1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TẬP 35: CHIM CỨ BAY, **** CỨ LƯỢN, CHÚNG TA VẪN CỨ XÌ-PAM! (TẶNG B và Z)

Chủ đề trong 'Album' bởi plzzz_luv_me, 21/10/2005.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Too

    Too Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/01/2005
    Bài viết:
    1.438
    Đã được thích:
    0
    .................... anh vẫn bồ kết bài này đấy!
    tối nay "chia đôi" lần nữa nhé!
  2. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
    Đê ê ê ê ê ê ê ê ê
  3. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
    Ô kia`
  4. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
    Lấp ló cái zì thế Đạp vỡ alô zờ
  5. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
    :-j oh go on [​IMG]
  6. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0

    Mưa rơi
    úh huuu
    Nhìn mưa rơi bên hiên ngỡ như lời hát dấu yêu ban đầu
    Ngày hôm qua vẫn buớc chân quen giờ vội xa ta như giấc mơ
    Từng hạt mưa cho lòng ai nhớ ai ngập ngừng
    Rồi thời gian trôi dần trôi tiếng yêu ngại ngùng
    Nói chi khi lòng biết yêu ai rồi giọt mưa giờ hoen ướt mi
    Thầm ước sao như làn mây bay về
    Chốn xa xôi cùng ai mãi mãi
    Tiếng ca hôm nào vẫn quanh đây sẽ ko fai mờ
    Yêu thương dại khờ những ước mơ
    Thầm ước sao như hạt mưa fiêu dạt
    Và sẽ thôi ko buồn lo - cô đơn - trống vắng
    Lúc bên nhau ngày đó trong mưa bước chân ai vội
    Trao nhau nụ cười
    Yêu sao khi trời mưa rơi
    Đâu đay vẫn nỗi nhớ trong em
    Hình bóng dẫu xa muôn trùng
    Dù bàn chân ai đã khuất trong mưa
    Một người tìm theo nụ hôn lãng quên (hỡi anh)
    Từng hạt mưa cho lòng ai nhớ ai ngập ngừng
    Rồi thời gian trôi dần trôi tiếng yêu ngại ngùng
    Nói chi khi lòng biết yêu ai rồi giọt mưa giờ hoen ướtttt mi
    Thầm ước sao như làn mây bay về
    Chốn xa xôi cùng ai mãi mãi
    Tiếng ca hôm nào vẫn quanh đây sẽ ko fai mờ
    Yêu thương dại khờ những ước mơ
    Thầm ước sao như hạt mưa fiêu dạt
    Và sẽ thôi ko buồn lo -cô đơn - trống vắng
    Lúc bên nhau ngày đó trong mưa bước chân ai vội
    Cho nhau nụ cười
    Bên nhau ko rời
    Còn mãi tiếng nói ấm ấp nhớ nhung ngại ngùng còn lại gì khi anh đi và mãi mãi xa rời ngày xưa
    Còn đó nỗi nhớ fút ấy sẽ mang nụ cười theo gió mưa
    Từng hạt mưa cho lòng ai nhớ ai ngập ngừng
    Rồi thời gian trôi dần trôi tiếng yêu ngại ngùng
    Nói chi khi lòng biết yêu ai rồi giọt mưa giờ hoen ướt mi
    Này hỡi anh dấu yêu
    Thầm ước sao như làn mây bay về
    Chốn xa xôi cùng ai mãi mãi
    Tiếng ca hôm nào vẫn quanh đây sẽ ko fai mờ
    Yêu thương dại khờ những ước mơ
    Thầm ước sao như hạt mưa fiêu dạt
    Và sẽ thôi ko buồn lo - cô đơn - trống vắng
    Lúc bên nhau ngày đó trong mưa bước chân ai vội
    Cho nhau nụ cười
    Bên nhau ko rời
    Cho nhau nụ cười
    Yêu dấu khi trời mưa rơi
    ......................................................

  7. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
    Cơn gió bỏ hoang

    Tôi là người kém tự tin, dù trông cao to khỏe mạnh. Với chiều cao một mét bảy mươi tám, hai bàn tay và cả hai cánh tay nữa nổi đầy gân guốc, dấu tích của một thời niên thiếu phải lăn lộn chốn ruộng rẫy.

    Hồi còn ở quê, nhà tôi cách khá xa trường học. Ba tôi mua lại mảnh đất của người bà con, lập một rẫy nhỏ trên núi, trồng đủ thứ, mỗi giống cây một ít và thường là trồng theo mùa. Đất núi khô cằn, cần tưới tắm mỗi ngày hai bận mà ba tôi sức khỏe có hạn, nên ngoài giờ học ở trường, tôi hay lên rẫy phụ ba.

    Cái chòi trên rẫy của cha con tôi bé lắm, bé đến nỗi chỉ có ba và tôi ở thôi mà cũng chật. Vì nó nằm giữa lưng chừng núi, nên ba tôi dùng gỗ ghép lại đóng theo kiểu nhà sàn. Xa khu dân cư, nên chòi không có điện, chỉ có ánh đèn dầu leo lét về đêm, mà cũng chỉ có mỗi khi tôi cần ánh sáng để học bài. Ba tôi cùng hai người thợ đào một cái giếng nước sâu hoắm, muốn tưới cây phải oằn người xách nước lên. Nước mạch ngọt trong, uống vào mát thanh cả cuống họng. Thường buổi trưa đi học về, tôi ghé nhà ăn cơm, xong lên rẫy với ba. Tôi gắn bó với ba vì một điều gì đó rất đặc biệt, không phải là tình thương yêu phụ tử thông thường, mà dường như vì trách nhiệm của những người đàn ông đang cùng gánh vác trách nhiệm trụ cột trong gia đình. Hai cha con ít khi trò chuyện, dù có ở với nhau cả ngày.

    Ngày nào cũng như ngày nấy dễ khiến người ta đâm chán nản cuộc sống đơn điệu, nhưng hình như ba tôi thì không. Có lẽ ba tôi muốn gắn chặt cuộc đời với cái rẫy này. Mà từ hồi có nó, gia đình tôi cũng chẳng khá hơn là bao so với khi ba còn làm nghề thợ mộc. Chỉ có cực hơn thì có. Chẳng lẽ rồi tôi cũng sẽ như ba tôi, làm một ông chủ rẫy ở cái nơi ít người qua lại, sống ở cái chòi không điện đóm, không ai để chuyện trò chia sẻ? Ba thì thích nhưng tôi thì không. Tôi chẳng chối bỏ trách nhiệm của thằng con trai lớn với gia đình, nhưng tôi sẽ tìm cách khác. Có những buổi trưa tưới nước xong, hai bàn tay cứng lại vì xách nặng, tôi vừa nhìn những trái thanh long đỏ đu đưa vừa nghĩ ngợi xa xôi.

