1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tại sao Việt Nam? - Patti

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thainhi_vn, 30/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT TRƯỜNG HỢP CHƠI TRÒ ẢO THUẬT
    Trong những tuần lễ thỏa thuận và không thỏa thuận của chúng tôi, tôi đã yêu cầu M.5 khẩn cấp lấy bản dự án mang tên COMORE. Đó là một phần của việc chuẩn bị cho Carbonado để tăng thêm những thông tin của chúng tôi về việc người Nhật đã biết đến mức nào về các kế hoạch của Mỹ - Trung Quốc, những lực lượng nào được tập trung ở khu vực Hà Nội - Hải Phòng và ở hành lang Lạng Sơn - Lào Cai, những sân bay và hải cảng nào có những hoạt động bất thường, và đang có những di chuyển quân đội như thế nào.
    Tôi giao nhiệm vụ cho một người Jedburgh cũ, đại úy Lucien E. Conein(20), một chuyên gia về các chiến thuật phá hoại và du kích, nói thạo tiếng Pháp, đáng tin cậy, và không hoàn toàn đồng ý với chính sách của Pháp đối với Đông Dương. Đội này có khoảng 100 binh sĩ Pháp - Việt và 5 sĩ quan và binh sĩ Mỹ. COMORE thực hiện được những cuộc đột kích song song vào các cứ điểm Nhật trong những hoạt động bắt đầu đêm 28 rạng 29 tháng 7 và tiếp tục cho đến 8-8, chỉ có một trường hợp thương vong. Mặc dù người Nhật chống cự mạnh mẽ, nhân viên COMORE đã đốt cháy và phá hoại các kho xăng và đạn dược, một ban chỉ huy tiểu đoàn và một số doanh trại. Họ bắt được hai tù binh Nhật (một là sĩ quan) về để hỏi cung và những tài liệu có thể mang theo được.
    Thành công của COMORE là một thước đo của sự yên tâm về triển vọng cộng tác với người Pháp, nếu không có những khó khăn mới đồng thời tăng lên trong cùng thời kỳ đó. Tôi hết sức ngạc nhiên khi Sainteny đang trên đường về Paris thì tôi nhận được của M.5 ngày 20-7 một kế hoạch hoàn toàn mới mang mật danh MAROC, một cuộc hoạt động Hải quân nhằm thu lượm tình báo từ lục địa Trung Quốc và những vùng ven biển. Nó đòi hỏi một số đơn vị phụ thuộc, bao gồm một số binh sĩ không hạn định của Pháp - đâu vào khoảng mấy trăm đến mấy nghìn. Theo người Pháp, MAROC được phục vụ bởi một trạm vô tuyến điện của OSS, mà những đơn vị phụ thuộc ấy sẽ gửi những tin tức của họ đến trạm theo mật mã OSS. ?oNhững đường liên lạc hiện có của Pháp chỉ được dùng cho việc buôn bán công khai?. Kế hoạch có vẻ nghe xuôi tai khi mới đọc qua, ngoại trừ việc OSS cấp vũ khí và trang bị cho binh sĩ Pháp.
    Tuy nhiên, một sự xem xét kỹ lưỡng kế hoạch MAROC lại để lộ ra rằng vị trí chỉ huy của nó được đặt ở lãnh sự Pháp ở Pakhoi, chỉ do người Pháp đảm nhiệm. Thủy thủ của hai chiếc thuyền (Bluebird và Vieux Charles) được đặt dưới sự chỉ huy của các sĩ quan Pháp. Ngoài ra, hai đơn vị phụ (Oise và Bạch Long Vĩ) cũng nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, có liên lạc với người Trung Quốc và AGAS. Nhân viên OSS sẽ chỉ tham gia với sự đồng ý hoàn toàn của chỉ huy Pháp. Trung úy Jordan, lúc đó ở Pakhoi, được cắt cử vào kế hoạch MAROC để nhận những đồ tiếp tế của Mỹ thả dù xuống, do người Pháp phân phối.
    Tôi tức điên lên. Rõ ràng OSS chỉ được trông đợi để cấp tiền và vũ khí cho những hoạt động không hề chịu một yếu tố kiểm soát nào của Mỹ. Về điểm này, tôi đã thật sự mệt mỏi với sự ?ocộng tác? và những âm mưu của M.5, và ngay lập tức tôi yêu cầu M.5 làm sáng tỏ vấn đề chỉ huy và kiểm soát. Các bản sao bức thư của tôi gửi Heppner và Helliwell có ghi chú: ?oNếu có những thay đổi ấy, thì sự kiểm soát của OSS đối với những hoạt động ở Đông Dương thuộc Pháp sẽ còn lại con số không, và chúng tôi sẽ chủ yếu thành một cơ quan tiếp tế cho những hoạt động độc lập của DGER?. Sự kết thúc đột ngột của cuộc chiến tranh đã may mắn cứu tôi khỏi một trong những điều bực mình và tranh chấp mà kế hoạch MAROC rõ ràng đã đẻ ra.
    Binh sĩ Pháp tại chỗ đã bị bỏ mặc trong suốt thời kỳ bất đồng và thương lượng kéo dài ấy. Ở K?Taiyuan, Posech, Trình Tây và ở những khu vực khác có người Pháp tập trung, họ được cung cấp rất tồi tệ về áo quần, giày, thuốc men và những khoản khác. Vấn đề huấn luyện và sử dụng những binh sĩ ấy vào các hoạt động của OSS còn tùy thuộc vào việc họ được trang bị bởi Chiến trường như thế nào. Cứ mỗi lần chúng ta trang bị cho một đơn vị để làm nhiệm vụ đặc biệt, thì một phần lớn nhân viên của đơn vị ấy lại bị chuyển ra khỏi sự kiểm soát của OSS và một nhóm binh sĩ mới không ai thừa nhận lại thay thế họ. Rõ ràng là sự khôn ngoan tầm thường ấy đã làm cho nhiều người hơn có áo quần mặc, nhưng chương trình huấn luyện tất nhiên phải bị tiến triển chậm lại. Một khía cạnh nghiêm trọng hơn nhiều của cái lối láu cá ấy, không đơn giản lắm, là khi chúng tôi biết được rằng những đồ tiếp tế như vũ khí và đài vô tuyến điện không phải bao giờ cũng được giữ lại ở những đơn vị ấy mà lại bị cất giấu đi cho những hoạt động sau này của Pháp để chiếm lại Đông Dương. Tôi đưa cho Heppner một đanh sách những đồ tiếp tế, tất cả đều được các sĩ quan Pháp nhận một cách hợp lệ, mà không còn thấy ở những đơn vị Pháp được chỉ định làm nhiệm vụ của OSS nữa, và Heppner đã báo cáo vấn đề lên tướng Olmsted.
    Một lần nữa, Alessandri gặp các tướng Maddocks, Caraway và Olmsted. Tấn công ngay lập tức, Alessandri hỏi chúng tôi đã nhận được chỉ thị từ Washington về việc cung cấp cho người Pháp những thứ hàng theo luật cho Vay - Mượn vũ khí hay không. Olmsted trả lời có, người Pháp có đủ tư cách để nhận sự viện trợ ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là họ bắt đầu lấy được trang bị của Mỹ ngay, mà phải 6 tháng sau mới có thể cung cấp trang bị ấy và chở đến Trung Quốc được. Hơn nữa, Olmsted không thể đồng ý với tiền đề của Alessandri là mọi đồ cung cấp hiện có để trang bị cho quân đội Pháp không phải là để cho họ tách khỏi những hoạt động do Chiến trường chỉ huy: ?oChúng tôi không có một sự bố trí riêng nào cho những lực lượng chiến đấu tách biệt của Pháp cả?.
    Alessandri tỏ vẻ ngạc nhiên vì thông tin ấy: ông ta đã được trả lời mọi điều mà ông ta phải hỏi. Olmsted kiên trì giải thích rằng chỉ có một số ít hàng ăn mặc đã có sẵn. Còn trang bị chiến đấu thì phải đợi gửi từ Mỹ sang và nói chung phải mất 6 tháng. Alessandri trông ỉu xìu. Sáu tháng là quá dài, ông ta nói. Caraway hỏi Alessandri đang chờ có bao nhiêu binh sĩ ở Chiến trường Trung Quốc; ông ta trả lời: ?o5.000!?. Olmsted cố làm nguôi bớt sự choáng váng của Alessandri, nhưng nói thẳng thắn rằng ông ta không có cách nào để đẩy nhanh hơn quá trình này cả.
