1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tại sao Việt Nam? - Patti

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thainhi_vn, 30/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 10
    Một phiên họp của ?obộ óc?
    ĐỘI OSS
    Vào lúc tôi rời Szemao ngày 12-5, Spaulding cùng với một đội 20 người đang điều khiển sau trạm thu tin dọc biên giới, tôi rất hài lòng. Trở về Côn Minh, tôi suy ngẫm làm sao để mở rộng những hoạt động của chúng tôi ở bên trong bằng những phương tiện của Sabattier và của ông Hồ có tại chỗ.
    Hồi đó Ban tham mưu của tôi ở Côn Minh đã tăng thêm những người mới từ Mỹ đến: trung uý (sau đó là đại uý) Roger P. Bernique, thuộc Lục quân; trung uý (sau đó là đại uý) Carleton Swift Jr., thuộc Hải quân và nhiều lính nghĩa vụ có trình độ cao được huấn luyện về tiếng Pháp và tiếng Việt. Với đội ấy và với sự giúp đỡ của những chuyên viên khác ở ban tham mưu OSS, chúng tôi bắt đầu cuộc hoạt động SI đối với Đông Dương trên qui mô đầy đủ.
    Ngay trước khi tôi bay trở về, một chỉ thị mới của chiến trường đã chỉ thị cho OSS ?ongăn cản sự vận chuyển và phá hoại đường bộ và đường sắt từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội?. Chỉ thị có một giọng cấp bách khác thường: ?o?trong trường hợp tất cả các đường sắt nằm trong hoạt động này, những đường sắt nào có thể tháo dỡ được thì? phá hủy, cả cầu và đường hầm cũng phá hủy. Ít nhất phải có những khúc đường bộ hay đường sắt dài 10 dặm sẽ không thể hoạt động được nữa. Không để cho người Nhật sử dụng đuờng giao thông? tâấ cả các hầm hố và các ụ đất (sẽ) được gài mìn? (và phải) tiến hành việc phá hủy các kho tàng tiếp tế của Nhật trong hoặc gần Hà Nội? các đội quân phá hoại phải bắt tù bình khi nào có thể đuợc?.
    Helliwell và tôi thảo luận bức điện ấy. Thật lạ lùng, chỉ thị quá chi tiết nhưng lại không xác định được mục tiêu rộng lớn; và chúng tôi đều ngạc nhiên về một anh chàng tài tử nào đó ở Bộ tham mưu đã vạch ra chỉ thị đó.
    Đây là một công việc thuộc SO/OG(1) chứ không phải thuộc SI, nhưng chúng tôi cũng hỏi Helliwell xem ông ta có chỉ thị gì cho tôi không. ?oNgài đại tá hay nổi khùng? ấy, như ở một vài cơ quan thường gọi Helliwell như vậy, cáu kỉnh nói: ?oĐây là khu vực của anh, anh hãy tới đó?. Rõ ràng đó là lần đầu tiên tôi được báo cho biết là sựu phân công của tôi đi xa hơn việc tình báo bí mật. Với một giọng có phần gay gắt, Heliiwell báo cho tôi biết rằng nhiệm vụ của tôi bao hàm toàn bộ những hoạt động bí mật và chiến tranh chính trị. Helliwell nói rằng những chỉ thị của tướng Donovan cho Heppner đã đặc biệt nhấn mạnh rằng Whitaker và tôi sẽ chịu trách nhiệm trước ông ta(2) về những hoạt động ở Đông Dương. Vào lúc tôi vừa mới bắt tay vào hoạt động SI, tất cả những điều đó làm cho tôi ngạc nhiên phần nào nhưng Helliwell tiếp tục bảo đảm với tôi là tôi sẽ được tiếp xúc và được sự ủng hộ đầy đủ với tất cả các bộ phận tham mưu và ông ta tin rằng họ sẽ cộng tác với tôi.
    Ngày hôm sau, Heppner, Whitaker và Quentin Roosevelt(3) từ Trùng Khánh đến ở lại đây một thời gian ngắn. Họ cùng nhập bọn với Helliwell, Duncan Lee và tôi trong một dịp hiếm có - một bữa ăn Trung Quốc được sửa soạn đặc biệt với nhiều món ăn và chúng tôi ngồi nhắm rượu trắng Trung Quốc với rượu mạnh Ecosse của Anh suốt đêm. Những chuyến đi thăm thường xuyên lẫn nhau giữa cái nhóm nhỏ bé tin cậy nhau của chúng tôi được coi như những phương tiện duy nhất để chúng tôi quan hệ với nhau và trao đổi ngay thẳng với nhau những tin tức và quan điểm về chính sách và những hoạt động của Mỹ và tăng cường những liên hệ làm việc của chúng tôi bằng một mối quan hệ cá nhân.
    Heppner có một cái đầu lạnh và chúng tôi biết dựa một cách tin cậy vào sự phán đoán vững chắc của ông ta. Ông ta rất lịch thiệp và được ban tham mưu của mình ủng hộ mạnh mẽ, nhưng khi cần có thể cứng rắn được. Được tướng Donovan hoàn toàn tin cậy và được biết riêng về những cuộc thảo luận của Nhà Trắng, ông ta thường đụng phải vấn đề tế nhị nhất với các thủ lĩnh Trung Quốc, nhưng ông ta không bao giờ tỏ ra một thái độ quá bận rộn với một sự mệt mỏi khi nghe hay xem xét những vấn đề của chúng tôi, hoàn toàn ngược lại, bao giờ ông ta cũng vui vẻ và sẵn sàng.
    Whitaker dược Donovan giao cho thâm nhập các giới của người Pháp ở Trùng Khánh để báo cho Washington những kế hoạch của Pháp. Đối với công việc được giao ấy, ông ta có lợi thế là đã trải qua 20 năm ở châu Âu như một nhà văn và nhà báo Mỹ. Ông ta có bạn bè ở khắp châu Âu, đặc biệt trong những người Pháp, và có một phong cách tao nhã, một nhân cách xuất sắc và một sự hiểu biết sâu sắc về chính trị châu Âu. Ông ta có mặt trên sân khấu với tư cách là một nhà báo khi Hội Quốc liên suy tàn và chết, đã tới Matxcơva để tìm ?osự thật? và trở về vỡ mộng, và đã viết cả một loạt bài từ Ethiopia đến Tây Ban Nha và từ cuộc thanh lọc của Hitler năm 1934 đến cuộc chính biến ở Viên với tư cách phóng viên chiến tranh. Ông ta cảm thấy rằng mình bị ràng buộc một cách sâu sắc với cuộc chiến tranh chống nước Đức và nước Nhật, và hy vọng nước Mỹ cuối cùng sẽ khắc phục được sự yếu ớt của mình là cái đã từng phá hoại Hội Quốc liên cũ.
    Helliwell là một nhân vật quyết định và ông ta đau khổ như một người đang ốm ở khi những quyết định chính trị làm trì hoãn những kế hoạch và hành động của mình. Ông ta ít tỏ ra sôi nổi, nhưng thỉnh thoảng những cơn bực dọc của ông ta làm cho ông ta trở nên giận dữ, ông ta không phải là một người ưa những sự nhỏ nhặt hay những ác cảm. Khi khí sắc tươi tỉnh, ông ta hăng hái thúc đẩy mọi hoạt động, ủng hộ và khích lệ, lôi kéo mọi người theo mình và tự mình lao vào việc một cách hăng hái nhất.
    Quentin Roosevelt là cháu Tổng thống Theodore Roosevelt. Chắc chắn anh ta được đặt tên theo tên người chú đã bị giết trong Thế chiến thứ nhất. Hồi ấy anh ta mới 25 tuổi hay vào khoảng đó, và được bạn bè gọi là anh ?oQ?. Anh ta có vẻ rất thoải mái trong môi trường Trung Quốc và nói tiếng Trung Quốc khá thành thạo. Bố anh ta, Theodore Roosevelt Jr., là một người bạn cũ và thân thiết của Tưởng và vợ. Điều rất quan trọng đối với chúng tôi là anh ta hiểu biết sâu sắc suy nghĩ của các cố vấn của Tưởng, anh ta cũng là một người bạn tốt và là một người kể chuyện tế thị.
