1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tại sao Việt Nam? - Patti

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi thainhi_vn, 30/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    QUYẾT ĐỊNH Ở POTSDAM - VĨ TUYẾN 16
    Cách đó không lâu, ở một ngoại ô thành phố Berlin, một lớp đủ mặt các nhà lãnh đạo chính trị, quân sự Mỹ, Anh và Liên Xô đã gặp nhau ở Hội nghị Berlin (Potsdam). Các vị đã xúc tiến nhiều cuộc thảo luận quan trọng và kết thúc hội nghị với nhiều quyết định có ý nghĩa sâu xa, lâu dài nhưng không có một quyết định nào có liên quan đến Đông Dương cả. Trong khi đó, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ cũng đã bàn nhiều vấn đề, và trong đó có nhiều điều chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy nhằm mục đích làm giảm bớt cho các cấp chỉ huy và các lực lượng Mỹ trách nhiệm ngặn chặn và càn quét quân Nhật trên các khu vực thuộc phạm vi quyền lợi thực dân của Anh, Hà Lan và Pháp, để cho các chỉ huy Mỹ được rảnh tay tập trung lực lượng vào cố gắng chủ yếu là các chiến dịch đánh vào chính đất Nhật.
    Một trong nhiều đường giới tuyến được đưa ra thảo luận có đụng chạm đến Đông Dương. Lúc đầu, tham mưu trưởng Liên quân (Mỹ) đã chọn một đường ranh giói chạy qua 150 vĩ tuyến Bắc, nhưng sau khi trao đổi với Tham mưu trưởng Liên quân Anh và Mountbatten, con đường đã được điều chỉnh lại ở vĩ tuyến 16. Điều đó có nghĩa là để cho Mountbatten có phạm vi hoạt động bí mật rộng rãi hơn ở miền nam Đông Dương. Toàn bộ vùng phía bắc con đường nói trên vẫn thuộc Chiến trường Trung Hoa dưới sự chỉ huy tác chiến của Tưởng và Wedemeyer.
    Một tuần sau, vào ngày 24-7, đề nghị phân chia ranh giới nói trên được đệ trình cho Truman và Churchill, và được thông qua kèm theo chỉ thị là hai Chính phủ Mỹ và Anh sẽ cùng tiến hành một cuộc vận động để Tưởng đồng ý chấp nhận. Ngày 1-8, Hurley gửi công hàm của Tổng thống báo cho Thống chế biết điều quyết định ở Potsdam và mong rằng sẽ được ông tán thành. Thông điệp của Truman được chuẩn bị một cách chu đáo và nói rộng ra rằng việc phân chia ranh giới chỉ ?onhằm cho các inmục đích tác chiến? và không bao hàm một nghĩa rộng nào khác. Mười ngày sau Tưởng phúc đáp lại với một sự đồng ý có điều kiện.
  2. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT LỰC LƯỢNG THỨ BA Ở BẮC KỲ
    Ông Hồ đã không được các cường quốc ở Potsdam, Paris và Trùng Khánh biết đến, nhưng trong khu căn cứ hẻo lánh của mình ở Bắc Kỳ, ông ráo riết xúc tiến tuyên tuyền, tổ chức, huấn luyện và chỉ đạo các lãnh tụ chính trị, quân sự hoạt động cho việc xây dựng một quốc gia mới.
    Sau cuộc gặp gỡ với ông Hồ vào tháng 4, tôi nghiên cứu kỹ lưỡng phong trào ********* và vào khoảng trung tuần tháng 6, tôi đã tin chắc rằng đây là một phong trào thực tế, năng động và nhất định sẽ giành được thắng lợi. Dựa trên cơ sở vững vàng, tôi xác định phong trào đã được tổ chức tốt, có mục tiêu chiến đấu rõ rệt và được ủng hộ của dân chúng. Trong các báo cáo gửi cho Heppner, Wedemeyer và Hurley, tôi đã bác bỏ một cách mạnh mẽ những luận điệu của người Pháp cho rằng không có phong trào độc lập thực sự ở Đông Dương, cho đây chỉ là một số ít khiêu khích gây rối loạn và đều là những ?otên Cộng sản vô tổ chức? được Matxcơva, Diên An và Trùng Khánh giúp đỡ, xúi giục, hoặc cho rằng ?ongười bản xứ? vẫn trung thành và dân chúng lệ thuộc đang nóng lòng chờ người Pháp quay trở lại để bênh vực và che chỏ họ chống người Trung Hoa và Thái Lan. Trái lại, tôi đã kết luận là phong trào độc lập chỉ là một bước quá độ để đi đến lý tưởng tối cao là bản năng sinh tồn. Nếu độc lập dân tộc có khả năng bảo đảm sự sống còn cho người Việt Nam thì họ sẽ coi ********* là một sự giải đáp cho họ. Đối với họ thì dù cho bước quá độ có mang tính chất dân chủ, xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủ nghĩa thì đều chẳng có ý nghĩa quan trọng gì. Vấn đề và ở chỗ thoát được cảnh túng thiếu, được hưởng thành quả lao động của chính mình và được sống yên ổn không bị quấy nhiễu.
    Trong bản báo cáo của tôi, tôi khẳng định chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương là một trong những điển hình xấu xa nhất về chế độ bóc lột công nhân công nhật, coi thường nhân quyền và về sự tham nhũng của người Pháp và trong hơn 3/4 thế kỷ vừa qua, người Việt đã bị bóc lột tàn tệ, bị đối xử một cách dã man, và nói chung, bị sử dụng như là những vật sở hữu của người Pháp. Họ đã chống đối, đánh lại và nổi dậy, nhưng đội quân thuộc địa và sở mật thám Pháp bao giờ cũng thắng thế. Những người bản xứ tích cực nhất, hoặc đã bị giết chết, hoặc đã bị đưa đi đầy khổ sai. Chính tình hình kinh tế xã hội đó, chế độ thuộc địa đó tạo nên ở đây, đã nuôi dưỡng cho sự bất mãn và nổi loạn, và đã sản sinh ra nhiều phong trào quốc gia và các lãnh tụ yêu nước, mà trong số này thì Hồ Chí Minh là một trong những người có ảnh hưởng và hoạt động có hiệu lực hơn hết.
    Qua những người Việt Nam ở Côn Minh, tôi được biết rằng khi đã bôn ba 25 năm ở nước ngoài, đã tiếp thụ được ở đó lý thuyết và sách lược Marxism - Léninism, ông Hồ đã trở về nước vào năm 1940 và đã tự đặt cho mình nhiệm vụ tập hợp các nhóm quốc gia khác nhau vào trong tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh. Thấy rõ sự nghèo nàn lạc hậu về kinh tế xã hội của Việt Nam, vốn hoàn toàn chỉ là một xã hội nông nghiệp; đầu tiên ông Hồ đề nghị hãy gạt các quyền lợi địa phương và giai cấp sang một bên để phục vụ cho độc lập dân tộc và tự do đối với chủ nghĩa thực dân. Ông kêu gọi những người đi theo ông chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành lấy chính quyền cho nhân dân Việt Nam.
    Trong suốt những năm chiến tranh, ********* đã theo đuổi thực hiện một chương trình huấn luyện, tổ chức và đánh phá các cứ điểm của Pháp - Nhật ở Bắc Kỳ. Sau mỗi chiến thắng, dân chúng địa phương lại tập hợp đi theo ********* và số lượng những người tham gia tăng lên theo cấp số. Hoảng sợ trước phong trào cách mạng, người Pháp đã cho thi hành một chiến dịch khủng bố vào những năm 1943-1944. Đổi lại, ********* đã cho tăng cường công tác giáo dục ở cả hai vùng thành thị và nông thôn, kích động công nhân cũng như nông dân chống lại những sách nhiễu của Pháp và Nhật.
    Lúc đó, vào cuối năm 1944 đầu 1945, một nạn đói chưa từng có đã xảy ra ở Bắc Kỳ, làm cho một số rất lớn người chết. Giá gạo tăng vọt lên từ 150 đồng một tấn (tháng 10-1944) tới 500 đồng (tháng 12) rồi 800 đồng (tháng 2-1945). Mặc dù sự thiếu hụt về lương thực ở Bắc Kỳ lúc đó là do mùa màng bị thất bát, nhưng nguyên nhân chính của nạn đói này là do Pháp, Nhật đã cho thi hành một chính sách thu mua lương thực quá tàn bạo. Cộng thêm với việc cướp đoạt gạo trong bữa ăn của ngườì Việt Nam bằng cách xuất cảng gạo ra thị trường nước ngoài và cho cất trữ để phục vụ lợi ích buôn bán của người Pháp; chế độ thu mua lương thực đã làm cho nông dân cùng quẫn. Chi phí sản xuất thông thường cho một tấn thóc là khoảng 80 đồng, giá thị trường khoảng 200, nhưng người nông dân khi nộp thóc thì chỉ được trả chừng 25 đồng. Mặc dù bị mất mùa năm 1944, nông dân vẫn buộc phải nộp đủ xuất gạo của mình, do đó họ phải tìm mua số còn thiếu bằng giá cao ở thị trường để nộp cho Pháp, Nhật với giá thu mua hết sức thấp hơn nhiều. Họ đã bị bỏ chết đói và không còn nguồn sống. Tất cả những điều kể trên là do Hồ Chí Minh thuật lại cho tôi nghe vào tháng 4-1945.