    Lúc đó, tướng Alessandri đề nghị mua trang bị bất cứ ở đâu và chuyên chở bằng máy bay Pháp. Và ông ta lại được nhắc cho biết rằng các sân bay đều đang hoạt động hết năng lực rồi. Alessandri cố gắng một lần nựa: liệu ông có thể mua trang bị ở Ấn Độ và mua các xe chở hàng để chuyển qua con đường Miến Điện không? Ông ta được nói cho biết rằng xăng dầu cho xe chở hàng bị hạn chế rất ngặt nghèo và nhiều đoàn xe đang chờ đợi có đường để đi và trong trường hợp ông ta không hiểu được điều đó thì ông ta sẽ yêu cầu tới 2.500 chiếc xe tải để duy trì 5.000 binh sĩ bằng những nguồn tiếp tế lấy ở Ấn Độ. Hoàn toàn thất vọng, Alessandri nhắc lại rằng binh sĩ Pháp sẽ không thể tham gia các hoạt động nếu như trang bị cho họ đến quá muộn. Maddocks ghi nhận một cách lịch sự rằng ông ta đã hiểu được những gì viên tướng này cần phải làm. Mọi người đều thấy rõ ràng mối lo lắng của Alessandri không phải là để đánh bại Nhật, mà là để sẵn sàng giữ Đông Dương cho nước Pháp. Vấn đề tiếp tế của OSS thậm chí cũng không được nhắc đến tại cuộc gặp gỡ, nhưng điều muốn nói đã toát lên rất rõ - binh sĩ Pháp chỉ được cung cấp vũ khí và trang bị cho những hoạt động do OSS kiểm soát và do Chiến trường chỉ huy.
    Alessandri cố cứu vãn tình hình một cách tuyệt vọng bằng cách bày tỏ sự thất vọng của ông ta đối với việc giao cho binh sĩ Pháp giữ các sân bay và tham gia các hoạt động của OSS. Ông ta nói rằng, ông ta muốn thấy họ được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu. Tướng Maddocks đã gợi ý một cách lịch sự là sẽ nêu vấn đề này với tướng Hà Ứng Khâm, và Hà sẽ có những đề nghị thích hợp của mình cho Thống chế. Tất cả chúng tôi đều biết rằng người Pháp đã được giao cho một nhiệm vụ chiến đấu ở vùng đông bắc Trung Quốc, nhưng họ đã từ chối, bề ngoài nói là do bộ đội của họ chưa thật khỏe mạnh để làm nhiệm vụ chiến đấu. Sự thật là người Pháp thích ở gần biên giới Đông Dương một cách tiện lợi hợn là chấp nhận nhiệm vụ chiến đấu ở những nơi khác ở Trung Quốc.
    Khoảng 10 ngày sau đó, trong khi Sainteny vẫn tiếp tục vắng mặt, Flichy gửi cho tôi những nhận xét và những sửa đổi riêng của ông ta đối với kế hoạch MAROC và dường như chúng tôi có thể đạt tới một bước tiến nào đó về vấn đề này. Nhưng vào lúc đó có cả một dòng tin tức lại từ Pakhoi đến bất ngờ và chặn đứng bước tiến ấy. Người Pháp giải thích không đâu vào đâu rằng khi chúng tôi bàn bạc về kế hoạch MAROC thì việc phải có người và trang bị để những công việc trùng lên nhau trong cùng một khu vực là vô nghĩa. Sự giải thích ấy hoàn toàn không thuyết phục. MAROC vẫn chưa tồn tại và OSS hoàn toàn chưa nhận được gì hết từ Pakhoi gửi đến. Và thế là sự ?ocộng tác? OSS - M.5, vốn đã chưa có, lại trở thành phá sản.
    Chúng tôi may mắn có được những nguồn tình báo khác. Ba hệ thống tình báo lớn dã tung được người vào phạm vi hoạt động gồm những người Pháp và Việt đặt dưới sự kiểm soát của các sĩ quan chính quy Pháp trung thành với Sabattier. Chúng tôi còn có 5 nhóm có những mục tiêu riêng biệt, hoàn toàn độc lập với người Pháp. Tất cả có chừng 300 đội tình báo và đơn vị du kích, với một mạng lưới liên lạc rộng lớn hoạt động không dựa vào DGER chút nào. Chúng tôi cũng nhận được một luồng tin tức tình báo đều đặn và đáng tin cậy từ bộ máy Hồ Chí Minh và từ những cá nhân ở những địa phương khác nhau không gắn với bất cứ một mạng lưới tình báo nào.
    Với sự kết thúc chiến tranh đột ngột chỉ trước có mấy ngày, nhiệm vụ bảo đảm tình báo về Đông Dương của tôi để cung cấp cho những hoạt động quân sự của chúng ta cũng đình chỉ đột ngột, nhưng những cuộc xung đột với Nhật vẫn chưa kết thúc hẳn vì những hoạt động của Sainteny: chiến dịch của ông ta chỉ mới bắt đầu.
    ---
    (1) trước đó - tiếng Pháp
    (2) nguyên trạng - tiếng Pháp
    (3) chỉ huy phó nhóm M.5
    (4) Jean Roger Sainteny (1907-1978), chỉ huy nhóm M.5 ở Côn Minh, con rể cựu Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut (1872-1962); đến Hà Nội cùng với toán Mercy OSS ngày 28-8-1945, được cử làm Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1945-1947), là người đại diện nước Pháp ký bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 với Hồ Chí Minh; sau làm tổng đại diện Cộng hoà Pháp tại VNDCCH (1954-1957)
    (5) hay Bắc Hải, một cảng thuộc Quảng Đông cách Móng Cái 60 dặm
    (6) trưởng toán OSS/SO, mật danh là ?oChow?, đóng ở Posech, bắc Trình Tây 60 dặm
    (7) Cảnh giác - tiếng Pháp
    (8) thuộc Quảng Đông, bắc Pakhoi 120 dặm
    (9) thuộc Hải quân Mỹ, chịu trách nhiệm phối hợp với AGAS để trinh sát bờ biển cho OSS
    (10) Nhóm gồm 8 sĩ quan, 40 lính lê dương người Âu và 60 lính người Việt
    (11) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
    (12) Thủ trưởng DGER ở Paris
    (13) Chỉ huy trưởng SLFEO/Cacutta
    (14) nằm trong vịnh Bắc Bộ, cách Pakhoi 25 dặm
    (15) nằm trong vịnh Bắc Bộ, các Móng Cái 100 dặm
    (16) Phó Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
    (17) Trợ lý Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa, phụ trách Ban tình báo G-2
    (18) Tổng tham mưu trưởng Lực lượng quân Mỹ ở Chiến trường Trung Hoa
    (19) sau là sĩ quan CIA tại miền Nam Việt Nam, đạo diễn cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm 1-11-1963
  2. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 12
    ?oQuyền ủy trị? được xác định lại
    Chỉ thị gián tiếp của Roosevelt về Đông Dương là nhằm để giải quyết vấn đề đó vào thời kỳ sau chiến tranh chứ không phải vào giũa năm 1945, khi Mỹ đang phải đương đầu với tình hình thay đổi nhanh chóng ở Đông Nam Á, hoặc đang ở trong một tình trạng cấp bách của chiến tranh. Những chỉ thị của Washington lúc đó chỉ gây thêm phức tạp và rối rắm cho các quyết định cấp bách về chỉ huy và làm gây cấn thêm tình trạng tranh chấp giữa Pháp, Trung Quốc và Mỹ.
    Những điều bí mật chung quanh Hội nghị Yalta tháng 2, cuộc đảo chính tháng 3 của Nhật và cái chết của Roosevelt trong tháng 4 ngay trước khi bước vào Hội nghị San Francisco đã làm cho vai trò của Pháp ở Viễn Đông nổi lên vượt quá tầm vóc của nó. Trong những kế hoạch tiến hành chiến tranh của chung ở Trung Quốc dự kiến cho đến năm 1946, chúng tôi không đặt vấn đề có sự tham gia của Pháp. Tuy vậy đến đầu năm 1945 thì Pháp đã được coi như là thành viên của Chiến trường Đồng minh. Do đó, Đại sứ Hurley, tướng Wedemeyer và đại tá Heppner đã phải thường xuyên chất vấn Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và OSS ở Washington xem có phải là đã có một sự thay đổi chính sách hoặc ít ra thì cũng phải có một sự giải thích để làm sáng tỏ tình hình.