    Duncan Lee là một nhà Trung Quốc học; đẻ ở Trung Quốc, bố mẹ là những nhà truyền giáo, nói thạo tiếng Trong Quốc, có phần văn vẻ nữa. Trong đời sống bình thường, ông ta là một luật sư cũng giống như những luật sư khác và cũng đã từng tốt nghiệp trường Đại học Oxford. Lee cũng đã từng làm trưởng chi nhánh Viễn Đông của OSS ở Washington, nơi chúng tôi gặp nhau lần dầu tiên, và kiến thức của ông ta rất có ích cho chúng tôi. Ông ta là người dễ ưa và dễ làm quen.
  2. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    CARBONADO
    Những tin tức quan trọng vào buổi chiều do Heppner cung cấp là tuyệt mật. Wedemever (vừa mới từ Washington về) đang chuẩn bị một cuộc tấn công đần tiên của Mỹ ở Trung Quốc, theo tên mật mã là Carbonado. Đó là một cuộc tấn công trên đất liền, dọc theo đường Quế Lâm - Liễu Châu - Nam Ninh để bảo vệ khu vực Quảng Châu - Hongkong, sau đó mở những cảng lớn ở phía nam Trung Quốc để tiếp nhận quân đội từ châu Âu và Phillipine đến. Ngày mở đầu cuộc hành quân được dự định chỉ còn ba tháng rưỡi nữa, tức là vào ngày 1-9, và cuộc tấn công kết thúc vào ngày 1-11-1945.
    Để dạo đầu cho Carbonado, Wedemeyer cần mở một cảng nhỏ Fort Bayard (Chanchiang) nằm trên bán đảo Lôi Châu, cách Quảng Châu chừng 250 dặm về phía tây nam, như là một căn cứ tiếp tế sắp tới để duy trì cuộc tấn công Carbonado.
    Hepper nhấn mạnh tầm quan trọng của những hoạt động của OSS chúng tôi, vì Wedemeyer và Bộ tham mưu của ông ta buộc chúng tôi cung cấp rất nhiều tin tức tình báo và phải quấy rối người Nhật ở khu vực tấn công được dự tính. Tướng Mc Clure(4) cũng yêu cầu OSS mở đầu cuộc hành quân này bằng cách đánh du kích (SO), phá hoại (OG) và hoạt động tâm lý (MO). Điều đó đặc biệt quan trọng để ngăn quân Nhật ở Đông Dương tăng cường những vị trí của họ nằm trên khu vực của những cuộc hành quân Carbonado. Tất nhiên, đó là những điểm đặc biệt trong bản chỉ thị mà Helhwell và tôi đã chế giễu. Whitaker nói rằng khu Hà Nội - Trấn Nam Quan sẽ là ?ongười yêu? của tôi và tuyến Trấn Nam Quan - Nam Ninh sẽ bị hạm đội Mỹ cắt đứt.
    Khi báo cho tôi, Whitaker nói rằng ông ta đã gặp tướng Pechkov và Sabattier, thấy rõ họ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi và hỏi ý kiến của tôi. Helliwell nhăn mặt, tôi nhận thấy thế, khi Heppner và Lee ngồi lùi ra với những bộ mặt nghiêm trọng còn Q thì nở một nụ cười sung sướng. Tôi suy nghĩ một lát và nói: ?oChắc chắn như vậy, sao lại không? Chỉ cần chúng tôi có đủ thời gian và được ủng hộ về hậu cần, và nếu như người Pháp không phản đối đánh nhau ở Trung Quốc?. Nhưng tôi nói với ông ta rằng, theo chỗ tôi biết về điều kiện của họ và về những kế hoạch của họ, tôi hoài nghi việc đánh nhau ở Trung Quốc được đặt lên một vị trí cao trong danh mục những ưu tiên của họ. Hơn nữa, tôi cho rằng mục tiêu duy nhất của họ lúc này là tránh khỏi người Nhật càng xa càng hay. Thật ra nếu ông ta hỏi tôi, tôi sẽ gợi ý là nên gửi họ đến một trung tâm hồi phục ít ra là 6 tháng nữa. Whitaker im lặng một lát với một vẻ khổ sở, để lộ ra một sự thất vọng đối với tôi. Sau đó ông ta hỏi: ?oLàm thế nào ông định hoạt động Đông Dương mà không có người Pháp được??. Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn và trong khi mọi người đều lặng thinh, tôi nói: ?oTa hãy xem John có thật nghiêm túc không? Các ông đã nhìn thấy những người lánh nạn chưa? Những đội quân ấy, thật ra, không nhìn thấy bất cứ một thứ vũ khí hiện đại nào hay học những chiến thuật mới nào từ năm 1940. Họ vẫn còn sống trong Thế chiến thứ nhất?. Whitaker không thể giữ mãi tư thế cũ. Mọi người phá lên cười vì cái điều tôi đã phát hiện ra ấy, tôi trở thành cái bia của một sự đùa cợt nhỏ của Whitaker - ông ta giễu cợt tôi suốt buổi. Điều đó đã làm cho tôi rụt lại một lúc.
    Khi những tiếng la hét và những tiếng cười ha hả lắng đi, Q nói với chúng tôi rằng Pechkov là một vấn đề nặng nề với tướng Hà Ứng Khâm, vì ông ta đòi hỏi mọi thứ cung cấp và vậnn chuyển, và yêu cầu trang bị ?o4.000?(?) người Pháp chiến đấu để đánh người Nhật ở Đông Dương. Ông Jean Daridan, đại diện của Đại sứ quán Pháp ở Trung Quốc, đã khẩn nài Đại sứ quán Mỹ dùng ảnh hưởng của mình đối với Tưởng nhằm tổ chức những hoạt động bí mật của Pháp ở Đông Dương. Tướng Cheng Cheng, Bộ trưởng chiến tranh Trung Quốc, đã hai lần từ chối gặp Pechkov cũng như Sabattier để thảo luận vấn đề về sử dụng các lực lượng Pháp ở Trung Quốc. Ông ta lịch sự bảo họ đến gặp tướng Hà.
    Heppner ước đoán về con số quân đội mà Sabattier có thể tập hợp được trong thực tế. Ông ta nghe nói tới những con số khác nhau, từ 1.000 đến 6.000người. Dù nhiều đến đâu, ý kiến của ông ta là những số quân ấy có thể được sử dụng tốt nhất như những đội quân yểm trợ ở các khu vực hậu phương của Cục quân nhu (thuộc OSS). Whitaker nghĩ tới việc có thể sử dụng một số ít vào công tác tình báo, miễn là OSS giữ quyền kiểm soát các hoạt động. Helliwell gợi ý rằng nếu Sabattier tổ chức được vài trăm người tự nguyện và có năng lực thì họ có thể sử dụng vào những hoạt động du kích và phá hoại. Rõ ràng là có một vai trò dành cho một số đội quân người Pháp trong các kế hoạch của Đồng minh nếu họ bằng lòng chấp nhận sự lãnh đạo và kiểm soát của Đồng minh.
    Theo sự gợi ý của Whitaker và Helliwell, tôi đã đề nghị đưa M.5 về gần Côn Minh để thu xếp việc tuyển lựa và huấn luyện một đội quân nhỏ cho những hoạt động SI, SO và OG. Heppner không đồng ý. Thay vào đó, ông ta yêu cầu tôi triển khai một kế hoạch mà ông ta và Whitaker đã vạch ra với Sabattier ở Trùng Khánh. Wedemeyer và Donovan rất nhạy cảm với quan hệ với người Pháp và, ông ta nói, tốt hơn cả là nên bàn luận vấn đề đó lúc đầu ở cấp Chiến trường và Đại sứ quán. Mc Clure sẵn sàng thảo luận với tướng Sabattier về khả năng sử dụng một số hạn chế quân Pháp phối hợp với người Trung Quốc ở đông bắc Trung Quốc. Whitaker đồng ý rằng chúng ta ở Côn Minh không nên dính vào chuyện này cho đến lúc mọi việc được sáng tỏ ở Trùng Khánh. Đặc biệt về sự tranh chấp giữa những người Pháp theo De Gaulle ở M.5 và Bộ tham mưu Pháp ở Trùng Khánh. Ông ta cũng thấy những cuộc xung đột cá nhân giữa Sabattier, Alessandri và Pechkov. Hai người sau này đều là những sĩ quan lê dương(5), đã từng cộng tác với phái De Gaulle thuộc SLFEO/Calcutta trong một chiến dịch mà Sabattier bị gọi về Pháp, theo ông ta nói.