    Khi ông Hồ nói với tôi về nạn đói, tôi đã không nắm chắc được ý nghĩa quan trọng này và những ảnh hưởng lâu dài của nó. Mãi nhiều tháng sau tôi mới thông cảm được sâu sắc hơn với mối quan tâm và sự đau khổ của ông Hồ. Ngoài việc gần 2 triệu người bị chết đói, trong đó phần lớn là trẻ em, nạn đói kém đã tàn phá một cách nghiêm trọng sức khỏe của những người Bắc Kỳ còn sống sót. Điều đó đã hun đúc lòng căm thù của họ đối với những kẻ áp bức Pháp - Nhật, và tăng cường quyết tâm chiến đấu và giành lại cuộc sống.
    Quyền sống - sự sống còn - đó là lý tưởng cao cả nhất của cuộc cách mạng. Phù hợp với điều đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đưa ra khẩu hiệu ?ochiếm kho thóc để cứu đói nhân dân?. Họ đã coi đó là một nhiệm vụ trung tâm để động viên quảng đại quần chúng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
    Các cuộc chiếm kho thóc đã mang lại những kết quả không lường hết được: cứu đói nhờ có giá gạo hạ, vạch mặt kẻ thù chung là Pháp và Nhật, hướng các mối bất bình của nhân dân vào một mục tiêu rõ rệt, khuyến khích nhân dân tổ chức tự vệ cũng như để nắm lấy chính quyền, đề cao sự quan trọng của tổ chức kháng chiến và sự thống nhất hành động, lôi cuốn hàng trăm ngàn người tham gia phong trào cách mạng, tức là *********.
    Khi tôi gặp ông Hồ ở Chiu Chow Chieh, tôi đã không nhận thức được rằng ông đang trên đường trở về Đông Dương để trực tiếp đảm nhận việc lãnh đạo một phong trào năng động đang tiến sát đến ngày bùng nổ. Sau đó tôi mới biết ông đã đi thẳng ngay về Tân Trào, và ở đó, ông dựng lên một quốc gia nhỏ bé gồm sáu tỉnh và một phần đất của ba tỉnh khác, cái mà ông gọi là ?okhu giải phóng Việt Bắc?. Ông cũng đã củng cố lại các đội vũ trang của Chu Văn Tấn và Võ Nguyên Giáp để thành lập một Quân đội giải phóng thống nhất. Sau đó, ông đã đưa ra một chương trình thời điểm cho khu giải phóng:
    - Đánh đuổi Nhật
    - Tịch thu tài sản của bọn xâm lược và phản bội để phân phát cho dân nghèo.
    - Công bố quyền phổ thông đầu phiếu và các quyền tự do dân chủ.
    - Vũ trang nhân dân và kêu gọi họ ủng hộ du kích, tham gia quân Giải phóng.
    - Tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc trong Khu Giải phóng.
    - Thực hiện cứu tế xã hội và cứu trợ các nạn nhân.
    - Chia lại công điền, giảm tô và tức, hoãn việc trả nợ.
    - Huỷ bỏ thuế và các hình thức làm xâu.
    - Đấu tranh chống nạn mù chữ, huấn luyện chính trị và quân sự cho nhân dân.
    - Bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc khác nhau, giữa nam và nữ.
    Mặc dù đối với ông Hồ, mọi mục tiêu đều quan trọng, nhưng như tôi sau này đã được biết, ở Hà Nội, số người Việt Nam mù chữ khá cao cũng như tồn tại của các hình thức làm xâu, đều là những nguồn gây đau khổ đặc biệt đối với ông.
    Các điểm trong chương trình nói trên, trong quan điểm của ông Hồ, đã thể hiện như là một cơ sở cách mạng cho toàn đất nước Việt Nam trong tương lai, và chính các điểm đó đã khích lệ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc. Vào giữa tháng 7 năm đó, ông đã có cơ hội đầu tiên bộc lộ điều mơ ước của mình cho một số ít người Mỹ. Thomas, Phelan, Defourneaux, Hoaglund, Squires và các nhân viên khác của toán ?oCon Nai? đều hết sức xúc động đến mức đã chấp nhận điều quyết đoán của ông Hồ rằng phong trào đó không phải là Cộng sản.
  3. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    HỘI NGHỊ CỦA ĐẢNG Ở TÂN TRÀO
    Vào ngày 6-8, sự kiện ?oHiroshima? đã báo trước kết thúc của cuộc chiến tranh. Trước tình hình đó, ông Hồ chưa thực sẵn sằng; nhưng khi ông được Thomas cho biết sự sụp đổ của Nhật, ông đã hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng vì ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng chân vững chắc ở nơi ông muốn như Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ được vai trò lãnh đạo và đà phát triển của phong trào. Mặc dù còn rất yếu sau một cơn sốt rét và nhiều bệnh tật khác, ông cũng cho triệu tập một cuộc hội nghị các đại biểu Đảng và các lãnh tụ chính trị *********.
    Ngày 13-8, các đại biểu bắt đầu tới Tân Trào. Tất cả không phải đều đã có thiện ý đối với ông. Nhiều người thắc mắc về địa vị đứng đầu mặc nhiên của ông trong phong trào quốc gia. Một số lại hơi ngại về những tin đồn ông được Đồng minh ủng hộ. Một số khác khao khát địa vị lãnh đạo cho bản thân mình. Mặc dù sức khỏe rất kém, ông Hồ vẫn tỏ ra tự tin, tươi vui, phấn khởi, tự thân đón chào một cách nồng nhiệt từng người mới đến. Ông đi lại giữa mọi người, trao đổi tin tức, quan điểm và ôn lại các câu chuyện cũ. Trong cái ?ocơ quan và hành dinh? hỗn hợp của ông Hồ trưng bày nhiều tranh ảnh trong đó có Lênin, Mao và tướng Chennault với đủ các giải băng, sao, phù hiệu cấp bậc. Nhiều người tham dự hội nghị đã hỏi xem người sĩ quan ngoại quốc này là ai vậy và ông Hồ đã vui vẻ giải thích cho họ.
    Đến chiều thì một số lớn đại biểu đã đến hội nghị. Họ đại diện cho các cơ quan của Đảng từ ba vùng Bắc, Trung và Nam của Việt Nam, và cũng có một số đại biểu từ ngoài nước trở về. Mưa to và đường sá đi lại khó khăn đã làm cho một số đại biểu phải vắng mặt, một số thì chắc không nhận được giấy triệu tập.
    Công việc đầu tiên phải làm là quyết định về vấn đề khởi nghĩa. Vào buổi tối ngày 13-8, một Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc được thành lập. Ủy ban nhận định là thời điểm cho một cuộc tổng nổi dậy và toàn dân đứng lên cầm vũ khí đã đến. Chính trong đêm đó, Ủy ban đã phát bản Quân lệnh số 1, ra lệnh phát động cuộc tổng khởi nghĩa. Ngày hôm sau, Tổng bộ ********* ra một bản kêu gọi nhân dân nổi dậy đấu tranh giành độc lập. Cũng trong ngày hôm đó, Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc thảo ra bản Kế hoạch hành động dựa trên 4 phương châm cơ bản: kết hợp mọi hành động quân sự và chính trị, tập trung toàn bộ lực lượng dưới quyền một chỉ huy thống nhất, củng cố hàng ngũ cán bộ quân sự, dân sự và giữ vững liên lạc với lãnh đạo. Bản kế hoạch hành động đã hướng dẫn tỉ mỉ việc vận dụng vào thực tế các phương châm công tác nói trên.
  4. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    QUỐC DÂN ĐẠI HỘI
    Liền ngay sau cuộc hội nghị của Đảng, Quốc dân đại hội đầu tiên đã được triệu tập họp vào ngày 16-8. Dưới quyền chủ toạ của Hồ Chí Minh, Đại hội gồm hơn 60 đại biểu đại diện cho nhiều đảng phái chính trị trong Mặt trận *********, các tổ chức quần chúng, các dân tộc (thiểu số), các cộng đồng tôn giáo ở Đông Dương và hải ngoại.
