cỡ, nhưng vĩ đại trong sự hoan hô của nhân dân ông. Ông giơ tay ra hiệu im lặng và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn, nay thành nổi tiếng của ông với những lời:
    ?oTất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc?.
    Ông Hồ dừng lại đột ngột và hỏi người nghe: ?oTôi nói đồng bào nghe rõ không??. Quần chúng hô vang đáp lại: ?oRõ!?. Thực là một nghệ thuật diễn thuyết bậc thầy. Từ lúc đó, quần chúng lắng nghe, nắm lấy từng lời. Chúng tôi không hiểu ông Hồ đã nói gì. Lê Xuân phải cố gắng lắm để dịch nhưng cũng rất khó khăn. Nhưng cứ nghe giọng nói của ông Hồ, bình tĩnh và rõ ràng, ấm cúng và thân mật, và nghe thấy được quần chúng trả lời thì chúng tôi không còn nghi ngờ gì nữa là ông đã thấu tới quần chúng.
    Ông Hồ tiếp tục:
    ?oLời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do?.
    Sau đó, quay về bản Tuyên ngôn của Cách mạng Pháp năm 1791, nói về quyền con người và quyền công dân, ông Hồ nói:
    ?oBản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: ?oNgười ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi?. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được?.(3)
    Đến khoảng 2 giờ, ông Hồ kết thúc bản Tuyên ngôn. Tiếp sau đó là Võ Nguyên Giáp nói về vai trò của *********, nhấn mạnh vào công tác của Đảng trong lĩnh vực chính trị - quân sự, phát triển kinh tế xã hội, chương trình giáo dục và văn hóa. Trong các vấn đề quan hệ đối ngoại, Giáp đã vạch ra rằng Mỹ và Trung Quốc là những đồng minh đặc biệt và liên tục ủng hộ đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Điều thú vị là không thấy nói gì đến Liên Xô. Tôi không bao giờ bỏ không ghi những lời Giáp nói, nhưng sáng ngày hôm sau, báo chí Hà Nội lại đăng tin Giáp đã phát biểu ?oMỹ đã góp phần lớn nhất cho sự nghiệp giải phóng của Việt Nam và đã cùng với nhân dân Việt Nam đấu tranh chống phát xít Nhật, vì thế Cộng hòa Mỹ vĩ đại là một đồng minh tốt của chúng ta?.
    Sau bài diễn văn, các Bộ trưởng mới được chỉ định, từng người một được giới thiệu ra mắt nhân dân. Buổi lễ kết thúc bằng việc các Bộ trưởng tuyên bố nguyện trung thành và triệt để ủng hộ Chính phủ Dân chủ Lâm thời Việt Nam.
    Mãi đến tận khuya hôm đó, báo chí địa phương mới cung cấp cho chúng tôi một bản nguyên văn lời tuyên bố của ông Hồ; chúng tôi dịch và chuyển ngay bằng điện đài cho Côn Minh. Tôi cũng gửi kèm theo bằng đường hàng không bài tường thuật và nhận định của tôi...
    Sau khi các phần thủ tục kết thúc, chúng tôi cũng phải mất đến 30 phút mới tìm đường ra khỏi được nơi tập trung. Nhờ đi tắt qua khu vực Thành được dành riêng, tránh được những phố đầy người, nên chúng tôi trở về nhà Gauthier đúng vào giờ cơm chiều. Tôi đã mời tất cả các người Mỹ ở Hà Nội đến cơ quan của OSS để tham dự ngày lễ ?o14-7? lặng lẽ và không pháo hoa của người Việt Nam. Để đề phòng những chuyện xung đột có thể xảy ra giữa những người Việt Nam vui mừng hớn hở và người Pháp tuyệt vọng, và để giữ cho người Mỹ tránh khỏi các cuộc hỗn loạn, tôi đã yêu cầu đại tá Nordlinger và đại úy Mekay, thủ trưởng toán AGAS cùng với cả nhóm đến ăn cơm cùng với chúng tôi...