    Tôi đậu đại học trong khát khao thoát khỏi căn chòi gỗ như thế. Đó quả là một việc phi thường so với một đứa chỉ học hành làng nhàng, lại làm việc suốt ngày như tôi. Có lẽ tôi không cần kể những niềm vui lẫn nỗi lo âu của ba má tôi làm gì, bởi những đứa có gia cảnh như tôi đâu có ít và tâm lý vừa mừng con học hành đỗ đạt vừa lo lắng vì tiền học phí, ăn ở cho một nơi xa xôi... ai chả giống ai.

    Tôi vào ở ký túc xá. Nơi đây cách khá xa trung tâm, qua lại chỉ toàn sinh viên. Tôi ngủ trên giường tầng, lẩm cẩm nghĩ ngợi, là liên tưởng đến căn chòi của ba. Học đại học xem vậy mà không khó như tôi tưởng, không bị thầy cô dò bài và làm kiểm tra thường xuyên. Đi học, tính ra tôi sướng hơn hồi ở nhà nhiều, chỉ thương cho ba tôi bây giờ phải làm gấp đôi. Trước khi lên đường, tôi rụt rè gợi ý: "Hay là ba bán lại rẫy, làm tiếp nghề mộc". "Mày tưởng dễ lắm hay sao, bây giờ mấy ai cần thợ mộc nữa, gỗ đắt, người ta chỉ dùng mạt cưa, ván ép thôi". Má tôi len lén nhìn ba một cái rồi quay đi thật nhanh.

    Những ngày đi học rồi thì không nói, còn lại những ngày thứ bảy, chủ nhật thật tôi chẳng biết phải làm gì. Trong phòng, mạnh thằng nào thằng nấy đi chơi chỉ còn mình tôi chẳng biết đi đâu chơi, cũng chẳng có chỗ nào để kiếm việc làm, vì ở đây là làng đại học, toàn sinh viên cả. Cà phê cà pháo thì nghĩ tội cho ba má và mấy đứa em đã chắt chiu từng đồng gửi cho đâu phải để tôi rành rẽ mấy chốn đó. Còn lên thư viện để tán gái như thằng Hiệp thì quả tình tôi không có duyên ăn nói. Như đã nói, tôi rất kém tự tin, cả tuổi mười sáu mười bảy cắm cúi với cái rẫy, nên tôi chỉ rành việc chặt cây, tưới nước chứ đứng trước con gái là lóng ngóng, vụng về vô cùng. Có một bữa, vô tình thấy một cô (chắc cũng là dân mới nhập học như tôi) ngồi ở ghế đá mà hai hàng nước mắt chảy dài, tôi muốn chạy lại hỏi han nhưng không dám. Tôi sợ. Hình như đàn là con gái sống trong một thế giới khác, những thằng ngây ngô như tôi có đọc sách tâm lý cả đời cũng đừng hòng hiểu được. Đến như ba tôi, sống với má tôi gần ba mươi năm mà rồi cũng đành lắc đầu để lên rẫy cất chòi ở nữa là.

    Một trưa thứ bảy phòng vắng hoe, tôi leo qua giường thằng Toàn mở cái radio, thì có tiếng gõ cửa.

    - Bạn tìm ai?

    - Em cho chị hỏi Toàn có nhà không?

    Tôi đứng trước cửa, đối diện với cô gái. Cô cao hơn một mét rưỡi, nghĩa là thấp hơn tôi gần ba tấc, lại nhỏ người nên nhìn bé như thân cây thanh long. Trán cô lấm tấm mồ hôi, chắc là mới đi xa tới. Bộ tôi con nít lắm sao mà gọi bằng em?

    - Sao nhìn hoài mà không trả lời gì vậy nhóc?

    "Nhóc" ư? Tôi càng thấy ngộ. Cô mỉm cười, nụ cười thật hiền và hồn nhiên.

    - Nó lên thành phố thăm chị gái. Bạn có nhắn gì không?

    - Ôi trời!

    Cô gái khẽ kêu lên, môi dưới dẩu ra một tí, hai khóe miệng kéo ra hai bên, kiểu như vừa cười vừa giận.

    - Chị là Ngọc, chị Hai của nó nè!

    Hèn gì nãy giờ chị gọi tôi là em. Tôi dịch người qua một bên:

    - Chị vào chơi, có khi lên đó không gặp chị, nó về ngay đó.

    Mắt chị đảo một vòng nghịch ngợm:

    -Vào được không? Nãy chị vào đó, bảo vệ cấm nữ vào dãy nam mà.

    Tôi cười.

    - Nhóc hiền ghê ha, chị vào nghỉ một lát, nghe!

    Thật ra chị mới là cô nhóc, chứ tôi mà nhóc gì. Tôi tắt cái máy hát của thằng Toàn, hơi mắc cỡ vì nãy giờ mình nghe ké. Rồi tôi lại leo lên giường mình, lóng ngóng chẳng biết làm gì, đành giả vờ xếp dọn sách vở.

    - Thứ bảy mà em không đi đâu chơi sao?

    Tiếng ?oem? dù sao nghe cũng đỡ ?onhí" hơn tiếng "nhóc", tôi bẽn lẽn cười:

    - Dạ không.

    - Ở nhà một mình có buồn không?

    - Dạ không, em quen rồi.

    Chị nhìn mấy cái nồi con con, hỏi:

    - Phòng em có người nấu ăn à?

    - Dạ.

    Tôi thầm mong chị đừng hỏi là ai nấu. Tôi rất xấu hổ mỗi khi đi chợ mà gặp bọn con gái trong lớp, tôi mắc cỡ với những bọc ni lông toòng teng đựng thịt cá rau quả. May quá, chị vơ lấy tờ báo trên giường thằng Toàn, đọc mấy dòng rồi nằm xuống ngủ. Chị ngủ tự nhiên cứ như ở nhà. Bỗng tôi hổ thẹn vì mình đã ngắm chị hơi lâu. Tôi kéo ghế ra ban công ngồi. Phía dưới là khoảng sân bóng chuyền nắng chang chang, nhìn nhức cả mắt. Ở quê không biết có nắng nhiều vầy không. Càng nắng, giếng càng sâu, càng phải nối dài gàu kéo nước...