    Tôi nêu lên vấn đề người Việt Nam, mô tả lại những cuộc tiếp xúc mới đây của tôi, và nói rằng tôi tán thành sử dụng lực lượng dự trữ chưa đặt quan hệ ấy. Phản ứng đầu tiên của những vị khách Trùng Khánh của chúng tôi là tiêu cực. Whitaker và Roosevelt đều cảm thấy người Pháp và người Trung Quốc sẽ mếch lòng với sự tiếp xúc của chúng ta với những người Cộng sản Việt Nam. Heppner cũng thấy trước vấn đề ấy, nhưng cho rằng lúc này chúng ta vẫn chưa có một sự lựa chọn nào, và ông ta thấy không có gì gay go trong vấn đề ấy chừng nào chúng ta tách khỏi chính trị và hành động êm thấm, ở cấp thấp. Lee và Helliwell tán thành sử dụng người của Hồ Chí Minh, nhưng rất thận trọng. Với một vẻ hoài nghi, Lee muốn biết xem chúng tôi làm thế nào để cho Tai Li không khám phá ra được việc này. Tôi nói: ?oĐể việc đó cho tôi?, và Whitaker hết sức ủng hộ tôi và nói với họ rằng tôi đã từng thành công ở Ý, khi làm việc bên cạnh những người Cộng sản, những người quân chủ và những kẻ phát xít Ý mà không để họ khám phá ra những hoạt động đồng thời tiến hành ấy.
    Cuộc nói chuyện chuyển sang những sự kiện ở Trùng Khánh. Whitaker nói với chúng tôi rằng 6 tuần lễ trước khi xảy ra cuộc đảo chính của Nhật, đại tá Jacques Guilermag(6) đã đích thân báo tin cho Wedemeyer rằng người Nhật đang hoạt động mạnh mẽ ở Đông Dương và hậu quả là người Pháp thấy trước mình sẽ bị tước mất vũ khí và quyền lực. Ấy thế mà, khi điều đó xảy ra, người Pháp đã tỏ ra ngạc nhiên và kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ. Sau đảo chính, Pechkov đã đưa ra những yêu sách vô nghĩa lý của một phong trào kháng chiến không tồn tại và muốn trách cứ Mỹ về sự sụp đổ ấy, đúng như Vichy và Catroux đã làm năm 1940. Việc họ thiếu nhìn xa và thiếu kiên quyết chống lại đã để cho Nhật giành được một sự kiểm soát chiến lược không chối cãi được ở Đông Nam Á và đặt Trung Quốc vào một thế nguy hiểm. Cả Tưởng lẫn Wedemeyer đều tỏ ra hết sức thất vọng với người Pháp.
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    DE GAULLE VÀ QUỸ ĐẠO NƯỚC NGA
    Ba ngày trước cuộc đảo chính, đại sứ Pháp ở Washington, Henri Bonnet, đã vẽ lên cho Bộ Ngoại giao chúng ta một bức tranh rực rỡ về ?ocuộc kháng chiến của Pháp ở Đông Dương và có một số đông những người bản xứ tham gia?. Ông ta yêu cầu Mỹ giúp đỡ cho những người maquisards(7) giúp thành lập một tổ chức dân sự hỗn hợp và chấp nhận việc ủy nhiệm tướng Blaizot liên lạc với tướng Wedemeyer. Bonnet được nói cho biết là không có những người maquisards ở Đông Dương, những kế hoạch dân sự còn quá sớm và tướng Weaemeyer khi được hỏi đã trả lòi rằng lúc này ông ta không cần đến một sĩ quan Pháp ở Bộ tham mưu của mình.
    Whitaker cũng được biết một sức ép nặng nề vẫn đang được thực hiện. Tướng De Gaullle đã nói với đại sứ chúng ta ở Paris, Jefferson Caffery, rằng người Pháp ở Đông Dương đã tổ chức một ?ocuộc chiến đấu thực sự? nhưng không được sự giúp đỡ của cả người Mỹ lẫn người Anh. De Gaulle cho biết rằng người Mỹ được chỉ thị không giúp đỡ gì cả và người Anh cũng đi theo sự lãnh đạo của Mỹ. De Gaulle nói rằng ông ta không hiểu được chính sách của Mỹ. Chúng tôi phải làm thế nào đây, chẳng lẽ lại kéo nước Pháp vào quỹ đạo nước Nga chăng? Nước Pháp không cần trở thành Cộng sản, nhưng nếu như chính sách của chúng ta không thay đổi thì ông ta sợ sẽ xảy ra như thế, dù ngược lại với ý muốn của ông ta.
    Mườì ngày sau cuộc đảo chính, khi người Pháp đang vượt qua biên giới Trung Quốc, Bonnet vẫn cố thuyết phục Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao rằng những người maquisards vẫn chống cự một cách anh dũng ở Đông Dương, rằng chỉ vì thiếu viện trợ của Mỹ nên họ không thể chiến đấu tốt được. Whitaker nói với chúng ta đã gửi hàng trăm tấn hàng cho người Pháp trong cuộc rút lui của họ, nhưng đã bị người Nhật nhặt được. Tôi không thể nào không nói lên nhận xét của mình rằng khi nhìn thấy hoàn cảnh cơ cực của đội quân Pháp, thì người ta không thể nào tin được rằng chúng ta đã không thả dù tiếp tế cho họ chút nào.
    Sau đó Heppner báo cho chúng tôi rằng đã nghe được những tin đồn từ các nguồn của Pháp nói rằng chính sách của Mỹ về Đông Dương đã thay đổi và trong cuộc nói chuyện riêng với các nhân vật chính thức cao cấp Pháp ở Hội nghị San Francisco ở Liên Hợp Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao chúng ra đã nói rằng Mỹ không bao giờ nghi ngờ về chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Heppner nói rằng ông ta đã kiểm tra các nguồn tin ấy ở Hurley và Wedemeyer và biết rằng chính sách của Mỹ không thay đổi. Quay sang tôi, ông ta nói: ?oNhững chỉ thị của Donovan cho ông vẫn giữ nguyên. Chúng ta không được cộng tác bằng bất cứ cách nào với kế hoạch trở về của Pháp. Nói cách khác, cho đến lúc nào ông không nghe thấy một cái gì khác từ 109 (tên mật mã của tướng Donovan), thì vẫn tiếp tục làm như đã đồng ý?. Whitaker nói thêm rằng khi nào và nếu như chính sách thay đổi, 109 sẽ thay đổi sự phân công của tôi đối với bên nước.
    Xen kẽ với những cuộc thảo luận ấy về Đông Dương, đã có những cuộc nói chuyện về những vấn đề khác, bao gồm cả hoạt động của Cộng sản Trung Quốc - OSS ở Diên An, dự án đặc biệt của Helliwel (?oChim ưng?) để thâm nhập Triều Tiên và dự án SEAC-OSS ở miền Nam Đông Dương và Thái Lan. Cuộc gặp mặt kết thúc rất muộn.
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    BẢN BÁO CÁO ĐẦU TIÊN CỦA ÔNG HỒ
    Tôi đã nhận được một báo cáo tình báo thú vị của Hồ Chí Minh, cùng với hai bài viết chính trị gửi cho phái đoàn Mỹ ở hội nghị Liên Hợp Quốc. Tôi đưa hai bài ấy cho Whitaker, ông ta quyết định chuyển tiếp cho Đại sứ quán Mỹ; một bài gửi cho giới lãnh đạo Mỹ, Trung Quốc, Anh và Liên Xô, và bài kia là một bức thư ngỏ cho Liên Hợp Quốc(8). Cả hai bài đều kêu gọi ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
    Những văn kiện ấy đều ký tên ?oQuốc dân đảng Đông Dương (Annam)?. Cái tên ấy có nghĩa là một chi nhánh của Quốc dân đảng (Trung Quốc); nhưng theo tôi, nguồn gốc thật sự của nó là *********. Đảng quốc dân Đông Dương là một nhóm gồm 5 đảng đã hợp nhất vào Đồng minh Hội năm 1942, nhưng sau đó đã lập thành Đông Dương Độc lập Đồng minh Hội. Vì những văn kiện ấy là từ ông Hồ gửi đến, nên tôi không nghi ngờ gì rằng ông đã dùng cái tên cũ để không lộ ra chân tướng của *********. Ngay cả trong bản viết bằng tiếng Anh, đường lối của đảng ông đã được trình bày mạnh mẽ và rõ ràng.