    Vì Đại hội họp ở Tân Trào nên các đại biểu cũng loáng thoáng thấy được một cách kín đáo một số bộ đội mặc đồng phục, được trang bị tốt và rất có kỷ luật đi qua lại trong khu vực hội họp. Người ta đã nhận ra ngay đó là những người Việt Nam và là đội viên của Giải phóng quân. Trang bị và vũ khí Mỹ của họ còn mới, cùng một kiểu và cỡ thống nhất. Ông Hồ vẫn yên lặng một cách khiên tốn nhưng hài lòng về sự tò mò và quan tâm của các đại biểu. Với bức ảnh có kèm theo chữ ký của Chennault trong lều của ông Hồ cùng với những du kích quân trang bị tốt như thế, dư luận lan truyền là ********* và đặc biệt là ?o*****? đã được Đồng Minh ?obí mật ủng hộ?. Trong thâm tâm, chắc ông Hồ đã vui miệng khi thấy toán ?oCon Nai? đã đến thực đúng lúc, và bằng cách trải loãng nó ra thì lại thấy hình như nhiều hơn lên so với tình hình thực trạng của nó.
    Đại hội đã tán thành nghị quyết về một Cuộc tổng khỏi nghĩa và thông qua Quân lệnh số 1. Trong một phiên họp 2 ngày, Đại hội đã chấp nhận một chương trình 10 điểm, một quốc kỳ có ngôi sao vàng 5 cánh nằm giữa một nền đỏ và một bài quốc ca, bầu ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, hoạt động như một chính phủ lâm thời trong quá trình thưa có Tổng tuyển cử toàn quốc.
    Ông Hồ, luôn luôn thực dụng, đã lái Đại hội đi tới chỗ tán thành một chính sách thực tế ?ogiành lấy chính quyền từ tay người Nhật và Chính phủ bù nhìn trước khi quân đội Đồng minh vào Đông Dương và như thế với danh nghĩa là những người chủ của đất nước, chúng ta hoan nghênh đón quân đội đó đến để giải giáp quân Nhật?. Nghị quyết này của Đại hội đã thể hiện sự lo lắng của ông Hồ trước mưu toan tìm kiếm lợi ích của Pháp và Trung Quốc, mối đe doạ mà mọi người đều biết, đối với sự nghiệp của ông do việc khối Pháp, Anh, Hà Lan muốn thu hồi trọn vẹn các thuộc địa cũ của họ. Ông Hồ đã nhận thức được Đồng minh không phải là đồng minh trong thực tế, mà đó chỉ là một sự liên kết với nhau nhằm mở rộng việc bảo vệ các quyền lợi thực dân ở Đông Nam Á. Căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, ông Hồ đã thấy trước một cách rất sáng suốt là Trung Quốc sẽ không dễ dàng bỏ qua một cơ hội tốt nào để bóc lột Việt Nam.
    Khi kết thúc Đại hội đáng ghi nhớ này, ông Hồ đã đưa ra một lời kêu gọi hùng hồn với toàn thể nhân dân Việt Nam, trong đó có đoạn ghi:
    ?oGiờ quyết định số phận đất nước chúnlg ta đã điểm. Toàn dân trong nước hãy nổi dậy, dùng sức mạnh của bản thân chúng ta đế giải phóng cho chúng ta. Các dân tộc trên thế giới đang nô nức thi đua để tiến lên giành lấy độc lập. Chúng ta không cam chịu ở lại đàng sau...
    Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ của *********, nhân dân ta hãy anh dũng tiến lên phía trước?.
    Ông Hồ đã ký vào bản kêu gọi với cái tên mà trước đây ông đã dùng khi bắt đầu cuộc đời đấu tranh cách mạng của ông - Nguyễn Ái Quốc. Lời kêu gọi đánh vào tinh thần yêu nước của người Việt Nam và ông muốn cho họ biết ông vốn là ?oNguyễn, ngườ coi tình yêu Tổ quốc là đạo đức tối cao?.
    Ngày thứ nhất của Đại hội cũng là ngày xuất phát của toán ?oCon Nai?. Theo chỉ thị của Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc, một đơn vị dưới quyền chỉ huy của Võ Nguyên Giáp (được toán ?oCon Nai? huấn luyện trước) đã rời Tân Trào tiến đánh trại lính Nhật ở Thái Nguyên để mở đường tiến về Hà Nội ở phía Nam. Khi mọi việc chuẩn bị đã sẵn sàng, ông Hồ, vị Chủ tịch mới, đã mời tất cả đại biểu các đảng phái và quan khách đến để quan sát đơn vị Việt Nam hành quân tiến ra ngoài doanh trại, có toán ?oCon Nai? đi cùng.
    Thiếu tá Thomas là một sĩ quan trẻ tuổi, giỏi, nhưng chất phác một cách dễ hiểu trong lĩnh vực đấu tranh giữa các cường quốc thế giới. Thomas và toán của ông cùng với những người Mỹ được rải ra trên khắp Trung Quốc và Đông Dương đã chán ngán và không hài lòng khi họ thấy bị chính sách của Bộ chỉ huy Chiến trường cấm không được đòi hỏi quân Nhật ở địa phương mình hoạt động đầu hàng, hoặc nếu có việc họ muốn xin hàng thì cũng không được tiếp nhận. Như Thomas đã nêu: ?ođiều đó đã làm cho tôi chán ngán đến cực độ khi tất cả chúng tôi cảm thấy chúng tôi đã phải liều cả tính mạng mình để đến đây nhưng đến nay, khi công việc đã chạy tốt rồi thì chẳng còn ai đếm xỉa đến chúng tôi nữa...? vân vân và vân vân. Một số toán tình báo này, hoạt động ở cách xa mọi sự chỉ huy của cơ quan quân sự đến hàng trăm dặm, đã làm ầm ĩ lên hơn thế nữa và đã không tuân theo mệnh lệnh của Chiến trường.
    Trong trường hợp của toán ?oCon Nai?, họ đã làm dịu bớt sự bất mãn của mình bằng cách đi theo cùng với bộ đội ********* suốt trên đường về Hà Nội, nhưng chỉ với tư cách là những quan sát viên. Có thể họ đã hoàn toàn lãng quên mất cái ấn tượng họ đã tạo ra được cho ông Hồ một cách chắc chắn là ông đã có được sự ủng hộ ?obí mật? của Đồng minh. Nhưng còn các đại biểu thì sau khi Đại hội kết thúc, họ phân tán trở về địa phương, họ lại mang theo cái ấn tượng nói trên cùng với họ đi khắp đất nước.
    ---
    (1) rất bận - tiếng Pháp
  5. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Chương 15
    Một cuộc hoà bình đến không đúng thời hạn
    MỘT CÁI HỘP ĐÀN BẠN ĐƯA TRỐNG RỖNG
    Cuộc chiến tranh kết thúc đột ngột làm cho ai nấy đều bị bất ngờ. Khi công tác chuẩn bị cuối cùng để đánh chiếm Fort Bayard, một hoạt động bí mật của chúng ta hoàn toàn không dựa vào Pháp, đang tiến triển tốt và thiếu tá Sainteny đã từ Pháp trở về được gần một tuần thì chúngg ta nhận được những tin tức choáng váng về quả bom Hiroshima. Ba ngày sau, ngày 9-8, Nga tuyên chiến với Nhật và quả nguyên tử thứ hai được thả xuống Nagasaki. Tất cả mọi công tác chuẩn bị cho hoạt động Carbonado phải dừng lại, bộ đội đứng yên tại chỗ và tàu bè dàn ra gần Fort Bayard vẫn giữ nguyên vị trí ở ngoài khơi - mọi người chờ đợi sự phát triển của tình hình sắp tới. Ngày 10-8 (lịch Trung Quốc), chúng tôi nhận được tin không chính thức báo Nhật đã chấp nhận các điều kiện đầu hàng Potsdam.
    Vào đầu tháng 8, không ở đâu đã có dấu hiệu là chiến tranh ở châu Á sắp kết thúc. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng còn phải đánh nhiều trận nữa mới tới được ngày Chiến thắng, vì thế mà chúng tôi cảm thấy lúng túng trong một loạt sự việc diễn ra sau đó. Sau khi dư luận của các vụ nổ nguyên tử đã tiêu tan, không một ai ở châu Á lại có thể nghĩ được rằng đây lại là bước đầu của một cuộc đấu tranh mới. Tưởng và Chiến trường Trung Hoa của ông đã được mang một tầm cỡ mới. Thống chế, với tư cách là Tổng tư lệnh Tối cao, muốn được giao hoàn toàn trách nhiệm tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trên Chiến trường Trung Hoa - một vấn đề có liên quan trước hết đến người Anh, Nga và cả người Pháp nữa.