    Gió từ đâu thổi lại, quét một làn hơi mát rượi lên mặt tôi. Dựa đầu vào tường, đầu óc tôi trở nên lơ mơ, rồi thiếp đi. Khi tôi lò dò bước vào phòng, chị vẫn nằm ngủ ngon lành, tờ báo đọc dở dang hất qua một bên, nắng rọi qua ô cửa xiên xiên chiếu vào mặt chị. Chắc chị mệt lắm do phải đi xa thăm em. Thằng Toàn sướng thật. Hồi ở nhà, chiều nào má cũng mang cà mèng cơm lên cho ba và tôi, rồi nhấn nại ngồi ở cửa chòi đợi chúng tôi ăn xong để mang về. Má chưa bao giờ vào chòi nằm nghỉ, cũng ít khi nói với chúng tôi câu nào.

    - Chị hư quá phải không? Lúc nào chị cũng dễ ngủ như vậy đó. Chị làm phiền em quá, thôi chị về đây, hết nắng rồi, nói với thằng Toàn là chị Ngọc xuống nha.

    Chị cười, cái mũi hỉnh nhăn nhăn lại. "À quên nữa, có nho nè, em cứ tự nhiên, ăn đi cho mau lớn", chị lôi từ giỏ xách ra bịch trái cây, tôi chưa kịp dạ thưa đã thấy chị nhanh tay ăn trước. Chị lúc nào cũng liến thoắng, thật khác xa vẻ im lặng chịu đựng của má và mấy đứa em gái tôi. Giọng chị trong veo như nước múc lên từ giếng nhà tôi.

    Chị đi rồi, để lại mình tôi. Tôi bỗng nhớ những buổi trưa ngồi bó gối trên cái chòi cô đơn cheo leo giữa núi, chợt những ngọn gió xa xôi từ nơi nào thổi tới, muốn khóc mà nước mắt không chảy ra được. Tôi hoảng sợ bởi những ý nghĩ mông lung về cuộc đời mình, tôi vừa thương đến đứt ruột, vừa ghét cay ghét đắng căn chòi gỗ nhỏ của tôi. Tôi thích thú nhìn cây trái trĩu cành, nhìn rau mơn mởn, nhìn những giây phút ba nở nụ cười hiếm hoi, nụ cười khắc sâu những vết nhăn trên gương mặt khắc khổ. Ba hái trái, cắt rau cho má gánh ra chợ bán. Những khi xong việc, nằm đong đưa trên võng tôi có cảm tưởng cuộc đời mình cũng đang chòng chành như nhịp võng. Treo trên vách là những chiếc áo của ba, có những vết rách được má vá lại rất khéo bằng những đường chỉ mỏng manh. Những đường chỉ mảnh cũng buồn và cố giấu mình như cuộc đời của ba tôi vậy. Tôi sợ, sợ rồi sau này mình cũng giống ba...

    Cả học kỳ tôi gặp chị Ngọc được mấy lần. Quả là ít ỏi nhưng mỗi khi được nhìn nụ cười với môi dưới khẽ bĩu ra của chị, tôi sung sướng như thể nó được dành riêng cho tôi vậy. Chị Ngọc lớn hơn tôi năm tuổi, đã đi làm và... có chồng sắp cưới. Tôi thơ thẩn suốt mấy ngày khi nghe thằng Toàn vô tình kể về người yêu của chị nó. Mặc, thằng con trai nào chẳng chọn cho mình một bóng dáng ai đó để cất vào tim. Chị cũng như ngọn gió bay qua trước căn chòi gỗ của tôi, vuốt mát tóc tai tôi nhưng tôi không thể giữ lại cho riêng mình. Chị Ngọc không biết gì đâu, thỉnh thoảng chị hồn nhiên nhéo vào má tôi, dặn: "Toàn nó ham chơi lắm, em cùng phòng có gì nhắc nhở nó giùm chị nghe". Những lúc ấy tai tôi đỏ nhừ và nóng ran lên.

    Má biên thư, tờ giấy nhàu vương đầy nước mắt. "Ba sắp bỏ mấy má con mình rồi, con ơi!" Thư ngắn, vỏn vẹn một dòng mà thảng thốt như một tiếng kêu đau đớn. Tôi không bất ngờ vì từ lâu đã có dự cảm không hay về tình nghĩa vợ chồng giữa ba má tôi. Mất ba, mất nguồn hoa lợi từ cái rẫy trên núi, má và các em tôi rồi sẽ ra sao. Chưa bao giờ tôi thấy gắn bó với cái rẫy nghèo nàn thấy nó cần cho gia đình tôi đến thế. Vơ vội mấy bộ quần áo, tôi nhảy xe về nhà. Tôi biết má và các em cần tôi, dù chưa chắc tôi đã giải quyết được việc gì.

    Nhà vắng. Tôi chạy vội lên rẫy. Mấy đôi dép nữ để ngoài cửa chòi. Thật lạ vì trước giờ má có bao giờ đặt chân vào đấy đâu? Đúng là ba sắp rời bỏ mấy má con tôi, nhưng không phải vì cạn nghĩa, mà bao năm lao lực sắp dẫn ba đến một nơi khác an nhàn hơn. Ba mới được chuyển từ bệnh viện về sau cái lắc đầu bất lực của bác sĩ. Ba đòi lên rẫy lần cuối cùng. Qua những câu than tức tưởi của má, tôi mới biết được sự thật, vì sao ba bỏ má để lên ở cái chòi này. Tôi thôi không thầm oán trách ba nữa. Ba cũng chỉ là một con người, không có đủ lòng rộng lượng của một vị thánh để thứ tha cho lỗi lầm của má. Má tôi không trong sáng và tội nghiệp như tôi nghĩ, nhưng giờ đây những điều đó có ý nghĩa gì đâu.

    Gần như cả cuộc đời sống bên ba, chẳng mấy khi má được nghe một câu nói ngọt ngào, dịu dàng. Hỏi má làm vợ, ba cũng chỉ nói mỗi một câu: "Về với tui, tui lo cho". Ngày tháng trôi qua bên người đàn ông "dùi đục chấm mắm cáy", những ước ao thời thiếu nữ của má như bị chết dần mòn. Rồi má nhẹ dạ nghe theo những lời mật ngọt. Ba biết, chỉ gằn đúng một câu: "Thêm một lần, tôi bỏ". Nhưng người đàn ông đó lại tới, hắn biết rõ má tôi thiếu thứ gì, và cần sự âu yếm dịu dàng ra sao. Ba lên rẫy ở hẳn từ đó. Má tỉnh ngộ, lúc ấy, má mới biết dùi đục mắm cáy còn quý gấp trăm lần mật ngọt miệng lưỡi kẻ sở khanh. "Muộn quá. Bây giờ thì muộn quá rồi đúng không ông? Giá như ông trời cho tôi cơ hội...". Má cứ kể lể khóc than, dù ba vẫn còn sống. Má cứ nói, không hề ngượng ngùng với mấy đứa con. Cứ nói dồn dập như xưng tội, như thể không kể hết ra bây giờ thì sẽ không còn kịp, không còn dịp nào để trút lòng mình ra nữa. Ba tôi khép mắt, giọt nước mắt nhỏ xíu men theo những nếp nhăn trên gò má đen sạm, chảy xuống môi.

