1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tank trong chiến tranh VN

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi laotrugiagia, 08/07/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Một bài viết về tăng thiết giáp QĐNDVN :
    .....
    Tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ xuân 1972, đoàn M26 có hai lực lượng. Lực lượng xe Tăng -Thiết giáp chiến lợi phẩm gồm một đại đội, đó là đại đội C33, tham gia mở màn chiến dịch trên hướng nghi binh, đánh vào cứ điểm Sa Mát (1-4-1972) . Lực lượng Tăng- Thiết giáp của ta từ miền Bắc vào, gồm hai tiểu đoàn, đó là tiểu đoàn D20 và D21 tiến công trên hướng chính của chiến dịch, đánh vào chi khu Lộc Ninh (6-4- 1972) và sau đó phát triển theo quốc lộ 13 xuống An Lộc vào Sài Gòn. Trên hướng chính với chiến thắng Lộc Ninh (6-4-1972) là trận thắng giòn giã, đã được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự tổng kết và đánh giá cao (xem cuốn ?oMột số trận đánh của bộ đội Tăng Thiết giáp Việt Nam?T?T Nxb QĐND - HN 1998) Nhưng với trận Sa Mát thì chưa có một nhà nghiên cứu nào tổng kết, đánh giá, chưa có ai viết về trận đánh này.
    Sa Mát là một cứ điểm đồn trú của quân ngụy Sài Gòn nằm trên lộ 22 cách biên giới Việt Nam chưa đầy 2 km . Cứ điểm này địch bố trí một tiểu đoàn thiếu, có công sự phòng ngự kiên cố. Cứ điểm Sa Mát chỉ cách Chi khu Thiện Ngôn khoảng 5km. Bởi vậy, Sa Mát trở thành cứ điểm án ngữ sự xâm nhập của lực lượng chủ lực ta đối với Chi khu Thiện Ngôn và cả hệ thống phòng ngự dọc lộ 22 bảo vệ tỉnh lỵ Tây Ninh. Đại đội Tăng- Thiết giáp C33 có nhiệm vụ phối thuộc với một bộ phận của Sư đoàn bộ binh số 5 chủ lực Miền đánh vào Sa Mát, mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ. Đây là lần đầu tiên, đại đội C33, đại diện cho lực lượng Tâng -Thiết giáp Nam Bộ xuất xe đánh trận đầu tiên. Đối với đại đội C33 thì trận đánh này có ý nghĩa hết sức quan trọng: ?oLà lần đầu tiên ở mặt trận miền Đông Nam Bộ, ta dùng xe địch đánh địch?. Bởi vậy, cán bộ chiến sĩ đại đội C33 hạ quyết tâm phải: ?oĐánh thắng ngay trận đầu ra quân?.
    Thế nhưng thực trạng của bốn chiếc xe Tăng- Thiết giáp lấy được của địch rất tồi tệ. Chiếc xe tăng M41- 1A đại đội C33 thu được của địch trong trận càn ?oToàn thắng 1-71? khi chúng đánh lên biên giới Cămpuchia (tại Đầm Be), chiếc xe này pháo không có kính ngắn, muốn bắn phải ngắm trực tiếp qua nòng pháo. Chiếc xe tăng M24 thì pháo không có kim hoả, nên không sử dụng được pháo, chỉ sử dụng được súng đại liên 12,7 ly gắn trên nóc xe. Còn chiếc xe tăng M51 thì pháo lại không có khoá nòng, nên chỉ sử dụng được súng 7,62 ly. Chiếc xe bọc thép bánh hơi AM8 thì hỏng lốp. Trong bốn chiếc xe này thì ba chiếc M24, AM8 của Pháp. Chiếc xe M51 của Anh. còn chiếc M41-1A là của Mỹ. Ba chiếc M24, M51, AM8 được chế tạo từ những năm đầu chiến tranh thế giới thứ II, quá cũ kỹ và lạc hậu. Đại đội C33 thu được 3 xe này trong trận càn Chen-La 2 giữa năm 1971. Thông tin liên lạc (đài vô tuyến điện) của 4 xe đều bị hỏng. Riêng tình trạng kỹ thuật máy thì chiếc xe tăng M24 chạy đựợc khoảng hơn 30 phút là máy nóng, nằm ì, phải dừng xe chờ cho máy nguội mới đi được. Thực trạng này là phổ biến với xe chiến lợi phẩm, vì khi tháo chạy, địch đã tìm mọi cách phá xe, để ta có lấy được cũng khó sử dụng .
    Cái khó nữa là cán bộ chiến sĩ ta chưa quen kỹ thuật xe địch. Nhưng không phải khó khăn như vậy mà đại đội C33 chùn bước. Nhận được lệnh chiến đấu, toàn đại đội đã bí mật tổ chức hành quân từ căn cứ Tà Pao xuống Ka Rết dài gần 100km. Từ Ka Rết ?obò? dần về Phum Chi Mon, cách Sa Mát độ 3 km . Đây là cuộc hành quân lịch sử, đưa ?oxe tăng địch đánh địch? trên chặng đường dài gần 150km trong điều kiện kỹ thuật xe rất tệ hại. Đại đội C33 vừa đi vừa phải ?okéo? nhau, vì chiếc xe M24 chạy được một đoạn lại giở chứng nằm ì. Chiếc xe bọc thép bánh lốp AM8 chạy được nửa đường thì lốp bị bục hoàn toàn, gục nghiêng xuống bờ ruộng. Đại đội C33 cho người nguỵ trang và canh giữ xe, còn 3 chiếc vẫn tiếp tục lên đường, trong hoàn cảnh đi đêm, theo đường bí mật, vừa đi vừa nguỵ trang vết xích, cứ vậy nhích dần về điểm ém quân là Phun Chi Mon. Để đảm bảo yếu tố bí mật tuyệt đối , cung cấp xăng dầu kịp thời, đơn vị hậu cần tiếp liệu đã bí mật dùng xe bò chở xăng dầu bằng can nhựa, đi ban đêm, đặt sẵn thành trạm ém chờ, khi xe tới là có xăng dầu bổ sung kịp thời. Sau những đêm bí mật hành quân theo tuyến đường cắt rừng do công binh và trinh sát dẫn lối, đại đội C33 đã ?oém? quân tại vị trí xuất phát cách Sa Mát 3 cây số, địch vẫn không hay biết gì.
    Đến giờ hiệp đồng nổ súng, cả ba chiếc xe của đại đội C33 đồng loạt lao thẳng vào cứ điểm Sa Mát. Cả ba chiếc xe đã tiến công địch với khí thế dũng mãnh, bất ngờ, đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trên xe. Chiếc xe M41-1A không có kính ngắm thì pháo thủ ngắm trực tiếp, bắn bất kể loại đạn nào, dù đạn xuyên hay đạn nổ. Chiếc xe M24 pháo không có kim hoả, không sử dụng được thì bắn bằng đại liên 12,7 ly gắn trên nóc xe và kết hợp gầm rú uy hiếp địch. Chiếc xe M51 pháo không có khoá nòng thì bắn bằng đại liên kẹp nòng 7,62ly. Riêng chiếc xe M51 là loại xe gắn 2 máy nổ, anh em đã nghĩ cách là đạp hết ga cho tiếng nổ thật to, tạo thêm uy lực để uy hiếp địch. Cả ba xe không có thông tin liên lạc thì quy ước: Xe M41 đi đầu lao vào là ba xe cùng lao, áp sát địch uy hiếp. Còn trong từng xe, các thành viên quy ước với nhau như sau: ?oThúc? vào lưng là cho xe ?otiến? , ?ovỗ? vào vai phải là cho xe ?osang phải?, ?ovỗ? vai trái cho xe ?osang trái?, ?ovỗ đỉnh đầu là cho xe ?odừng lại?. Do lối đánh táo bạo và dũng mãnh, đưa sát xe vào mục tiêu trong khoảng cách 70 đến 80 mét để bắn trực tiếp, thực sự đây là lối đánh ?ogiáp lá cà? của đại đội tăng C33, làm cho địch khiếp sợ. Được bộ binh Sư đoàn 5 hợp đồng chặt chẽ, nên quân địch ở cứ điểm Sa Mát chống trả không được bao lâu, nhất là khi xe tăng xuất hiện đã xông thẳng, bắn trực tiếp vào những lô cốt đề kháng. Chỉ huy trưởng cứ điểm Sa Mát vội điện kêu cứu Chi khu Thiện Ngôn là: ?oCó xe tăng *********, xin chỉ thị thượng cấp". Tên chỉ huy trưởng chi khu Thiện Ngôn hạ lệnh cho cấp dưới ?o Có xe tăng ********* thì được thực hiện phương án 2 rút chạy còn không phải vậy thì mai mời ông ra Toà án binh?. Từ đài kỹ thuật của sở chỉ huy trận đánh, ta đã bắt được tín hiệu ấy. Lực lượng bộ binh sư đoàn 5 và đại đội tăng thiết giáp C33 thừa cơ dứt điểm, làm chủ trận địa. Địch sống sót tháo chạy về Chi khu Thiện Ngôn, hoang mang lo sợ và tung tin ?oQuân giải phóng đã có xe tăng, mà lại là xe của Mỹ và Pháp?.
    Trận đánh Sa Mát đã gây tiếng vang lớn, đặc biệt là đại đội C33 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ?oRa quân trận đầu đánh thắng?. Một chiến công độc đáo, đầy sáng tạo của Tăng -Thiết giáp miền Đông Nam Bộ trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trong hoàn cảnh ấy, nếu như thiếu quyết tâm đánh địch và thắng địch, thì những chiếc xe ?onăm cha ba mẹ? kia không làm nên trận Sa Mát táo bạo, độc đáo, với lối đánh ?ogiáp lá cà? chưa từng có trong lịch sử của binh chủng Tăng -Thiết giáp Việt Nam ?olấy xe địch đánh địch?. Chỉ huy trận đánh là đại đội trưởng Nguyễn Đức Thuận. Thành viên của ba xe gồm có 11 đồng chí: Nguyễn Khắc Đồn (Trưởng xe M41-1A) , Nguyễn Văn Quý (Trưởng xe M24), Phạm Thanh Cải (Trưởng xe M51) và 8 thành viên lái xe pháo thủ: Dương Văn Hoè, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Bình, Chu Minh Xuyến, Nguyễn Văn Hé, Phạm Văn Sĩ, Đặng Quang Minh, Nguyễn Văn Tính. Đại đội C33 được tặng thưởng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba.