    Người Anh đã hối tiếc ngay lập tức việc họ đã đồng ý về vấn đề điều chỉnh lại ranh giới các chiến trường. Liên Xô đã không để phí mất thời gian bằng cách điều động quân đội sang bảo vệ các quyền lợi của họ ở Mãn Châu Lý. Còn người Pháp, không được hỏi ý kiến Potsdam, đã hoàn toàn mất tinh thần bởi sự bất lực của bản thân họ.
    Ngay trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Jean Daridan, đại biện lâm thời sứ quán Pháp, đã gặp Wedemeyer để yêu cầu cho người Pháp tham gia vào việc chiếm đóng lại Đông Dương và việc chuyên chở bằng đường không cho quân đội Alessandri. Đó là một vấn đề quân sự. Wedemeyer đã thảo luận với tướng Alessandri nhưng đã báo cho ông ta biết là máy bay và xăng dầu không còn đủ để chi viện. Ông nói điều tốt nhất ông có thể làm được chỉ là cho phép một phi cơ của Pháp hoạt động giữa sân bay Mông Tự - Côn Minh và Hà Nội để chở những nhân vật quan trọng của Pháp và ông đồng ý là sẽ hỏi ý kiến Thống chế (Tưởng) về các vấn đề khác. Đó là một cử chỉ vô dụng vì Tưởng đã có quyết định cho phép quân đội Pháp được đi xuyên qua đất liền từ Mông Tự đến biên giới của tỉnh Lào Cai, vượt một cự ly 75 dặm và rồi từ đó đi về Hà Nội thêm 1.000 dặm nữa. Wedemeyer không ở trong tư thế có thể bác bỏ mệnh lệnh của Tưởng. Đối với người Pháp, điều này cũng tương đương như đã bị làm tê liệt ở Trung Quốc, trong khi Trung Hoa một mình chiếm đóng Đông Dương.
    Thấy bị thất thế với giới quân sự, Darian liền tìm đến Fllis O. Briggs, cố vấn Đại sứ quán của chúng ta. Darian nói với Briggs rằng ông đã thảo luận về vấn đề địa vị của Pháp với bác sĩ KC. Wu, quyền Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và nhận mạnh tới việc tình hình có thể sẽ có một ?ohiệu quả hết sức xấu? và gây thiệt hại nghiêm trọng cho mối quan hệ Pháp - Hoa nếu như quân đội Pháp không được phép tiến vào Đông Dương. Đồng thời ông cũng báo trước là sẽ có ?orối loạn nghiêm trọng? nếu như chỉ có quân đội Trung Quốc tiến vào đó một mình.
    Để tăng thêm sức nặng cho lập luận của Pháp, Darian đã nhắc cho Brigss nhớ là còn có chừng 1 vạn tù binh chiến tranh người Pháp ở Đông Dương và quân đội của Alessandri có thể sẽ là những người giúp việc chăm lo đến các nhu cầu của số này. Trả lời của Briggs là chiếu theo các điều kiện đầu hàng thì người Nhật phải chịu trách nhiệm chuyên chở một cách an toàn các tù binh chiến tranh tới các địa điểm do Bộ chỉ huy Đồng minh quy định. Darian đã rút lui, mất tinh thần và thất vọng. Trong lúc đó, đã có hai sư đoàn Trung Quốc ở gần Nam Ninh được dự kiến chuyển vận vào Đông Dương để thực hiện việc giải giáp, hồi hương và tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Đại sứ Hurley, lường trước một cuộc xung đột tiềm tàng trong tình hình đó, đã khuyến cáo với Bộ Ngoại giao (Mỹ) như sau:
    ?o?Pháp mong muốn gấp rút khôi phục chủ quyền trọn vẹn của mình ở Đông Dương vào một thời điểm sớm nhất có thể được và nhìn một cách không có thiện cảm bất kỳ đội quân Trung Quốc nào tiến vào Đông Dương.
    ?Người Pháp muốn gỡ thể diện bằng việc chính họ phải được tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật (ở Đông Dương)?.
    Đó là một điều không thể được vì đã có chỉ thị và vấn đề này đang được thi hành, và như Hurley nhận xét, ông cũng như Wedemeyer chẳng ai có quyền gì để thay đổi các điều khoản về đầu hàng đã được qui định. Nếu không có Bộ ngoại giao hướng dẫn thì Hurley đã gợi ý cho Thống chế nên có những cuộc thương lượng trực tiếp giữa hai Chính phủ Trung Quốc và Pháp để cho phép đại diện của Pháp tham gia vào việc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương.
    Vấn đề ai là người tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương cũng đã khơi dậy một sự quan tâm to lớn ở các nơi khác. Bộ trưởng Byrnes đã chỉ thị cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho Bidault biết rằng người Nhật sẽ chỉ đầu hàng với Tưởng ở phía Bắc và với Mountbatten ở phía Nam. Điều đó đã bao hàm một ý là việc ?ophân chia? ở vĩ tuyến 16 bắc là một vấn đề ?ođơn thuần tác chiến?? và không có một ý nghĩa chính trị nào khác. Ông lại nói thêm rằng chúng ta đã gợi ý cho Chính phủ Anh và Trung Hoa để họ mời đại diện của Pháp tham dự vào buổi lễ tiếp nhận đầu hàng và người Pháp phải giải quyết vấn đề này trực tiếp với các Chính phủ nói trên.
    Sự sụp đổ đột ngột của Nhật đã làm bung ra công khai những bất đồng sâu sắc về các vấn đề đất đai thuộc địa mà suốt trong thời kỳ chiến tranh người ta đã phải kìm chế không nói đến. Anh đã thông báo cho Chính phủ Trung Hoa là Vương quốc Anh đang chuyển quân chiếm và khôi phục lại nền cai trị ở Hongkong, đồng thời cũng đã phái một lực lượng đến Sài Gòn để giữ việc kiểm soát các hành dinh quân Nhật ở đây. Cũng với một thái độ coi thường mà họ vẫn hay dùng để đối xử với người Trung Quốc, người Anh đã thông báo một cách giản đơn cho họ biết rằng các sự kiện xảy ra đã rất ăn khớp với sự điều đình về các đường ranh giới chỉ huy ở Đông Dương và cũng không còn việc gì phải bàn về vấn đề này nữa. Vì vậy, người Anh cho rằng Chính phủ Trung Hoa sẽ đồng ý về mục tiêu chung của Anh và Trung Quốc ở Đông Dương là sẽ phục hồi lại nền cai trị của Pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Pháp và các quan chức hành chính vì mục đích trên càng sớm càng tốt.
    Người Trung Quốc rất căm phẫn và đã chống lại sự độc đoán của Anh. Tưởng đã thẳng thừng báo cho Anh biết họ chống lại thể thức tiếp thu đầu hàng đã được chấp nhận và ghi trong bản mệnh lệnh chung số 1, và người Trung Quốc không tán thành đề nghị của Anh. Bác sĩ Wu đã gặp Hurley vào ngày 18-8 và trao cho ông một bản sao lời phúc đáp của Trung Quốc ra lệnh cấm người Anh cho quân đội đổ bộ vào bật cứ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa mà không được phép tướng Mac Arthur và Tưởng, nhưng lại bảo đảm là Chính phủ Trung Hoa sẽ tôn trọng tất cả các quyền lợi hợp pháp của Anh và sẽ bảo vệ cho các quyền lợi đó.
    Cùng ngày, Tưởng điện cho Tổng thống Truman nhắc lại đề nghị của Anh và lập trường của bản thân ông. Tưởng đã kết luận bằng lời tuyên bố rằng nếu Anh cứ tiến hành các bước đi đã được dự định thì sẽ là một điều ?obất hạnh? lớn cho Đồng minh và gợi ý với Tổng thống thúc ép người Anh phải ?okiềm chế đừng để có bất cứ hành động không thể bảo đảm được nào?.
    Yêu cầu của Darian với người Tnlng Quốc cho chuyển quân đội Pháp từ Trung Quốc vào Đông Dương đã làm nổ ra một cuộc khủng hoảng khác, nhưng Tưởng cũng đã có thể giải quyết được theo kiểu cách riêng của mình. Tưởng đã đồng ý với Darian sẽ để cho người Pháp quay trở lại phía nam biên giới. Ông ta cho biết lúc đó người Pháp không có phương tiện vận tải dư thừa nên người Pháp muốn thì họ phải đi bộ, tay cầm tay như trước đây, cùng với lực lượng chiếm đóng của Trung Quốc và dưới sự ?ođiều khiển? của người chỉ huy họ. Sau đó, cứ như là một việc được nhớ tới một cách muộn mằn, Darian lại đươc báo cho biết thêm là ngay sau khi ấn định được thời gian và địa điểm để tổ chức việc tiếp nhận đầu hàng và sau khi đã chỉ định xong viên tư lệnh người Trung Hoa được uỷ nhiệm làm việc đó thì tướng Alessandri sẽ được mời đi cùng với viên tư lệnh ấy. Điều đó đã thực sự trở thành một cân chuyện rùm beng rỗng tuếch như những tiếng đàn banđua om sòm.