    Bây giờ tôi mới thấy tôi giống ba đến kỳ lạ, tôi cũng chưa bao giờ nói cho ba hay rằng tôi thương ba, rằng chúng tôi cần ba biết chừng nào. Chúng tôi là một gia đình, nhưng mỗi người lại đơn độc trong thế giới riêng bé nhỏ không ai chịu mở lòng ra cho người khác biết mình. Có lẽ chúng tôi cũng hiểu nhau, nhưng hiểu người và cứ câm lặng mãi, để rồi ai cũng cô đơn. Má mệt mỏi suốt thời gian chung sống với ba, còn mấy đứa con lại mệt mỏi khi chứng kiến tình vợ chồng nhợt nhạt của ba má. Chúng tôi thấy hết nhưng rồi không làm gì cả, cứ để mọi thứ trôi đi, trôi đi trước mắt mình.

    Tôi bỏ học, bỏ thi để thay ba làm rẫy. Kỳ diệu thay, ba tôi ngày càng hồng hào trở lại nhờ những thang thuốc nam mà má nhờ một ông thầy lang xa xôi kê đơn. Ngày ba tự bước chân ra khỏi căn chòi gỗ, cả nhà ai nấy cười như điên, vui gấp ngàn lần niềm vui ăn tết. Ba đã khỏe nhưng không được làm việc nặng, má phải làm rẫy thay ba. Má bàn với ba trồng thêm hoa để bán, nhìn má háo hức trông trẻ lại biết bao nhiêu. Tôi khăn gói vào thành phố tiếp tục việc học hành.

    Tôi chậm lại một học kỳ so với bạn cùng khóa. Có chậm hơn nữa tôi cũng sẵn sàng chấp nhận. Tôi ít khép mình hơn lúc trước, hòa đồng với mọi người hơn. Có lẽ việc ba bị bệnh lại là một điều may, căn bệnh nguy kịch đó đã kéo mọi thành viên trong gia đình tôi xích lại gần nhau, kéo mỗi người ra khỏi bốn bức tường tự xây kiên cố của cuộc đời mình. Chị Ngọc thỉnh thoảng vẫn đến thăm thằng Toàn, đôi lần đi chung với chồng sắp cưới. Nhìn đôi mắt chị đắm đuối nhìn anh ấy, tôi ghen. Tôi quyết định sẽ thổ lộ với chị, rằng chị là cơn gió mát của đời tôi. Dù chị gật đầu hay từ chối thì nói ra vẫn hơn. Nói ra còn có chút hy vọng, chứ không nói thì tôi sẽ nặng lòng suốt đời. Chẳng phải vì ai cũng im lặng, nên ba má tôi phải sống trong một quãng đời dài đau khổ đó sao? Chúng tôi đã làm đau nhau bằng sự im lặng. Giả sử ba "đi" đột ngột, chúng tôi sẽ phải hối hận trọn đời. Con người thật là kỳ cục, cứ muốn người khác phải nhìn rõ tâm can mình, chơi trò cút bắt và đánh đố. Nói thẳng ra là cách đơn giản nhất và dễ nhất. Lỡ rồi đây tôi có mệnh hệ nào, nói đại, biết đâu... Trong phút giây liều mạng tôi đã nghĩ thế...

    - Chị Ngọc, em yêu chị.

    Thật ra, để nói cho được mấy chữ này cũng không dễ như tôi nghĩ. Nhưng dù sao giây phút nghẹt thở ấy cũng đã qua. Chị Ngọc tinh nghịch cười.

    - Sao em không nói sớm, nói ngay từ hồi mới gặp nhau thì bây giờ mình đã yêu nhau được gần năm rồi, đúng không?

    Không thể ngờ phản ứng của chị Ngọc như vậy, tôi đứng trân trân nhìn chị. Nghĩa là chị cũng đã để ý tôi sao?

    Chị lại cười:

    - Không ngờ nhìn nhóc hiền mà cũng chịu giỡn ghê ta. May hôm nay là l tháng 4, chứ nếu em đùa ngày khác chị đã tưởng thiệt rồi - chị bẹo má tôi - chị về đây, ráng học nghe nhóc, kỳ vừa rồi em phải bỏ khá nhiều môn đấy! - Chị vơ lấy cái giỏ xách, bước chân đi vội vàng hơn mọi bận. Trước khi ra khỏi phòng, chị hơi dừng lại, nhìn tôi một cái thật nhanh.

    Tôi sượng sùng không nói ra lời. Mà nhiều khi vậy là may cho tôi. Tôi ít hơn chị năm tuổi, đang còn đi học, quê ở một nơi xa tít mù... Đời nào chị nhận lời yêu tôi. Hơn nữa, ngày cưới của chị đã được ấn định rồi. Tôi đăm đăm nhìn khoảng sân bóng chuyền vẫn ngập đầy trong nắng. Tôi khóc vì biết thêm một điều rằng: cũng có những điều không nên nói ra, nhiều khi nhẹ lòng mình mà lại nặng lòng người.

  8. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
    Nếu cá mập là người
    Bertolt Brecht

    Cô bé ?" con gái bà chủ nhà ?" hỏi ông K.: ?oNếu cá mập là người, liệu chúng có cư xử tử tế hơn với loài cá nhỏ không hở ông??.