    Trong trận đánh này, xe M41-1A (có số xe 026 M số xe đầu tiên mang phiên hiệu Đoàn M26) được tặng Bằng khen. Chiếc xe này bị súng chống tăng M 72 của địch bắn thủng vỏ thép mặt vát phía trước, lái xe Chu Minh Xuyến bị thương. Nguyễn Văn Quý (Trưởng xe M24) hy sinh. Toàn đại đội C33 rút về căn cứ an toàn. Riêng chiếc xe M24 bị hư hỏng nặng, không thể khôi phục được trong điều kiện chiến trường lúc đó, nên đơn vị đã huỷ xe trước khi rút khỏi trận địa. Ba chiếc xe chiến lợi phẩm M51 và M24 đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó. Với trận đánh Sa Mát đã chứng minh truyền thống của Tăng -Thiết giáp miền Đông Nam Bộ là đí từ ?okhông đến có, lấy xe địch đánh địch , dũng mãnh tiến công, trận đầu đánh thắng?.
  2. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bài viết về cựu binh lái xe kéo tăng.
    Từ 72 trở về trước, việc thiếu xe kéo tăng là một nguyên nhân lớn dẫn đến việc mất mát khá nhiều xe tăng thiết giáp do bị hỏng phải bỏ lại, cũng như việc thu hồi xe chiến lợi phẩm (theo PV Đoàn Công Tính, ở Nam Lào năm 71 ông đã chứng kiến cảnh 1 đoàn xe M-113 còn nguyên vẹn bị bỏ lại nhưng không có xe đến kéo về, nên sau đó đã bị máy bay phá hủy).
    http://www.dongnai-industry.gov.vn/anhhung/ah_phvancan.html
    (ANH HÙNG PHẠM VĂN CÁN)

    Anh hùng Phạm Văn Cán sinh năm 1952, dân tộc Kinh, quê ở xã Minh Tân, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đảng viên, trung sĩ, chiến sĩ lái xe dắt, đại đội 11, Đoàn 26, Phòng kỹ thuật Bộ Tư lệnh Thiết giáp Miền.
    Tháng 9 năm 1972, Phạm Văn Cán cùng đơn vị hành quân 2.000km vào chiến trường Đông Nam Bộ, anh không ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh, vượt qua bom đạn ác liệt do máy bay địch bắn phá, cứu kéo được 73 lượt chiếc xe tăng, xe thiếp giáp sa lầy, đổ hoặc chết máy trên dọc đường. Từ tháng 5 năm 1973 đến tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Cán làm nhiệm vụ dắt xe tăng, xe thiết giáp trong chiến đấu. Anh đã tham gia 3 chiến dịch, cứu kéo được 40 chiếc xe về tới nơi an toàn. Trong chiến dịch Bến Cát từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1974, trời mưa nhiều, đường lầy lội, địch bắn phá ác liệt, Phạm Văn Cán vẫn bất chấp gian nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Có lần, giữa hỏa lực dày đặc của địch, anh vẫn bình tĩnh lái xe vào sát căn cứ địch (100m), cứu kéo được 1 xe tăng ra ngoài. Ca chiến dịch, anh cứu kéo được 18 chiếc xe tăng về sửa chữa, khôi phục lại, tiếp tục chiến đấu. Trận đánh quận lỵ Chơn Thành (Bình Long) tháng 4 năm 1975, có 2 xe tăng của ta bị hỏng nằm sát trận địa địch, nguy cơ sẽ bị chúng cướp xe hoặc phá hủy, Phạm Văn Cán dũng cảm mở nắp xe, nhô ra ngoài vừa lái vừa quan sát tránh bãi mìn, thà hy sinh chứ không để xe và đồng đội bị thương, anh đã cứu được 2 xe tăng về an toàn, cổ vũ cho đồng đội xông lên tiêu diệt địch.
    Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, được tặng 4 bằng khen và giấy khen. Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Phạm Văn Cán được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


    NGƯỜI CHIẾN SĨ CỨU HỘ TĂNG - THIẾT GIÁP
    MINH YÊN
    Từ điển Từ và ngữ tiếng Việt (Nguyễn Lân) định nghĩa cứu: làm thoát khỏi tai nạn; hộ: giúp đỡ, che chở, cứu hộ là giúp thoát khỏi tai nạn. Cảng Sài Gòn có một, hai tàu cứu hộ cho cả vùng biển phía Nam rộng lớn, từng lái dắt một số tàu biển dân sự sắp đắm về bến an toàn. Nó cũng lập thành tích kéo tàu quân sự ta bị hỏng trong cuộc xung đột ở quần đảo Hoàng Sa (vào đầu những năm 80) về cảng sửa chữa. Song tàu cứu hộ chủ yếu đối mặt sóng to gió lớn, dòng biển chảy xiết... là những khó khăn nguy hiểm do thiên nhiên gây ra.
    Còn lính cứu hộ tăng thiết giáp phải trần thân xông pha giúp xe đồng đội không còn hoạt động được ra khỏi chiến trường tơi bời bom rơi, đạn nổ. Năm 1972, lần đầu tiên xe tăng-thiết giáp ta xung trận ở chiến trường An Lộc (Bình Long). Trước kia địch quen thói lấy sắt thép đè người, năm ấy, ?oquả đấm thép? lợi hại này của ta tung ra gây bao kinh hoàng cho quân đội Sài Gòn. Song có xe ta bị bom pháo hư hỏng bỏ lại trận địa, địch trục kéo về triển lãm tuyên truyền rùm beng thắng lợi của ?oquân đội quốc gia?. Sau đó hơn nửa năm, một xe đặc chủng chuyên cứu hộ xe tăng-thiết giáp hư hỏng trong chiến đấu được phái từ miền Bắc vô. Đó là chiếc tăng T.54 không tháp pháo; chỉ gắn một khẩu trọng liên 12,8 ly để tự vệ, nhưng có thêm thiết bị kích, kéo đặt trên thùng thép (gắn ở vị trí tháp pháo): một cần cẩu xếp gọn, hai cuộn dây cáp dài 150 mét lắp vào cuộn tời có sức kéo 120 tấn; phía sau xe lắp lưỡi ben nâng hạ bằng thủy lực để neo xe khi cần kéo xe khác sa lầy xuống hố... Xe đặc chủng lập chiến công bằng việc cứu kéo đưa xe đồng đội hỏng hóc ra khỏi trận địa rồi dắt về hậu cứ sửa chữa.
    Tháng 5 năm 1971, học xong năm thứ ba khoa Chế tạo máy trường Đại học Bách khoa Hà Nội loại giỏi, Phạm Văn Cán được tuyển vào bộ đội tăng-thiết giáp ở tuổi 21. Có sức khỏe A.1, trình độ văn hóa cao, anh học lái và nắm vững kết cấu máy móc xe tăng khá nhanh tại trường huấn luyện binh chủng đặt ở huyện trung du Tam Dương (Vĩnh Phúc) chân dãy Tam Đảo. Xong khóa đào tạo mấy tháng, đáng lẽ anh đi B ngay, nếu vậy đã có dịp cùng đồng đội tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ xuân 1972 tung hoành trên chiến trường An Lộc (tỉnh Bình Long cũ). Nhưng nước bạn viện trợ hai xe đặc chủng, lãnh đạo binh chủng cử anh và Mạnh ở lại học sử dụng thành thạo mọi thiết bị kích kéo của loại xe này, chuẩn bị phục vụ bộ đội tăng thiết giáp ra quân qui mô lớn ở tiền phương chống Mỹ. Tháng 3 năm 1972, anh cùng đồng đội nhận xe tại Bằng Tường, rồi theo đường bộ vào bảo vệ Khu 4. Đoàn tăng thiết giáp trong đó có hai xe cứu hộ, mới đến khu vực tập kết bãi Nai (Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình), đã bị máy bay địch đánh tới tấp, các chiến sĩ tăng thiết giáp râm ran nghi vấn: gián điệp chui vào hàng ngũ ta? Tâm tư một số anh em trĩu nặng: liệu xe mình có vào đến đích an toàn?
    Tháng 9 năm 1972, xuất phát từ Nam Đàn (Nghệ An), xe Cán được lệnh đi B.3. Đoàn tăng thiết giáp 25A rùng rùng nghiến xích mặt đường đầy khí thế nhưng thận trọng, tiến về phương Nam. Cánh lính trẻ sung sức, tinh thần hăng hái phấn khởi ?ođường ra trận mùa này đẹp lắm?, ?ođời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi?. Các anh vào Quảng Bình rồi lật cánh sang đường 20 ?" Trường Sơn Tây, nhiều người lần đầu đi qua những địa danh hồi đó báo, đài thường nhắc tới: At tô pơ, Hạ Lào... Xe đặc chủng do Mạnh lái đáng lẽ đi B.2 nhưng chạy tới Hạ Lào thì hỏng nặng, phải nằm chờ thiết bị mang vào sửa. Xe Cán vì vậy đi cuối đội hình, xưa gọi là đi đoạn hậu vào thẳng B.2, sẵn sàng sửa, kích, kéo các voi thép nặng hàng chục tấn hỏng máy, sa hố bom... Xe ta không hành quân như phim ảnh chiếu. Mỗi đại đội chừng 10 xe, mỗi xe đi cách nhau cả ki-lô-mét, chứ không nối đuôi nhau lăn xích thành thế đội dài dằng dặc, bụi đường mù mịt bốc cao như xe tăng Hồng quân Liên Xô năm 1943 ra trận vòng cung Kuốcxcơ.