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT NGÀY CHỦ NHẬT ĐEN TỐI Ở SÀI GÒN
    Mọi việc trôi chảy cho đến 9 giờ tối thì tôi nhận được một bức thư của Imai báo ở Sài Gòn xảy ra rối loạn nghiêm trọng. Ngày Độc lập ở Hà Nội đã biểu thị cho lòng tự hào dân tộc, danh dự của địa phương, và một sự biết kiềm chế đáng khen, nhưng tại Sài Gòn thì bạo lực và chết chóc đã kéo dài thêm danh sách những người ?oViệt Nam hy sinh?. Theo báo cáo của Imai thì những người lãnh đạo ********* ở Sài Gòn, hoặc các chỉ thị của Hà Nội hoặc muốn biểu thị một sự đoàn kết với Hà Nội, đã tổ chức một cuộc biểu tình khổng lồ nhân Ngày Độc lập. Những người tổ chức đã mất nhiều công sức để duy trì trật tự và tránh các cuộc xô xát với người Pháp. Người ta đã nói với dân chúng rằng các người đại diện Anh và Mỹ sẽ đến Sài Gòn vào ngày hôm ấy(4) và đó cũng là một dịp rất tốt cho người Việt Nam để biểu thị một cách hòa bình, trong trật tự sự thống nhất dân tộc trước các nước Đồng minh. Nhưng các lãnh tụ ********* đã kinh ngạc khi thấy trong đám quần chúng khoảng 20 vạn người đi diễu hành dọc phố Catinat, các đảng phái chính trị hợp thành liên minh miền Nam, đã trương lên những biểu ngữ, bích trương đầy tính chất tranh giành chia rẽ đảng phái.
    Khi những người biểu tình tiến đến trước cửa Nhà thờ Lớn thì nghe có tiếng súng nổ từ phía nhà Câu lạc bộ Pháp ở phố Norodom. Cha Tricoire, một giáo sĩ Thiên chúa giáo trong nhà thờ của trại giam và rất được người Việt mến đã bị bắn gục trong khi đang đứng trên bậc cửa nhà thờ. Nghe nói ông bị thương nặng và nằm gục ở đó nhiều giờ.
    Tin đồn người Pháp tấn công lan ra hết sức nhanh chóng và tiếp đó là sự hoảng sợ. Không điều tra xem nguồn phát súng ở đâu, cảnh sát Việt Nam đã có bắt ngay hàng trăm người Âu và những người thân Pháp. Bọn lưu manh địa phương nắm ngay lấy cơ hội lộn xộn, xông vào một số nhà và cửa hàng người Pháp và Hoa, cướp đi mọi thứ mà chúng có thể mang được. Cuộc biểu tình có trật tự đã biến thành một sự điên loạn của quần chúng, nghi ngờ lẫn nhau, đưa đến cho đất nước mới sinh một tương lai chính trị không chắc chắn.
    Những tin tức mà Hà Nội nhận được qua đài phát thanh Delhi đã khơi cho tình hình bùng cháy to lên. Tin nói về việc tướng Mac Arthur (trong buổi tiếp nhận Nhật đầu hàng trên chiến hạm Missouri sáng hôm đó) đã khuyến khích đại diện Pháp, tướng Leclerc, sử dụng ảnh hưởng của mình đối với Chính phủ Paris để gửi quân đội sang chiến trường Thái Bình Dương. Ở Hà Nội người ta được tin rằng, sau khi ký hiệp ước, Mac Arthur đã kéo Leclerc ra một chỗ và nói ?oNếu tôi cần phải khuyên ông thì tôi sẽ nói với ông đưa quân tới, nhiều quân hơn nữa, theo khả năng cao nhất của ông?. Lời của Leclerc trên đài Delhi cộng thêm với sự rối loạn ở Sài Gòn đã nâng niềm hy vọng của người Pháp ở Hà Nội lên điểm cao mới. Quá tin vào một cuộc quay trở lại của quân đội Pháp đang giơ cao ngọn cờ tam tài có Đồng minh hỗ trợ, họ cho là tin tức đã báo hiệu một sự sụp đổ nhanh chóng của *********.