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    DE GAULLE ÉP TRUMAN
    Trong vòng 2 tuần lễ sau khi Roosevelt chết, Chính phủ De Gaulle đã tiến hành một đợt tuyên truyền mạnh mẽ nhằm hướng dư luận thế giới sang phía có lợi cho việc giữ nguyên tình trạng của Pháp ở Đông Dương, thậm chí đến mức gợi ý một cách không có cơ sở thực tế rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương đã thay đổi dưới chính quyền Truman. Đợt tuyên truyền đó đã được triển khai đồng thời ở Trung Quốc và ở nước Mỹ vào ngày 25-4 khi tướng (đại sứ) Pechkov đọc một bài diễn văn tại cuộc họp báo cùng lúc với việc mở đầu Hội nghị San Francisco. Ông nói:
    ?oPháp đang chiến đấu ở Thái Bình Dương, nơi có chiến hạm Richelieu, một trong những thiết giáp hạm mạnh nhất thế giới đang tuần tiễu và ở Đông Dương, nơi những du kích Pháp đang quấy rối người Nhật và ngăn chặn không cho họ tiến đánh Vân Nam và Quảng Tây...
    Trong cuộc xung đột này, người Đông Dương tỏ ra trung thành với sự nghiệp của Pháp. ?oQuyền ủy trị? thực sự đã nằm trong trái tim chúng ta??.
    Ở đây, có vấn đề được đặt ra là trên thực tế tàu Richeheu phải chăng có mặt ở Thái Bình Dương vào thời điểm đó? Tôi chỉ có thể trả lời rằng, theo Hải quân Mỹ cho biết thì trong khoảng từ 15 đến 30 tháng 4 năm 1945, tàu đó đang có mặt ở Ấn Độ Dương. Nhưng luận điệu nói là ?odu kích người Pháp? quấy rối Nhật ở Đông Dương và ngăn chặn những cuộc tấn công vào phía nam Trung Quốc đã được xác định rõ là cường điệu hoàn toàn. Người Việt Nam đã sớm nói lên tiếng nói của họ.
    Sau khi Roosevelt mất, người phát ngôn của Pháp ở San Francisco đã tìm được những vũ khí tuyên truyền tốt nhất của họ trong lời tuyên bố năm 1942 của Sumner Welles và trong chương trình về các dân tộc phụ thuộc của Mỹ đưa ra tại Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944. Ngày 2-5, G. Bidault, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp lúc đó tham dự Hội nghị San Francisco, đã tuyên bố một cách mạnh mẽ trước thế giói rằng quyết định về tương lai của Đông Dương phụ thuộc vào nước Pháp và chỉ có Pháp mà thôi. Ông ta đã đề cập đến quyền ủy trị như đã được xác định ở Dumbarton Oaks nhưng lại tuyên bố rằng nguyên tắc ấy chỉ áp dụng cho một số vùng nhất định nào đó chứ không phải cho Đông Dương.
    Sau này Bonnet phàn nàn với Ngoại trưởng Stettinius rằng ?omặc dù Chính phủ Pháp hiểu lời tuyên bố của Welles năm 1942 có liên quan đến việc khôi phục lại chủ quyền của Pháp đối với đế quốc Pháp trước đây là có bao gồm Đông Dương ở trong đó, nhưng báo chí Mỹ vẫn cứ tiếp tục nói rằng một qui chế đặc biệt vẫn dược dành cho khu vực thuộc địa này?. Để tránh có sự bất đồng trong hội nghị, Stettinius khẳng định với Bidault rằng ?obất cứ lời tuyên bố chính thức nào của Chính phủ nói đến chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, thậm chí? nhưng trong dư luận công chúng Mỹ cũng có những ý kiến nào đó lên án những chính sách và những điều thực hành của Pháp ở Đông Dương?.
    Sau bước thăm dò kết quả, De Gaulle tăng sức ép đối với chính quyền mới ở Washington từ một hướng khác. Trong một bức công hàm riêng, De Gaulle yêu cầu Tổng thống Truman tiếp Bộ trưởng Ngoại giao của ông ta để ông này thảo luận về sự tham gia của các lực lượng Pháp ?obên cạnh các lực lượng Mỹ trong chiến dịch quyết định chống Nhật?.
    Bidault thăm Nhà Trắng ngày 17-5. Sau khi bày tỏ lòng cảm kích đối với đề nghị được tham gia chiến đấu của De Gaulle, Tổng thống nói với Bidault rằng chính sách của ông ta là để cho Tổng tư lệnh Chiến trường (Mac Arthur) quyết định nếu như có thể được và có cần thiết phải để các lực lượng Pháp tham gia vào các cuộc hành quân chống Nhật hay không. Bản thân Tổng thống cho rằng việc này còn tùy thuộc khá nhiều vào điều kiện chuyên chở vận tải, một vấn đề đòi hỏi phải có một lực lượng lớn gấp 3 lần trong chiến tranh ở Đại Tây Dương.
    Ngày hôm sau, Grew và Bidault cũng thống nhất với nhau sau khi xem xét kỹ lưỡng các vấn đề nói trên. Nhưng Bidault lại cho biết thêm là đã có hai sư đoàn của Pháp sẵn sàng để đưa ngay sang Viễn Đông. Có thể là nhằm cho Grew yên tâm về những động cơ của Pháp, Bidault nói ngay rằng các sư đoàn đó có thể được sử dụng ở bất cứ nơi nào tại Viễn Đông và Pháp không có ý định hạn chế sự đóng góp của họ chỉ ở trong việc chống lại kẻ thù ở Đông Dương. Grew đáp lại là sẽ nêu ngay vấn đề này với các nhà chức trách quân sự của chúng ta.
    Trong khi bộ máy ngoại giao khuấy động thì cơ quan đấu tranh chính trị của DGER ở Calcutta và Trùng Khánh cũng cho tung ra tin đồn là do ?ocác nhân vật cao cấp? cho biết Washington đã bỏ rơi quan niệm về quyền ủy trị và cũng không còn phản đối việc Pháp quay trở lại Đông Dương nữa.
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA Ở YALTA
    Chiến trường Trung Quốc là ?ođiểm chót tận cùng? trong Thế chiến. Vì vậy tin tức về những sự kiện ở Washington, London và Paris đến đó được, chủ yếu là do con đường trao đổi thư từ cá nhân giữa những người bạn quen thuộc với nhau. Những đường thông tin liên lạc chính thức giữa những người vạch ra quyết định ở các thủ đô thế giới với các nhà lãnh đạo ngoại giao và quân sự ở Trung Quốc thường bị hạn chế trong những chỉ thị từng phần nhằm ngăn ngừa việc giải thích theo ý cá nhân hoặc các hành động có tính chất độc lập. Những chính sách cơ bản giao cho tướng Wedemeyer và Đại sứ Hurley từ khi họ mới được chỉ định sang Trung Quốc đã thay đổi liên tục ở Washington, nhưng những thay đổi đó lại chỉ được nêu lên một cách rõ ràng sau khi sự việc thực tế có liên quan đến sự thay đổi đó đã xuất hiện. Cũng may mà tình trạng đó không phải chỉ riêng những người Mỹ ở Trung Quốc mới có; trong những chừng mực nhất định, nó còn tồn tại ở người Anh, người Pháp. Và ngay cả trong các chính sách của người Trung Quốc cũng có tình trạng tương tự.
    Để đối phó với những yêu sách quá mức của người Pháp và đấu tranh với các tin đồn đại về việc Mỹ thay đổi chính sách, chúng tôi phải dựa vào sự giúp đỡ và hướng dẫn của Đại sứ quán Mỹ. Đại sứ Hurley cũng khá thông thạo về vấn đề quyền ủy trị của Mỹ đưa ra ở Hội nghị Dumbarton Oaks năm 1944 và cũng biết rằng vấn đề đó đang được ?oba nước lớn? thảo luận tại Yalta. Tuy vậy, ông cũng không được thông báo là vấn đề đó đã được phê chuẩn hay đã bị sửa đổi. Tình huống nào cũng đều tác động đến mối giao dịch của ông ta cũng như của giới quân sự đối với người Pháp ở Trung Quốc. Vì vậy, Hurley muốn biết quyết định cuối cùng của Washington và ngày 10-5, ông đã điện về Mỹ, nhắc đến lời tuyên bố báo chí của Pechkov, như sau:
    ?oVì một thực tế là qui chế tương lai của khu vực đó chắc chắn sẽ làm cho người ta ở đây quan tâm và thảo luận ngày càng nhiều nên thật là bổ ích cho tôi nếu như Bộ ngoại giao bí mật thông báo riêng cho tôi biết nội dung các quyết định ở Yalta (hoặc bất cứ một quyết định nào khác về chính sách) xung quanh vấn đề ấy. (Tôi biết rõ chính sách của Roosevelt đối với Đông Dương nhưng muốn xác định xem chính sách đó có gì thay đổi không)?.
    Tám ngày sau, Hurley nhận được một trả lời ngắn gọn: ?oKhông có quyết định nào của Yalta (SFAMB) liên quan đến Đông Dương mà Bộ Ngoại giao được biết (URTEL 750, ngày 10-5). Các tài liệu về chính sách quân sự và chính trị hiện đang nghiên cứu sẽ được chuyển đến để làm thông báo một khi đã được phép. Grew (điện).