    Ông đáp: ?oỪ, hẳn rồi. Nếu cá mập là người, nơi biển cả chúng sẽ cho xây khu nhà ở thật lớn và kiên cố cho cá nhỏ, trong đó có đầy đủ lương thực thực phẩm, lại còn có thảo mộc và bách thú để ngắm nữa. Chúng sẽ lo liệu cho khu cư xá này luôn luôn có nước tươi mát, và đề ra những biện pháp chăm lo sức khỏe cho loài cá nhỏ nữa. Chẳng hạn nếu một con cá nhỏ nào bị thương ở vây, lập tức cá mập sẽ băng bó cho nó, kẻo cá nhỏ sẽ chết mất trước thời gian cá mập muốn. Để cá nhỏ khỏi u sầu, thỉnh thoảng sẽ có những lễ hội dưới nước, bởi vì bọn cá nhỏ mà vui vẻ thì ăn chúng sẽ ngon miệng hơn là ăn bọn cá nhỏ ủ rũ. Dĩ nhiên cũng có trường học ở khu cư xá rộng lớn này nữa. Nơi nhà trường, cá nhỏ sẽ học phương pháp bơi lội trong hàm cá mập. Chúng lại còn học môn địa lý nữa, để cho cá mập mỗi khi lười biếng nằm bất kỳ chỗ nào cũng có thể tìm thấy cá nhỏ ngay lập tức. Vấn đề chủ yếu tất nhiên là việc giáo dục cho cá nhỏ. Chúng sẽ được dạy dỗ rằng điều cao cả và đẹp đẽ nhất chính là lòng tự nguyện hy sinh, và rằng chúng phải tin tưởng vào cá mập, nhất là khi chúng ưu tư đến một tương lai xán lạn.

    ?oNếu cá mập là người, đương nhiên chúng phải gây chiến tranh với nhau, để cướp bóc những khu cư trú khác và các cá nhỏ ngoại quốc. Chúng sẽ cho bọn cá nhỏ của chúng gây chiến tranh chứ chúng không đích thân ra tay đâu. Chúng sẽ dạy bảo cá nhỏ rằng bầy cá nhỏ của chúng và loài cá nhỏ của những con cá mập khác luôn có một mối tử thù với nhau. Loài cá nhỏ mà ta tưởng là không biết nói, thật sự thì chúng im lặng do nhiều loại ngôn ngữ khác nhau của chúng đó thôi. Cho nên không thể không hiểu nhau được. Trong chiến tranh, con cá nhỏ nào mà đi giết cá nhỏ thù địch có ngôn ngữ khác với nó thì nó được cá mập gắn huân chương bằng rong biển cho, đồng thời phong cho danh hiệu ?oanh hùng? nữa.

    ?oNếu cá mập là người, đương nhiên bọn chúng cũng có nền nghệ thuật nữa. Sẽ có những tác phẩm hội họa thể hiện những chiếc răng màu sắc rực rỡ của cá mập, hoặc thể hiện những hàm cá mập trông giống như vườn chơi và cá nhỏ bơi lội tung tăng trong đó. Rạp hát dưới đáy biển sẽ trình diễn nghệ thuật của cá nhỏ hào hùng bơi hăng hái vào hàm cá mập và âm nhạc sẽ tuyệt diệu đến nỗi, qua những tiết tấu của dàn nhạc, cá nhỏ sẽ được ru ngủ mơ màng khoan khoái nhất để bị chui tọt vào hàm cá mập mà không hay.?

    ?oNếu cá mập là người, tất nhiên chúng cũng có tôn giáo nữa. Cá mập sẽ giảng rằng: Cõi chân phúc đời đời cho cá nhỏ chính là trong bụng cá mập vậy. Cá nhỏ vẫn bình đẳng với nhau như hiện nay. Một số trong bọn cá nhỏ đó sẽ trở thành những viên chức và được đặt ngồi trên lũ cá nhỏ khác còn lại. Thậm chí những con trộng trộng hơn một chút cũng được phép xơi những con nhỏ hơn trong bọn. Và các con cá mập sẽ rất hân hạnh vì đích thân xơi những miếng mồi trộng trộng đó. Những cá nhỏ có địa vị cao hơn sẽ đặt ra một trật tự trong cộng đồng chúng, sẽ có giáo sư, sĩ quan và kỹ sư xây dựng khu nhà ở to lớn của chúng, v.v...

    ?oTóm lại, nếu cá mập là người, chắc hẳn sẽ có một nền văn hóa dưới biển vậy?...


    Lê Anh Minh (dịch từ nguyên tác tiếng Đức: Wenn die Haifische Menschen waren)
  9. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
    Thiêu thân truyện
    Nguyễn Trọng Nghĩa

    Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ đó
    Cứ đêm đêm nhắc nhở gọi ta về
    Lê Anh Xuân


    Chiếc điện thoại di động nằm trên bàn rung lên. Anh Bưng với tay cầm máy:

    - Alô? Bảy hả? Đang cơm trưa văn phòng. Một mình chớ mấy mình (cười). Ủa, bộ mày chưa nối mạng sao? Thời buổi này chưa nối mạng đừng nghĩ tới chuyện làm báo. Ờ, ờ, khoảng hai mươi tám đô. Phải mua cái mô - đem chớ mậy. Dễ ợt, để bữa nào rảnh tao cài cho. Rồi, rồi. OK!

    Anh Bưng thả máy xuống bàn, uể oải múc cơm ăn, mắt thờ ơ nhìn xuống đường. Nắng như thiêu như đốt đang đổ xuống đầu đám đồng bào thành phố không biết đi đâu mà lúc nào cũng đông như kiến.

    Chiếc điện thoại di động lại rung lên, màn hình sáng xanh. Anh Bưng cầm máy:

    - Alô? Anh Ba hả? Đang cơm trưa văn phòng. Anh nói thằng nào? Thằng Xi em ti được hơn chớ anh! Tháng trước nó mới mở cho mấy cha ở Cần Thơ cái "quép sai" văn học đồng bằng sông Cửu Long miễn phí, tha hồ đưa lên đó cái gì mình thích. Sao? Nếu cần, anh bảo bả liên hệ qua i meo của em cho tiện. Nguyễn Hoàng Bưng a còng hát xê em chấm vê en chấm com, viết liền không hoa. Dạ, vậy nghen anh!

    Anh Bưng lại thả máy xuống bàn, lại uể oải nhai cơm. Đám đồng bào thành phố vẫn không ngừng hành quân như kiến. Độ ba phút sau điện thoại lại rung.

    - Tôi nghe! Ổng vô hồi nào vậy? Hẹn với ổng tám giờ sáng mai tại cà phê Arnol 688. Rồi. Phần chú, nhớ mang theo cái dĩa mềm. Thời buổi này ưu tiên những người xài tin học, ai hơi sức đâu ngồi đó mà gõ! Không lo, anh mày có thẻ miễn phí. Ờ, ờ. Bai!

    Thôi nhìn đám đồng bào thành phố phía dưới đường, anh Bưng đưa mắt nhìn lên cái tivi treo trên cao. Màn hình hiện ra cảnh sông nước miền Tây, đúng hơn là sông nước Cà Mau: một đám con nít mình mẩy lấm lem, tay thùng tay gậy đang hiện diện trên một bãi bùn, chung quanh lơ thơ vài cây mắm, bần, đước non?