    Bản báo cáo tình báo kèm theo những bài viết gồm một số trang đánh máy có pha thêm những mẩu chuyện về những mối liên hệ thân thiện Pháp - Nhật và sự đau khổ của người Việt Nam vì cả hai đều làm cho họ thất vọng; tất cả những điều đó chúng tôi đều trừ hao đi vì những lý do chính trị. Tuy nhiên, nó cũng cho một thông tin có ích để nhận biết một vài đơn vị của sư đoàn Nhật Bản 37, chỗ đóng quân của nó chỉ mới cách đây vài ngày và tên của một vài sĩ quan cao cấp. Mở đầu như thế không phải là xấu, Phòng tác chiến của chúng tôi đã xác nhận một phần của nó và còn tỏ ra muốn chấp nhận những điều còn lại. Tôi lấy làm hài lòng và Whitaker cũng tỏ ra cảm kích.
    Mấy ngày sau đó, tôi nhận được qua đường dây một bản báo cáo thứ hai của ông Hồ với nhiều tin tức quân sự hơn. Lần này báo cáo đã cung cấp những chi tiết về việc xây dựng công sự mới của Nhật và những cải tiến công sự hiện có do Pháp xây dựng ở vùng Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Việc xác định lần đầu tiên những đơn vị của Quân đoàn 38 của Nhật và đặc biệt những đơn vị của Sư đoàn 32 ở vùng biên giới Cao Bằng đã gây nên một hứng thú to lớn ở phòng tác chiến của chúng tôi cũng như ở cấp Chiến trường.
    Ông Hồ đã gắn một mảnh giấy nhỏ viết bằng tiếng Anh hỏi xem hai văn kiện chính trị có đáng gửi đi San Francisco không. Tôi nói với người mang thư đến - người này đợi tôi trả lời - rằng những văn kiện ấy đã được gửi đến các nhà chức trách hữu quan ở Trùng Khánh, nhưng tôi không thể chắc chắn là chúng đến được với phái đoàn ở San Francisco. Về sau, tôi đã có thể xác định rằng đó là lần đầu tiên ông Hồ có ý định đưa sự nghiệp của mình tới sự chú ý của Liên Hợp Quốc. Tất nhiên, đó là 32 năm trước khi một Chính phủ Việt Nam độc lập được thừa nhận là hội viên của nó.
    ---
    (1) Tổ công tác đặc biệt, lực lượng biệt kích phá hoại
    (2) Heppner
    (3) Thiếu tá, sĩ quan liên lạc của OSS với Tưởng
    (4) Trung tướng, tham mưu trưởng chiến trường Trung Hoa, tư lệnh quân dã chiến Mỹ tại Trung Quốc
    (5) Légions: lực lượng quân đội gồm những người nước ngoài mang quốc tịch Pháp.
    (6) Tuỳ viên quân sự Pháp tại Đại sứ quấn ở Trùng Khánh
    (7) Du kích chiến khu - tiếng Pháp
    (8) Lời kêu gọi được viết bằng 2 thứ tiếng Việt và Anh
  5. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 11
    Một đồng minh miễn cưỡng
    CUỘC XUNG ĐỘT ÂU ?" Á
    Khi nhìn lại, một điều nổi bật lên trên tất cả là cái gì đang tiếp diễn ở châu Á: quan điểm về châu Á sau chiến tranh rất khác nhau trong các nước Đồng minh, tùy theo quyền lợi của mỗi nước. Mục tiêu của Mỹ chỉ đơn giản là đánh bại Nhật Bản và, với một sự dè dặt, phục hồi những quy chế ?oquo ante?(1) ở Viễn Đông. Nước Đồng minh đáng tin cậy nhất của chúng ta, nước Anh, lại quan tâm chủ yếu đến việc giữ gìn sự nguyên vẹn của đế quốc Anh. Tham vọng của Pháp là giành lại địa vị ?ochính đáng? của nó trong các cường quốc lớn bằng cách đòi lại các thuộc địa đã mất. Trung Quốc của Tưởng đứng trước một nhiệm vụ hai mặt là giải quyết cuộc xung đột của nó với bọn xâm lược Nhật Bản và giữ vững chế độ Quốc dân đảng của mình chống lại mối đe dọa Cộng sản của Mao.
    Vào giũa cuộc xung đột Âu - Á ấy, lợi ích của thế giới thứ ba nổi lên làm mất thằng bằng ?ostatus quo?(2). Người Việt Nam, được kích thích bởi những lời tuyên bố cao quý của Hiến chương Đại Tây Dương hứa hẹn các nước Đồng minh sẽ ?otôn trọng quyền của các dân tộc lựa chọn hình thức Chính phủ của mình mà họ sẽ sống dưới đó?, đã cảm thấy kỷ nguyên mới đang tới đối với họ và đã bước vào cuộc xung đột.
    Tình trạng có nhiều mục tiêu ấy làm cho việc phối hợp kế hoạch của các nước Đồng minh trở nên cực kỳ khó khăn và đôi khi bị rối loạn - nhóm nước này hoài nghi các nhóm nước khác, và mỗi nhóm trong nước cũng ganh đua nhau với đảng phái đối lập của mình như với kẻ thù. Những thủ đoạn đấu tranh dường như vô tận.
    Người Mỹ ở Trung Quốc, mặc dù ít về số lượng, là những người duy nhất thật sự quan tâm đến việc kết thúc cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Các cố vấn quân sự của chúng ta ở các đội quân Trung Quốc phải dùng hết sức mạnh lãnh đạo của mình để thuyết phục các chỉ huy Trung Quốc bám giữ và chiến đấu. Chennault dựa nhiều vào những máy bay Mỹ để chặn các lực lượng bộ binh Nhật lại. Còn những hàng tiếp tế Vay - Mượn to lớn của Mỹ thì được chuyên chở qua những vùng đồi núi và bằng những tầu chở hàng theo con đường Miến Điện để giữ cho Trung Quốc khỏi sụp đổ dưới sức mạnh của Nhật. Người Anh cũng như người Pháp không hề đóng góp gì về vật chất cho cố gắng chiến tranh ở Trung Quốc.
    Trong lĩnh vực hoạt động bí mật và chiến tranh không chính quy, chỉ có OSS của Mỹ có một chương trình tích cực và có hiệu quả. Trong bối cảnh hoạt động của tôi ở Đông Dương, trong thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945, chúng tôi đã tổ chức được 5 mạng lưới chính và 12 mạng lưới phụ, tất cả đều bí mật, từ đó chúng tôi thu lượm tình báo, tiến hành những cuộc đột kích vào các cứ điểm then chốt của địch, và tiến hành nhiều hoạt động phá hoại ở các đường giao thông của Nhật.
    Vào lúc chót, những hoạt động đó được thực hiện với một sự giúp đỡ rất nhỏ bé của các Đồng minh Pháp, Anh và Trung Quốc. Bất chấp những ý đồ phá hoại, những cố gắng của Mỹ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Đặc biệt người Pháp, với lòng mong muốn cao nhất là nhanh chóng chiếm lại thuộc địa cũ của họ nên đã theo đuổi một hoạt động tình báo về chính trị và quân sự rất quyết liệt. Họ chiếm đoạt những vũ khí và đồ tiếp tế được dành cho những cuộc hành quân của Đồng minh và họ cố ngăn cản những ý định hoạt động của Mỹ bất cứ ở đâu trong xứ Đông Dương.
    Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp tục cho đến lúc này, một số người Pháp cố hết sức ngăn cản cố gắng chiến tranh chống Nhật. Họ lớn tiếng tuyên bố rằng họ đã bị ngược đãi, bị lạm dụng và bị coi thường, và cho mình là nạn nhân của một ?oâm mưu? - hoàn toàn ăn khớp với đường lối chính trị có chủ tâm của họ cho rằng quyền lợi chính đáng của họ bị xâm phạm.
  6. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT SỰ DÀN XẾP CÓ ĐI CÓ LẠI
    Chỉ thị ngày 10-5 yêu cầu OSS thực hiện nhiệm vụ chặt đứt đường hành lang của Nhật Bản từ Hà Nội đến Nam Ninh để chuẩn bi cho Carbonado. Nó đòi hỏi phải sử dụng các đội phá hoại và các đơn vị du kích đã quen thuộc ít nhiều với khu vực này và đã hiểu biết khá rõ về người Pháp hay người Việt Nam. Wampler đã có một số người mới từ châu Âu đến đã được huấn luyện cho những hoạt động SO và OG, nhưng chỉ có một số ít nói được tiếng Pháp. Trong khi Heppner và Whitaker gặp các tướng Sabattier và Pechkov ở Trùng Khánh, thì tôi tiếp xúc với nhóm M.5 ở Côn Minh.