    Câu trả lời kín đáo của Grew làm tăng thêm sự lẫn lộn. Nếu không có quyết định nào đạt được ở Yalta, tại sao Bộ Ngoại giao lại không muốn tiết lộ ra. Thư tín trao đổi giữa các nhân viên tham mưu dự họp ở Yalta với Trùng Khánh nói rằng vấn đề Đông Dương đã được thảo luận chí ít là giữa Roosevelt và tướng Marshall, và có thể dưới một hình thức nào đó với cả Churchill và Xtalin.
    Vài ngày sau, Hurley gửi một bức điện cá nhân dài đến Tổng thống Truman, đề cập đến quyền lợi và các cuộc vận động của Anh ở châu Á. Với một ngôn ngũ rõ ràng, Hurley bày tỏ mối lo ngại về việc Mountbatten đã sử dụng viện trợ Vay - Mượn và các nguồn tài nguyên khác của Mỹ để xâm chiếm Đông Dương, nhằm làm thất bại cái mà Hurley cho là chính sách của Mỹ và để thiết lập lại chủ nghĩa đế quốc Pháp. Ông ta muốn tổng thống hiểu rằng hiện nay ở châu Á có dư luận ngày càng tăng, cho là ở đây Mỹ đang nghiêng về xu hướng đế quốc hơn là dân chủ. Theo Hurley thì đó là một điều phi lý và cần uốn nắn. Từ vị trí xa xôi cách biệt của mình, ông có ấn tượng rằng đoàn đại biểu Mỹ ở San Francisco hình như ủng hộ thuyết đặt các thuộc địa và các dân tộc phụ thuộc dưới sự kiểm soát đế quốc với hình thức các nước đế quốc riêng rẽ hoặc liên kết với nhau chứ không phải đặt dưới sự ủy trị của Liên Hợp Quốc.
  5. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    TRUMAN NÓI: KHÔNG THAY ĐỔI
    Bức điện của Hurley được Nhà Trắng chuyển cho Bộ Ngoại giao ngày 29-5 để phúc đáp lại một cách thích đáng vào 8 ngày sau, đồng thời cũng nêu hai vấn đề là sự kiểm soát của Pháp ở Đông Dương và nguyện vọng chiếm lại Hongkong của Anh.
    ?o?Tổng thống yêu cầu tôi nói rằng không có thay đổi cơ bản nào trong chính sách... Và lập trường hiện nay là như sau:
    Tổng thống cho rằng ông thông hiểu lời phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao ngày 3-4-1945, trong đó được sự đồng ý của Tổng thống Roosevelt, Stettinius đã tuyên bố rằng kết quả các cuộc thảo luận ở Yalta cho thấy, cơ cấu về quyền ủy trị phải được xác định thế nào để cho phép đặt dưới nó những lãnh thổ nhất định chiếm được từ kẻ thù trong cuộc chiến tranh này (như đã được thông qua vào một ngày sau đó) và cả những lãnh thổ khác nếu họ tự nguyện chấp nhận sự ủy trị. Tình hình vừa được công bố liền được khẳng định bằng những cuộc trao đổi ý kiến hiện nay đang diễn ra ở San Francisco bàn về các quyền ủy trị. Suốt trong các cuộc thảo luận này, đoàn đại biểu Mỹ nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc một hình thức tiến bộ về Chính phủ tự quản để họ đi đến một kiểu liên bang nào đó phù hợp với khả năng và hoàn cảnh của các dân tộc có thể loại trừ việc thiết lập quyền ủy trị ở Đông Dương, trừ khi Chính phủ Pháp đồng ý. Mà điều đó thì hình như không thể được. Tuy nhiên đó chỉ là ý định của Tổng thống vào những thời điểm thích hợp nhằm đòi hỏi Chính phủ Pháp có những biểu hiện tích cực tỏ rõ ý định muốn thiết lập các quyền tự do công dân và nới rộng các biện pháp về Chính phủ tự quản ở Đông Dương trước khi hoàn thiện hơn nữa tuyên ngôn về chính sách trong lĩnh vực này?.
    Sau đó, bức điện kể lại cuộc nói chuyện của Tổng thống với Bidault và vạch ra cho Hội đồng Tham mưu trưởng các tiêu chuẩn về khả năng sử dụng các lực lượng Pháp:
    ?oa/ Trong khi tránh để không đi tới phải làm một điều gì không thiết thực, hay một cam kết dài hạn về khối lượng và tính chất của viện trợ mà Mỹ có thể cung cấp cho lực lượng kháng chiến của Pháp ở Đông Dương thì Chính phủ (Mỹ) vẫn tiếp tục giúp đỡ trong chừng mực không ảnh hưởng đến những yêu cầu của các chiến dịch đã được hoạch định. Vì phải đáp ứng nhu cầu tập trung mọi tiềm lực của chúng ta ở Thái Bình Dương cho các chiến dịch đã được vạch ra, do đó trong lúc này không dự liệu những chiến dịch qui mô lớn nhằm trực tiếp giải phóng Đông Dương. Quân đội Mỹ sẽ không được sử dụng ở Đông Dương ngoài các chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại Nhật.
    b/ Lời đề nghị giúp đỡ được đánh giá về mặt quân sự như là một hành động nhằm mục đích đánh bại Nhật Bản cũng giống như trường hợp của Anh và Hà Lan.
    Vì vậy không có gì ngăn trở việc cung cấp viện trợ cho các lực lượg quân đội và Hải quân Pháp theo như quan niệm đã được nêu ở trên, nhưng phải tính đến việc đừng để gây ra cho Chiến trường, nơi phải cung cấp sự viện trợ đó, một sự phân tán tiềm lực quân sự, kinh tế mà đáng lẽ Hội đồng tham mưu trưởng phải tập trung cho các nơi khác?.
    Vào quãng giữa thánh 6, Heppner đã có dịp được đọc toàn văn bức điện nói trên và được phép phổ biến một số đoạn cần thiết cho một số ít nhân viên trong cơ quan, trong đó có tôi.
    Cả Heppner và tôi đều cho là chính quyền Truman đã đầu hàng trước yêu sách của De Gaulle, chấp nhận chỉ chịu để cho Đông Dương thuộc quyền ủy trị nếu có sự đồng ý của Pháp. Nhưng đối với giới quân sự, thì Đông Dương có được đặt thuộc quyền ủy trị hay không lại là một việc không quan trọng. Điều đáng quan tâm là vấn đề cung cấp cho Pháp những sự hỗ trợ và tiếp tế hậu cần, và nhằm vào mục đích gì. Chúng tôi hy vọng sẽ có những lời tuyên bố dứt khoát hơn, một lời tuyên bố có thể làm tiêu tan những mập mờ mà chúng tôi đang phải cố gắng khắc phục. Điều cơ bản mà chúng tôi cần là những tiêu chuẩn chính trị cho phép OSS có thể cộng tác với người Pháp, Anh và Việt Nam; các giới hạn địa lý của khu vực hoạt động và việc mở rộng các hoạt động phi quân sự của OSS.
    Heppner đã triệu tập một hội nghị để hy vọng làm sáng tỏ những điểm này. Hội nghị gồm các đại diện Đại sứ quán, các nhà làm kế hoạch của Chiến trường và các trưởng ngành của OSS.
  6. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    BỐN CƯỜNG CUỐC TRỞ THÀNH NĂM
    Theo báo cáo viên Đại sứ quán, mục tiêu chủ yếu của Roosevelt là nhằm bảo đảm và duy trì hòa bình bằng một cơ chế tổ chức quốc tế (Liên Hợp Quốc). Ông đã phác họa ra cơ chế lãnh đạo là một nền chuyên chính tay tư, gồm những cường quốc tham gia chủ yếu vào cuộc chiến tranh: Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng sau các hội nghị Dumbarton Oaks và Yalta, rõ ràng là Anh cần có sự cộng tác của Pháp ở châu Âu và Roosevelt đã chấp nhận khái niệm ?onăm cường quốc?.