    Lần này anh Bưng chủ động bấm điện thoại:

    - Alô, chú Biền hả? Ở đâu vậy? Mở tivi lên coi, đang có phim về xứ mình đó, kinh 7. Ờ?

    Anh Bưng tắt máy, tắt hẳn. Chăm chú nhìn lên màn hình, theo dõi? Kể từ giờ phút đó, cái điện thoại di động coi như không còn quấy rầy anh nữa.

    Ở đầu bên kia thành phố, trên tầng 12 của một chung cư hiện đại, Biền mở tivi. Ống kính đặc tả đôi chân lún sâu trong bùn; một con vọp nằm chôn mình kín đáo; một bàn tay moi nó lên? Rồi cảnh một ngã ba sông buổi chiều tà, đàn chim về tổ xếp thành hình chữ V; cảnh đêm với mấy người đàn ông và đám trẻ con đốt lửa nướng những con vọp? Ống kính lại đặc tả một ly rượu đưa lên môi, que tre lể (xỉa thịt) con vọp chấm vào chén muối ớt?

    Cùng với đoạn phim trên là lời bình:
    "? Có thể nói, đám cư dân nhí của làng Côlôrađô này chính là các tay săn mồi thiện nghệ. Những con hào - nguồn dinh dưỡng chủ yếu của chúng - dù ma mãnh đến đâu, dù vùi mình xuống bùn đến mất tăm cũng đừng hòng trốn thoát. Ở đây chúng không săn mồi bằng mắt, mà chúng săn mồi bằng tất cả các giác quan tinh tường của mình? Và tôi đảm bảo với quí vị rằng, đối với chúng, chưa chắc có thứ sơn hào hải vị nào sánh bằng cái thứ chúng moi lên từ bùn đất?".

    ? Nếu đoạn phim vừa rồi không phải quay ở làng Côlôrađô; nếu bây giờ anh Bưng không ngồi ở cơm trưa văn phòng và Biền - chú em ruột của anh Bưng - không nằm chót vót trên lầu 12 của một chung cư hiện đại, thì hình ảnh mấy người đàn ông đốt lửa nướng vọp và những đứa trẻ lem luốc kia chính là hình ảnh của đại gia đình Bưng - Biền tại làng Lung Lá. Giờ đây, anh Bưng có thể rủ thằng em mình nhấm nháp hình ảnh quê nhà bằng mọi cách kể cả cách nhấm nháp qua ti vi. Tuần trước đi Tây Ninh về, anh ném trước mặt Biền mớ lá nhào. Chú em Biền chưa kịp hân hoan với món lươn um lá nhào lâu ngày không được thưởng thức thì anh Bưng muốn đổ quạu:
    - Mẹ, nhào mà hổng phải? nhào! Mày hửi thử coi.
    Chú Biền ngắt một tí chót lá vò vò rồi đưa lên mũi, mặt bỗng nhăn nhúm:
    - Nhào gì mà kỳ cục. Hôi rình vầy làm sao ăn?
    - Thì đem về mày coi chơi cho đỡ? thèm rồi liệng chớ ăn uống gì được.

    Nhưng Biền không liệng. Chú cắm mớ lá nhào đó vào chiếc bình thuỷ tinh lớn như cắm hoa chỉ vì một lý do: chú thấy nếu liệng thì tội nghiệp anh mình. Mới hôm kia, ghé qua chỗ Biền để bàn chuyện đám giỗ bà nội, nhè ngay bữa cúp điện. Trèo lên hết 12 tầng lầu, vừa tháo giày quăng ra xa, anh Bưng chửi thề:
    - Mẹ, đúng là địa ngục trần gian! Sống kiểu này thà chết sướng hơn. Đây là cái hộp hại điện chớ không phải chung cư hiện đại. Lấy cho ca nước đá?
    Chú Biền chọc tức ông anh:
    - Chưa chết được đâu anh vì ở đây còn có? nước đá, chớ Lung Lá dưới mình làm gì có!
    Anh Bưng:
    - Đách họ! Lung Lá của tao cần gì nước đá, chỉ thở không khí ở đó thôi cũng đủ sống trăm năm. Đúng là càng già càng dại. Giờ thì hết đường về?
    Anh Bưng kết thúc câu nói của mình bằng cái thở dài.

    Hồi mới giải phóng, anh Bưng bất đắc dĩ phải ra chợ sống do anh là? cán bộ. Nói bất đắc dĩ không quá, bởi sau khi cân nhắc thiệt hơn, cuối cùng anh đành viện đến phép thắng lợi tinh thần để tự an ủi mình khi phải rời bỏ làng quê: "Tao thuộc phe thắng, ngu sao không ra chợ ở cho sướng?". Vậy là bỏ Lung Lá. Sống ở chợ mấy năm, người đâm bệ rạc vì kém vận động, nhất là ngại gian khổ. Mấy lúc ngồi vui bên mâm nhậu, anh Bưng hay nói vui với bọn Biền: "Hồi đó sao mình mun thấy ngán. Nguy hiểm vậy, cực khổ vậy mà lạc quan trăm phần trăm. Bây giờ yêu nước thì yêu, chớ chiến tranh kiểu đó nữa chắc tao? chiêu hồi! Ha ha!" - Anh cười sảng khoái rồi tiếp: "Nói vậy chớ còn lâu mới chiêu hồi! Bằng mọi giá phải trường kỳ kháng chiến. Mạnh dùng sức, yếu dùng thế. Chừng nào đối đế đánh không lại mày thì tao tìm cách? bóp dái, chớ quyền gì mày đi đè đầu cỡi cổ tao?"- Anh bỗng sừng cồ với tên đế quốc tưởng tượng.

    Anh Bưng là con người tự do, thứ tự do hơi hoang dã. Chưa bao giờ anh xài quần nhỏ quần lớn như người ta; tất cả với anh đều phải thong dong, kể cả trong lẫn ngoài. Mấy bữa uống rượu say, hôm sau anh không mang dép, chê nặng, vả lại - anh nói - "tội tình gì lại đi bỏ tù đôi chân của mình"!

    Có ai ngờ thời cuộc đẩy đưa, hai anh em Bưng - Biền của họ chẳng những không được về quê mà còn văng lên tới Sài Gòn. Chú Biền, như ta đã biết, sống trong cái hộp cách mặt đất độ bốn chục thước, còn anh Bưng đành mua miếng đất nhỏ nằm tuốt ngoại ô, cất căn nhà nhỏ. Ở đây ban đêm nhìn về hướng trung tâm, chỉ thấy một quầng sáng màu lửa mà có lần anh Bưng đã ví loại người như anh và chú Biền nói chung chẳng khác gì những con thiêu thân, cứ nhắm mắt cắm đầu lao vào quầng lửa ấy?