    Sau khi tôi ghé lại lần đầu vào cuối tháng 4, tôi mắc bận nhiều vấn đề cấp bách nên không có ý định tiếp xúc cá nhân hay trở lại thăm nơi đó. Tuy nhiên, Bernique và Ettinger đã thiết lập được những mối liên hệ không chính thức, nhưng thân mật, với nhóm này và được biết rằng trung úy Flichy(3) đã bị thay thế bởi thiếu tá Jean Sainteny trong chức vụ chỉ huy nhóm M.5(4).
    Tôi ghé thăm M.5 ngày 18-5 và được Sainteny và những người trong ban tham mưu của ông ta tiếp đón. Thiếu tá là một người dễ chịu, hơn 30 tuổi, rất đúng đắn, đã tỏ ra dè dặt và không thoải mải lắm. Ông phân trần về những thiếu sót của mình vì bị những nhiệm vụ mới thúc bách nên chưa gặp được tôi sớm hơn. Từ khi ông ta đến đây, cách đây một tháng, ông ta phải cải tổ lại ?oPhái đoàn? và, theo ông ta nói, mong đợi được làm việc với OSS. Ông ta yêu cầu Flichy mô tả cho tôi nghe vai trò của M.5, và lần đầu tiên ông ta được biết những người tiền nhiệm của mình đã thiết lập đúng một mạng lưới những đơn vị tình báo đáng kể dọc theo biên giói Trung Quốc và một đội tuần tiễu đường biển nhỏ ở khu vực phía bắc Vịnh Bắc Bộ. Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp và chúng tôi đồng ý cộng tác với nhau trong tương lai trước mắt.
    Trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, Sainteny nêu lên rằng ông ta và trung tá Wichtrich thuộc AGAS đang thảo một dự án chung để tiến hành những hoạt động cứu giải ở khu vực Pakhoi(5). Trong vài ngày nữa ông ta sẽ đáp máy bay hạ xuống nơi đó và gợi ý rằng tôi có thể phái một sĩ quan của tôi nói được tiếng Pháp đến xem xét khu vực này cho những hoạt động hỗn hợp sau này. Tôi cảm ơn ông ta và đồng ý sẽ báo cho ông ta rõ. Trong thời gian đó, chúng tôi chỉ định các sĩ quan liên lạc cho những hoạt động hàng ngày.
    Tôi báo cho Whitaker rằng M.5 vui lòng hoạt động chung với OSS trên có sở có đi có lại, nhưng nghi ngại rằng họ đòi hỏi nhiều hơn. Về bề ngoài, Sainteny tỏ ra thẳng thắn khi yêu cầu vũ khí, trang bị và vận chuyển của Mỹ để đánh đổi nhân lực Pháp - Annam, nhưng bên trong tôi phát hiện ra rằng ông ta hy vọng giành được một sự thừa nhận đặc biệt cho cơ quan người Pháp duy nhất đảm nhận những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc. Điều đó bao hàm một sự độc lập của M.5 đối với Sabattier và Pechkov, và để cho SLFEO/Calcutta chỉ huy và kiểm soát M.5. Tôi nhấn mạnh rằng đó là ấn tượng đầu tiên của tôi và chúng ta cần thăm dò ý đồ của Sainteny hơn nữa. Tuy nhiên, nếu những nghi ngại của tôi là đúng, thì chúng tôi có thể nhìn thấy trước các vấn đề.
  7. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT CUỘC CHẠY THỬ
    Trong khi chờ đợi ý kiến từ Trùng Khánh về việc tiếp tục quan hệ với M.5, tôi đơn phương khởi sự 2 hoạt động do Chiến trường chỉ huy. Một hoạt động nhằm cắt đứt đường sắt và đường bộ từ Trấn Nam Quan đến Hà Nội, còn hoạt động kia là một cuộc tuần tiễu giám sát bờ biển ở các cảng Hải Phòng và Fort Bayard. Hoạt động thứ nhất phải chờ đến lúc nào lấy được người cho thiếu tá Gerald W. Davis(6) để đi bộ vào Đông Dương và làm nhiệm vụ. Còn cuộc giám sát bờ biển thì đòi hỏi phải có những thủy thủ được huấn luyện và một đội thuyền buồm nhỏ. Phải có thời gian tôi mới kiếm được những thứ đó nhưng Wedemeyer thì lại sốt ruột về những kết quả nhanh chóng, và chỉ có một chiếc tàu thích hợp trong khu vực này là của người Pháp, nhưng tôi không có quyền sử dụng. Tôi nghĩ tới dự án AGAS với M.5 và ?ohạm đội? của nó ở vùng Pakhoi.
    Tuân theo các quy tắc phần nào, tôi lập luận rằng một khi AGAS đã được phép cộng tác với người Pháp thì không có lý do gì để tôi không được làm việc với AGAS và cùng nhau sử dụng tàu thủy của Pháp. Khi thảo luận điều đó với Whichtrich, chúng tôi đồng ý với nhau rằng tôi sẽ cung cấp cho AGAS những phương tiện vô tuyến điện của OSS để thực hiện những hoạt động cứu thoát để đánh đổi những tin tức về hạm đội Nhật mà nhân viên OSS - AGAS thu nhận được bằng những phương tiện của các đơn vị hải quân Pháp.
    Trong khi tôi thương lượng với AGAS, tôi nhận được tin từ Trùng Khánh cho biết rằng Sabattier và Tưởng đã thỏa thuận với nhau rằng: ?oTất cả các đội quân chính quy Pháp đang chiến đấu chống Nhật ở Đông Dương thuộc Pháp được đặt dưới quyền chỉ huy của Thống chế?, rằng Sabattier đã được thừa nhận là ?oTổng chỉ huy? của những đội quân ấy, và rằng tướng Alessandri đã được bổ nhiệm là ?ochỉ huy địa phương của Pháp?. Đó là một sự thỏa thuận lạ lùng. Toàn bộ kháng chiến của Pháp ở Đông Dương chống Nhật đã bị xóa bỏ từ lâu, khiến cho Alessandri hiện nay đã trở thành viên chỉ huy tất cả các lực lượng hiện có của Pháp ở Trung Quốc mà thôi. Vậy thì, Sabattier chỉ huy cái gì? Phải chăng đó là một cách gạt êm thấm Sabattier ra khỏi dây chuyền chỉ huy và trao cho Alessandri toàn bộ quyền kiểm soát tác chiến chỉ của những đội quân Pháp chưa bị Nhật bắt làm tù bình? Chúng tôi cảm thấy một sự bối rối và băn khoăn mới trong những mối liên hệ của mình với Phái đoàn quân sự Pháp, DGER, SLFEO và M.5.
    Ngày 24-5, khi chưa nhận được ý kiến của Heppner về việc sử dụng các đội quân Pháp, chúng tôi nhận được một bức điện của thiếu tá Davis nói rằng một đội quân Pháp lớn đã đến Posech mà không báo trước, dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Revol; ông này nói rằng họ được trang bị và huấn luyện bởi OSS cho những cuộc hành quân ở Đông Dương.
    Cuối cùng, ngày 26, Heppner nói cho chúng tôi rằng ông ta đã ký một thỏa thuận có dụng ý với SLFEO. Tôi lại đến gặp Sainteny để vạch các chi tiết và, một lần nữa, sự đón tiếp của ông ta tỏ ra nồng nhiệt và thân mật. Giọng khó tính đầu tiên mà Sainteny ném ra là khi ông ta bảo đảm với tôi rằng chúng tôi có thể cùng nhau vạch ra một kế hoạch ?ocó lợi cho cả hai bên?. Nhận xét ấy không thích hợp với tôi, và tôi trả lời rành rọt rằng ?omối lợi? duy nhất mà người Mỹ nghĩ tới là thu được tình báo của Nhật và tiến hành những hoạt động riêng biệt đằng sau các phòng tuyến của họ. Tất nhiên, Sainteny đồng ý, nhưng nhận xét của ông ta làm tôi phải ?oqui vive?(7).
    Những sự thỏa thuận của tôi với AGAS đã phù hợp với sự tán thành của bản doanh cho phép làm việc với M.5, và tôi được tự do bàn bạc với Sainteny về dự án Pakhoi. Đầu tháng, tôi lại phái Ambelang tới Maoming(8) để tiến hành những hoạt dộng giám sát ven biển phối hợp với cuộc hành quân Ford Bayard. Ngày 27, tôi gửi Ettinger đến Pakhoi để nhập với trung úy James W. Jordan(9). Với Ettinger và Jordan ở Pakhoi và Ambelang ở Maoming, tôi quyết định thiết lập một trạm căn cứ trong vùng và gợi ý với Sainteny rằng dự án OSS - AGAS đang tiến hành và với sự giúp đỡ của ông ta, chúng tôi có thể cùng nhau mở rộng hoạt động để giành những kết quả tối đa trong một thời gian tối thiểu. Ông ta đồng ý và sẵn sàng vạch kế hoạch.