    Để giữ bí mật, tăng thiết giáp ta chỉ chạy ban đêm. Máy bay Mỹ khống chế bầu trời tương đối chặt nên chiến sĩ lái lâu lâu mới bật đèn rùa, còn chủ yếu chạy mò. Ngồi trong xe, Cán thường thò đầu ra ngoài, hoặc căng mắt nhìn đường qua kính ngắm với góc nhìn rất hẹp. Vì vậy, thỉnh thoảng xe húc vào một gốc cây to cỡ hàng ôm, mặt anh đập vào cửa xe, môi sưng vều chảy máu, răng cửa lung lay may mà chưa gãy, di chứng còn lại đến tận bây giờ.
    Nếu có máy bay vận tải hạng nặng chở nổi xe tăng thiết giáp như của Mỹ, binh chủng cơ giới hiện đại này sẽ cơ động rất nhanh. Nhưng chúng ta đành phải bằng lòng với cảnh túc tắc nhích từng vòng xích ra phía trước. Các chiến sĩ tăng thiết giáp được hưởng tiêu chuẩn cao, đến mỗi trạm giao liên trên đường Trường Sơn các anh được cấp phát gạo, thực phẩm, xăng dầu theo đúng chế độ. Không phải mang vác cực nhọc, nhưng các anh liên tục chịu tiếng ồn đinh tai nhức óc, chịu cái nóng như nung, xe chạy sau hứng bụi mù mịt khi qua đất bạn Lào vào mùa khô trên đường Trường Sơn Tây. Đến trạm nghỉ, các anh mới hưởng làn gió thổi trong lành và sự tĩnh lặng đáng quý giúp hồi sức. Lúc còn ở miền Bắc, anh em hàng ngày nghe tin qua đài, đọc nhiều loại báo nên nắm vững thời sự trong nước và quốc tế. Nhưng từ khi đặt chân tới đất Quảng Bình, các anh đói tin thật sự. Lâu lâu đồng chí chính trị viên tiểu đoàn vai đeo chiếc radio bán dẫn Lido lắp 6 pin đại to đùng nặng trĩu ghé đến, các anh mới tranh thủ nghe vài mẩu tin thời sự. Đói tin khổ không thua đói gạo là bao!
    Địch đánh hơi đoàn xe, máy bay chúng săn lùng suốt dọc đường dài. Nhiều lần, xe ta nhờ ánh pháo sáng mà đi, song máy bay C.130 trang bị máy dò hồng ngoại thay phiên nhau đánh dai dẳng cả đêm. Thằng C.130 bắn đại bác 20 và 40mm dai như bò đái! Nhiều xe ô tô bị chúng ?oxin thùng? cháy đen, cong queo đành gạt qua bên đường hoặc ủi xuống vực, giải phóng đường cho các đơn vị khác đi tiếp. Phát hiện máy bay địch tới qua mấy phát súng báo hiệu của anh chị em bảo vệ đường, xe tăng thiết giáp ta tạm rẽ vào đường tránh mang cá, mặt khác đậy nắp thép lại thì ngồi trong vô tư mặc đạn nổ lốp bốp trên nóc. Đoàn 25A bị đánh dữ dội lúc vượt ngầm Bạc, Xêxan, xe Cán may chỉ bị tróc sơn nham nhở. Anh đã tận mắt chứng kiến một số đồng đội trong đoàn xe hy sinh trên đường hành quân do không đóng kịp nắp cửa. Những lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi chút đỉnh, mấy anh em cùng xe bù khú chuyện trò tâm sự, không mấy ai không nhắc đến cha mẹ, anh chị em, quê hương làng xóm thân yêu, những kỷ niệm đời học sinh tươi rói với nỗi nhớ da diết cồn cào. Mắc võng nằm bên nhau, có người nêu câu hỏi:
    ?" Nếu bây giờ cho mày đi bộ quay ngược ra Bắc nhưng phải cõng hai bánh xích xe (nặng 36kg), dám đi không?
    ?" Đi liền!...
    Nhớ nhà và những người thân quá thì anh em nói thế thôi, chớ đơn vị không ai ?oB quay?. Cuối tháng 12 năm 1972, đoàn xe vào tới Kràché (Cam-pu-chia) thì Cán nghe tin máy bay B.52 đánh thủ đô Hà Nội và một số tỉnh thành khác ở miền Bắc. Anh được biết hiệp định Pa-ri lập lại hòa bình ở Việt Nam (27 tháng 1 năm 1973) ký kết, lính Mỹ và chư hầu lần lượt rút hết khi xe về tới km 0 gần biên giới Đông Nam Bộ ?" Cam-pu-chia.
    Suốt chặng hành quân dài 5 tháng, anh cứu kéo, sửa chữa được nhiều xe hỏng hóc. Vì vậy anh được bầu chiến sĩ thi đua, dự hội nghị thi đua binh chủng ở Lộc Ninh. Sau đó các đơn vị tăng thiết giáp B.2... bước vào đợt học tập chính trị, mặt khác tu sửa xe thật kỹ chuẩn bị bước vào đối mặt thật sự với kẻ địch.
    Ở Cam-pu-chia, Lon-non đảo chính Xi-ha-núc từ vài năm trước. Lương thực, thực phẩm, xăng dầu... hoàn toàn do các đoàn hậu cần đảm nhiệm mua từ các cửa khẩu trong nước. Địch phong tỏa chặt, gạo và nhu yếu phẩm mua khó khăn, hậu phương lớn quá xa vì vậy bộ đội ăn uống cực hơn trước suốt thời gian dài. Tiêu chuẩn gạo rút xuống, trong khẩu phần từng bữa thì khoai mì, đậu xanh, đậu phộng... chiếm tỷ lệ đáng kể, gạo độn thêm một ít gọi là. Ăn nhiều đậu phộng, người yếu dạ bị sình bụng rất khó chịu, quân y tốn thêm mớ thuốc. Anh em tranh thủ đi kiếm thêm củ mài, củ chụp cho no bụng, chỉ khi đi chiến đấu, anh em mới được ăn 100% gạo! Lúc đó, số ở lại căn cứ phải rút gạo nữa (vì hậu cần phát định lượng cho đơn vị từng đó ký, anh đi chiến đấu ăn đủ 100% thì tỷ lệ gạo của những ai ở lại sẽ giảm xuống).
    Trên chiến trường B.2, Mỹ, Thiệu ký hiệp định hòa bình Pa-ri chưa ráo mực đã lật lọng. Lính ngụy Sài Gòn rất hung hăng, liên tục lấn chiếm nhiều nơi do chiến trường xen kẽ theo hình thái da beo.
    Cuối năm 1973, chiến dịch Mặt trận 75 khai thông hành lang chiến lược đường 14 ở tỉnh Quảng Đức (Nam Đắc Lắc). Mở được đoạn này, ta nối thông đường Trường Sơn Đông vào tới Lộc Ninh.
    Đêm 2 tháng 11 năm 1973, xe đặc chủng theo tiểu đoàn 21 tăng thiết giáp B.2 từ hậu cứ ở Bù Đốp cắt rừng theo đường do công binh mở, ngược hướng Bắc phối thuộc trung đoàn bộ binh cùng một đơn vị đặc công của trung đoàn 429 đánh yếu khu Bù Bông bảo vệ vòng ngoài chi khu quân sự Kiến Đức và sân bay Nhân Cơ (thuộc tỉnh Đắc Lắc). Xe anh chạy hai đêm, 3 giờ sáng ngày 4 tháng 11 năm 1973 tập kết ở cửa mở gần bìa rừng thông chờ lệnh ứng cứu. Trời tối thui, đêm cao nguyên Mnông đầu mùa khô lạnh tê tái. Chiếc áo len cấp phát mang theo từ miền Bắc mặc chẳng thấm vào đâu.
    Bù Bông là vị trí phòng thủ vòng ngoài rất rắn, do lính ngụy người Mnông giữ. Địa hình toàn vùng có dạng đồi bát úp sườn khá dốc, rừng già um tùm nhưng một số đỉnh đã bị phá quang (bằng máy ủi, bằng bom pháo, bằng hóa chất diệt cây cối...). Một trận địa pháo ở ngọn đồi cao nhất khống chế phạm vi rộng lớn. 4 giờ sáng, bộ đội đặc công nổ súng mở màn trận đánh. Tiểu đoàn tăng thiết giáp triển khai thành hai mũi đánh vu hồi căn cứ. Lần đầu tiên Cán chính thức ra trận. Pháo ta bắn cấp tập dập trận địa địch. Đạn xé gió qua đầu Cán, nổ chát chúa đằng xa. sau ít phút địch hồi tỉnh, pháo của chúng từ đồi pháo binh chúc nòng bắn xuống. Chớp đạn địch nổ nhoáng nhoàng liên tục trước mặt xe đặc chủng một quãng. Anh để ga nhỏ, óc vẫn nhẩm để nhớ mật khẩu quy ước: 01 triển khai. 02 cửa mở..., 07 xuất kích... Tuy đã học trong sa bàn ở căn cứ, nhưng trời tối như bưng mắt, lại không thông thạo địa hình nơi này nên anh chỉ biết xe đang ém ở vị trí A.3. Tới 6 giờ sáng, trời sương lờ mờ, anh nghe tiểu đoàn phó Khuê lệnh qua điện đài: cho xe đặc chủng chạy theo vết xích. Đến một chỗ thì mất dấu, quay ngang xe, qua kính ngắm anh thấy chiếc K.63 cháy cách đó không xa. Cây cối bít bùng chắn mất tầm nhìn cộng với khói mù mịt; xe anh tiến lại gần trong lúc pháo địch vẫn nã không ngớt. Cán bảo pháo thủ trọng liên:
    ?" Mày bắn đi chứ!
    ?" Không thấy gì cả, bắn sao được...
    Chiếc thiết giáp K.63 hành tiến bị hở sườn trúng đạn chống tăng của địch, thủng toác một lỗ lớn, bên trong đang cháy. Khói đen cuồn cuộn bốc lên, mấy chiến sĩ của xe đều hy sinh. Xe đặc chủng vòng lại, một thợ sửa chữa nhảy ra, thò tay qua cửa lái trả lại số 0 ở cần lái chiếc K.63 rồi móc cáp vào. Cán rồ ga, kéo xe hỏng ra bìa rừng.