    Chiều, từ căn nhà nhỏ ở tuốt ngoại ô Sài Gòn, anh Bưng bấm điện thoại trong trạng thái hân hoan:
    - Alô, chú Biền hả? Có hai chuyện quan trọng: Một, hồi trưa coi hết phim chớ? Hóa ra phía bên kia trái đất cũng có chỗ giống y chang xứ mình. Cái làng Côlôrađô đó có khác gì làng Lung Lá? Nhưng mà họ dịch tầm bậy, chú có để ý không? Con đó là con vọp. Hào làm gì sống trên cạn? Nhớ hồi đó có ngày tui với chú bắt cả thùng thiếc? Rồi, rồi. Chuyện thứ hai, đố chú biết ai đang ở nhà tui? Có ngon đoán thử coi? Thua chưa? Cậu Tư Tàn với thằng Nghiệp! Ra liền nghen! Tui đang làm mồi. Ờ, ờ, từ giờ không điện đóm gì nữa nghen. Tui tắt máy luôn, cả điện thoại bàn. Chớ sao! Độc lập tự do là trên hết! Chờ!

    Anh Bưng nhổ dây điện thoại bàn, quay sang nói với người đàn ông đen đúa mà anh gọi là cậu Tư Tàn:
    - Xong, kể từ giờ phút này đố cha thằng nào quấy rầy.
    Cậu Tư Tàn:
    - Thằng Biền ra không?
    - Ra chớ cậu. Nghe cậu lên nó mừng húm. Có điều từ "cái hộp" của nó đến đây cũng phải nửa tiếng.

    ? Anh Bưng ở trần mặc quần cụt, đi đất, tay cầm đũa, chạy tới chạy lui lăng xăng. Hai người đàn ông nông dân đen đúa ngồi ở hai đầu đệm được trải dưới góc xoài trước nhà anh. Bốn, năm con cá lóc cỡ cườm tay nướng trui đặt trên tàu lá chuối, chén muối hột cùng mấy trái ớt xanh, dĩa mắm sống và nải chuối chát? Thấy chưa đủ, anh Bưng bước đến bồn hoa moi lên một? củ gừng. Anh giải thích với cậu Tư Tàn:
    - Con chỉ trồng thứ gì ăn được. Cậu coi, bông vợ con trồng chưa kịp lớn thì gừng của con đã lớn hơn.
    Rồi anh rót rượu:
    - Thiệt ra mà nói, không có thứ nhà hàng nào bằng nhà mình. Mẹ, đi nhậu mà ăn ta ni, mang giày thì? trào máu. Cậu với con!
    Anh Bưng uống cạn rồi đưa ly cho cậu Tư Tàn, vỗ đùi cái bép biểu lộ sự khoái trá; quay lại thấy Biền đang vật lộn với con cá lóc nướng bằng đôi đũa, anh Bưng nạt:
    - Dẹp đũa đi! Chú mày đúng là đồ mất gốc!
    Rồi anh tóm con cá nướng, bẻ đôi chia cho cậu Tư Tàn và anh thanh niên tên Nghiệp, lại bẻ đôi con khác cho Biền và anh:

    - Thiệt ra mà nói, ăn bóc là ngon nhứt; cũng như, nói xin lỗi, ỉa đồng là số một, đố có thứ cầu tiêu máy nào sánh bằng.
    Hai anh nông dân thứ thiệt nhìn anh cựu nông dân lắc đầu, cười thán phục.
    Chú Biền nhớ lại, hôm công ty phần mềm Nét Ngọc tổ chức hội nghị khách hàng trên sân thượng Majestic Hotel, tình cờ anh em Bưng - Biền của họ cùng dự. Như mọi người, hôm đó anh Bưng cũng ăn ta ni, mang giày, thắt cà vạt. Kết thúc nội dung hội nghị, đến phần tiệc đứng, anh Bưng cụng ly qua loa với mấy nhà doanh nghiệp rồi lẻn đến nói nhỏ vào tai chú em mình:
    - Ăn nhậu kiểu gì kỳ cục. Nó bày coi đẹp mắt chớ có mướn tao cũng không dám đụng đũa. Đồ "phồn vinh giả tạo"! Về!
    Rồi anh Bưng lẻn ra ngoài. Chú Biền gặp ông anh mình chỗ chờ thang máy. Anh Bưng nói:
    - Thiệt ra mà nói, thế kỷ hai mươi chỉ có hai phát minh giá trị, một là cái máy giặt, hai là? con dao gọt mướp, còn lại đều đồ bỏ!
    Đến giờ này anh Bưng vẫn ngạc nhiên lẫn thích thú về tính hiệu quả của thứ dụng cụ bếp núc giản đơn (con dao hai lưỡi) mà anh cho là phát minh thế kỷ!
    Chú Biền nói:
    - Chớ thang máy không là phát minh à?
    - Không.
    - Vậy thì đi bộ!
    Anh Bưng cười hề hề:
    - Ngu sao đi bộ mậy!
    Mấy phút sau thang máy đưa anh em họ xuống đất. Tại cửa ra vào khách sạn, một thanh niên mặc đồng phục (tất nhiên là ăn ta ni, mang giày) đứng dập gót mở cửa cho hai thượng khách Bưng - Biền.