    Ngày 30-5, dự án Pakhoi được tiến hành. Đội tàu nhỏ của Pháp gồm hai chiếc tầu tuần tiễu, Crayssac và Frézouls, được nhiều thuyền máy yểm trợ, tất cả đều do thủy thủ Pháp điều hành, bắt đầu chuyển (bằng các đài vô tuyến của OSS) những tin tức có giá trị về hạm đội Nhật và giúp đội tầu ven biển của chúng ta thăm dò những độ sâu dọc vịnh Fort Bayard và vịnh Mandarin. Ettinger và Jordan, với sự giúp đỡ của các nhân viên Pháp do M.5 cung cấp đã tiến hành một công việc tuyệt vời, không những chỉ báo cáo về sự bố trí của quân Nhật và các hoạt động của Hạm đội Nhật (đặc biệt từ vùng Fort Bayard - Hải Phòng), mà còn thu được một số tin tức từ bên trong Đông Dương.
  8. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    NGƯỜI PHÁP TỔ CHỨC MỘT CUỘC BÃI CÔNG NGỒI
    Một ngày sau khi Dự án PAKHOI được tung ra, chúng tôi ký kết với người Pháp ở Trùng Khánh một thỏa thuận thứ hai nhằm sử dụng 100 binh sĩ Việt Nam và 10 hay 12 sĩ quan Pháp. Sabattier và Pechkov đồng ý để OSS có quyền kiểm soát hoàn toàn đối với nhóm này và những tin tức tình báo thu được sẽ chia nhau. Chúng tôi vạch kế hoạch huấn luyện đơn vị ở Trình Tây. Wampler chọn đại úy (sau đó là thiếu tá) Charles M. Holland và thiếu tá Allison K. Thomas đứng đầu hai đội với mật danh là ?oCon Mèo? (?oCat?) và ?oCon Nai? (?oDeer?). Chúng tôi báo cho Davis và Poseh biết và yêu cầu họ phái Holland và Thomas đến Trình Tây để đón nhận những người Pháp, đến ngày 12-6 thì bắt đầu huấn luyện.
    Nhóm người Pháp mới(10) đến đúng ngày giờ đã định nhưng lại từ chối huấn luyện như đã thỏa thuận ở Trùng Khánh. Viên sĩ quan cao cấp nhất của Pháp, thiếu tá Courthlac, yêu cầu OSS trả tiền cho nhóm ông ta và cung cấp ăn uống cho họ. Điều đó không nằm trong sự thỏa thuận. Người Pháp phải lấy khẩu phần của họ từ Cục quân nhu Trung Quốc trước khi đến đây theo thủ tục thông thường và việc trả tiền cho đội quân người Pháp là trách nhiệm của Chính phủ Pháp ở Trùng Khánh. Thiếu tá Thomas không có quỹ để thỏa mãn những yêu cầu của người Pháp và báo cho thiếu tá Courthlac biết điều đó; nhân đó người Pháp bèn tổ chức một cuộc bãi công ngồi cho đến lúc có chỉ thị của M.5. Do đó, từ ngày 4 đến ngày 17 tháng 6, chương trình huấn luyện ở Trình Tây đã bị hoàn toàn đình chỉ.
    Một tia lóe lên sau đó vào sáng 12-6, khi Heppner nhận được một bức thư không đề ngày tháng của Sainteny, do Flichy ký tên, nói rõ ràng Sabattier đã chỉ thị cho M.5 phải chịu trách nhiệm về hoạt động du kích với sự cộng tác của các đơn vị Mỹ. ?oDo ưu thế của lực lượng Pháp? và sự nguy hiểm sẽ xảy ra, Sainteny yêu cầu được biết về mục đích của hoạt động này, về những mệnh lệnh cho người Mỹ, và những gì đã được thực hiện từ đây đến đó. Cho đến khi nhận được trả lời cho những câu hỏi của ông ta, Sainteny đã ra lệnh cho viên chỉ huy phân đội Pháp ngừng các hoạt động. Heppner lập tức không đồng ý với mệnh lệnh của Sainteny, coi đó là một hành động đơn phương và độc đoán và là một sự phá vỡ việc thỏa thuận Sabattier - Heppner ngày 31-5 và báo cáo điều đó cho tướng Wedemeyer. Rõ ràng đã có một sự đứt quãng trong những liên lạc giữa M.5 của phái De Gaulle và ?oBộ Tham mưu? ở Trùng Khánh. Vấn đề đối với chúng tôi là phải giao dịch với ai trong những người Pháp?
    Giai đoạn thứ ba của tình trạng này là sự bắt đầu một cuộc nổi dậy nhỏ của những người Pháp mới đến ngày 14-6, khi toàn bộ những liên lạc của mạng lưới PAKHOI im lặng. Tôi biết khá sớm qua Jordan rằng người Pháp đã ra lệnh đình chỉ cung cấp luồng tin tức tình báo cho người Mỹ vì bị đe dọa của ?otòa án quân sự?.
    Khi mọi hành động Pháp - Mỹ ngừng lại và người Mỹ ở trong tâm trạng bực túc, thiếu tướng Douglas L. Weart(11) triệu tập một cuộc gặp mặt ở Côn Minh ngày 15-6 để dàn xếp mọi việc và đặc biệt đòi phải rút lại bức thư của Sainteny và các hoạt động phải đặt dưới sự kiểm soát của OSS. Weart mở đầu cuộc gặp mặt bằng việc nhắc lại cho Alessandri rằng giới quân sự Pháp đặt dưới quyền kiểm soát về tác chiến và cung cấp của tướng Hà Ứng Khâm và của OSS, và việc sử dụng các đội quân Pháp phải được cấp Chiến trường cho phép. Weart nói rằng không thể hiểu được M.5 nằm ở vị trí nào trong chuyện này, và nói cho Alessandri biết rằng ?oSự kiểm soát tác chiến của tướng Hà không thừa nhận Phái đoàn quân sự Pháp như một nguồn liên lạc; mọi sự tiếp xúc chỉ dược tiến hành trực tiếp với tướng Sabattier...?. Tướng Alessandri biện bạch rằng M.5 đã hành động mà không biết gì đến thỏa thuận giữa Wedemeyer và Sabattier, và bức thư của Sainteny sẽ bị rút lại. Phân đội Pháp ở Trình Tây sẽ được lệnh hoạt động dưới sự kiểm soát của OSS. Như vậy, đến ngày 17 mọi việc trở lại bình thường, hay ít ra chúng tôi cũng nghĩ như thế.
  9. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    M.5 CỦA SAINTENY
    Tại cuộc gặp mặt Weart - Alessandri, Flichy cố nhấn mạnh vai trò của M.5 trong những hoạt động bí mật, nhưng ông ta đã bị bác bỏ và Sainteny không gặp may. Một ngày sau cuộc gặp mặt, Sainteny yêu cầu tôi ghé lại ở một biệt thự Pháp: ông ta cần làm sáng tỏ những sự hiểu lầm. Ông ta cho rằng tôi hẳn đã biết tới việc SLFEO/Calcutta đã giao cho M.5 chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hoạt động bí mật ở Chiến trường Trung Quốc; và ông ta, với tư cách người cầm đầu M.5, đã được cho phép giao dịch trực tiếp với OSS. Còn về nhân lực, thì ông ta đã được Calcutta giao cho sử dụng các đội quân của Sabattier được bổ sung bằng những chuyên viên của DGER lúc đó đang trên đường từ Pháp đến Ấn Độ. Về vấn đề chỉ huy và kiểm soát M.5 ở Côn Minh, Sainteny nhấn mạnh rằng ông ta chỉ nhận những chỉ thị và hướng dẫn của tướng Passy(12) ở Paris và đại tá Roos(13) ở Calcutta, những người này chỉ chịu trách nhiệm trước tướng De Gaulle.
    Tôi hỏi Phái đoàn quân sự Pháp trực thuộc vào đâu, và Sainteny nói rất rõ ràng tướng Pechkov không có quan hệ gì với DGER cả. Ông ta nằm dưới sự chỉ đạo của Bộ Ngoại giao, còn DGER thì hoạt động dưới những chỉ thị trực tiếp của cá nhân De Gaulle.