    Sở chỉ huy lệnh cho xe Cán tiếp tục tiến sâu vào trận địa cứu một xe khác. Xe này trúng đạn phốtpho, không cháy nhưng không ai sống sót. Xe đặc chủng lợi dụng địa hình, nhanh chóng móc cáp kéo xe này ra ven rừng.
    Trời sáng rõ, pháo địch càng bắn dữ, khói bụi mịt mù. Máy bay A.37 tới yểm trợ mới đầu rà sát, bắn tên lửa và đại bác xuống trận địa ta. Súng phòng không ta ở rải rác bắn lên rất mạnh. Khẩu 12,8 ly ở xe Cán cũng góp phần lên tiếng, xua chúng bay tít lên cao.
    Đến gần trưa, anh em bộ binh giải quyết được phần lớn căn cứ Bù Bông, được lệnh tạm ngưng, giạt vào rừng chờ đến tối đánh tiếp. Tiếng súng thưa dần, Cán không thấy xe tăng thiết giáp ta đâu, vẫn cố chạy vào tìm xe hỏng. Một lính thợ sửa chữa trên xe phát hiện có tiếng người lao xao rì rầm ở rừng cây ven suối, hóa ra lính ta đang nấu cơm. Cán xuống xe, hỏi thì được biết đơn vị xe tăng tập kết cách đó 1 ki-lô-mét. Khi cánh bộ binh cho biết đã có lệnh tạm ngưng chiến đấu, Cán tức quá, văng ra một câu:
    ?" Tạm ngưng mà không nói với bố! Máy bay nó bắn chết mẹ bây giờ!...
    Máy bộ đàm trong xe phát sóng liên tục, lời của anh được máy thu vào băng ở sở chỉ huy. Câu văng tục là vạ miệng, sau này bị quy là ?odám chửi cấp trên? (một cán bộ làm chiến lệ ở sở chỉ huy kể lại).
    Đêm 5 tháng 11 bộ đội ta đánh tiếp, xóa sổ căn cứ Bù Bông. Máy bay trực thăng hạng nặng bốc hết số pháo địch trên đồi cao đi nơi khác lúc nào không biết, đặc công diệt hụt bọn này. Nhờ trinh sát dẫn đường, xe đặc chủng mất ba đêm liền mới kéo hết năm xe ta bị hỏng (bốn chiếc K.63, một chiếc T.54) ra nơi an toàn. Cán và đồng đội còn thu bảy xe M.113 của địch. Khi rút chạy bọn lính lao một số xe xuống bưng lầy, kéo lên rất vất vả. Theo yêu cầu của công binh, xe Cán kéo về hai máy ủi cỡ lớn (sau này tham gia phục vụ mở đường cho xe cơ giới ta). Anh em công binh bắn được một con dê của dân chạy lạc ở đồi pháo binh, cho vào gùi chất lên xe ủi. Vào rừng, anh em nấu một song to, chia một phần thịt cho xe Cán. Sau những ngày vất vả, bữa thịt tươi ngon đó giúp anh em tổ xe đặc chủng lấy lại phần nào sức khỏe. Nhưng bữa thịt đó gây ra vạ miệng thứ nhì. Kiểm điểm bình xét thành tích sau chiến dịch, Cán được đề nghị cấp trên thưởng Huân chương Chiến công giải phóng. Không biết do đâu mà chính ủy bộ đội tăng thiết giáp Tám Hải biết được vụ thịt dê.
  3. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Ông cho là anh em phạm kỷ luật chiến trường, ra lệnh ?ocắt? từ huân chương đến danh hiệu thi đua ?ođảng viên 4 tốt?, ?ođoàn viên 4 tốt?... Sau này, Cán gặp trực tiếp thắc mắc, chính ủy hỏi:
    ?" Có ăn không?
    ?" Tôi không bắn, trên cắt thì không hợp lý!
    ?" Có ăn không? ?" ông hỏi gặng lần nữa.
    ?" Có!
    ?" Anh nào ăn thì kỷ luật hết!
    Xe đặc chủng ở lại Bù Bông đến nửa tháng mới giải quyết hết việc cấp trên giao.
    Lính địch là dân địa phương thông thạo địa hình, tổ chức phản kích lấn chiếm lai rai vùng ngã ba Lâm Bí. Bộ binh ta đánh bật chúng khỏi địa bàn để giữ hành lang đường chiến lược số 14, có xe tăng thiết giáp phối thuộc, xe Cán bám theo sẵn sàng ứng cứu. Hai bên ?okéo cưa? dằng dai một thời gian ở vùng ?oda beo? này cho tới sát biên giới Cam-pu-chia.
    Đầu tháng 12 năm 1972 Tiểu đoàn 21 và đại đội 6 (của Tiểu đoàn 20) thiết giáp B.2 phối thuộc trung đoàn bộ binh đánh sân bay Nhân Cơ gần thị xã Gia Nghĩa (tỉnh lỵ tỉnh Quảng Đức).
    7 giờ tối ngày 4 tháng 12 từ khu tập kết Bù Bông khá xa, xe đặc chủng theo công binh dẫn đường, xuyên cánh rừng le tiến vào cửa mở. Le mọc dày đặc xòa ra cà sàn sạt vào thước ngắm khẩu trọng liên 12.8 ly làm trầy tróc lớp mạ.
    Tăng thiết giáp ta tiến công theo hai mũi. Đại đội 6 có khoảng 10 xe đánh từ phía đông tức là hướng Đà Lạt tới. Anh Quận, đại đội trưởng đại đội 6, sau trận đánh kể lại: khi xe tăng ta tới, nhiều vợ con lính Sài Gòn ra ven đường, khoát tay rối rít vẻ nôn nóng chờ đón, tưởng đó là quân tiếp viện của chúng. Một tên nói to:
    ?" Cộng sản vào, nó giết hết bà con tôi rồi! Các ông đi nhanh lên, giết hết tụi nó đi!
    Anh bắn chết tên này, số vợ con thân nhân lính ù té chạy tứ tán.
    Xe đặc chủng đi với mũi Tiểu đoàn 21 tăng thiết giáp (do anh Khuê chỉ huy). Lúc bộ đội đặc công nổ súng, địch bắn pháo sáng, cả bầu trời khu vực trắng lóa, mọi vật nhìn rõ như ban ngày. Vừa từ rừng ra, xe Cán đụng bãi be toàn các khúc gỗ tròn chờ vận chuyển về Sài Gòn chế biến. Cán nghe tiếng nổ lụp bụp trên trời, chớp chớp xanh lét. Tai nghe của máy bộ đàm vang lên lời nhắc nhở từ sở chỉ huy:
    ?" Dùng kính để quan sát, tuyệt đối không thò đầu ra, địch đang bắn pháo chụp! (lần đầu tiên Cán mới biết pháo chụp).
    Qua kính mắt cua có góc nhìn rất hẹp, anh thấy xác địch nằm rải rác. Mặt đất ở đây tương đối bằng phẳng, chè mọc lúp xúp chưa đến thắt lưng. Sở chỉ huy ra lệnh cứu một xe cháy. Anh điện hỏi:
    ?" Xe ta đi hướng nào?
    ?" Xe ta đi hai bên đường, không sợ mìn...
    Qua khu phòng thủ, xe đặc chủng tiến vào tung thâm. Một số phát tên lửa vác vai chống tăng M.72 bay ra thành vệt vàng xanh. Địch cố chống cự, quân vào ta vì đặc công nổ súng thì tăng thiết giáp xông vào ngay, bộ binh chưa kịp thời có mặt hợp đồng. Cán bảo pháo thủ:
    ?" Bắn đi!
    ?" Không nhìn thấy gì!
    ?" Cứ bắn đi! Bắn đại đi! Cốt uy hiếp tinh thần chúng nó!...
    Từ trong xe, Cán thấy một xe K.63 cháy. Xe đặc chủng tiến lại dần, vừa dừng lại, qua ánh đèn dù, Cán nhìn rõ Tiến từ xe đó chạy vọt tới, leo lên nhảy vọt vào trong, giọng gấp gáp thiếu bình tĩnh:
    ?" Nó bắn cháy xe rồi! Anh em hy sinh hết rồi!
    Cán báo cáo tình hình qua máy bộ đàm. Sở chỉ huy lệnh cho kéo ra. Xe đặc chủng rê gần, móc cáp kéo chiếc K.63 ra rìa bãi gỗ sát bìa rừng.
    Thêm một chiếc T.54 bị bắn đứt xích. Xe Cán quay vào móc cáp vào xe và móc sợi cáp thứ nhì vào bộ xích đứt. Kéo xe đứt xích rất khó, bên không còn xích, dàn bánh đỡ lún sâu xuống, bụng xe cà trịt mặt đất, lực ma sát cực lớn. Bình thường, chỉ cần vài phút đã giải quyết xong, nhưng Cán phải đánh vật với chiếc T.54 này mấy giờ liền mới đưa ra được ven rừng. Một số chiến sĩ bộ binh hy sinh, Cán và anh em đưa lên thùng xe mang ra, đúng chính sách và kỷ luật chiến trường.
    Chỉ trong đêm nay, ta dứt điểm Nhân Cơ vì ở đây địch phòng thủ yếu hơn Bù Bông. Ta mất hai xe, Xe đặc chủng rút vào rừng kéo theo xe hỏng để sửa tạm. Chiếc T.54 không có xích dự trữ, thiếu một số mắt xích hỏng vì trúng đạn. Cán và đồng đội sáng tạo: chỉ gắn xích vào ba bánh đỡ (đáng lẽ đủ thì xích gắn trên năm bánh). Giáo trình đã học không cho phép làm như vậy: xe sẽ đi lệch, hai bên lún không đều nhau... Nhưng cứ đúng bài bản thì chỉ có cách vứt xe đi, mà chúng ta thì đang rất thiếu quả đấm thép.
    Ở vùng này, ta và địch còn cù cưa một vài trận chống lấn chiếm cho đến hết năm 1973. Hoàn thành nhiệm vụ cứu hộ, xe đặc chủng rút về hậu cứ tu sửa tiếp, rồi Cán và đồng đội bước vào đợt học chính trị.