    Nhưng đó là chuyện ở Majestic Hotel, còn bây giờ?
    ? Bỗng thấy anh Bưng từ trong nhà bước ra sân, cũng? ăn ta ni và mang giày. Ai cũng ngạc nhiên. Cậu Tư Tàn hỏi đi đâu. Anh Bưng đáp:
    - Đi rước thằng Cuội, bữa nay nó học thêm. Cậu, thằng Nghiệp, thằng Biền cứ nhậu lai rai, khoảng nửa tiếng con về!
    Đúng 25 phút sau anh Bưng về, không thấy thằng Cuội đâu, cậu Tư Tàn lại hỏi, anh đáp:
    - Rước chỗ thầy Anh văn đưa qua thầy Toán. 9 giờ lại có thằng sinh viên đến kèm môn Lý, nhưng hôm nay thì hồi! - Anh Bưng nối dây điện thoại bàn, bấm số - Alô, nhà Thái phải không? Nhờ chị nói dùm, cháu Hải Tần (tức Cuội) hôm nay bịnh, Thái khỏi đến, dạ, để lần sau. Cám ơn.
    Anh Bưng lại nhổ dây điện thoại, cởi quần áo, tháo giày liệng ra xa, ngồi xếp bằng xuống mâm:
    - Thiệt ra mà nói, hồi đó con có học hành gì đâu. Chính xác là chưa hết lớp ba. Vậy mà vẫn "trưởng thành" như thường, nào thua kém ai! Còn đám con nít bây giờ? toàn một lũ gà công nghiệp! Vô cậu!
    Anh Bưng uống cạn, có vẻ kém vui, chắc anh mắc cỡ về tình trạng học thêm của con mình. Chú Biền biết, giữa anh Bưng và vợ đã từng xích mích về chuyện này, ban đầu anh làm căng, cuối cùng chịu nhịn. Gặp Biền, anh chắc lưỡi: "Kệ mẹ. Nó đã là con của cơ chế chớ đâu còn con mình!". Từ đó chuyện học thêm của thằng Cuội (tức Hải Tần) thành chuyện hiển nhiên. Tội nghiệp, chị Bưng thương con nhưng nào biết, dù thằng Cuội được đầu tư học tập tốt hơn 53 lần so với con cái của hai người nông dân đang ngồi kia thì có khác gì nhau, bởi nền giáo dục của chúng ta không được thế giới công nhận? Ngay cả ở Đông Nam Á chúng ta đang ở hạng cuối và ngày càng tụt hậu; rằng giáo dục đại học của ta đang tụt thấp hơn 50 bậc so với đại học của Thái Lan?chỉ bởi vì các nhà lãnh đạo giáo dục nước nhà thiếu tự trọng và thiếu lòng yêu nước, dù họ hiểu rõ mười mươi căn bịnh trầm kha.

    Chị Bưng về, chở thằng Cuội phía sau. Vợ chồng anh Bưng hợp đồng đưa đón con nhịp nhàng như một dây chuyền sản xuất công nghiệp. Sau khi chào khách, chị hỏi:
    - Thái tới chưa anh?
    Anh Bưng:
    - Hôm nay nghỉ. Anh đã gọi điện hồi rồi.
    Chị Bưng tỏ vẻ phật ý, nhưng chỉ chừng một giây thôi, không ai nhận thấy ngoài chú Biền. Chú bèn vỗ đít thằng cháu cưng của mình đồng thời cũng là vật thí nghiệm của nền giáo dục nước nhà mà không khỏi có chút xót xa không biết cho mình hay cho nó. Mới 12 tuổi mà nó đã cao chồng ngồng, mắt đeo kính cận dày như cái đít chai. Nó lừ lừ đi ngang mâm mà chẳng thèm chào hỏi ai. Anh Bưng nạt:
    - Thưa ông cậu, cậu Nghiệp, chú Biền?
    Thằng Cuội khoanh tay như cái máy:
    - Thưa ông cậu, cậu Nghiệp, chú Biền?
    Rồi nó vào nhà, mở nắp đàn oọc, cho chơi chế độ trống đùng đùng, người giần giật theo nhạc. Mấy năm đầu giải phóng, các người đồng chí của anh Bưng cho vợ mình đi học đạo diễn, con cái vào nhạc viện, đứa piano, đứa công rờ bát? thành một phong trào. Thấy gai mắt, anh nói: "Mẹ, con tao nữa tao cho học thổi sáo. Chỉ cần trồng một bụi trúc, cho mày thổi thấy ****** luôn!". Giờ đây, có lẽ còn nhớ lời tuyên bố xưa kia của mình, nên anh lại? mắc cỡ. Anh Bưng nhắc khéo con:
    - Lo tắm rửa đi con. Nhạc nhẽo ầm ầm mệt quá.
    Thằng Cuội liếc anh, đậy nắp đàn, vào buồng riêng mở máy tính. Chị Bưng bưng vào cho con tô cơm với hai cái đùi gà, nó vừa ăn vừa chơi trò đá banh, người cứ nhấp nha nhấp nhổm trên ghế, miệng lảm nhảm như? thằng khùng. Có thể giờ đây các giác quan của anh em Bưng - Biền không còn tinh tường để bắt những con vọp như tụi con nít ở làng Côlôrađô, nhưng nếu chỉ để ứng xử thôi, thì còn tinh tường lắm, ít nhứt cũng hơn đám con cháu họ - đám "gà công nghiệp" này.
    Tiệc vui vẫn được tiếp tục trong không khí buồn, bởi tin tức mà hai ông nông dân mang lên từ Lung Lá cũng buồn nốt: Làng xóm điêu tàn vì người ta phá lúa nuôi tôm, nay chẳng còn con tôm nào; hai nông dân này giờ cũng đang tìm cách mon men đến với ánh đèn đô thị. Tội nghiệp anh Bưng, kể như anh đã hết đường về!

    Khuya, chú Biền bước ra sau hè nhà anh mình, nơi không ít lần anh Bưng quảng cáo "mát lắm, gió ***g lộng?", hướng mắt về phía trung tâm. Sài Gòn ban đêm nhìn từ xa chỉ thấy một quầng sáng màu lửa, cái quầng sáng mà có lần anh Bưng đã ví họ như những con thiêu thân, cứ nhắm mắt cắm đầu lao vào. Nơi đó hẳn giờ này đồng bào vẫn còn đông như kiến, cà phê Arnol 688 chắc vẫn tấp nập; nơi đó đảm bảo bốn cái thang máy lộ thiên toà nhà chú Biền sống vẫn hùng hục như bốn con quái vật, không ngừng?

    Và mới đây lại có thêm hai con thiêu thân chấp nhận lao vào cái quầng sáng màu lửa ấy...

  10. Washabee

    Washabee Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/02/2005
    Bài viết:
    4.295
    Đã được thích:
    0
     

    Người yêu nhé...
    Zdreamer
     
    [​IMG]
    Hãy nắm chặt tay em
    Đường đời còn dài lắm
    Mình cho nhau hơi ấm
    Đi qua những đông buồn
     
    Đừng ngần ngại nụ hôn
    Nào có gì xa xỉ
    Đời nhiều dông bão thế
    Ai chẳng thèm thương yêu?
     
    Có gì đâu mà nhiều
    Ôm em, người yêu nhé
    (Hiên nhà - bầy chim sẻ
    Chẳng bao giờ bay đi)
     
    Em sẽ chẳng tị suy
    Chẳng so bì, lo lắng
    An tâm và yên lặng
    Trong vòng tay của anh
     
    Hãy nắm chặt tay em
    Đường đời còn dài lắm
    Mình cho nhau hơi ấm
    Bên nhau đến tận cùng...
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này