    Một giờ sau, Imai tới để báo cho tôi thêm những tin nhận được từ Bộ chì huy tối cao Nhật và cho biết câu chuyện của Leclerc đã khuấy động xôn xao và gây gổ nhỏ ở trong Thành. Nhưng Bộ tư lệnh Nhật vẫn nắm chắc được tình hình. Trong mấy tuần trước, tướng Mordant, ?olãnh tụ? của những người ?okháng chiến? theo De Gaulle(5) và cũng là một tù binh trong Thành, đã định làm một cuộc nổi dậy, hy vọng để mở màn cho việc quân đội dưới quyền của Leclerc quay trở lại. Chúng tôi đã có tin nhóm Mordant cất những kho lớn vũ khí và đạn dược tại các nhà và cửa hàng của người Pháp, chuẩn bị sẵn sàng cho lúc nổi dậy.
    Nhưng không phải chỉ có riêng tôi biết được kế hoạch của Mordant: Giáp cũng có những nguồn tin của ông. Như mọi lần, tin của ông bao giờ cũng chính xác hơn của tôi. Ông biết rõ người Pháp đã cất dấu vũ khí ở đâu và tên tuổi của các người lãnh đạo.
    Cũng còn nguy cơ thực sự là một số ********* nóng đầu nào đó có thể tự động ?othủ tiêu? số tù binh Pháp ở trong Thành cùng với những lãnh tụ Pháp ở bên ngoài mà người ta đã biết. Tôi trao đổi những mối lo lắng của tôi với Giáp và Imai, tất nhiên là với riêng từng người. Cả hai đều đảm bảo với tôi rằng đã có những biện pháp đề phòng cẩn thận, ít nhất cũng cho tới khi các lực lượng Đồng minh tới.
    Nhưng các sự kiện xảy ra ở Sài Gòn đã cho thấy tình hình dễ bùng cháy đến chừng nào. Rốt cuộc không có ai là thủ phạm của phát súng đầu tiên - Người Pháp bị kết tội không có chứng cớ, một số kẻ hiếu chiến trong phong trào liên minh Việt Nam cảm thấy bị lợi dụng, chính người Nhật hay những người thân Nhật, hay đơn giản chỉ là một người mất trí. Ai mà biết được? Tôi thực sự không muốn những chuyện tương tự xảy ra ở Hà Nội.
    Các rối loạn ở Sài Gòn, sự náo động trong người Pháp tại Hà Nội, và lời công bố khiêu khích của Leclerc, cộng với báo cáo của Bửu và mối lo lắng của Giáp xung quanh vụ xâm nhập bí mật của một số quan chức ?ocao cấp? Pháp, đòi hỏi chính sách Mỹ đối với Pháp phải được làm sáng tỏ rõ ràng. Đêm đó tôi đã điện báo cho Helliwell biết sự quan tâm của tôi đối với tình hình náo động ở bên ngoài và tình hình an ninh của chúng tôi. Tôi nói nhiều về nguy cơ hai mặt ở trong Thành và yêu cầu cho phép được thực hiện các biện pháp đề phòng đặc biệt. Tôi khuyên phải ngăn ngừa việc thả sớm các tù binh Pháp đang chờ hồi hương vì sợ rằng, được thả ra, họ sẽ xúc tiến thực hiện các kế hoạch ?okháng chiến? của Mordant và sẽ làm nổ ra cuộc xung đột trong thường dân. Đồng thời tôi muốn gia tăng bảo vệ cho các quân nhân cũng như các thường dân Pháp trong trường hợp người Việt trả thù lại đối với sự việc đã xảy ra ở Sài Gòn hay khi họ thấy bị đe dọa vì quân đội Pháp quay trở lại. Đó là những vấn đề sinh tử nhưng lại không thuộc phạm vi nhiệm vụ của tôi và phải được giải quyết ở cấp Chiến trường, vì vậy tôi đề nghị phải có một cuộc họp bàn ở Côn Minh vào ngày 5-9.