    Đề nghị của Anh và sự bác bỏ đề nghị đó của Trung Quốc đã đặt Tổng thống Truman vào một thế khó xử giữa hai đồng minh. Thủ tướng Atllee đã điện cho Tổng thống, yêu cầu sửa lại chỉ thị trước đây của Tổng thống cho Mac Arthur để cho phép người Nhật giao nộp Hongkong cho người Anh. Ông ta lấy cớ là thuộc địa Anh không thể được giải thích là ?othuộc Trung Quốc? vì đó rõ ràng là vùng đất đai thuộc chủ quyền Anh, không có liên quan gì đến vấn đề ranh giới, quân sự của chiến trường. Nhưng người Anh cũng báo cho Tưởng biết rằng sự có mặt của một đại diện Trung Quốc trong việc tiếp nhận đầu hàng cũng vẫn sẽ được ?ohoan nghênh?.
    Dù sao đi nữa thì Hurley cũng vẫn cứ bực tức. Ông đã nhận được một bản sao lời phúc đáp của Anh cho người Trung Quốc, trong đó có nói trong khi Đại sứ quán Anh gửi bản đề nghị đầu tiên cho Trung Quốc thì họ chưa được xem bản Mệnh lệnh chung số 1 nhưng vì thiện chí họ đã báo cho Trung Quốc biết những ý định của họ. Vào cuối giờ buổi sáng hôm đó(1), Đại sứ quán chúng ta được thông báo cho biết là Chính phủ London khăng khăng đòi quân Nhật ở Hongkong phải đầu hàng người Anh nhưng lại chịu nhượng bộ ở Đông Dương và sẽ tuân theo những quyết định trong Bản Mệnh lệnh chung số 1 với điều kiện là người chỉ huy cao cấp nhất của Nhật ở Sài Gòn phải đầu hàng người Anh còn người Trung Quốc sẽ tiếp thu ở Hà Nội việc đầu hàng của các chỉ huy Nhật cấp dưới phụ trách vùng phía bắc thuộc chiến trường Trung Hoa. Để xoa dịu, người Anh sẽ mời một đại diện Trung Quốc đến dự buổi lễ tổ chức tại Sài Gòn.
    Điều tôi được nghe sau hết về cuộc cãi lộn này trước khi tôi đi Hà Nội là Tổng thống đã làm áp lực đối với Tưởng, bắt phải chấp nhận yêu cầu của người Anh. Ngày 21-8, ông đã điện cho Tưởng biết rắng vấn đề Hongkong ?otrước hết là một vấn đề mang tính chất tác chiến quân sự? và đó không phải là vấn đề chủ quyền của người Anh như người Trung Hoa đã nêu lên. Sau khi chuyển tới Tưởng một ít lời hoan nghênh về sự thông cảm và hợp tác của Tưởng, Tổng thống đã kết luận rằng phương thức mới được sửa lại ?ođã đưa ra một cách giải quyết hợp lý?.
    Hai ngày sau, Tưởng đáp lại là ông ?ođồng ý uỷ quyền? của ông cho một chỉ huy người Anh và kết luận: ?oNgài Tổng thống, tôi đã làm như vậy là xuất phát từ lòng mong muốn lớn được cộng tác với ngài về mọi mặt mà tôi có khả năng. Tưởng Giới Thạch.?
    Truman đã công nhận sự khuất phục của Tưởng trước thực tế của tình hình: ?oXin nhận lấy sự đánh giá cao của tôi về hành động chung của ngài đối với việc Nhật đầu hàng một chỉ huy người Anh ở Hongkong. Hành động đó của ngài đã giúp gỡ được một tình huống khó khăn?.
  6. Gibbon

    Gibbon Guest

    Nhiệt tình nhưng không nhanh trí cho lắm. Cần 1 cái link là được. Cần gì post cả quyển sách lên đây trong khi nó bán đầy ở các hiệu sách. Bạn nên đưa ra lời nhận xét đánh giá của bạn. Nhất là bình luận kèm trích dẫn về những đoạn hay trong quyển sách. Mọi người có thể tìm hiểu và tự đọc được mà, post đến bao giờ mới hết được cả quyển sách.
  7. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Cảm ơn bạn phê bình, dù lời phê bình không "dễ" nghe cho lắm!
    Việc bạn ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và tìm được quyển sách này có thể không quá khó, nhưng đối với các bạn không ở những nơi đó, hoặc ở nước ngoài thì xem bằng cách nào?
    Nếu bạn tìm được link thì bạn gửi lên cho mọi người cùng xem thì quá tốt, và mình đỡ mất công đánh máy. Tuy nhiên, mình cũng thành thật khuyên bạn đừng tìm cho mất công, và nếu có tìm được link, thì cũng chỉ có 1 website có: www.vnthuquan.net. (thậm chí nơi này cũng chưa có đâu!)
    Còn về việc bình luận? Việc đầu tiên, phải có nguồn đã; chủ đề bình luận sẽ bàn ở một topic khác để tránh phân mảnh tác phẩm.
  8. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    CÁC TOÁN ?oMERCY? NHÂN ÁI
    Khi chiến tranh kết thúc có độ 2 vạn tù binh chiến tranh người Mỹ và Đồng minh, và khoảng 1,5 vạn thường dân bị cầm tù trong tay người Nhật. OSS đã xác định được chỗ của họ bị giam ở các vị trí tại Mân Châu Lý và Nam Triều Tiên đến Đông Dương. Các nhà chức trách Đồng minh rất lo lắng về việc quân đội bại trận Nhật có thể trả thù đối với những người họ đã bắt giữ hoặc có thể ngưng tiếp và cung cấp thuốc men để cho họ chết khi người Nhật rút lui. OSS đã nhận được chỉ thị phải chuẩn bị kế hoạch cho một chiến dịch cứu trợ và đến cuối tháng Bảy, chúng tôi đã tổ chức ra một số toán kiểu biệt kích được gọi chung là các toán ?oMercy?. Nhiệm vụ của các toán này là nhảy dù xuống các trại tù binh chiến tranh trước khi cuộc xung đột kết thúc, đảm bảo an ninh cho tù binh, ngăn chặn mọi sự hành hạ và thu dọn các sân bay ở gần đó để nhanh chóng chuyên chở tù binh đi bằng đường không. Đối với OSS thì các toán này cũng sẽ tạo cơ hội thuận tiện để theo dõi các mục tiêu tình báo và hoạt động chiến tranh chính trị sau khi địch đầu hàng. Chưa ai có thể đoán trước được phản ứng của Nhật ra sao, nên hoạt động cứu trợ này đã được ấn định tiến hành theo 5 bước: trước hết là bắt liên lạc với các trại đã được lựa chọn để xác định số lượng và tình hình thể lực của tù binh, bước thứ hai là đơn vị Mountbatten cho in những truyền đơn để thả xuống báo cho Nhật biết là một toán OSS sẽ tới vì mục đích nhân đạo, sau đó các toán sẽ được thả dù xuống các nơi có trại giam, kèm theo việc thả dù các đồ tiếp tế, cuối cùng là tù binh hoặc các người bị giam sẽ nhanh chóng được sơ tán đi.
    Khi có tin Nhật đầu hàng thì OSS cũng đã sẵn sàng. Đội Không quân thứ 14 đã cung cấp máy bay và mọi thứ cần thiết cho 4 đợt xuất kích từ Hsian (San) vào Bắc Kinh, Weihsien, Harbin và Mukden. Ngày 15-8, 3 trong số 4 toán Mercy đã được tung đi, nhưng chuyến bay về Harbin phải huỷ bỏ vì chúng ta không giải thích nổi điều đó cho người Nga rõ. Toán hạ xuống Mukden đã được người Nhật báo cho biết là những cuộc đổ bộ sau này phải đuợc thu xếp trước với họ. Suốt trong 7 ngày sau, lại có thêm 3 toán bổ sung nữa được gửi đến Thương Hải, đảo Hải Nam và Hà Nội. Tôi cầm đầu toán bay đi Hà Nội.