    Cũng có thể là cuộc viếng thăm Mỹ vào tháng 7-1944 của De Gaulle đã ảnh hưởng đến Roosevelt. De Gaulle đã hứa là Pháp sẽ để cho Đông Dương được hưởng một mức độ tự trị sau chiến tranh. Roosevelt không nài ép ông về vấn đề ủy trị. Roosevelt cũng rất biết sự thù ghét của Churchill đối với việc xáo trộn cơ cấu thuộc địa ở Đông Nam Á, mặc dù Xtalin và Tưởng đều tán thành thủ tiêu nó. (Quentin Roosevelt đã tiết lộ cho tôi biết là vào giữa tháng 3-1945, Tổng thống có thể đã có một lập trường ôn hòa hơn nhưng không phải là đã hoàn toàn từ bỏ lý tưởng về quyền ủy trị. Theo ?oQ? thì Roosevelt đã nói rằng, nếu nước Pháp cam kết nhận cho mình vai trò của người được ủy nhiệm thì ông sẽ không phản đối việc Pháp giữ lại các thuộc địa của mình với ý nghĩa là một sự độc lập hoàn toàn cho các thuộc địa đó sẽ được đảm bảo thực hiện).
    Theo báo cáo viên Đại sứ quán, lần đầu Đông Dương đã trở thành một vấn đề nói trong các công hàm của Tổng thống vào tháng 11-1944. Khi Wedemeyer báo cáo cho Tổng thống biết rằng các thế lực Anh, Hà Lan và Pháp đang hoạt động mạnh mẽ nhằm khôi phục lại địa vị chính trị và kinh tế trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á; Wedemeyer nói về phái đoàn quân sự của Blaizot ở Ấn Độ đang chuẩn bị xâm nhập vào Đông Dương và yêu cầu phải có chỉ thị chính trị vì theo Wedemeyer thì Đông Dương thuộc Chiến trường Trung Quốc. Ngày 16-11-1944, Tổng thống đã chỉ thị cho Hurley thông báo cho Wedemeyer biết rằng chính sách của Mỹ đối với Đông Dương không thể được xác định trước khi có sự tham khảo với các đồng minh trong hội nghị Tham mưu hỗn hợp sắp tới và Tổng thống yêu cầu Hurley cung cấp đầy đủ cho ông các tin tức về hoạt động của Anh, Pháp và Hà Lan ở Đông Nam Á. Nhưng Hurley đã chẳng có gì để báo cáo thêm với Tổng thống và Tham mưu Trưởng Liên quân cũng chẳng rõ đồng minh của chúng ta mưu toan làm gì, ở đâu.
    Khi cả Hurley và Wedemeyer đều ở Washington vào tháng 3-1945, Tổng thống đã nói với Wedemeyer rằng ông ta cần phải sẵn sàng để ngăn chặn các hoạt động chính trị của Anh và Pháp trong khu vực này, và chỉ được giúp đỡ họ những gì mà các chiến dịch trực tiếp chống Nhật đòi hỏi.
    Người ta đã kể lại chuyện Churchill đã điện cho Tổng thống rằng ông biết đang có những khó khăn nhất thời giữa Wedemeyer và Mountbatten chung quanh các hoạt động ở Đông Dương, và đề nghị có chỉ thị cho Hội đồng Tham mưu trưởng Hỗn hợp Anh - Mỹ (CCS) tổ chức một cuộc trao đổi sâu sắc và thẳng thắn về các ý đồ, kế hoạch và tình báo giữa hai tư lệnh chiến trường. Ngày 22-3, Roosevelt đã phúc đáp là ông và Churchill nên thống nhất với nhau để quyền cho Wedemeyer được phối hợp mọi chiến dịch của Anh, Mỹ và Trung Quốc.
    Churchill đã không trả lời cho đến ngày 14-4, khi Wedemeyer trên đường từ Washington về Trung Quốc và đã dừng lại để gặp Mountbatten ở Bộ Tổng hành dinh SEAC. Lúc đó, giữa hai vị tư lệnh đã đạt được một sự ?othống nhất hiểu lầm?. Wedemeyer ra về và cứ tưởng rằng SEAC sẽ không cho tiến hành các chiến dịch ở Đông Dương trước khi chưa được ông ta thông qua với tư cách là Tổng tham mưu trưởng của Tưởng. Mountbatten lại hiểu rằng tất cả những gì mà ông phải làm theo như sự thỏa thuận đã đạt được chỉ là thông báo cho Wedemeyer biết về những chiến dịch được dự kiến ở Đông Dương. Nội dung chủ yếu trong công hàm của Churchill gửi cho Tổng thống sau đó đã phản ánh cách nhìn của Mountbatten. Ngày 14-4, Tổng thống Truman phúc đáp lại, đã chẳng có gì thống nhất với Churchill, mà lại nêu lên một cách đầy đủ hơn quan điểm của Wedemeyer về vấn đề thống nhất ý kiến.
    Vào giữa tháng 5, sự bất đồng giữa hai vị tư lệnh trở thành công khai. Mountbatten thông báo cho Wedemeyer biết ông dự định cho 26 chuyến bay của không quân vào Đông Dương để tiếp tế cho các toán ?odu kích người Pháp?. Cho rằng Chính phủ Pháp đã đặt tất cả các đơn vị nói trên dưới quyền chỉ huy và kiểm soát của Tưởng, Wedemeyer đòi Mountbatten phải bố trí để đảm bảo là tất cả đồ thiết bị tiếp tế phải được sử dụng vào việc chống Nhật. Mountbatten đã không đáp lại về vấn đề đó. Sau một đợt trao đổi tin tức chớp nhoáng mà Momlbatten cũng chẳng cho biết số lượng và địa điểm các đơn vị dự kiến được tiếp tế của Pháp, Mountbatten đã bất chợt ra lệnh cho phi cơ bay mà không chờ phải có sự đồng ý của Wedemeyer và Tưởng. Ngày 25-5, Wedemeyer đã kịch liệt phản đối Mountbatten và báo cáo với Hội đồng Tham mưu trưởng của chúng ta. Quan hệ chỉ huy giữa hai tư lệnh trở nên căng thẳng.
    Trở lại hội nghị, Heppner yêu cầu chúng tôi đánh giá tình hình dưới ánh sáng của chỉ thị hiện hành, nhưng phải hết sức thận trọng đừng để vi phạm chính sách đã được công khai tuyên bố của Mỹ.
    Helliwell mở đầu cuộc thảo luận bằng cách xem xét lại những mối quan hệ của chúng ta với Anh, Pháp và Việt Nam. Chúng tôi thống nhất ý kiến là OSS không cần quan tâm nhiều đến những hành động phối hợp Mỹ - Anh, ngoại trừ trường hợp có liên quan trực tiếp đến Đông Dương, và khi đó có thể phải chờ có quyết định của cấp trên. Đối với người Pháp và người Việt thì vấn đề lại hoàn toàn khác. Trong một công hàm dài của Bộ Ngoại giao, Grew đã tuyên bố rõ ràng là ở đây không có gì thay đổi về cơ bản trong chính sách. Do đó chúng ta cần phải duy trì một cách hợp lý một nguyên trạng như trước đây. OSS chỉ việc không cần biết tới những cố gắng của Pháp để chiếm lại Đông Dương, và sẽ không làm gì để hỗ trợ hoặc ngăn chặn các cố gắng đó nhưng nếu có thể được thì sẽ dùng các đội quân Pháp vào các cuộc hành quân bí mật. Những điều đó bao giờ cũng phải là một bộ phận hoặc phải được gắn chặt với các kế hoạch phối hợp của Chiến trường. Còn đối với người Việt, thì có nhiều sự hạn chế không cho chúng ta đóng góp vào việc thực hiện nguyện vọng chính trị của họ.
    Một người trong hội nghị đã đặt câu hỏi xem phải làm thế nào khi đã rõ ra là tổ chức của người Việt Nam thực chất là chính trị, chống Pháp và chiến đấu giành độc lập dân tộc. Có ý kiến nêu lên là việc sử dụng các cá nhân người Việt cho các hoạt động bí mật do Chiến trường phối hợp không được coi như là một sự ủng hộ về chính trị hay quân sự đối với họ. Điều này đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi. Cuối cùng, một trong những người thảo kế hoạch của Chiến trường đã kết luận là trong chừng mực mà người Việt có đóng góp vào nỗ lực của Đồng minh chống lại Nhật thì chúng ta cũng không cung cấp cho họ một số khí giới nhiều hơn số họ cần để tự vệ cho cá nhân mình. Như vậy, không ai có thể phê phán chúng ta là đã hoạt động một cách thiên vị.
    Điểm phải bàn tiếp theo là vấn đề SEAC thâm nhập vào Đông Dương. Đã được khẳng định là Đông Dương tức là Việt Nam, Lào và Kampuchia là một bộ phận của Chiến trường Trung Quốc và thuộc quyền chỉ huy kiểm soát của Tưởng. Một người nào đó đã nêu lên tính chất hợp pháp của các khu vực hoạt động vì ở đây thực ra chỉ có một thỏa thuận ?olịch sử? giữa Mountbatten và Tưởng. Những thỏa thuận không chính thức như vậy rất không đáng tin cậy. Heppner ủng hộ ý kiến này và đưa ra những công văn của OSS gửi SEAC nói về các hoạt động của lực lượng 123 ở Lào và nam Đông Dương để làm chứng cứ. Tất nhiên, đó là sự thiếu phối hợp trong các kế hoạch hoạt động bí mật giữa SEAC và Chiến trường Trung Quốc.