    Quá nửa đêm, sự vật mới trở lại yên ắng trong ngôi nhà Gauthier. Nhưng đèn vẫn còn cháy sáng cho tới rạng đông trong mái nhà cũ ở phố Hàng Ngang, trong căn buồng của Pháp tại dinh Toàn quyền, và trong nhà một số lãnh tụ chính trị Pháp và Việt Nam. Đó quả là một đêm không dễ dàng ở Hà Nội.
    ---
    (1) Người Thiên chúa giáo ở Bắc Việt Nam có khoảng chừng hơn 1 triệu. Dấu hiệu tính chất quần chúng của ông Hồ thể hiện trong lời kêu gọi của ông đối với các dân tộc thiểu số Việt Nam, trong đó có nhiều nhóm tôn giáo khác nhau. Người ta đồn rằng, năm 1945, ông Hồ vì kính trọng đối với Thiên chúa giáoViệt Nam nên đã cử một người Công giáo nổi tiếng là Nguyễn Mạnh Hà làm Bộ trưởng Kinh tế trong chính phủ đầu tiên của ông. Thiên chúa giáo Việt Nam đã ủng hộ chủ nghĩa Quốc gia của ông Hồ cho đến tháng 12-1946, khi bắt đầu nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp. Trước đó, vào tháng 3-1946, Giám mục Lê Hữu Từ, giáo phận Phát Diệm, đã được cử làm Cố vấn Tối cao thay cho Bảo Đại đã bỏ trốn sang Hongkong.
    (2) Ước lượng khoảng 50 đến 60 vạn người, theo không ảnh của Mỹ chụp ngày hôm đó.
    (3) Đây là một bản dịch lời của ông Hồ do một phiên dịch Việt Nam thông thạo tiếng Anh, có được nghe tại chỗ.
    (4) Điều này có liên quan đến toán OSS ?" AGAS dưới quyền trung úy Mỹ, R. Counasse ngày 2-9 được đưa đến sân bay Sài Gòn để giải phóng các tù binh Đồng minh, trong đó có 214 người Mỹ.
    (5) Trong bản tường thuật này, vẫn giữ lại danh từ ?okháng chiến? mà người Pháp đã dùng. Nhưng cũng cần nói rõ là từ khi đã có ngừng chiến với Nhật thì hoạt động của Pháp chỉ là nhằm mục đích đánh đổ Chính phủ Lâm thời Việt Nam.
  5. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 27
    Hậu quả của ngày chủ nhật đen tối
    NHỮNG SUY ĐOÁN
    Sáng sớm ngày thứ Hai, Hà Nội nhận được các báo cáo thiệt hại đầu tiên qua đài phát thanh Sài Gòn. Từ các nguồn không được xác nhận, tung ra tin một cuộc ?othảm sát lớn? đã xảy ra trong ?ongày chủ nhật đen tối? ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn, có tới ?omột trăm người chết - hàng ngàn người bị thương?. Nhưng theo tài liệu chính thức ngày hôm sau thì: 3 người Pháp, cộng với Cha Tricoire, và 14 bốn người Việt chết, trong đó có một em gái nhỏ. Cuộc ?othảm sát? là như thế đó.
    Các câu chuyện xuyên tạc mới và những tin đồn dại lan nhanh ở Hà Nội. Và trong người Pháp người ta nghe thấy những lời bàn tán độc ác về một cuộc trả thù đối với người ?oAn Nam?. Cũng có những sự ức đoán vô căn cứ rằng cảnh sát ********* phối hợp với Hiến binh Nhật đang chuẩn bị một cuộc vây ráp để bắt những người Pháp kháng chiến đã lộ mặt.
    Tôi hỏi lại tướng Tsuchihashi, ông cũng nhận được tin về những hoạt động của Pháp, nhưng theo chỗ ông biết thì không có một hành động bạo lực công khai nào xảy ra và ông cũng không nhận được yêu cầu giúp đỡ từ phía những người cảnh sát Việt Nam. Sài Gòn cũng báo cho ông biết số thiệt hại là 5 người chết, hàng tá người bị thương và một số vụ cướp bóc. Bản doanh thống chế Terauchi (1) cho biết cảnh sát Sài Gòn đã bắt giữ độ 200 người Pháp, đã lộ mặt là ?onhững kẻ gây rối?.