    Khoảng tháng 5 năm 1974, đầu mùa mưa, Tiểu đoàn 22 tăng thiết giáp B.2 (mới từ miền Bắc vào) phối thuộc Sư đoàn 9 mở chiến dịch lộ 7 ngang ở khu vực Bến Cát ?" Rạch Bắp. Trung ương Cục và Quân ủy Miền chủ trương phá vỡ tuyến phòng ngự trung gian, kìm chân lính chủ lực ngụy tại Sài Gòn, ngăn chặn ý đồ địch đưa quân bình định vùng ven Sài Gòn và lấn chiếm Lộc Ninh ?" vùng giải phóng của ta.
    Xe đặc chủng đi cùng đơn vị tăng thiết giáp. Từ căn cứ Bù Đốp, đoàn xe theo đường do công binh cắt rừng mở, đi hai đêm thì tới căn cứ Minh Hòa. Đây là vùng rừng chồi lúp xúp. Củng cố đội hình trong thời gian rất ngắn, đoàn voi thép ta xung trận, đánh đồn An Điền. Các chiến sĩ tăng thiết giáp lúc nghiên cứu sa bàn được thông báo: đây là một vị trí phòng thủ rắn, mìn đủ loại gài dày đặc, pháo từ Đồng Dù, Bến Cát, Lai Khê, Phú Hòa Đông... sẵn sàng chi viện hỏa lực. Đồn này ở ấp cùng tên, có bốn khu với con đường chạy ra bốn cổng.
    8 giờ tối, bộ đội đặc công nổ súng mở màn trận đánh. Công binh đã gỡ mìn tạo lối đi an toàn cho tăng thiết giáp thọc vào theo hai mũi sau khi pháo ta bắn chế áp. Xe đặc chủng nằm chờ ở cửa mở. Pháo địch từ nhiều hướng bắn cấp tập về đây. Tiếng nổ dồn dập làm đinh tai nhức óc, chiến dịch Mặt trận 75 so với lần này không là gì cả. Sở chỉ huy lệnh cho xe đặc chủng vào cứu xe hỏng. Trinh sát leo lên chỉ hướng cho xe chạy, tới hướng đó xong nhiệm vụ, nhảy xuống quay ra. Cỏ Mỹ mọc cao ngang vai. Qua ánh sáng lửa đạn lờ mờ, xe đặc chủng chạy đúng vết xích tiến sát chiếc xe hỏng. Cán nhảy xuống đất, quan sát nắm tình hình. Hóa ra công binh gỡ mìn tạo vệt đường đi an toàn cho xe tăng, song mìn lại bỏ ngay sang bên, xe ta đi chệch, đè trúng mìn, mìn nổ nên đứt xích, nằm đó. Anh em từ trong xe nhảy ra lại đạp trúng số mìn râu tôm để rìa đường, thương vong một số. Y sĩ, y tá đến cứu đạp trúng mìn nữa, thương vong hai, ba đợt liền. Xe đặc chủng móc cáp, rồ ga nhưng không kéo được vì bánh đỡ xích lún sâu có độ ma sát quá lớn. Cán và đồng đội đành giải quyết khiêng 13 thương binh liệt sĩ lên thùng xe chở ra ngoài.
    Ở hướng khác, một xe tăng ta cũng bị mìn như vậy. Trời gần sáng, tiếng súng các loại thưa dần. Xe đặc chủng được lệnh vào cứu kéo. Ấp An Điền có hai cổng vào, hai cổng ra nhưng Cán không thể hình dung địa hình ấp. Suốt đêm pháo hai bên dập tơi bời, cảnh vật thay đổi hẳn: hai cổng vào và nhiều nhà cửa lúp xúp trong ấp đã bị san bằng. Theo kế hoạch, công binh ta đánh một khối thuốc nổ rất lớn, cắt con đường vào cầu băng ngang sông Thị Tính để xe tăng thiết giáp địch không rút chạy được về Bến Cát. Gần 6 giờ, trời sáng dần, Cán điện về sở chỉ huy:
    ?" Chưa thấy ấp đâu, không thấy cổng...
    ?" Cứ tới đi! Cứ tới đi theo trinh sát dẫn đường.
    Một lính trinh sát trèo lên xe, dẫn tới cổng thì nhảy xuống:
    ?" Ông chạy thẳng vào đường này!
    Máy bay trực thăng vũ trang địch quần dữ dội. Cán thúc pháo thủ của xe:
    ?" Thắm bắn đi! Bắn đi, không bắn nó bắn mình chết bây giờ!
    Anh thò hẳn đầu ra khỏi xe, tăng hết ga. Chớp xanh lét nhay nháy bay dọc sườn xe. Địch bắn M.72 và BK.106 ly định diệt xe đặc chủng. Anh điện xin pháo binh chi viện. Ngồi trong xe không nghe tiếng pháo ta bắn. Bỗng nhiên xe khựng lại. Đề máy. không nổ! Một mùi khét lẹt xông lên, đèn báo cháy nhấp nháy liên tục.
    ?" Chết mẹ rồi, cháy xe!
    Khói tuôn mù mịt. Cán nhấn nút xả hơi chống cháy vào nơi khói bốc ra. Pháo địch từ Bến Cát, Lai Khê... nã dồn dập vào trận địa. Anh tụt đầu vào trong, đậy cửa thép lại. Pháo chụp nổ lụp bụp, nhảy ra khỏi xe dễ dính mảnh lắm (khi chở tử sĩ ra, Cán phải dùng kềm mới nhổ được mảnh pháo chụp có ngạnh đâm sâu tới xương một anh!). Anh bình tĩnh dùng bình khí nén để khởi động thử. Máy lại nổ, mừng quá trời!
    Nhìn ra xa qua kính mắt cua, anh thấy xe ta sa gần hết thân xuống hố bộc phá của công binh đêm rồi. Anh thấy một lính ta ngoắc tay, vừa dừng xe thì anh này nhảy bổ vào. Xe đặc chủng quay ngang xả cáp, một lính thợ nhảy ra móc tời. Mảnh đạn va vào vỏ thép chan chát; chụp nắm trọng liên 12,8 ly bay đi mất, thùng xe nham nhở, thùng dầu ngoài xe bị thủng (lúc về nơi an toàn, xem kỹ mới thấy xe đặc chủng bị thủng một lỗ đạn sâu hoắm, nếu vết đó nhích lên cao một chút thì Cán ?ohúp cháo? rồi!). Xe đặc chủng hạ lưới ben thủy lực căm xuống lớp đất tơi vụn, rồi tăng ga hết cỡ mới lôi được xe hỏng lên khỏi hố, quay vòng lại dắt xe hỏng ra ngoài.
    Đến đêm, nhờ trinh sát dẫn đường, công binh gỡ sạch mìn, Cán và đồng đội vào nghiên cứu cách kích kéo chiếc xe đứt xích. Trời mưa, đất nhão, xe bị lún, phải thử đất và tính toán kỹ. Dưới làn đạn bắn thẳng và pháo các loại không ngớt, anh em kích đội xe lên, lắp xích vào mới kéo ra được. Ban chỉ huy chiến dịch đánh giá tổ cán bộ, chiến sĩ xe đặc chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cán được thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.
    Là đối tượng Đảng đã lâu, nay Đảng bộ Phòng kỹ thuật Cục Hậu cần B.2 gửi hồ sơ lý lịch Cán xuống để Đảng bộ Tiểu đoàn 22 kết nạp. Anh được vinh dự đứng trong đội ngũ tiên phong của giai cấp và dân tộc ngày 6 tháng 6 năm 1974. Anh rất vui:
    ?" Thế là chỉ riêng gia đình mình đủ lập một chi bộ!
    (Cha anh là đảng viên thời chống Pháp, chị đi bộ đội trước và được kếp nạp Đảng khi anh chưa đi B.
    Chiến dịch lộ 7 ngang kéo dằng dai khoảng mấy tháng, tới gần cuối mùa mưa mới kết thúc. Xe tăng thiết giáp ta nếu không ra trận thì về nằm ụ đào âm xuống đất. Bộ binh làm hầm, pháo khoan nã trúng sát thương khá nhiều.
    Ăn Tết 1975 xong, Cán và đồng đội học chính trị bốn ngày. Sau đó bộ đội ta bước vào Chiến dịch mùa khô 1974 ?" 1975. Tháng ba năm 1975 bộ đội khu Đông Nam Bộ đánh chi khu Dầu Tiếng. Xe đặc chủng đi phối thuộc tiểu đoàn tăng thiết giáp 20 có đại đội 6 Tiểu đoàn 22 tăng cường. Đây là một trong các vị trí địch phòng thủ vững chắc hơn vùng Nam Tây Nguyên rất nhiều, hơn cả đồn An Điền. Tăng thiết giáp ta đánh hướng chính, đêm đầu vào khá sâu nhưng chưa diệt được chi khu phải lui ra. Đêm sau, xe ta vào theo hướng cũ thì không hiểu địch tháo nước từ đâu làm một vùng rộng lớn ngập nước mênh mông, không tiến được. Hướng thứ yếu dù không có quả đấm đàn voi thép hỗ trợ vẫn nổ súng, nhưng không thành công đành rút ra. Đại đội 6 của Tiểu đoàn 22 bị thiệt hại nặng, một số xe cháy hỏng nằm lại. Đêm thứ ba, tăng thiết giáp ta vào theo hướng thứ yếu cũ. Ban chỉ huy lênh qua điện đài cho xe đặc chủng kéo ra năm xe trúng đạn hỏng máy. Pháo 175 ly ?" vua chiến trường ?" bắn rất dữ. Ba xe hỏng nằm ở đầu sân bay Dầu Tiếng kéo ra tương đối ít nguy hiểm mất gần trọn đêm.
    Đêm thứ tư, xe đặc chủng vào cứu kéo tiếp. Đạn bắn thẳng các cỡ của địch dày đặc. Cán và đồng đội kiểm tra 2 xe còn lại. Một xe bị trúng đạn BK.106,7 ly tạt sườn cháy toàn bộ, chiến sĩ bên trong da thịt chín thui, bắt đầu bốc mùi. Cán gọi điện yêu cầu pháo ta bắn chế áp địch rồi nhảy ra khỏi xe, chạy tới thò tay qua cửa lính lái, gài về số 0. Xe đặc chủng quay áp sát che chắn để thợ máy móc cáp vào xe hỏng chỉ nửa phút rồi rú ga, vọt ra ngay. Chiếc xe cuối cùng trúng bom laser, tháp pháo lún hẳn xuống, bụng xe thụng trịt sát đất, kéo ra khá nặng và mất nhiều thời giờ.