    Lúc đó, một người thảo kế hoạch của Chiến trường báo cáo là Hội đồng Tham mưu trưởng hỗn hợp có ý kiến như một phương án chia Đông Dương làm hai phần, một phần sẽ do SEAC có toàn quyền kiểm soát, bao gồm vùng phía nam của vĩ tuyến 15 hoặc 16 bắc. Theo ông, đây mới chỉ là đang giai đoạn chuẩn bị, và còn phải chờ có sự chấp nhận của OSS và sự đồng ý của Tưởng. Nhưng ông gợi ý OSS cần phải lưu ý đến vấn đề này để làm kế hoạch hoạt động tương lai ở Đông Dương. Heppner đã đồng ý. Đó cũng là lần đầu tiên tôi được nghe nói đến ý định cắt Việt Nam làm đôi và chúng tôi đã coi vấn đề đó là một vấn đề quy định pháp lý giữa các Chiến trường.
    Hội nghị đã rất bổ ích cho những ai trong chúng tôi đang chuẩn bị hoạt động. Trong khi không có những chỉ thị hướng dẫn chi tiết của Washington, chúng tôi cũng đã có thể dựa vào một số điểm nói về cách giải quyết cấn đề ở cấp cao để vận dụng ở cấp chúng tôi. Lúc đó, chúng tôi chưa nhận thức được đề án của Washington cắt Đông Dương làm hai phần đã có một ý nghĩa xa đến thế, nhưng đó cũng là một nhân tố quyết định tình hình của năm đang đi tới.
  7. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 13
    Toán ?oCon Nai? đến Kim Lung
    Sau những tháng kiên trì điều đình với người Pháp mà không mang lại kết quả gì, Hồ Chí Minh vẫn bền bỉ cung cấp cho OSS nhiều tin tức và sự giúp đỡ rất có giá trị đối với các kế hoạch hoạt động bí mật của chúng tôi. Tôi vẫn giữ được liên lạc với ông qua các nhân viên ở Côn minh, Posech và Trình Tây.
    Ông Hồ đã trở về bản doanh của mình ở Đông Dương, đi qua Pắc Bó, trạm trú chân đầu tiên, rồi đến Tân Trào, nơi ông đặt căn cứ chính trị và quân sự để lãnh đạo các hoạt động của ********* cho đến khi ông chuyển về Hà Nội vào 4 tháng sau.
    Vào giữa tháng 6, tôi phát triển thêm một số quan hệ với những người được lựa chọn trong cộng đồng Việt kiều ở Côn Minh. Tôi đã để nhiều thì giờ nghe tin tức và điều thích thú đối với tôi nhất là nghe kể về những thành tích của ********* ở Đông Dương và về ?otài khôn khéo? của Hồ Chí Minh, lãnh tụ của họ. Câu chuyện về việc tôi gặp gỡ với ông Hồ đã gây nhiều lời bàn tán chung quanh sự hợp tác của chúng tôi và vai trò của OSS đối với phong trào ********* ở Côn Minh. Những dư luận này, một thứ tự đề cao ?otâng bốc? mình bắt nguồn ngay từ các tổ chúc ********* ở Côn Minh. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng việc đặt được những quan hệ công tác tốt đối với các hội viên của ********* quả thực là điều bổ ích.
    Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp, nhưng thỉnh thoảng họ lại sa vào một vài ?othổ ngữ địa phương?, làm cho tôi chẳng hiểu gì. Họ nói cả đến những nhân vật, chắc là quan trọng, nhưng rất xa lạ đối với tôi. Họ kể về những địa danh ở Đông Dương mà tôi chưa hề nghe thấy bao giờ, nhưng sau tôi cũng phải cố gắng xác định lại trên bản đồ. Tuy vậy tôi cũng đã biết được khá nhiều về phong trào độc lập của người Việt Nam và đã báo cáo một cách trung thực với Trùng Khánh và Washington về các sự kiện và những phán đoán của tôi.
    Những báo cáo về thực chất và ý nghĩa của ********* của tôi nói trên cũng không gây được ảnh hưởng gì đối với Bộ chỉ huy Chiến trường và Đại sứ quán. Whitaker đã chất vấn cả về nguồn tin cũng như những kết luận của tôi. Ông đã được nhân viên Đại sứ quán khuyên bảo là tôi đã phí phạm thời gian để cho một số ít cộng sản cuồng tín đánh lừa. Nhưng Whitaker, Helliwell và Heppner cũng không thể không biết đến giá trị những tin tình báo do ********* cung cấp hoặc hiệu lực của nhiều nhân viên Việt Nam mà tôi đã sử dụng trong các chiến dịch phá hoại các mục tiêu Nhật Bản. Tất nhiên là người Trung Quốc ở Bộ tham mưu Chiến trường và các sĩ quan phái đoàn quân sự Pháp có quan hệ với Đại sứ quán Mỹ đã không thích sự cộng tác của người Việt Nam, nhưng chúng tôi ở OSS thì lại vui lòng tiếp tục sự hợp tác không chính thức của chúng tôi.
  8. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    CHỈ CÓ MỘT SỰ LỰA CHỌN - *********
    Đứng trước âm mưu của Pháp và Trung Quốc nhằm làm trở ngại cho các cố gắng của OSS và cũng biết rõ xu hướng của người Mỹ thích những gì thiết thực cụ thể, tôi đã chỉ thị cho một nhân viên tham mưu chuẩn bị cho tôi một hồ sơ đầy đủ về những thành tựu của ********* đã đạt được tử cuộc đảo chính mồng 9-3. Hai ngày sau tôi đưa ra cho Heppner một lô tình hình khá quan trọng: 6 tỉnh ở phía Bắc Kỳ thuộc quyền kiểm soát về quân sự và hành chính của *********, một đội quân Giải phóng đã được thành lập gồm các đơn vị tự vệ và du kích, một tổ chức tuyên truyền có hiệu lực với một số phương tiện báo chí và điện đài hạn chế, một chương trình chính trị xã hội - quân sự và cái cực kỳ quan trọng này, đó là sự ủng hộ của quần chúng nhân dân Việt Nam, một yếu tố mà khốn khổ cho chúng ta là đã không biết đến trong những năm 1960, 1970.
    Heppner thấy không có lợi trong việc thúc bách giải quyết vấn đề này với Đại sứ quán, ông liền thảo luận riêng với tướng Wedemeyer và Goss, đồng thời cho gửi bản tài liệu của tôi về Washington cho cá nhân tướng Donovan. Sau đó, suốt trong thời gian tôi làm nhiệm vụ ở Chiến trường Trung Hoa, các hoạt động và quan hệ của tôi với người Việt Nam đã không còn thành vấn đề nữa.
    Trong tuần lễ đầu tháng 6, Hồ Chí Minh đã cho tôi biết tin ông đã chuẩn bị sẵn sàng hơn 1.000 quân du kích ?ođược huấn luyện tốt? để phục vụ cho bất kỳ kế hoạch nào của tôi chống lại Nhật. Số du kích này đã được tập trung ở một địa điểm trong khu vực chợ Chu, Định Hóa, và tôi đã báo tin cho ông Hồ biết là tôi cám ơn ông về đề nghị nói trên và sẽ chú ý xem xét vấn đề này một cách nghiêm chỉnh. Đề nghị của ông Hồ đã đến đúng vào một lúc thuận lợi, khi mà đội quân Pháp dưới quyền của Courthelac (được thành lập để chuẩn bị cho trận đánh nhằm cắt đứt đường giao thông liên lạc Trấn Nam Quan - Hà Nội) đã từ chối không chịu tham gia huấn luyện và không nhận nhiệm vụ đã được đề ra. Helliwell, Wampler và tôi đã bắt buộc phải đi đến kết luận là người Pháp tham gia vào các hoạt động của OSS một cách rất chậm chạp và mang theo đầy những chủ trương phá rối. Wampler và tôi tán thành thay thế người Pháp bởi người Việt trong hoạt động phá hoại này nhưng Helliwell vẫn còn ngần ngại. Kế hoạch đầu tiên cho nhiệm vụ này đã định để cho toán ?oCon Mèo? do Holland chỉ huy và toán ?oCon Nai? do Thomas chỉ huy, mỗi toán được tiếp nhận và huấn luyện 50 binh sĩ Pháp ở Trình Tây.