    Khi chúng tôi chuẩn bị được nửa chừng, chúng tôi dồn dập nhận được rất nhiều điện tín của các đơn vị OSS phân tán ở các nơi, yêu cầu cho phép họ được giữ một cách đầy đủ vai trò của những người chiến thắng. Vấn đề đầu hàng của người Nhật ở bất kỳ nơi nào trên Chiến trường Trung Hoa đều là việc dễ gây rắc rối cho Bộ chỉ huy Mỹ. Trong bất kỳ trường hợp nào chúng tôi cũng không được cho phép quân đội Mỹ chấp nhận, dù chỉ là một sự đầu hàng của một đơn vị, mà không có sự đồng ý của Trung Quốc. Và thực tế chúng tôi đã làm như vậy. Đối với quân đội Mỹ mà cũng bị kích động và phản ứng với các điều khoản đầu hàng như thế thì người ta cũng có thể tưởng tượng được là các điều khoản đó đã xúc phạm đối với những người Pháp kháng chiến theo De Gaulle ở Trung Quốc như thế nào, và những cố gắng của họ nhằm phá bỏ các mệnh lệnh hiện hành cũng có thể trở thành dữ dội ra sao.
  9. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT PHÁI ĐOÀN TỰ PHONG
    Sau cuộc ném bom Nagasaki mấy ngày, Sainteny đã yêu cầu gặp tôi vì có việc khẩn cấp. Tôi không được nghe nói tới ông ta kể tới khi ông ta ở Paris trở về, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên mà cũng chẳng hào hứng gì đối với yêu cầu của ông. Chúng tôi đã gặp nhau tại trụ sở của tôi vào ngày 12-8. Lúc đó ông ta có Flichy đi cùng và đã thể hiện có một thái độ không cứng nhắc như trước.
    Với một phong cách ít nhiều nhún nhường, ông đi thẳng vào vấn đề. Ông thừa nhận một cách buồn bã là chiến tranh đang đi đến chỗ kết thúc, vượt lên trên dự kiến của người Pháp, do đó, cần thiết phải sửa đổi lại các kế hoạch của Pháp để đối phó với tình hình đang thay đổi. Theo Sainteny, chính phủ Pháp đã không chuẩn bị thành lập một chính phủ quân sự mà cũng chẳng đặt ra bộ máy cai trị lâm thời của người Việt Nam, do người Pháp đỡ đầu, chủ yếu chỉ vì Pháp ?ođã không được phép? tập trung lực lượng quân đội của Pháp sang Viễn Đông.
    Tôi đã hỏi ông về những chỉ thị ông đã nhận được từ Paris về việc Pháp trở lại Đông Dương. Ông ta buột miệng trả lòi ?okhông có gì?, nhưng sau đã giải thích thay vào đó là ông đã nhận được chỉ thị của đại tá Rose ở Ấn Độ và ông này có liên lạc trực tiếp với Paris. Chính sách của Pháp, theo ông nói, là giữ một thái độ bị động trước việc chiếm đóng lại Đông Dương vì người Pháp không có khả năng thực hiện việc trở lại với một cuộc biểu dương ?olực lượng võ trang hùng mạnh?.
    Kế hoạch trước mắt của ông là ?othăm dò các lực lượng khác nhau ở Đông Dương? trước khi toan tính cho người Pháp quay trở lại. Để làm việc đó, Chính phủ Pháp đã chỉ định một ?oỦy ban? ba người: Sainteny, với tư cách là thủ trưởng DGER/Côn Minh; Tổng thanh tra các thuộc địa (không nêu tên); giám đốc công dân vụ Pierre Mesmer, lúc đó ở Calcutta, đang chờ được đưa tới Trung Quốc. Họ sẽ đến ngay Hà Nội để tiếp xúc với các lãnh tụ Việt Nam ở địa phương và điều đình với họ theo những ?ođiều khoản có lợi cho người Đông Dương?. Theo Sainteny thì ?oỦy ban? được trao quyền thương lượng và cam kết thay cho Chính phủ Pháp. Những điều đạt được và những điều khuyến cáo của Ủy ban sẽ được chuyển tới De Gaulle, các Bộ trưởng ngoại giao và thuộc địa và cho Chính phủ Pháp. Ông đã được ?obảo đảm? là các điều cam kết của Ủy ban sẽ được chính phủ Pháp tôn trọng, hoặc nếu cần thì có sửa đổi chút ít.
    Trong lúc ấy, Sainteny nhắc lại, Chính sách của chính phủ Pháp là nhằm ?olàm dịu bớt? việc quay trở lại của người Pháp cho thích hợp với tình hình. Ông nói với tôi, ông muốn làm một chuyến bay mở đầu đến Hà Nội, cùng với 4 hay 5 nhân viên trong Bộ tham mưu của ông. Ông cũng muốn bắt liên lạc với nhân viên của ông, thiếu tá Blanchard, đã được phái đến vùng Hà Nội ngày 8-8, và qua người này, Sainteny sẽ bắt mối với các lãnh tụ địa phương. Ông dự định sẽ ở lại Hà Nội 48 tiếng, sau đó trở về Côn Minh báo cáo những điều ông đã thấy cho hai ủy viên khác của Ủy ban, cũng như với Tổng đại diện quân sự, tướng Alessandri. Rồi Ủy ban sẽ báo cáo tổng hợp các điều phát hiện được cùng với các lời khuyến cáo cho Chính phủ Paris; và trên cơ sở đó, cả ba người sẽ đến Hà Nội để thành lập một bộ máy cai trị lâm thời của người Pháp ?ovới sự tán thành của người Đông Dương?.
    Sainteny đã nói rộng ra ít nhiều về lập trường của Pháp. Nếu như những cuộc thương lượng dự định bị thất bại hoàn toàn, Chính phủ Pháp sẽ không có hành động gì và để hoàn toàn cho Mỹ và Anh lập lại trật tự ở Đông Dương. Ông bảo, ?oỦy ban? cảm thấy chắc chắn rằng, người Mỹ cũng như người Anh đều không chuẩn bị hoặc muốn duy trì những lực lượng chiếm đóng ở Đông Dương, mà sẽ chỉ để cho người Trung Quốc và người Pháp làm việc đó.
    Theo Sainteny, nếu người Trung Quốc được lựa chọn, thì người Pháp tin chắc rằng Thống chế sẽ cử tướng Trương Phát Khuê làm đại diện của mình để tiếp nhận việc đầu hàng của người Nhật ở Hà Nội. Ông nghĩ rằng Trương sẽ được hâm mộ hơn các tướng của Thống đốc Long Vân, nhưng người Pháp vẫn còn sợ xảy ra những vụ cướp bóc, tàn phá quy mô lớn và cũng có thể nổ ra xung đột với người Việt Nam.
    Như vậy, lại có khả năng người Nhật lúc đó sẽ xin hàng theo người Việt. Đó cũng sẽ vừa là một điều tai hoạ và cũng là một điều may mắn. Sainteny tin chắc rằng trong trường hợp đó, người ?oAnnam? sẽ không có khả năng để đối phó với tình hình, sẽ xảy ra rối loạn và từ đó sẽ mong muốn mạnh mẽ cho người Pháp quay trở lại, ít nhất cũng trong một thời gian.
    Sainteny cũng kể lể dài dòng đến lời tuyên bố về Đông Dương của Bộ trưởng thuộc địa ngày 24-4, hứa điều mà Sainteny coi như là ?ocác quyền tự do dân chủ?, một sự độc lập hoàn toàn về kinh tế đối với những quyền lợi và sự kiểm soát của Pháp. Ông đã nhắc đi nhắc lại là Chính sách của Pháp là một ?onền cai trị tự do? nhất, vượt xa những mơ ước ngông cuồng nhất của ngay cả ?onhững người Annam cấp tiến nhất?. Sainteny đã kết luận với một câu hỏi: ?oOSS có thể giúp cấp cho tôi một máy bay để đi làm nhiệm vụ ở Hà Nội được không??. Và, ông nói tiếp ?oỒ, đúng như vậy! Người Pháp sẽ mặc quân phục Mỹ hoặc thường phục?.
    Rõ ràng là người Pháp đã bị mắc kẹt. Họ đã không được trang bị mà cũng chẳng được chuẩn bị gì cho một cuộc tiếp quản bằng quân sự thuộc địa cũ của mình. Tất cả điều gì mà Sainteny có thể làm được trong hoàn cảnh đó, sẽ chỉ là nhanh chóng thiết lập được một kiểu có mặt nào đó của người Pháp trong khi chờ đợi sự ủng hộ và chỉ thị của Paris. Hy vọng của ông trong việc dựng lên một chính quyền Việt Nam lâm thời thân Pháp với sự giúp đỡ hữu nghị của những người Quốc dân đảng quốc gia (thân Trung Quốc) sẽ chỉ là một hành động chống đỡ mạnh mẽ; nhưng hình như ông lại không biết được rằng tinh thần chống Pháp của người Việt Nam đã được kết hợp lại trong một mặt trận chính trị vững mạnh, Mặt trận *********.