    Sau khi trao đổi về phương hướng hoạt động, tôi nêu lại lời căn dặn nhắc nhở trước đây là vấn đề duy trì trật tự công cộng vẫn thuộc trách nhiệm của ông ta và nói thêm, mặc dù tôi không có quyền ra lệnh cho các chỉ huy Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16, họ vẫn có trách nhiệm trong khu vực đó giống như ở đây, cho tới khi lực lượng của Anh tới. Tới đây, Tsuchihashi gợi ý là tốt hơn hết, cả hai chúng tôi nên thảo luận tình hình với Hồ Chí Minh. Trong khi đó, trong chừng mực có thể ông sẽ chuyển ý kiến của tôi cho Bộ chỉ huy Tập đoàn quân Nam và đảm bảo với tôi rằng quân đội của ông ở phía Bắc sẽ làm mọi cách để bảo vệ tính mạng và tài sản của người Âu và Việt Nam.
    Từ Hành dinh của Tsuchihashi tôi đi thẳng tới Bắc Bộ phủ. Ông Hồ tiếp tôi ngay và chúng tôi nhận định về tình hình ở Sài Gòn và các ảnh hưởng có thể của nó tới toàn quốc. Ông Hồ cung cấp thêm một số chi tiết về Sài Gòn nhưng không có gì quan trọng, trong khi một số nhân viên tham mưu thân cận của ông tới. Trong số đó có Trần Huy Liệu, Bộ trưởng tuyên truyền và Giáp. Theo gợi ý của ông Hồ, Liệu nói lại cho tôi nghe ý kiến của ông về sự việc đã xảy ra.
    Theo Liệu, từ hội nghị ngày 13 - 16 tháng 8 ở Tân Trào, tất cả các đại biểu đã thông suốt và thống nhất ý kiến là cuộc cách mạng sẽ ?odân chủ?, cố gắng hết sức tránh không dùng bạo lực và lập ra một mặt trận thống nhất và có kỷ luật của tất cả các đảng phái chính trị đấu tranh cho độc lập để ra mắt với Đồng minh. Tình hình đó đã thực hiện được ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nhưng ?omột số đồng bào miền Nam? đã không thấy hết sự quan trọng của việc phải duy trì ?otrật tự xã hội và kinh tế?, đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp này.
    Liệu có ý nói đến tính chất mờ ám của một số phần tử chính trị ở Nam Kỳ và Kampuchia, đặc biệt là các nhóm Quốc gia không Cộng sản. Ông đã đưa ra một thí dụ, đó là ?obọn cướp? Bình Xuyên. Tôi không biết, nên hỏi cho rõ thêm. Nhóm này được mô tả do một tướng cướp nổi tiếng là Bảy Viễn chỉ huy, hoạt động từ làng Bình Xuyên trong vùng lầy phía nam Chợ Lớn, có khoảng từ 500 đến 1.000 tên cướp, thường đánh phá cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn và các nhà giàu Pháp ở ngoại ô Sài Gòn. Có tin Bảy Viễn đã đi theo với bọn Phục Quốc sau cú 9-3, nhưng chỉ nhằm để xoay tiền và tranh thủ được công nhận công khai hoạt động.
    Tôi hỏi xem có phải cuộc rối loạn hôm trước là do Bảy Viễn gây ra không. Có người trả lời ?ohình như không phải?. Bọn Bình Xuyên đến sau, thủ phạm chính là người Pháp. Sau đó, người ta giải thích thêm là các phần tử khác cũng có nhiều lý do cụ thể để gây rối trật tự và đặc biệt là để làm mất uy tín của ********* mà chính sách ôn hòa đã làm cho họ không đồng tình. Nhóm Troskism đang kiểm soát ngành cảnh sát là một trong số những phần tử đó, ngoài ra còn có nhóm chính trị tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo, cũng ác cảm đối với *********.