    Giải phóng chi khu Dầu Tiếng, ta thu năm xe địch, trong đó có chiếc xe M.48 chiến lợi phẩm đầu tiên ở hướng Truông Mít. Xe này lọt hố bom, xe đặc chủng kéo lên không nổi; đất hố bom tơi vụn, xích xe không có độ bám cứ trượt hoài. Cán và đồng đội lấy bạt trùm kín xe M.48, công binh giúp xúc đất phủ một lớp ngụy trang. Ban chỉ huy điều một số cán bộ chiến sĩ đại đội 33 đã học về xe địch. Các anh xúm lại tìm hiểu chức năng từng công tắc, từng búi dây điện giữa ban ngày... rồi đề máy. Máy xe khởi động, xe đặc chủng vào, móc cáp và tời trục kéo chiếc M.48 ngoan ngoãn ra khỏi hố bom, sau đó tham gia đội hình chiến đấu của đơn vị.
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Đầu tháng 4 năm 1975 bộ đội tăng thiết giáp toàn B.2 chia hai cánh: một cánh đánh Xuân Lộc, một cách đánh Chơn Thành. Xe đặc chủng đi với cánh sau.
    (Sau ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam, Cán có dịp đi khảo sát thực địa nhiều địa điểm chiến đấu cũ, thấy Chơn Thành là vị trí kiên cố lợi hại bậc nhất. Bên ngoài là hào, kế đến lớp bờ bao cao gần 2 mét đắp đất dày che chắn, xe tăng thiết giáp và pháo địch núp sau bờ ao có thể hạ nòng bắn ngang ra ngoài. Chốt pháo binh đặt ở trung tâm vị trí).
    Khi tăng thiết giáp ta xông vào chi khu Chơn Thành, mật độ đạn pháo địch đủ loại dày đặc chưa từng thấy. Ba chiếc bị hỏng. Xe đặc chủng vào, thấy một chiếc đang cháy đỏ, không thể kéo được. Sở chỉ huy lệnh cho Cán lấy ra bằng được chiếc thứ nhì. Pháo ta bắn cấp tập mấy phút dập đầu địch xuống xe để xe đặc chủng vào kéo ra. Cán cho xe chạy một đoạn lại dừng. Pháo sáng trên bầu trời không dứt, soi rõ mọi vật. Trinh sát chỉ:
    ?" Xe nằm kia kìa!
    Cán ra khỏi xe, xác định đường đi cốt tránh hố bom, pháo chi chít. Sở chỉ huy thông báo:
    ?" Bộ binh địch áp sát rất gần! Cẩn thận, chú ý địch gài mìn trong xe!...
    Theo vệt xích, Cán bò lại, leo lên lan can, thò đèn pin qua cửa lái soi bên trong, trả lại số 0. Các chiến sĩ trong xe đều hy sinh (sau này anh mới biết có một chiến sĩ tên Thật kịp thoát ra ngoài, chạy lạc hướng bị bọn biệt động quân ngụy tóm gọn, anh gặp Thật ở trại tù binh Cần Thơ). Anh chỉ sợ địch bắn tỉa. Quay trở lại, anh tăng ga, cua xe đụng ?okịch? xe hỏng, phân công thợ sửa móc cáp rồi rú ga chạy ra ngoài luôn. Khi trở vào kéo chiếc thứ ba thì xe đặc chủng cháy . Đạn địch bắn trúng thùng còn một ít dầu, dầu cháy theo lỗ thủng chảy vào trong, bốc cháy tiếp ở sàn xe. Cán bị bỏng ở cạnh sườn, lái xe đặc chủng ra ngoài, nhanh chóng xử lý chống cháy; lửa vừa tắt lại vào dắt xe kia ra. Kết thúc trận đánh, anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất. Anh đi quân y chữa chạy hơn chục ngày thì lành vết thương.
    Lãnh đạo binh chủng tăng thiết giáp B.2 bố trí anh không lái xe đặc chủng nữa, cử một chiến sĩ khác về thay. Anh được sung vào Ban đảm bảo kỹ thuật sửa chữa của Miền, đi cùng cánh hướng Tây trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Anh đi theo đoàn xe tăng thiết giáp qua sông Vàm Cỏ, xuống Đức Hòa, Đức Huệ, Hóc Môn, Ngã tư Bảy Hiền, vào tới Sài Gòn lúc 12 giờ 30 phút trưa 30 tháng 4 năm 1975.
    Thiếu úy Phạm Văn Cán trực tiếp chiến đấu ở chiến trường B.2 khoảng một năm rưỡi, cứu kéo khoảng 20 xe của ta thu được hàng chục tăng thiết giáp của địch trong mưa bom bão đạn. Chiến công anh lập được có phần đóng góp xương máu của nhiều đồng đội: trinh sát dẫn đường tiếp cận, công binh gỡ sạch mìn, cán bộ cấp trên chỉ huy đúng... Anh viết bản thành tích mà không quên vô số gương mặt đồng chí đồng đội. Bản nháp xé đi viết lại nhiều lần, mất đứt cuốn tập 100 trang. May mắn không bị thương tích nặng, cuộc chiến ác liệt cuốn hút anh cũng như vô số người khác vào vòng xoáy của nó, giúp anh trưởng thành dần.
    Ngày 12 tháng 1 năm 1976, anh được Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu cao quý ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN. Trong buổi lễ trang nghiêm này, Cán nhìn lá cờ Tổ quốc đỏ thắm rực rỡ thấy thấp thoáng những gương mặt thân quen của mấy bạn cùng khóa tăng thiết giáp Tam Dương vừa ngã xuống ở Chơn Thành, Dầu Tiếng... mấy tháng trước. Họ như còn giơ bàn tay vẫy anh, chúc anh đi tiếp đoạn đường mà họ còn bỏ dở. Chiến công của anh thật nhỏ bé so với sự hy sinh của họ.
    M.Y
  5. boy_tia_lia

    boy_tia_lia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    1
    Lữ Doàn 3 Kỵ Binh là đơn vị Thiết Giáp nồng cốt và là đơn vị khung của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn IIo Lực lượng này do Đại Tướng Đỗ Cao Trí thành lập giao cho tôi tổ chức huấn luyện và chỉ huy từ tháng 11/1970 để phục vụ chiến trường Campuchia.
    Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III là một lực lượng liên binh gồm nhiều binh chủng hợp đồng chiến đấu trên chiến trường, lúc cao điểm quân số và khả năng tác chiến của nó tương đương với một Sư Đoàn cơ giới. Đây là một lực lượng cơ động cao, hỏa lực mạnh, trừ bị xung kích Quân Đoàn III, khi thì can thiệp vào khu vực hành quân của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, khi thì tác chiến trong khu vực hành quân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Trong Vùng III Chiến Thuật, chỗ nào "nặng" là có mặt Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III. Thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí là Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Tư Lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, nó là lực lượng chủ lực Quân Đoàn, luôn luôn chủ động và thường xuyên hoạt động trên chiến trường ngoại biên Campuchia.
    Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III đã từng quần thảo nhiều với các Sư Đoàn cộng sản Bắc Việt còn gọi là Công Trường CT-5, CT-7 và CT-9 ở Peang Cheang, Chup, Chlong, Đambe, Krek, Snoul, Đức Huệ, An Điền, Rạch Bắp.
    Nó cứu Chiến Đoàn 5 Biệt Động Quân của Đại Tá Đương ở Chlong và Đambe tháng 2/3-71 khi rút ra QL-7. Nó tiếp cứu Chiến Đoàn 8/SĐ5BB ở Snoul rút về Lộc Ninh tháng 6-71. Nó giải vây và cứu Tiểu Đoàn 30 BĐQ của Thiếu Tá Võ Mộng Thùy ở căn cứ Alpha trên mặt trận Krek tháng 11-71.
    Cuối năm 1971 tôi rời LĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III. Trong hai năm 1972-1973 tôi du học. Không bao lâu, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III phân tán và giải thể LĐ3KB đồng thời giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III. Khi trận An Lộc- Bình Long bùng nổ dữ dội mùa Hè 1972, lực lượng Thiết Giáp QĐ III hoàn toàn bị tê liệt.
    Khi tôi trở về nước, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Trung Tướng Nguyễn Văn Minh yêu cầu tôi trở về lại LĐ3KB. Ngày 7-11-1973 tôi nhận Lữ Đoàn và đề nghị với Tướng Thuần tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III theo mô hình tổ chức của Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Ông cho tôi toàn quyền hành động. Tôi gom Thiết Giáp lại. Bấy giờ mình đã có chiến xa M-48. Tôi thay đổi tổ chức, mỗi Chi Đội 3 chiến xa M-48, nó nhẹ nhàng, linh hoạt và hữu hiệu hơn 1 Chi Đội 5 chiến xa. Mỗi Chi Đoàn 11 chiến xa M-48 giờ đây có 4 Chi Đoàn chiến xa 44 chiếc và 3 xe chỉ huy = 47 chiếc. Một Thiết Đoàn chiến xa M-48 tổ chức theo Mỹ có 54 chiếc, vì vậy tôi có dư ra 7 chiến xa M-48 làm dự trữ. Tôi cơ động hóa TĐ61 PB 105/Quân Đoàn III bằng cách dùng xe xích M-548 (xe chở nặng đạn thiết giáp) cho quân cụ biến cải chở đại bác 105 ly của Pháo Binh đồng thời huấn luyện pháo thủ cách vận chuyển và hạ súng tác xạ. Được tăng phái Liên Đoàn 33 BĐQ, Tiểu Đoàn 46 PB 155, Tiểu Đoàn 61 PB PB 105 và Tiểu Đoàn 302 CB, tôi tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III thành 3 Chiến Đoàn Thiết Giáp: Chiến Đoàn 315, Chiến Đoàn 318 và Chiến Đoàn 322. Các Chiến Đoàn đều có tổ chức giống nhau. Mỗi Chiến Đoàn có: 2 Chi Đoàn Thiết Kỵ M-113, 1 Chi Đoàn Chiến Xa M-48, 1 Tiểu Đoàn BĐQ, 1 Pháo Đội 105 ly cơ động trên xe M-548 và 1 Trung Đội Công Binh. BDH/LĐ 33 BĐQ, Đội Trinh Sát/LĐ33, PĐ 105/LĐ 33, TĐ 46 PB 155, TĐ 302 CB(-) Chiến Đoàn Chiến Xa M-48/TH.Đ 22 và ĐĐ Yểm Trợ Tiếp Vận/ BCH3TV.