    Còn về yêu cầu OSS chuyên chở và người Mỹ che dấu thì tôi nói với Sainteny là tôi hiểu vấn đề của ông, và gặp trường hợp tương tự, tôi sẽ phải dùng thử những biện pháp như thế; nhưng việc nhờ người Mỹ che dấu là hoàn toàn không thể đặt thành vấn đề, vì nó sẽ đem lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về ngoại giao. Ý kiến của Sainteny về việc người Nhật đầu hàng người Đông Dương là không có căn cứ. Người Nhật đã được lệnh chỉ đầu hàng những chỉ huy Đồng minh được chỉ định về việc này, và người Việt Nam không thuộc vào hàng các người đó. Tôi nói với Sainteny rằng tôi không tin là Chiến trường lại muốn chuyển một máy bay dùng vào các kế hoạch của các toán Mercy sang làm một việc khác, nhưng tôi cũng sẽ chuyển lời yêu cầu của ông cho Chiến trường. Trước khi ra về, Sainteny cám ơn tôi đã nghe ông ta một cách có thiện cảm và gợi ý là ông và người của ông có thể được ghép vào toán Mercy đi Hà Nội. Tôi hứa là sẽ khêu gợi vấn đề đó với Bộ chỉ huy và cũng ngay chiều hôm đó, tôi chuyển yêu cầu của Sainteny đến OSS/Trùng Khánh. Hai ngày sau, tổng hành dinh của Wedemeyer đáp lại rằng việc cho người Pháp tới Hà Nội trong chuyến bay của toán Mercy là không mang lại lợi ích gì và sự có mặt của người Pháp ở Hà Nội đang được thu xếp ?otrong một thời gian thích hợp?.
  10. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    MỘT TRỞ NGẠI KHÔNG ĐÁNG KỂ DO TRỜI MƯA
    Thực tế chỉ trong ngày một ngày hai mà khu cư trú của chúng tôi ở Côn Minh đã thay đổi từ một trung tâm chỉ huy quân sự thành một tiền đồn cho việc chỉ đạo chính trị. Những phần tử ngoại quốc - Pháp, Hà Lan, Anh và Trung Quốc - trước đây được nguỵ trang cẩn thận, nay lộ mặt xuất hiện tại hành dinh của OSS để chuẩn bị cho các công tác sau chiến tranh, hoặc phải đặc biệt xử lý việc này hay việc khác. Nhân viên OSS chúng tôi bận rộn chẳng kém gì những ngày còn chiến tranh.
    Lúc đó trời mưa. Trong những ngày đầu tháng 8 mưa còn nhỏ, nhưng càng ngày càng trở nên dữ dội. Giữa tháng 8, mưa to đã gây thành một trận lụt tệ hại nhất. Côn Minh biến thành một cái hồ lớn.
    Nhưng trận lụt cũng không ngăn cản được sự chuẩn bị sôi nổi của toán Mercy, mà cũng chẳng làm nhụt chí được những người Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam trong việc vật lộn một cách vất vả với bản báo cáo ?obí mật?, các sơ đồ và đề nghị về các sự nghiệp khác nhau của họ. Nổi bật nhất là những người Việt Nam, họ yêu cầu được đối xử một cách đặc biệt và yêu cầu được sự ủng hộ của Đồng minh, đặc biệt là của Mỹ.
    Người phát ngôn của ********* nghiêm chỉnh đề nghị biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và thúc ép Mỹ can thiệp với Liên Hợp Quốc để gạt cả người Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm đóng lại Đông Dương của Đồng minh. Đại diện của Hồ Chí Minh rất lo lắng về kế hoạch chiếm đóng của Trung Quốc. Họ sợ rằng những người láng giềng phương Bắc sẽ trở thành những kẻ đi chiếm đất đai ở Đông Dương, sống bằng sự cướp bóc, tước đoạt. Người Pháp đồng ý với những mối lo lắng nói trên, nhưng thêm vào đó lại muốn giữ độc quyền về cai trị cho bản thân mình.
    Tổng bộ ********* ở Hà Nội đã gửi đến một công hàm để giải thích rõ lập trường của họ, trong đó có đoạn viết:
    ?oNếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để hòng cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai những kẻ đi áp bức; thì nhân dân Đông Dương sẵn sàng chiến đấu đến cùng,, chống lại việc tái xâm lược đó của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến với tư cách là những người bạn để gây dựng nền thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống trị, thì họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường quốc nào khác.
    Tổng bộ mong muốn báo cho Chính phủ Mỹ biết là nhân dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của Đông Dương và mong rằng nước Mỹ, người bảo vệ chế độ dân chủ, sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng cách sau đây:
    1. Ngăn cấm hoặc không giúp đỡ người Pháp quay trở lại Đông Dương bằng võ lực.
    2. Kiểm soát người Trung Quốc để hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc cướp bóc, tước đoạt.
    3. Cho các chuyên viên kỹ thuật sang giúp người Đông Dương khai thác nguồn tài nguyên đất đai.
    4. Phát triển các ngành kỹ nghệ mà Đông Dương có khả năng cung ứng.
    Nói tóm lại, người Đông Dương muốn sẽ được đặt ở một địa vị ngang hàng như Philippin trong một thời gian không hạn định?.
    Đây là bản thông cáo bán chính thức đầu tiên gửi cho nước Mỹ và tôi cũng cảm thấy nó có đầy đủ mức quan trọng để được chuyển về cho tướng Donovan và đã được Helliwell điện đi vào ngày 18-8.
    Trong khi đó, mùa trở nên tồi tệ hơn, và cũng chẳng có việc gì khác phải làm, Sainteny và tôi gặp nhau lần thứ hai (vào sáng ngày 16-8) để trao đổi về vấn đề Trùng Khánh bác bỏ chuyến đi của ông đến Hà Nội. Sainteny rất nôn nóng khó chịu và kết tội OSS là đã ăn cánh với người Trung Quốc để phá hoại kế hoạch quay trở lại của người Pháp. Ông ta cáu giận đến trở thành mất trí và vô chính trị, doạ không công nhận chính sách của Chiến trường, tiếp tục làm theo ý mình, được gì thì được. Tôi khuyên giải ông và hứa thử hỏi một lần nữa Trùng Khánh cho ông tham gia giúp đỡ việc quản lý các tù binh Pháp ở Hà Nội, nếu như ông cam đoan tự hạn chế mình không làm những hành động vô chính trị. Với một thái độ miễn cưỡng, ông chấp nhận cho ông và 4 nhân viên trong Bộ Tham mưu của ông mang quân phục Pháp được đến Hà Nội với danh nghĩa tham gia phái đoàn của tôi.
    Cùng ngày hôm đó, tôi nhận được một bản giải thích thêm của Chiến trường: phải nói thêm cho Sainteny và 4 nhân viên của ông một cách rõ ràng là họ phải hạn chế hoạt động trong các nhiệm vụ có tính chất nhân đạo trong cộng đồng người Pháp. Nhưng trời mưa đã làm trở ngại cho việc xuất phát của chúng tôi lúc đó.
    Nôn nóng muốn đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ ?obí mật? của mình, Sainteny đã kiếm được một máy bay Pháp, một chiếc C.47 vừa mới ở Calcutta tới. Chiếc máy bay này do một phi công dân sự tên là Fulachier lái cho hãng Air France đưa đến để nhằm khôi phục lại các chuyến bay giữa Ấn Độ và Trung Quốc, sau khi được Đại sứ quán và Chính phủ Trung Hoa bàn xong các vấn đề chi tiết. Cuối buổi chiều hôm đó, Helliwell báo cho tôi biết là Sainteny đang chuẩn bị dùng một máy bay Pháp để nhảy dù xuống Hà Nội. Alessandri cũng yêu cầu tướng Hà Ứng Khâm cho phép máy bay Pháp bay tới Hà Nội. Yêu cầu trên đã bị bác bỏ và người Trung Hoa đã cho binh lính tới canh giữ chiếc phi cơ của Pháp với mệnh lệnh là không cho người nào lên máy bay đi Hà Nội. Mệnh lệnh đã nói gộp cả lại: ?oTất cả các máy bay, không kể từ đâu đến và thuộc quốc tịch nào, đều không được cất cánh để bay đi Đông Dương thuộc Pháp cho đến khi có lệnh mới?.
    Ngày hôm sau lại xảy ra một chuyện khác với Sainteny. Ông đã tấn công tôi dồn dập với những lời buộc tội, nào là người Mỹ phản bội người Pháp, cá nhân tướng Wedemeyer đã gây trở ngại cho người Pháp ở Chiến trường, người Mỹ ở Trung Quốc tuy không cố tình nhưng lúc nào cũng hùa theo với mưu đồ của người Trung Quốc. Ông nói ý nghĩ riêng của mình,, cho là Wedemeyer đã không trung thực với người Pháp ngay từ những lúc đầu. Khi tôi hỏi ông điều ông dự tính làm trong những ngày sắp tới, ông gượng gạo nói rằng ông chẳng làm gì cả ngoài việc ngồi chờ chỉ thị của Trùng Khánh.