    Thấy tôi lúng túng trong việc phân biệt ********* và mục tiêu của những người Troskism. Liệu giảng giải là cả hai về căn bản đều thống nhất với khái niệm độc lập dân tộc, nhưng đối lập nhau hoàn toàn trong việc xác định các ưu tiên để hoàn thành giai đoạn ?odân chủ - xã hội chủ nghĩa?.
    Nhóm Troskism chủ trương vũ trang quần chúng, xóa bỏ mọi tàn dư của nền thống trị ngoại quốc, chống lại các cố gắng của Đồng minh nhằm phục hồi chủ quyền của Pháp và cho thi hành ngay các cải cách xã hội. Còn ********* thì ít cực đoan hơn, vẫn ít nhiều chấp nhận cơ cấu chính quyền cũ, và sẵn sàng thương lượng với Đồng minh. ********* ủng hộ một sự chuyển tiếp từng bước - từ chế độ dân chủ cộng hòa sang xã hội chủ nghĩa tiến bộ rồi chủ nghĩa cộng sản, vì thế tránh được va chạm của một sự thay đổi đột ngột về kinh tế xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp gắn liền với nó.
    Nhũng sự khác biệt này phản ảnh chủ nghĩa thực dụng của Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng một tình huống khá tế nhị, trong đó người Việt Nam phải tự khẳng định mình và trong cuộc chiến tranh giành giữa các đảng phái để nắm được quyền lãnh đạo chính trị. Thực tế, sự lãnh đạo của ông Hồ trong tháng 9-1945, ngoài Bắc Kỳ ra, thì rất mong manh. Sự kiểm soát của ông đối với khu vực miền Nam có thể nói đúng ra là không vững vàng.
    Để làm giảm nhẹ nhược điểm thiếu kỷ luật của Đảng trong sự việc xảy ra ở Sài Gòn, Liệu phát biểu là Chính phủ Hồ ở Hà Nội chưa có dịp thuận lợi để khích lệ chính quyền của Giàu. Nhưng điều đó có nghĩa là những tên quấy rối chưa bị Giàu trừng trị và điều đó làm cho mọi người ở Hà Nội lo lắng. Ông Hồ gật đầu tán thành và nói với một cử chỉ nhẹ nhàng, ra hiệu cho mọi người rút lui, trừ Liệu và Giáp.
    Ông Hồ tỏ ra thấm mệt với sự căng thẳng trong những tuần lễ vừa qua. Ông trông già đi và mệt mỏi, với những vết nhăn sâu ở trán. Khi người khác nói, ông hơi nhắm mắt lại và nhẹ nhàng ngả đầu ra thành ghế, không hút thuốc. Khi những người khác đã ra khỏi phòng, ông ngả người trên ghế, hai tay đan vào nhau, và hỏi ý kiến tôi. Nhớ lại các nhận xét của tôi lúc đó mạnh mẽ và quá tự tin, nhưng điều lo lắng trước mắt của tôi là tránh đổ máu. Tôi nêu ra vấn đề nghiêm trọng của tình hình (lúc dó chưa biết cụ thể về sự thiệt hại) và tôi sợ sẽ có những ảnh hưởng lớn trong khắp nước, nếu như ông Hồ không làm một cái gì đó để trấn an người Pháp, cho họ biết rằng hành động ngày hôm qua không phải do ********* gây nên. Tôi báo cho ông Hồ biết là tôi đã trao đổi với tướng Tsuchihashi và ông này nhận thức rõ ràng được nhiệm vụ bảo đảm trật tự và an ninh công cộng của mình; cơ quan của ông sẽ tiếp xúc với Chính phủ Lâm thời để phối hợp kế hoạch đối phó với những sự bất ngờ. Giáp lại muốn biết có sử dụng quân đội Nhật không, nếu có thì phải phối hợp kế hoạch với tướng Chu Văn Tấn. Tôi nói tôi không biết nhưng cho rằng điều đó có thể nêu trực tiếp với người Nhật.