    Sau khi kiện toàn tổ chức, huấn luyện chiến đấu hợp đồng binh chủng, học tập chính trị và tuyên truyền giáo dục tư tưởng, tôi báo cáo lên Tư Lệnh Quân Đoàn III là chúng tôi đã sẵn sàng.
    Ngày 2-4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III lại xuất quân, bất thần tiến vào vùng liên ranh Củ Chi-Trảng Bàng, đánh giải tỏa áp lực địch chung quanh đồn Bò Cạp ở Bắc Củ Chi và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng. Chiến Đoàn 315 đập tan TĐ Tây Sơn thuộc Trung Đoàn 101 địa phương. Cuối tháng 4-1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III đánh bại hoàn toàn Sư Đoàn 5 Cộng Sản BV, giải vây cứu TĐ 83 BĐQ Biên Phòng ở Căn Cứ Đức Huệ. Nó yểm trợ Sư Đoàn 5 BB phản công chiếm lại An Điền, Căn Cứ 82 và Rạch Bắp tháng 7/8-74. Nó giải tỏa áp lực địch ở phía Bắc Bình Dương, tiêu diệt BCH/TĐ Phú Lợi tháng 2-75. Nó gỉai tỏa áp lực ở Gò Dầu Hạ, Dầu Tiếng, Khiêm Hạnh tháng 3-75 để yểm trợ SĐ 25 BB tấn công lên phía Bắc Tây Ninh. Và đặc biệt từ ngày 11-4-75 đến ngày 25-4-75, trong 14 ngày đêm nó chận đứng mũi tấn công của 1 Quân Đoàn Cộng Sản BV ở Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây và đánh giải vây tiếp cứu Chiến Đoàn 52/SĐ 18 BB rút về Long Bình-Biên Hòa.
  6. boy_tia_lia

    boy_tia_lia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    1
    Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III Trong 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam
    Tình hình vào hạ tuần tháng 4-75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng, tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8/SĐ5BB do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến Đoàn 52/SĐ18BB của Đại Tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. ?" Sài Gòn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Hòa đóng cửa. Ngày 20-4-75 SĐ18BB của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21-4-75, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Timmes, Phụ Tá Đại Sứ Martin ở Sài Gòn, đại ý nói: "Thưa Trung Tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các Sư Đoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không. Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ Quốc Hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho Quân Lực chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đình tôi được di tản đến một nơi an toàn..."
    Sau khi SĐ18BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25-4-75 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom-Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III được rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Đoàn 9/SĐ5BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân Đoàn.
    Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25-4-75, có tin lực lượng địch chiến trường Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến Đoàn 322 tăng cường 1 Tiểu Đoàn TQLC do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Long Thành-Trường Thiết Giáp. Chiến Đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao tranh dữ dội với chúng đến khuya bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức lòng toàn dân ở Biên Hòa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III hứa sẽ thưởng 1.200.000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100.000 đồng.
    Ngày 29-4-75 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III ngoài Liên Đoàn 33 BĐQ, được tăng phái thêm: Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù(- Tiểu Đoàn) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu Đoàn 46 PB 155 và Tiểu Đoàn 61 PB 106 Quân Đoàn.
    12 giờ trưa ngày 29-4-75, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SĐ18BB ở Long Bình. Chỉ có Toàn, Đảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SĐ19BB của Đảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực lượng ĐPQ và NQ của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SĐ25BB ở Củ Chi đã bị địch chiếm, SĐ25BB đã bị đánh tan và Tướng Lý Tòng Bá đã bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn. Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Đại Tá Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43/SĐ18BB với giọng rung rung xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bôm và Trung Đoàn 43 BB đang rút quân về hướng Long Bình, mặt Đảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Hòa ở Trảng Bôm của SĐ18BB khó có thể cầm cự nổi vì SĐ18BB đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: "Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh." Xoay qua tôi, anh nói tiếp: Còn số tiền thưởng 1.200.000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ Đoàn." Đấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân Đoàn III.
    Về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III, tôi liền họp các Lữ Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Trưởng và các Đơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Hòa đã bỏ trốn từ mấy ngày trước. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29-4-75, chỉ thị cho các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xã Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III như sau:
    - Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc BTL/Quân Đoàn III.
    - Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: 1 Tiểu Đoàn bảo vệ BTL/Quân Đoàn III, Lữ Đoàn(-1 Tiểu Đoàn) bố trí phòng thủ mặt Nam BTL/Quân Đoàn III.
    - Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều Tiểu Đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới Biên Hòa, giữ Cầu Sắt Biên Hòa và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Hòa.
    - Chiến Đoàn 315: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến ngã Tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng).
    - Chiến Đoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa (trừ bị 1).
    - Chiến Đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa (trừ bị 2).
    - Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.
    - BTLLĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III: Đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn III.
  7. boy_tia_lia

    boy_tia_lia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    1
    Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn, thì thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cơ pilot vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lãm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa.
    Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân Biệt Động Quân của Chiến Đoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến phòng thủ.
    Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Sài Gòn. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách gì liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Sài Gòn. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không?
    Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: "Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?" "Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xã Biên Hòa, Đảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Hòa." 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp" "Đại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai, để Đại Tướng nói chuyện với bên kia được không?" Tôi trả lời không do dự "Được, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai." Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: "Lệnh của Đại Tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30-4-75. Chúc anh thành công." Tôi đáp nhận.
    Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung Đoàn từ Ngã Ba Hố Nai - Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch rút lui.
    Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: "Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm." Tôi liền hỏi: "Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì tôi không?" Đảo đáp: "Tôi hiện ở gần nghĩa trang Quân Đội, đang rút đi về hướng Thủ Đức." Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Đảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, vì Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SĐ18BB của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng "điên cuồng" nhất.
    Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Hòa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến Đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến Đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh.
    Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30-4-75, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Trưởng và các Đơn Vị Trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trong thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngoài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hãm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SĐ18BB rã ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm vì sợ có tình trạng gây mất tinh thần rã ngũ giây truyền như đã xảy ra ở miền Trung trước đây.
    Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30-4-75, tôi kết luận buổi họp: "Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài Gòn. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III về tiếp cứu Sài Gòn." Tất cả các Đơn Vị Trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.
    Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III tiến về Sài Gòn theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Hòa-Sài Gòn và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.
    a) Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.
    b) Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
    c) Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh + Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND và TQLC rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Câu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Sài Gòn theo thứ tự như sau:
    - Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy: Đi trước, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh.
    - Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Đi sau CĐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí sau CĐ 315, chờ lệnh.
    - Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy: Đi sau cùng, đến Sài Gòn, bố trí sau BTL và Đơn Vị Yểm Trợ, chờ lệnh.
    Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30-4-75.
    Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu Tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài Gòn. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với Sài Gòn, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì đột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: "Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi." Tôi liền hỏi lại: "Còn anh thì sao?" "Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con còn ở Biên Hòạ" "Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi."
    Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân cộng sản BV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 bò vô Sài Gòn. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phủ Đổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân Đoàn III. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung Úy mang huy hiệu Quân Đoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Đô báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Sài Gòn để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima.
    Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTĐ và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.
    Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Đội và Tổ Quốc
  8. boy_tia_lia

    boy_tia_lia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    1
    Trong tập NTÐKTTQS 2003, hầu như tất cả độc giả ai cũng để ý đến hai trận đánh dữ dội và thần kỳ của Thiết Kỵ tại khu nghĩa địa thành phố Kontum giữa tháng 4/1972, trận đánh chiến xa M41 thần kỳ trên đỉnh Chu Pao cuối tháng 4/1972, và trận đánh này được giới Thiết Kỵ các nơi coi là có một không hai trong quân sử Thiết Giáp thế giới. Lý do là không có trường thiết giáp nào của cả khối cộng lẫn khối Tây phương huấn luyện đánh chiến xa trên đỉnh núi.
    Trong trận Chi Ðoàn 1/8 M41 Thiết Kỵ leo núi nhổ chốt Chu Pao (NTDKTTQS 2003 trang 174 đến 183), anh bạn sĩ quan Thiết Kỵ của tôi (LÐL) nói ông Ðại Tá Lý Tòng Bá thời đó đã "ban một cái lệnh quái đản", nhưng nếu không có "cái lệnh quái đản" này thì mấy cái chốt oan nghiệt của VC trên đỉnh Chu Pao khó mà bứng đi được...
    - "Ðại Tá Lý Tòng Bá bóp trán, ông xoay người nhìn khắp núi rừng, nhìn lên đỉnh Chu Pao; bỗng mặt ông nghiêm lại khi nhìn qua tôi (Chi Đoàn Trưởng Lê Quang Vinh), và như một thứ lệnh bất ngờ từ trên trời, vị tư lệnh Sư Ðoàn nói như đinh đóng: Toàn thể gia đình Tài Lực 1/8 phải nhổ xong chốt Chu Pao nội trong ngày hôm nay! Không cần đợi phi pháo!
    Tôi choáng váng, bất ngờ:
    - Thưa Ðại Tá Tư Lệnh! Nhổ bằng cách nào?
    - Cho chiến xa leo lên đỉnh Chu Pao! Chi Đoàn sẽ sử dụng con đường mòn xe be kéo gỗ khi xưa để tiến lên đỉnh núi. Con đường không sử dụng đã lâu đó nay đã ngập cây rừng, nhưng chiến xa có thể càn qua được. Ðịch không thể ngờ ta dùng con đường này. Anh cho anh em thám sát ngay và hành động gấp cho tôi!