    Helliwell lo ngại về những ảnh hưởng chính trị nếu chúng tôi sử dụng du kích Việt Nam để thay thế cho Pháp và ông cũng không muốn phải thu lại những vũ khí và trang bị đã sẵn sàng cung cấp cho đội quân Pháp để chuyển cho người Việt Nam. Tôi đưa ra lý do là nếu chúng ta sử dụng đơn vị của ông Hồ ở chợ Chu thì sẽ loại bỏ được việc phải cho đi bộ hoặc chuyên chở người Pháp một quãng đường 25 dặm đến biên giới, cộng thêm 150 dặm nữa để đi tới Hà Nội. Với những đường mòn trong rừng hiện nay thì cự ly đó sẽ là gần 250 dặm, nghĩa là 10 đến 15 ngày đi đường. Ngoài ra còn phải kể đến những điều thuận lợi quan trọng khác trong việc sử dụng căn cứ và người của ********* cho hoạt động này, như chúng ta sẽ được sự ủng hộ của dân chúng địa phương và có địa hình che chở cực kỳ thuận lợi. Những lợi ích thực tiễn này đã có sức nặng và cuối cùng Helliwell đã đồng ý. Đội quân Pháp của Courthelac đã không bao giò được sử dụng nữa.
    Trong lúc này, nhóm GBT cũng có một nhân vật chủ chốt của họ Frankie Tan, ở tại bản doanh của ông Hồ, làm nhiệm vụ thu thập tình báo về Nhật và đồng thời cùng với AGAS triển khai mạng lưới giúp giải thoát người của chúng ta. Frankie Tan cũng đang tìm kiếm những người Mỹ bị bắt đã chạy thoát trong khu tam giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn, nơi trung tâm các hoạt động chống Nhật của ông Hồ. AGAS đã lập được một mạng luới vô tuyến trên suốt đất nước, từ Hà Nội đến Sài Gòn, thống nhất theo kế hoạch của OSS. Chúng tôi đề nghị với Wichtrich của AGAS cùng nhau hợp tác với Hồ Chí Minh và tiến hành những hoạt động độc lập đối với người Pháp. Wichtrich đồng ý và chỉ định một trung úy trẻ tuổi tên là Phelan gánh vác nhiệm vụ của AGAS và làm liên lạc giữa OSS và ********* cho đến khi toán ?oCon Mèo? và toán ?oCon Nai? của chúng tôi đến căn cứ của ông Hồ.
    Sau khi Sainteny đã ra lệnh đình chỉ hoàn toàn cộng tác của người Pháp với OSS và sau khi điện đài ở Pakhoi im tiếng, tôi mới yêu cầu Trương Quốc Anh, một trong số các đầu mối tiếp xúc với ********* của tôi, báo cho ông Hồ biết rằng tôi rất quan tâm đến đề nghị của ông và đồng ý là sẽ có một toán người Mỹ, do một sĩ quan cao cấp đứng đầu, sẽ được thả dù xuống vùng Tuyên Quang.
    Trong khi nói chuyện, ông báo cho tôi biết là thiếu tá Sainteny đã kết giao với Nguyễn Tường Tam. Tôi thấy khó mà nghĩ được rằng Sainteny lại đi giao thiệp với một phần tử quốc gia cực hữu, và chí ít cũng là lãnh tụ của một phong trào cách mạng do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng 3 tuần sau, sự việc nói trên đã được một nhân viên Pháp Việt trong toán ?oCon Nai? xác định là đúng.
    Ngày 30-6, tôi nhận được trả lời của ông Hồ đồng ý tiếp nhận toán của chúng tôi và yêu cầu được biết khi nào thì người Mỹ có thể đến. Trong thòi gian đó Phelan đã được thả xuống khu vực Tuyên Quang và đã gặp được Frankie Tan.
    Chúng tôi báo cho thiếu tá Davis ở Posech biết về sự thay đổi trong kế hoạch và gợi ý Davis cho máy bay đưa các cán bộ của toán ?oCon Nai? và ?oCon Mèo? đến vùng Tuyên Quang, ở đó AGAS và GBT đã cho chuẩn bị sẵn những địa điểm thả dù. Tôi yêu cầu Davis nhắc nhở Thomas và Rolland phải sửa lại kế hoạch đầu tiên định thu nạp binh lính Pháp vào trong nhiệm vụ của họ và cũng báo cho Davis biết là chúng tôi đã có tin tức xác thực của ********* nói rằng một đội quân du kích cỡ lớn đã sẵn sàng ở địa điểm thả dù, mặc dù họ có xu hướng chính trị mác xít, nhiệm vụ trước mắt của họ là chiến đấu chống Nhật và đó cũng là điều quan tâm chủ yếu đối với hoạt động của chúng ta. Nhưng cũng phải sau ít nhiều nhầm lẫn và cả một mớ điện tín qua lại giữa Posech và Côn Minh, Thomas mới rút ra được kết luận là một hoạt động phối hợp Pháp - Mỹ có thể không được người Việt Nam hoan nghênh.
  9. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    CĂN CỨ TRONG RỪNG CỦA ÔNG HỒ
    Thomas đã quyết định tự mình đi trinh sát tình hình trước khi cam kết cho người Pháp hay người Việt tham gia toán của mình. Ông tổ chức một tổ phái đi trước gồm có bản thân Thomas, trung úy Montfort thuộc quân đội Pháp, hai binh nhì người Mỹ và hai người Việt Nam được giới thiệu nguyên là đội(1) trong quân đội Pháp. Cuối buổi chiều ngày 16-7, nhóm này được thả dù xuống vùng lân cận làng Kim Lung, cách Tuyên Quang khoảng 20 dặm về phía đông. Cuộc thả dù được tiến hành một cách trôi chảy, trừ việc Thomas, Montfort và một lính Mỹ đã bị rơi một cách không hay vào những ngọn cây và phải nhờ người ta gỡ xuống đất. Theo Thomas thì lúc đó ông ta được nghênh tiếp bởi khoảng 200 người trang bị bằng ?osúng trường Pháp, mấy khẩu Bren, carbin, tiểu liên và mấy khẩu Sten?. Thomas đã tả lại và coi điều đó như là ?omột ủy ban đón tiếp gây xúc động rất sâu sắc?.
    Báo cáo đầu tiên của Thomas đã được thêm thắt vào: ?oKhi đó tôi được đưa đến gặp ông Hòe, một trong những người lãnh đạo lớn của *********. Ông Hòe nói tiếng Anh rất tuyệt nhưng người ốm yếu vì mới cuốc bộ từ Trình Tây về. Ông tiếp đón chúng tôi hết sức thân thiết. Rồi chúng tôi được chỉ đến khu vực dành riêng cho chúng tôi, một cái chòi tre đặc biệt gồm một cái sàn bằng nứa làm cách mặt đất vài feet, mái lợp bằng lá gồi. Bữa ăn chiều hôm đó có bia (mới thu nhặt được), măng tre, thịt bò thui. Họ vừa mới giết một con bò để dành chiêu đãi chúng tôi?.
    Từ sớm tinh mơ ngày hôm sau, một sĩ quan M.5 đã đến tìm tôi báo tin thiếu tá Thomas và trung úy Montfort đã bị du kích ********* bắt giữ. Tôi nói cho ông ta yên trí là không phải như vậy và tôi đã được Thomas báo cáo là việc thả dù đã được thực hiện đúng như kế hoạch đã định. Người sĩ quan có thể vẫn chưa yên tâm và đã tiết lộ với tôi là Montfort và hai người Việt Nam tên là Logos và Phác đều là nhân viên của M.5 phái đi làm ?onhiệm vụ đặc biệt?. Ông rất lo lắng cho an ninh của họ và phát biểu mong được OSS bảo đảm cho họ được trở lại một cách an toàn thuộc quyền chỉ huy của người Pháp trong một thời gian tốt nhất có thể được.
    Trong những ngày đó, tôi đã được biết là M.5 chú ý tìm cách tiếp xúc với Hồ Chí Minh và đã yêu cầu Gordon thuộc nhóm GBT thu xếp cho một cuộc gặp gỡ. M.5 đã chỉ thị cho thiếu tá Rivol, nhân viên M.5 ở Trình Tây theo dõi cuộc thu xếp của nhóm GBT, và đã cử Montfort đi cùng Thomas đến bản doanh của ông Hồ. Thực không may cho M.5, vốn có xu hướng thích chạy theo các hoạt động bằng cửa sau, khi Montfort đến Kim Lung được ngụy trang như một sĩ quan Mỹ thì cái trò giả dối này đã bị thất bại, vì Montfort gần như ngay tức khắc, đã bị nhận mặt bởi một du kích ********* trước đây không lâu đã phục vụ dưới quyền ông trong đội quân thuộc địa Pháp.