    Hoàn toàn không có dụng ý, Sainteny cho tôi biết rằng SLFEO/Calcutta đã có một số thỏa thuận rõ ràng với SOE của Anh về hoạt động ở Đông Dương. Những thỏa thuận ấy được tiếp tục cả sau khi ký kết thỏa thuận OSS - DGER. Đó là những thỏa thuận riêng rẽ và khác nhau: Pháp - Anh, Pháp - Mỹ. Tôi bình luận rằng đối với tôi, sự thỏa thuận ấy có vẻ cơ hội chủ nghĩa và rõ ràng nhằm giành lấy phần tối đa từ hai phía riêng rẽ. Sainteny đáp lại rằng người Anh đã đóng góp nhiều về vũ khí và vận chuyển cho sự nghiệp của Pháp ở Đông Dương, và nói thêm: ?oVâng, chúng tôi là những kẻ cơ hội chủ nghĩa trong trường hợp này - mọi cái đều nhắm tới cùng một mục đích, có phải thế không??. Tôi trả lời rằng tôi không nghĩ thế, nhưng Sainteny nói tiếp rằng người Anh đã giúp đỡ lâu trước người Mỹ và đã có nhiều đội đang hoạt động tại chỗ, đã đem lại những kết quả tốt đẹp và ông ta không muốn chấm dứt những hoạt động của họ.
    Sau đó, tôi đặt câu hỏi về quyền hạn của Chiến trường. Người Pháp ở Trung Quốc dù sao cũng nằm dưới sự chỉ huy của Tưởng và Đông Dương thì nằm trong Chiến trường tác chiến Trung Quốc. Nhưng Sainteny khoát tay tỏ ra không cần phải băn khoăn gì về tất cả những điều đó và nói rằng chúng tôi không thể thông qua sự thỏa thuận Tứ cường ở cấp chúng tôi, khiến cho tôi gợi ý có lẽ ông ta nên nêu vấn đề này với tham mưu trưởng và đại tá Heppner. Chúng tôi không giải quyết được gì và đặt những vấn đề quyền hạn cho những cuộc thảo luận sau này.
    Những hoạt động của Anh - Pháp từ SEAC khiến cho tôi rất quan tâm. Tôi không biết chắc rằng những hoạt động ấy có thể đưa vào kế hoạch chung của tôi không. Sainteny nói rằng ông ta không biết được nhiều chi tiết và bảo đảm với tôi rằng kết quả hoạt động của các đội ấy sẽ được chia cho M.5, M.5 sẽ chuyển cho Sabattier, và ông ta sẽ chuyển đi ?otheo những đường liên lạc tình báo?. Vì tôi biết sự ngăn cấm bí mật của người Pháp không cho người Anh giao tin tức cho người Mỹ, nên tôi lại càng hoài nghi hơn. Không để lộ việc tôi biết sự ngăn cấm bí mật ấy, tôi lưu ý với Sainteny về thỏa thuận giữa Tưởng và Sabattier nói rằng đường liên lạc duy nhất đối với người Pháp ở Chiến trường Trung Quốc để tuyền đạt tin tức tình báo là qua OSS, rồi OSS chuyển tới Sabattier. Sainteny đáp lại điều đó: ?oĐúng thế! Vậy thì tôi sẽ chuyển tin tức tình báo cho ông, nhưng với điều kiện không để trì hoãn bởi nhũng thủ tục quan liêu thường thấy trong trường hợp ở châu Âu?. Chấp nhận câu trả lời dễ dãi của ông ta với một sự miễn cưỡng lớn, tôi bảo đảm với ông ta rằng sẽ không có những sự trì hoãn. Và, tất nhiên, những lo lắng của chúng tôi đã được chứng thực: chúng tôi không hề nhận được một tin tức nào cả.
    Chúng tôi chuyển qua vấn đề cuối cùng, kế hoạch hoạt động của ông ta. Sainteny nói rằng kế hoạch đó sẽ được ông ta thảo xong ngày 18-6. Khi tôi từ giã, ông ta hỏi liệu có thể được thông báo cho biết về các kế hoạch của Chiến trường cho Đông Dương với những cuộc đổ bộ dự định được đặc biệt ghi rõ hay không. Tôi gợi ý ông ta nên thảo luận điều đó với Heppner.
  10. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    M.5 GIÀNH ĐƯỢC QUY CHẾ CHÍNH THỨC
    Kế hoạch Sainteny thảo xong ngày 18 là một kế hoạch rộng lớn cho những cuộc hành quân trên bộ và trên biển. Nó bao gồm khoảng 1.000 sĩ quan và binh lính Pháp - Việt, tất cả được trang bị bởi OSS. Helliwell và tôi rất ngạc nhiên và đề nghị Heppner chấp nhận kế hoạch ấy với những điều kiện: Các đơn vị này được đặt dưới sự kiểm soát của OSS; mỗi đơn vị có một sĩ quan cao cấp Mỹ chỉ huy; chỉ sử dụng mật mã vô tuyến điện của OSS; mỗi đơn vị chỉ hoạt động dưới sự đỡ đầu của OSS chống lại các mục tiêu của Nhật.
    Sainteny và Flichy phản đối tất cả những điều kiện ấy Sainteny nói ông ta cảm thấy trái lương tâm khi yêu cầu các sĩ quan Pháp phục vụ dưới sự chỉ huy của những sĩ quan không phải người Pháp, dù cho đó là những sĩ quan Đồng minh. Heppner nói rằng đó không phải là một thủ tục gì khác thường; phải chăng tất cả chúng ta đều không nằm dưới sự chỉ huy của Thống chế (Tưởng) ở Chiến trường Trung Quốc? Chúng tôi đi tới một sự bất đồng.
    Để khỏi mất thì giờ hơn nữa, vì ngày hạn định cho Carbonado đã gần đến, tôi gợi ý chúng tôi cùng vạch một dự án trước mắt và giải quyết vấn đề chỉ huy trên cơ sở mục tiêu và khả năng hiện có về sĩ quan có năng lực cho mỗi dự án. Sainteny đồng ý một cách miễn cưỡng, nhưng ông ta yêu cầu cung cấp vũ khí và trang bị cho tất cả 1.000 binh sĩ. Heppner nắm chặt lấy điểm đó. Mỗi đơn vị sẽ được cung cấp những gì cần thiết khi nó thật sự được giao cho một phái đoàn OSS được phê chuẩn.
    Sainteny nêu lên vấn đề những cuộc đổ bộ của Đồng minh được dự tính và hỏi xem liệu ông ta có được thông báo về những gì sẽ được hoạch định không. Heppner nói với ông ta rằng Sabattier sẽ được thông báo khi tướng Hà Ứng Khâm thông qua để cho kế hoạch ấy có hiệu lực.
    Đó là một cuộc gặp mặt hoàn toàn không thỏa mãn. Người Pháp cảm thấy bị khước từ và người Mỹ chúng tôi rời ra với một cảm giác rõ ràng về tính mơ hồ của lập trường người Pháp. Helhwell và tôi, cùng với Heppner, biết rắng Sainteny không phải là một người ngay thẳng. Quá nhiều điều ông ta không nói ra và quá nhiều câu hỏi không được ông ta trả lời.
    Trong 4 tuần lễ sau đó, chúng tôi dành nhiều thì giờ để hội họp, hỏi han, bàn bạc và thảo luận, mà không di tới một sự thỏa thuận nào để có thể thực hiện được. Trong khi đó người Pháp đánh nhau ở vùng ven biển phía nam Trung Quốc không có mục tiêu rõ ràng. Căn cứ của chúng tôi ở Pakhoi được báo cáo rằng một đơn vị biệt kích Pháp đang được tổ chức và huấn luyện trong vùng cho những hoạt động mà chúng tôi chưa biết. M.5 quấy phá các hệ thống tình báo của lực lượng không quân thứ 14, AGAS, Bộ tư lệnh chiến đấu Trung Quốc (CCC) và OSS bằng những loạt báo cáo không được xác nhận về các bố trí và vận động của quân Nhật. Khi ban kế hoạch của Chiến trường hỏi OSS về tính xác thực của những báo cáo ấy, tất nhiên chúng tôi không thể xác minh chúng được, cũng không thể bảo đảm tính chính xác của chúng vì chúng tôi không được M.5 hỏi ý kiến.