    Sau khi nhận lệnh, tôi đờ người ra, đầu óc xoay tròn những ý nghĩ không có đáp số..." (Trích NTÐKTTQS 2003, trang 177)
    Thế nhưng, Chi Đoàn Chiến Xa 1/8 đã có đáp số: Thiết kỵ đã đánh một trận thần sầu nhổ chốt cộng sản trên đỉnh Chu Pao mà chưa có một đơn vị thiết kỵ nào trên thế giới làm được.
    Trong tập Những Trận Ðánh Không Tên Trong Quân Sử 2006, cũng Chi Ðoàn Chiến Xa 1/8 trước đó, tháng 1/1971 đã được lệnh tiến qua Nam Lào theo đường 9, sâu tận đất Lào, đến căn cứ Bravo để làm nút chậm yểm trợ các cuộc lui quân của quân bạn ra khỏi Nam Lào, chận cuộc tiến quân của chiến xa và bộ binh địch truy đuổi quân bạn. Và cuối cùng, khi chiến xa và bộ binh địch xuất hiện thì Chi Đoàn Chiến Xa 1/8 một thân một mình, không pháo binh, không bộ binh, không phi cơ, mất liên lạc với Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn... đã đánh trả cản đường chiến xa và bộ binh địch trong những tình hướng vô cùng nghiệt ngã bằng tất cả sự can đảm, trí thông minh và những gì có trong tầm tay.
    Trong quân sử, dường như không có một trận đánh nào mà Thiết Kỵ phải đánh một mình, trên trời không có ai, dưới đất không có ai. Chi Đoàn vừa chiến đấu vừa di chuyển từ căn cứ Bravo về căn cứ Alpha, vừa đánh trả những cuộc phục kích, bao vây dưới những trận mưa pháo kinh người của địch. Thoát về gần căn cứ Alpha, Chi Ðoàn và một quân số nhỏ (khoảng một Trung Ðội Dù vừa được tăng phái) đã bị địch vây đánh biển người cấp Trung Ðoàn ở ba ngọn đồi trên đất Lào cách căn cứ Alpha vài cây số. Chi Ðoàn đã đánh trả ác liệt gây tổn thất vô cùng nặng nề cho Bắc quân. Xác và vũ khí địch la liệt trên mấy sườn đồi khi Chi Đoàn 1/8 rời trận địa đoạn hậu cho cuộc lui binh khỏi Nam Lào.
    Trên đường về Khe Sanh, vừa qua khỏi nhà tù Lao Bảo, Chi Ðoàn1/8 lại bị vây bủa bởi mưa pháo và bộ binh địch, rồi lại một mình phản kích, tấn công đánh trả để đưa Chi Ðoàn và quân bạn về được Khe Sanh. Người ta không thể tưởng tượng nỗi Chi Ðoàn 1/8 Chiến Xa đã hoàn tất nhiệm vụ của mình trong một tình huống gần như cô đơn, tuyệt vọng như vậy.
    ... "Ðoàn xe do Chi Ðoàn 1/8 dẫn đầu tiếp tục di chuyển sau phát đại bác cứu bồ quân bạn. Các chiến xa Hoa Kỳ nằm dọc dài theo trục lộ, mỗi xe cách 200 mét giữ an ninh cho đoạn đường về tới Khe Sanh.
    Chiều xuống dần. Vinh cảm thấy màn đêm hôm nay khác màn đêm mấy hôm trước, niềm vui đã tái sinh, bóng dáng tử thần cũng biến đi đâu mất, dù Khe Sanh vẫn chưa là nơi an toàn khỏi tầm pháo địch. Khi Chi đội 1 đầu tiên tiến vào Khe Sanh được lệnh bố trí ở vườn cà phê phía Nam con lộ, lần lượt sau đó là các chi đội.
    Anh em hậu trạm túa ra nhìn đoàn xe trở về. Vinh còn ngồi trên xe chỉ huy vừa ngừng, anh thấy gương mặt quen thuộc của Thượng Sĩ Nguyễn Văn Tam, Hạ Sĩ Quan tiếp liệu hành quân của Chi Đoàn, 2 tay bưng nồi cơm đứng bên đường, mắt dán vào đoàn xe dưới ánh đèn mờ của căn cứ. Chợt thấy dấu hiệu bên hông xe Chỉ Huy M113 của Chi Đoàn 1/8, anh ném nồi cơm xuống đất, nhào ra xe và bật khóc. Vinh ngạc nhiên nhảy khỏi xe:
    - Thượng Sĩ Tam! Có việc gì mà anh khóc vậy?
    - Alpha! Chúng tôi nghe tin cả Chi Đoàn mình bị địch đánh tan ở căn cứ Alpha, toàn bộ anh em bị hy sinh hết ráo, chúng tôi đau lòng không muốn trở về nữa. Bây giờ thấy Chi Đoàn trở về, tôi mừng quá nên khóc!?." (NTÐKTTQS 2006 trang 214)
    Sức chiến đấu và sự sống còn của Chi Ðoàn 1/8 Chiến Xa trong trận Nam Lào có một cái gì vô cùng kỳ diệu, và nó là một trong nhưng niềm hãnh diện của Thiết Kỵ nói riêng và QLVNCH nói chung. Ðọc bài Chi Ðoàn 1/8 Chiến Xa và đường vào Nam Lào oan nghiệt (NTÐKTTQS trang 192 - 216)
    Trong bài "Chi Đoàn 2/20 Chiến Xa M48 và TQLC Tái Chiếm Căn Cứ Phượng Hoàng" của tác giả Trần Thúc Vũ (NTÐKT 2006/trang 217) có một đoạn trong phụ trang (trang 339/ NTÐKTTQS 2006), anh Trung Chĩnh, bác sĩ của TÐ6TQLC có mặt tại trận địa Phượng Hoàng đã kể (và Hải Triều viết tiếp)...
    - "Khuya 8/4/1972, Tiểu Đoàn Trưởng TÐ6/ TQLC, Thiếu tá Ðỗ Hữu Tùng, bố trí 2 đại đội trong căn cứ và 2 đại đội nằm ngoài căn cứ. Khuya 8/4 hôm đó, Bắc quân pháo dữ dội rồi ồ ạt tấn công bằng cả chiến xa lẫn bộ binh vào căn cứ Phượng Hoàng. Biển người và chiến xa địch, vừa dứt pháo là tràn vào căn cứ như nước vỡ bờ với hỏa lực mạnh của chiến xa và bộ binh tùng thiết.
    Lần đầu tiên anh em TQLC đụng chiến xa địch và quân số địch đông gấp bội, các đơn vị TQLC phải rút khỏi Phượng Hoàng. Ðịch chiếm căn cứ Phượng Hoàng trong đêm đó. Và ngay hừng sáng hôm sau, ngày 9/4, chiến xa địch khai hỏa truy kích TQLC trên đường thoát khỏi lưới lửa địch. Lúc đó, Chi đoàn 2/20 M48 do Ðại úy Hà Mai Khuê trên đường tiến về Phượng Hoàng, gặp TQLC trên đường lui quân. Chiến xa M48 phối hợp cùng TQLC do Thiếu tá Ðỗ Hữu Tùng chỉ huy và cả Bác sĩ Trung Chĩnh lên chiến xa quay trở lại Phượng Hoàng. Khi chiến xa M48 tiến vô Phượng Hoàng với TQLC tùng thiết, thì các chiến xa địch đuổi theo TQLC quay lui trở lại căn cứ mà họ đã tấn công và chiếm khi họ bất ngờ gặp chiến xa M48 của Chi đoàn 2/20.
    Ðến lượt M48 và TQLC bao vây địch trở lại. Cuộc ác chiến diễn ra giữa bộ binh địch và TQLC, đấu đại bác giữa M48 và các loại T54, T59 của địch. M48 là loại chiến xa lớn nhất của Thiết Kỵ QLVNCH có khả năng cơ động, bắn nhanh và chính xác và đã nhanh chóng bắn cháy nhiều chiến xa địch. Cùng lúc đó là những phi tuần khu trục của Không Quân, Cobra võ trang lâm trận oanh kích bộ binh và chiến xa địch. Hàng loạt tank địch bị TQLC và M48 bắn cháy cả bên trong lẫn bên ngoài căn cứ Phượng Hoàng, đó là chưa kể 3 chiếc thoát thân về hướng Ba Lòng bị các khu trục của Không Quân bắn hạ. Một chiếc tank địch bị bắt sống ngay trên căn cứ Phượng Hoàng..." (Trong trận này, Ðại Úy phi công Trần Thế Vinh đã hy sinh...)
  9. vaxiliep

    vaxiliep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/03/2006
    Bài viết:
    1.180
    Đã được thích:
    2
    Nếu nói về trang bị xe tăng của 2 bên có lẽ các bác đều rõ cả rồi nhỉ, và chuyện gần như cũng không có gì nhiều để nói. Tuy nhiên em quan tâm đến vấn đề trang bị của đối phương nằm trong tay phía bên kia, vì theo em biết lính thiết giáp Mỹ(lính Mỹ các binh chủng nói chung) có quy định khi rời bỏ xe(hoặc vũ khí, khí tài) thì phải huỷ phương tiện bằng lựu đạn phốt-pho có sẵn hoặc gọi máy bay đến huỷ. Vì thế hiếm khi ta thu được xe pháo từ Mỹ. Bên ta có quy định thế không nhỉ?.Bác nào có số liệu thống kê về M41, M48, M113... phục vụ trong đội hình MTDTGPMN hoặc T54, PT76 hay K63...trong đội hình phía bên kia thì bót lên cho anh em nghiên cứu cái nhể.
  10. boy_tia_lia

    boy_tia_lia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2005
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    1
    Theo mình biết thì VNCH chưa bao giờ sử dụng xe tăng tịch thu của Bắc Việt trong đội hình , tịch thu về rồi chưng bày chơi trong cái bộ tư lệnh của các binh chủng hoặc đem về cho các trung tâm huấn luyện để cho binh lính mổ xẻ thôi , chứ không có đem ra tác chiến

Chia sẻ trang này