    Sau đó, tôi tình cờ được biết là Sainteny đã cho một toán 10 người do Blanchard phụ trách, xâm nhập vào Hải Phòng để bắt liên lạc với người Nhật ở Hà Nội và xúc tiến công tác với trung tá Kamiya, một cựu sĩ quan liên lạc Tổng hành dinh quân Nhật ở Hà Nội với chính quyền Decoux. Nhưng Kamiya đã giữ toán người Pháp lại ở Hải Phòng và đã hạn chế hoạt động của họ vào việc chuyển những tin tức thời tiết cho người Pháp ở Côn Minh.
    Đúng như điều chúng tôi lo ngại, người Nhật đã tiếp đón máy bay Đồng minh của các phái đoàn Mercy khác một cách rất lộn xộn. Hơn nữa, một phi cơ Đồng minh khi bay qua Hà Nội ngày 19-8 đã bị hoả lực phòng không bắn, nên Bộ chỉ huy Chiến trường quyết định hoãn chuyến đi Hà Nội của chúng tôi cho đến khi nào cơ quan chỉ huy Nhật ở Hà Nội nhận được thông báo là chúng tôi tới đó. Bấy giờ trời mưa lại ngăn trở không cho máy bay cất cánh.
    Những khó khăn phiền toái với người Pháp ở Trung Quốc đã là đầu đề cho vô khối thư từ công văn giữa Trùng Khánh và Washington. Và tướng Donovan đã phải chỉ thị cho Heppner phối hợp chặt chẽ mọi kế hoạch của OSS có liên quan đến người Pháp trở lại Đông Dương với Bộ chỉ huy chiến trường và Đại sứ quán Mỹ. Trong lời giải đáp cuối cùng đối với chỉ thị của Donovan, Helliwell đã điện báo:
    ?oPhúc đáp diện 642, chúng tôi đã tiến hành công việc theo như đã được hướng dẫn. Sainteny đi cùng với Patti hôm thứ bảy. Điều đó có nghĩa rõ ràng là người Pháp hoàn toàn thuộc quyền chỉ huy của Mỹ và cũng chỉ có những người Pháp hoạt động với OSS. Cờ Pháp sẽ không được dùng đến?.
    Trước khi bức điện được gửi đi, tôi đã trao đổi với Heppner về ý nghĩa của nó và yêu cầu phải ghi rõ sự đồng ý lên bản sao tài liệu. Nói tóm lại, không có trường hợp nào chúng tôi đã giúp đỡ cho người Pháp trong việc tiếp quản Đông Dương bằng vũ lực hoặc ngay cả tới việc tỏ ra có sự đồng tình tham gia vào các kế hoạch của họ.
    Trong khi gặp trở ngại về thời tiết, chiều ngày 19-8, tôi có gặp nhiều nhân viên thuộc chi nhánh Côn Minh của Mặt trận ********* tại nhà của Phạm Viết Tự. Họ cũng vừa mới nhận được những tin tức rất phấn khởi từ Hà Nội, và khi tôi tới, tôi thấy họ đang rộn lên vì vui mừng. Tống Minh Phương đã được một người bạn của Thái Hà ấp ngoại ô Hà Nội, báo cho biết là Hà Nội đã nổi dậy. Họ kể lại một cách sơ sài là vào ngày 17-8, chính quyền địa phương Việt Nam của chế độ Bảo Đại đã tổ chức một cuộc biểu tình để ủng hộ Chính phủ trung ương của Trần Trọng Kim. Tổng hội viên chức(2) là người đứng ra tổ chức cuộc biểu tình ở địa phương và một đám quần chúng tới 2,5 vạn người đã tập hợp ở trước cửa Nhà hát lớn thành phố. Không rõ tình hình đã xảy ra như thế nào, chỉ biết là các đội viên đội võ trang tuyên truyền đã chiếm lấy các cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng lật đổ Chính phủ ?obù nhìn?, đi theo ********* và giành chính quyền về cho nhân dân. Theo những tin tức nhận được thì người Nhật đã không can thiệp và Ủy ban thành Hà Nội đã nắm lấy cơ hội thuận lợi có cuộc mít tinh lớn lao đó để thúc đẩy tình hình tiến tới một cuộc khởi nghĩa qui mô rộng toàn thành phố.
    Sau những giò phút bị kích động cao độ lúc đầu, nhóm Côn Minh cũng tỏ ra thấy rõ được tình hình hơn, một số nghĩ rằng hành động của Ủy ban Thành Hà Nội là quá sớm. Nếu người Nhật quyết định đàn áp cuộc nổi dậy thì sao. Chuyện gì sẽ sẩy ra nếu Đồng minh, và đặc biệt là Trung Quốc cho chuyển người Pháp vào Đông Dương với bọn bù nhìn Quốc dân đảng? Không rõ Giải phóng quân có sẵn sàng đối phó với tình hình không? Đây là điều lo lắng đã xen vào niềm vui hân hoan của họ, tuy chẳng gì có thể che giấu được lòng tự hào và những cao vọng của họ. Tự và các người cộng sự với ông hướng về phía tôi, nhưng tôi cũng chẳng làm gì được để họ yên tâm. Tôi chỉ có thể gợi ý được rằng phải thận trọng, đừng để cho tình hình tuột khỏi tay và dẫn đến những sự đổ máu không cần thiết, dù là người Việt hay người Pháp cũng vậy.
    Cũng ngay chiều hôm đó, tôi đã nói lại với Helhwell và Heppner về những gì tôi đã nghe được và gợi ý là phải báo cáo với tướng Wedemeyer. Helliwell đã mạnh dạn phát biểu ý kiến, cho rằng Tưởng sẽ chẳng vui vẻ gì nếu như quân đội của ông ta ở Việt Nam lại bị dồn đến chỗ phải giữ một nền trật tự lâu dài ở Đông Dương. Heppner thì lo lắng đến việc sơ tán các tù nhân Đồng minh và làm thế nào để cho quân Nhật đầu hàng mà không xảy ra chuyện rắc rối gì. Mối quan tâm chủ yếu của tôi lại là chung quanh vấn đề người Pháp. Nếu họ được phép vào Đông Dương với người Trung Hoa thì chắc chắn là sẽ xảy ra xung đột với người Việt Nam, và người Trung Hoa sẽ không tránh khỏi lôi cuốn vào chuyện này. Chúng tôi cũng không nghĩ tới việc tình hình mới này đúng ra là phải được cấp Chiến trường xem xét và quyết định. Nhưng sáng hôm sau,, khi Heppner thảo luận tình hình Hà Nội với tướng Gross thì không có gì có thể quan trọng hơn nữa và toán Mercy được lệnh phải tiến vào Hà Nội ngay khi thời tiết cho phép.
    Mưa vẫn tiếp tục như trút nước. Đường băng bị hỏng và bị ngập sâu, xăng dầu cũng bị tràn bởi nước lũ, độ cao thấp và tầm nhìn xa hạn chế nên không máy bay nào có thể cất cánh được. Nhưng Sainteny vẫn còn ***g lộn lên và chưa mất hết cái thói quen thích hoạt động theo lối cửa sau. Ông không còn phải giữ gìn gì nữa và đã tiết lộ cho tôi biết (điều mà tôi đã nghe từ một nơi khác) là Blanchard đã vào Hải Phòng, đã bắt liên lạc với người Nhật và cũng đã báo cho người Nhật biết là người Pháp sẽ đến trên một chiếc phi cơ của Mỹ và không được bắn vào họ. Theo Sainteny, nói thì như vậy sẽ bảo đảm hoàn toàn an ninh cho chúng tôi khi tới Đông Dương. Nhưng chỉ riêng cái ý muốn giầy xéo lên các mệnh lệnh của Chiến trường của ông ta cũng đã quá lố bịch và không cần phải được thảo luận tới. Đấy là chưa kể đến sự việc Nhật đã không chấp nhận ?oproposition?(3) của Blanchard.
    Chúng tôi vẫn phải đợi ở Côn Minh. Cho đến ngày 21, một số chuyến bay ưu tiên bậc nhất mới được phép cất cánh. Lúc đó người Trung Quốc đã thu xếp với cơ quan liên lạc của Nhật ở Trung Quốc để cho toán của chúng tôi hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai gần Hà Nội, và chúng tôi đã được báo để xuất phát vào sáng ngày 22. Lần này thì không có gì ngăn cản được nữa.
    ---
    (1) ngày 19-8
    (2) Ủy ban trung ương các công chức
    (3) Đề nghị - tiếng Pháp

Chia sẻ trang này