    Các báo chí địa phương của Trung Quốc ở Côn Mình công bố một bản báo cáo, nói là của phái đoàn quân sự Pháp, cho biết một đơn vị Pháp ở Trung Quốc đã ?oxâm nhập và chiếm đóng? đảo Weichow của Trung Quốc(14). Vụ rắc rối ấy không có gì đáng nêu lên, ngoại trừ tướng Hà Ứng Khâm và đại bản doanh Chiến trường nổi cáu lên vì hành động không được phép ấy của người Pháp. Như câu chuyện về sau được làm sáng tỏ ra, trong một kế hoạch rút lui về lục địa Trung Quốc, người Nhật đã bỏ hòn đảo ấy. Khi biết tin người Nhật đã bỏ đảo Weichow, M.5 ra lệnh cho các tàu tuần tiễu của họ (Frézouls và Crayssac) chiếm lấy đảo này bằng một đơn vị nhỏ của Pháp. Sainteny kiêu hãnh gửi một bức điện cho tướng Chennault báo tin đã ?ophá hủy sân bay Nhật và chiếm đảo này nhân danh Đồng minh?. Mấy ngày sau, Sainteny bị Tổng chỉ huy Trung Quốc ra lệnh rút khỏi hòn đảo và phải chấm dứ cũng như chưa không được xúc tiến những hoạt động không được cho phép sau này để khỏi gây tổn hại lớn cho các kế hoạch của Chiến trường.
    Trong khi gỡ M.5 ra khỏi hành động hoang toàng đáng tức cười ở Weichow, Sainteny nói với trung úy Fauchier - Magnon rằng ông ta đang chuẩn bị một đội để ?ođánh chiếm? đảo Nightingale(15) với một đơn vị tình báo và một máy vô tuyến điện được AGAS cung cấp. Chính tướng Wedemeyer đã ra lệnh đình chỉ các kế hoạch ấy.
    Tôi giải thích những trò cường điệu trẻ con ấy là một cách mà Sainteny dùng để thu hút sự chú ý, vì DGER và đặc biệt là M.5 của Sainteny vẫn chưa được thừa nhận ở cấp Chiến trường Trung Quốc.
    Hoàn toàn thất vọng vì hành động của người Pháp, tôi khuyên Heppner chấm dứt sự ủng hộ đáng ngờ của DGER. Toàn bộ vấn đề này đã được đặt ra ở một hội nghị tại Trùng Khánh ngày 29-6, giữa tướng Paul W. Caraway(16) đại tá Joseph Dickey(17), Heppner, Whitaker, Helliwell và tôi. Tôi phác lên những thỏa thuận OSS - DGER (M.5), những thành tựu và những thất bại của nó. Tôi thừa nhận rằng người Pháp có một tiềm năng to lớn cho những hoạt động bí mật, miễn là chúng ta chấp nhận DGER như một cơ quan bình đẳng trong Chiến trường và đưa họ vào các kế hoạch của Chiến trường. Tuy nhiên, tôi cảnh cáo rằng, nếu chúng ta đi theo con đường đó, thì vai trò của tướng Sabattier với tư cách Tổng chỉ huy sẽ bị phụ thuộc vào quyền của DGER và chúng ta sẽ bỏ mất quyền kiểm soát đối với những hành động của Pháp trong Chiến trường.
    Dickey và Whitaker đồng ý với sự đánh giá của tôi và nêu rõ rằng tướng Alessandri đã gặp tướng Gross ở Côn Minh ngày 22 và gặp tướng Ray T. Maddocks(18) ngày 27 để đi tới một thỏa thuận đúng về những điểm đó - thừa nhận vai trò của DGER và của Sabattier trong những hoạt động bí mật. Tướng Caraway nhận xét rằng: Mặc dù đó là một vấn đề riêng của người Pháp, chúng ta vẫn có trách nhiệm tinh thần và pháp lý đối với sự ủng hộ viên chỉ huy đã được bổ nhiệm một cách hợp thức là Sabattier.
    Heppner, trước kia là một nhân viên tham mưu chủ chốt của đại bản doanh của huân tước Mountbatten, đã vạch rõ rằng sự thừa nhận chính thức DGER, bao hàm SLFEO thuộc SEAC cũng sẽ được phép hoạt động ở Chiến trường Trung Quốc; đó là một vấn đề quyền hạn nghiêm trọng, đòi hỏi phải được sự đồng ý của Thống chế (Tưởng). Heppner cũng nêu lên rằng người Pháp không phải chỉ là nguồn duy nhất gây hỗn loạn ở chiến trường Trung Quốc. Ông ta có nhiều báo cáo cho biết Nhóm yểm trợ Quân đội Anh (BAAG), dưới quyền chỉ huy của đại tá Ride đang hoạt động ở khu vực Hongkong - Quảng Châu, trang bị vũ khí cho du kích Trung Quốc nhằm sẵn sàng kiểm soát Hongkong trong trường hợp Đồng minh đổ bộ. Những hoạt động của cả Anh và Pháp ở chiến trường Trung Quốc không được Thống chế đồng ý và do đó sẽ có những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động của OSS. Heppner đã báo cho tướng Wedemeyer biết về những hoạt động của BAAG và ông ta đã lưu ý trung tướng E.C. Hayes, Tổng chỉ huy quân đội Anh ở Trung Quốc về điều này. Hayes hứa sẽ điều tra vấn đề này và sẽ cung cấp một báo cáo đầy đủ. (Bảy tuần lễ sau đó, khi chiến tranh kết thúc, tướng Hayes vẫn chưa làm xong công việc này).
    Chúng tôi kết luận rằng cần phải có một lập trường kiên quyết. Tuy nhiên, sự có mặt của Pháp ở Trung Quốc không thể bị bỏ qua và cần được sử dụng, mặc dù có những vấn đề khó khăn về chính trị và hậu cần. Tướng Caraway báo cho Wedemeyer rằng ông ra đã khuyến cáo với tướng Marshall ?ongay khi những lực lượng (của Pháp) ấy đã lại sung sức về thể chất, họ sẽ được sử dụng như những người bảo vệ sân bay, những đội tuần tiễu biên giới, những nhân viên tình báo, và những đội SCS(?)?. Như vậy, chúng ta đã cam kết thực hiện một cố gắng phối hợp để sử dụng họ vào những mục đích nào đó. Cho đến nay, họ đã được sử dụng ở tất cả các khu vực đã nói trên, trừ tình báo ra. Có lẽ, nếu chúng ta nêu ra một hay hai điểm, thì M.5 có thể dễ chấp nhận một phần sự giám sát. Tướng Caraway sẽ báo cáo với tướng Maddocks và tôi phải chuẩn bị cho Heppner một giác thư về những sự vi phạm của Pháp đối với thỏa thuận DGER - OSS.
    Ngoài những lý do đó, một thỏa thuận cụ thể mới với người Pháp đã được vạch ra ngày 3-7, giữa tướng Weart và tướng Alessandri. Mọi người có mặt đã biểu lộ sự thông hiểu và hài lòng với những điểm chủ yếu sau đây:
    - Hàng tuần phải báo cáo cho tướng Wedemeyer về mọi hoạt động của DGER ở Chiến trường Trung Quốc;
    - M.5 phải bảo đảm kiếm được những tin tức tình báo do DGER đóng ở Ấn Độ và chuyển giao cho tướng Wedemeyer;
    - DGER phải nhận những chỉ thị trực tiếp từ Paris hay từ Bộ thuộc địa, không nhất thiết qua Sabattier;
    - DGER được thừa nhận là cơ quan tình báo Pháp về Đông Dương, cần biết về tất cả các hoạt động bí mật có liên quan với nhân viên người Pháp được tiến hành như thế nào, ở đâu và tại sao;
    - Sabattier không được bác bỏ bất cứ sự phản đối nào do DGER nêu lên về những hoạt động tình báo đặc biệt;
    - Trong việc vạch kế hoạch và chỉ huy những hoạt động tình báo về Đông Dương, OSS phải hành động thông qua những đường liên lạc chỉ huy bình thường của Pháp, đặc biệt là đối với những hoạt động tình báo thông qua DGER và những hoạt động quân sự thông qua Sabattier.
    Chúng ta đã nêu lên một hay hai điểm thừa nhận chính thức DGER như một cánh tay của Chính phủ Paris và đồng ý một mức độ tự trị nào đó của nó, nhưng chúng ta không từ bỏ sự kiểm soát hay chịu để cho Sabattier có quyền cao nhất. Khi chúng tôi hỏi Sainteny ông ta nghĩ như thế nào về thỏa thuận mới này, ông ta nhận xét một cách thô lỗ: ?oMới gì??.

Chia sẻ trang này