    Thomas đã viết trong bản báo cáo đầu tiên: ?oĐã có một cuộc họp dài với ông Hồ?, về vấn đề người Pháp?. Ông Hồ đã nói với Thomas bằng một giọng quả quyết rằng ?osẽ không thể để cho trung úy Montfort, một sĩ quan Pháp ở lại, cũng như bất cứ người Pháp nào đến nữa cũng sẽ không được hoan nghênh?. Còn đối với binh lính Việt nam (đi cùng người Pháp), ông Hồ đồng ý cho họ ở lại nhưng ông không tin là người Pháp sẽ buông tha họ. Điều đó lại trở thành vấn đề.
    Trong khi chờ để được đưa về Posech, viên ?ođội? Pháp mấy ngày sau đó lại bị một du kích ********* phát hiện ra là một đảng viên Việt Narn Quốc dân đảng, một đảng quốc gia thân Trung Quốc. Trong khi bị hỏi, Phác đã thú nhận là người trung gian đứng thu xếp cuộc gặp gỡ ở Côn Minh (đã nêu ở phần trên) giữa thủ lĩnh của M.5 và Nguyễn Tường Tam. Để biện bạch trong tình trạng khó khăn nguy hiểm lúc đó, Phác đã nói với những người Việt Nam tra hỏi hắn rằng hắn đã đi theo Montfort với hy vọng là ********* sẽ để hắn ở lại và đánh Nhật. Tất nhiên những người ********* đã có những nhận xét khác về vấn đề này, và viên ?ođội? hay ?othiếu úy? Phác đã bị giam giữ chặt chẽ cho đến khi được dời khỏi nói đây.
    Ngày 31-7, Montfort và hai người Việt Nam đã được dời đi cùng với 20 người Pháp lánh nạn tìm thấy ở một làng gần khu vực AGAS hoạt động. Số người Pháp này đã được du kích ********* giải thoát ngày mùng 4-7 tại một trại tập trung thường dân của Nhật ở Tam Đảo. Montfort đã dẫn những người đi bộ theo đường mòn cho tới biên giới, còn đàn bà và trẻ con thì được chở bằng máy bay sang Trung Quốc.
    Ngay trong ngày Thomas tới, ông Hồ thường xuyên tìm bắt ?ocơ hội thuận lợi? đã nắm lấy dịp có mặt người Mỹ để bắt liên lạc với người Pháp ở Trung Quốc. Ông đã yêu cầu Thomas báo cho nhà chức trách Mỹ biết rằng ?oMặt trận ********* vui lòng muốn nói chuyện với một sĩ quan cao cấp Pháp nào đó, như tướng Sabattier chẳng hạn (sic), để biết những gì mà người Pháp muốn đề xuất ra?. Mấy ngày sau, AGAS ở Côn Minh báo cho tôi biết đã nhận được một điện tín của ông Hồ nhằm gửi cho các nhà chức trách Pháp và nói rằng ông Hồ sẽ hoan nghênh một cuộc nói chuyện với một quan chức cao cấp Pháp, đặc biệt là về vấn đề tuyên bố của De Gaulle liên quan đến Đông Dương mà ông Hồ cho rằng còn có một số điểm không rõ ràng. Tôi gọi ý cho AGAS chuyển bức diện cho M.5, nhưng sau đó tôi nhận biết ở đây người ta đã tiếp nhận nó một cách khá lạnh nhạt.
    Ngày 25-7 Thomas lại báo cáo, cho rằng một lần nữa ông Hồ đã tỏ ý muốn nói chuyện với người Pháp, hoặc ở Côn Minh hoặc ở Bắc Kỳ, về một yêu cầu cải cách năm điểm gửi cho Chính phủ Pháp. Đó là:
    ?oChúng tôi, Mặt trận *********, yêu cầu người Pháp cho công bố và ghi vào trong chính sách tương lai của Pháp ở Đông Dương các điểm sau đây:
    1. Thực hiện phổ thông đầu phiếu để bầu ra một nghị viện để quản lý đất nước, có một viên Toàn quyền người Pháp làm chủ tịch cho đến khi chúng tôi hoàn toàn đuợc độc lập. Viên Toàn quyền sẽ lập ra nội các hay đoàn cố vấn được nghị viện chấp nhận. Quyền hành chính xác của các quan chức nói trên sẽ được thảo luận sau.
    2. Độc lập phải được ban bố cho đất nước, trong vòng ít nhất là 5 năm, nhưng không quá 10 năm.
    3. Các nguồn lợi thiên nhiên của đất nước phải được trả lại cho nhân dân trong nước thông qua một sự đền bù thỏa đáng.
    4. Mọi quyền tự do do Liên Hợp Quốc đề xuất ra được đảm bảo thi hành cho người Đông Dương.
    5. Cấm chỉ việc bán thuốc phiện.
    Chúng tôi hy vọng rằng các điều khoản trên sẽ được Chính phủ Pháp chấp nhận?.
    Thomas đã gửi bức điện trên của ông Hồ cho Davis ở Posech để chuyển cho AGAS Côn Minh tiếp theo với bản thứ nhất. Ở đó họ đã chuyển ngay bức điện thứ hai này cho phái đoàn quân sự Pháp.
    Dù cho các điện tín của ông Hồ đã không được đáp lại và không được công nhận, đến một chừng mực nào đi nữa thì vai trò chúng tôi cũng chỉ là thực hiện một dịch vụ, tránh không để cho bị lôi kéo vào việc ủng hộ thiên vị cho bên này hay bên kia. Nhưng cũng thật là thú vị mà phản ảnh rằng các yêu cầu nhũn nhặn của *********, mặc dù là người Pháp không thể chấp nhận được, cũng đã có thể sử dụng được để làm cơ sở thích hợp cho một cuộc thương lượng. Thực vậy, cả hai bản đề nghị gặp gỡ trên những cơ sở nghiêm chỉnh nói trên cũng chỉ là những dự định đầu tiên trong nhiều lần của người Việt Nam để thương thuyết với người Pháp với tư cách là người đại diện cho tương lai đất nước họ. Thật quá rõ ràng là sự không khoan nhượng của Pháp đã làm cho mọi dự định muốn thương lượng trở thành không có kết quả.
    Từ đó về sau, việc người Pháp tham gia nhiệm vụ toán ?oCon Nai? được chấm dứt và toán của thiếu tá Thomas ở lại với những người du kích ********* cho đến tận khi họ về tới Hà Nội ngày 9-9-1945. Trong 7 tuần lễ ở đây, Thomas và các chuyên viên người Mỹ đã để ra 4 tuần để huấn luyện cho khoảng 200 người được lựa chọn kỹ lưỡng để làm cán bộ lãnh đạo tương lai cho quân đội của các tướng Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp về việc sử dụng những vũ khí Mỹ mới nhất và chiến thuật đánh du kích. Một số chúng tôi cũng đã có nghĩ tới việc trong tương lai những vũ khí và sự huấn luyện đó có thể sẽ được sử dụng để chống lại người Pháp, nhưng không một ai lại tưởng tượng được rằng chúng sẽ có bao giờ có thể được dùng để chống lại người Mỹ.
    ---
    (1) cấp bậc tương đương Thượng sĩ nhất
  10. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 14
    Những quyết định lịch sử
    Vào ngày Hồ Chí Minh và thiếu tá Thomas gặp nhau trong rừng sâu Bắc Kỳ, tôi ở Côn Minh được biết tướng Alessandri đã nhận được những tin khá đau khổ là chương trình viện trợ Vay - Mượn của Mỹ đã không được dành cho ông để trang bị quân đội Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương.
    Thiếu tá Sainteny thì ở đâu bên kia quả đất tại Paris, cũng chẳng đạt được kết quả gì trong việc vận động cho Chính phủ của ông ta quan tâm đến tình trạng khó xử của Đông Dương. Sainteny đến thủ đô Pháp vào cuối ngày kỷ niệm hạ thành Bastille (14-7) và hy vọng báo động cho ?oThủ tướng Chính phủ Cộng hòa Pháp? (De Gaulle) và các quan chức khác trong chính phủ biết phương hướng nguy hại cho các quyền lợi Pháp ở Đông Dương mà Đồng minh đang theo đuổi ở Viễn Đông. Nhưng tướng De Gaulle lúc đó ?otrès pris?(1) nên không gặp ông được, còn giới quan chức Pháp cũng đang bị lôi cuốn vào các vấn đề quốc gia cấp bách hơn là lo toan đến các công việc thuộc địa ở Viễn Đông. Sainteny đã trở lại Trung Quốc với hai bàn tay trắng.

Chia sẻ trang này