    Trở lại vấn đề ở Sài Gòn, ông Hồ muốn các nhà chức trách Đồng minh biết rằng, bất chấp việc đảng nào hay nhóm nào đã gây ra cuộc rối loạn, ********* sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo không để cho tình hình tái diễn trở lại. Tôi đã định hỏi xem ông làm thế nào để giữ được lời hứa, nhưng lại thôi. Ông Hồ lại hỏi tôi có ý kiến gì cần nêu nữa không. Tôi gợi ý bước thứ nhất là nên ra lệnh thả ?ohàng trăm? người Pháp nghe nói đã bị bắt ở Sài Gòn. Sau đó, phải có một chương trình giáo dục cho người Việt Nam về các mục tiêu và mục đích trước mắt của Chính phủ mới. Có như thế thì mới có thể xua tan được những nghi ngờ và các tin đồn đang lan tràn trong dân chúng. Ông Hồ tỏ ý tán thành, lần đầu tiên trong tối nay ông đã mỉm cười và tuyêu bố đã cho họp phiên đầu tiên của Chính phủ vào sáng nay và Hội đồng Chính phủ đã thông qua một chương trình 6 điểm.
    Theo ông Hồ, điểm thứ nhất của chương trình là có kế hoạch tăng gia sản xuất lúa gạo để ngăn chặn nguy cơ nạn đói. Trước mắt, ông đề nghị mỗi gia đình, bắt đầu từ bản thân ông, cứ 10 ngày để dành ra một bát gạo rồi tập trung lại mang chia cho những người thiếu thốn. Các điểm khác trong chương trình gồm có: một cuộc vận động chống nạn mù chữ; tổng tuyển cử; vận động phong trào cần, kiệm, liêm, chính; hủy bỏ thuế thân, thuế đò, thuế chó; cấm hút thuốc phiện; cuối cùng là hoàn toàn tự do tín ngưỡng và đoàn kết tôn giáo.
    Có phần nào phấn khởi và cũng vui vì đã nắm trước được ý của tôi, ông mỉm cười một cách độ lượng và hỏi: ?oCòn gì nũa không??. Tôi nêu ra vấn đề nên cử một nhân vật nào nổi tiếng của ********* ở Hà Nội vào làm đại diện cho cá nhân ông, đồng thời có cố vấn chủ chốt cho Giàu trong thời kỳ quá độ này. Tôi cho rằng như thế sẽ tăng thêm được uy tín cho Giàu. Ý kiến của tôi đã được chấp nhận và ông Hồ hứa sẽ xem xét vấn đề những người Pháp bị bắt giữ ở Sài Gòn đã được thả ngay chưa. Quay sang phía Liệu, ông hỏi về phương hướng tuyên truyền cho công chúng. Liệu đáp lại là sáng nay đã cho phép công bố tất cả các pháp lệnh mới trên tờ công báo (2) và ra tuyên bố công khai lên án những người phá rối trật tự ngày hôm qua.
    Giáp, Bộ trưởng Nội vụ đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm về an ninh nội địa, tỏ ra lo lắng về giọng bài diễn văn Leclerc đọc trên đài phát thanh Delhi. Ông hỏi xem tôi có thể nói rõ thêm vê câu nói của Mac Arthur với Leclerc cho phép ?ođưa quân đội? đến Đông Dương. Tôi phân bua không rõ và cho rằng nhận xét của Leclerc không có liên quan gì đến vấn đề này hoặc đã bị người ta cố tình xuyên tạc đi. Nhưng mọi người đều biết rằng Pháp đang xúc tiến điều đình với người Anh và Anh sắp vào chiếm đóng Nam Việt Nam, và chắc chắn quân đội Leclerc sẽ đi theo cùng. Giáp tỏ ra ngán ngẩm trước sự phân tích của tôi, nhưng cũng nhận ra là ông cũng đồng ý với tôi, ông cảm thấy nếu người Anh cho phép người Pháp tái chiếm lại Đông Dương thì trước sau rồi cũng sẽ nổ ra một cuộc chiến tranh lâu dài. Ông tin tưởng rằng phong trào độc lập nhất định không thể từ bỏ sự nghiệp của mình mà không có đấu tranh.

Chia sẻ trang này