1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tập truyện Đường vào nội tâm - Thích Nữ Trí Hải

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi shimizu_hn, 30/06/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    19. VỌNG PHU
    Khi người đang hái hoa lòng say mê lạc thú, niềm vui kia
    chưa thỏa tử thần đã lôi xa (Pháp cú 48)​
    Một buổi sáng ở thiên đường, vua trời Ðế thích đi vào Lạc viên ở cung trời 33 cùng với một ngàn thiên nữ hầu hạ. Năm trăm nàng leo lên cây hái hoa tung xuống. Năm trăm nàng lượm hoa kết thành tràng để trang sức cho vua trời, chồng của họ. Một nàng đang hái hoa chẳng may trúng gió nặng, hồn lìa khỏi xác ngay khi ngồi trên cây. Thân thể nàng tan biến mau lẹ theo hơi sương (vì là tiên nên thể xác có phần nhẹ hơn người trần) và thần thức nàng nhập vào thai cung của một phụ nữ thuộc gia đình trưởng giả thành Xá vệ. Khi xuất thai và dần dần lớn thành một thiếu nữ, nàng vẫn nhớ kiếp vừa qua của mình và mong mỏi được trở về cõi trời hầu hạ Ðế thích như trước. Nàng thường đến Kỳ viên tinh xá Cấp Cô Ðộc để cúng dường Phật và chúng tăng với một ước nguyện bất di dịch: "Mong rằng với phước đức này con được trở lại với chồng con". Các tỳ kheo đều lấy làm lạ về lời nói của thiếu nữ, và đặt cho nàng một biệt hiệu là "Vọng phu". Vọng phu tiếp tục bố thí cúng dường như vậy cho đến khi mười sáu tuổi, cha mẹ gả chồng cho nàng và lần hồi sinh hạ được bốn con.
    Một ngày kia, sau khi đến tinh xá cúng dường Phật và chúng tăng trở về, Vọng phu cảm thấy nhức đầu chóng mặt, lên giường nằm một lát rồi trút hơi thở cuối cùng. Thần thức nàng trở về cõi trời 33 trong khi các thiên nữ đang bận rộn kết hoa để trang hoàng cho Ðế thích. Khi vua Trời thấy nàng liền hỏi: - Sáng nay sao ta không thấy nàng. Nàng đi đâu? - Thưa thần thiếp chết giấc một hồi, rời khỏi thiên cung. -Nàng nói cái gì thế? Ðế thích ngạc nhiên - Quả thế, muôn tâu thánh thể, thần thiếp đã chết đi một lát. - Rồi nàng tái sinh ở đâu? - Tâu, ở một gia đình trong thành Xá vệ. - Nàng ở đấy bao lâu? - Sau mười tháng ở trong thai, thần thiếp ra khỏi thai mẹ. Khi 16 tuổi, thần thiếp được gả chồng, có bốn con. Thần thiếp đã bố thí tu phước liên miên, ước nguyện được trở về thiên cung sum họp với thánh thể. - Ðời sống của con người dài bao lâu? - Tâu thánh thể, chỉ có một trăm năm thôi ạ! - Ôi, ngắn thế kia ư? - Dạ, tâu thánh thể. - Nếu đời sống con người ngắn ngủi như thế thì chúng phỏng làm được cái gì? Chắc là chúng phải tạo phước lành gấp rút lắm? - Dạ không, trái lại, tâu thánh thể, con người dưới ấy vẫn mê ngủ, buông lung, bê tha, làm như chúng sẽ được sống mãi hoài, làm như chúng sẽ không bao giờ già chết. Vua trời nghe xong, buồn rầu bảo: - Nếu như lời nàng nói, con người chỉ sống được có trăm năm, mà lại mê ngủ, buông lung, bê tha thì biết bao giờ chúng mới thoát khỏi khổ?
    Ngày hôm sau ở Xá vệ khi chúng tỳ kheo vào làng đến chỗ thường lệ vẫn được nàng Vọng phu tiếp đón, thì thấy lạnh ngắt như tờ. Không có chỗ ngồi, nước uống được xếp đặt như mọi khi. Họ hỏi: - Vọng phu đâu rồi? Dân chúng thưa: - Bạch chư Ðại đức, nàng ấy đã chết chiều qua, sau khi cúng dường trở về. Khi ấy những vị tỳ kheo chưa chứng quả bỗng thấy lòng buồn man mác, nhớ đến những săn sóc chu đáo của người tín nữ hôm qua mới đó, mà nay đã ra người thiên cổ. Trở về họ hỏi Phật: - Bạch Thế tôn, Vọng phu tạo phước cúng dường nhiều chỉ cốt để được gặp chồng. Tại sao nàng vừa mới ở với chồng chưa bao lâu, hương lửa đang nồng mà phải chết như vậy? Bây giờ nàng tái sanh ở đâu? - Này các tỳ kheo, không phải Vọng phu ước được sống với người chồng hiện tại của nàng đâu. Nàng vọng là vọng cái người chồng cũ của nàng trên cõi trời thứ 33 ấy, và bây giờ đã được toại nguyện. Hiện giờ, nàng đang trở lại hầu hạ Ðế thích trong Lạc viên. Một đời nàng trải qua dưới thế gian này không dài bằng nửa buổi sáng trên cung trời Ðế thích. - Ồ, bạch Thế Tôn, đời con người sao mà ngắn ngủi! Mới buổi sáng nàng ấy cúng dường thực phẩm cho chúng con, mà chiều nay đã nghe nàng chết rồi . - Quả thế, các tỳ kheo, đời con người ngắn ngủi lắm. Trong khi chúng khát khao những lạc thú cõi trần mà chưa được thỏa, chúng đã bị thần chết mang đi.
    (thuật theo Truyện tích Pháp cú)

  2. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    20. GIỮ Ý NHƯ GIỮ THÀNH

    Khi Phật ở nước Xá vệ, trong chúng tỳ kheo tại tinh xá Cấp cô độc có một vị tôn giả tên Soreyya, đã chứng quả A La Hán. Câu chuyện sau đây được truyền tụng về cuộc đời của vị tôn giả trước khi đắc quả.
    Trong lúc tôn giả Soreyya còn ở trại gia, ngài là con của một vị phú hộ ở thị trấn Soreyya. Một hôm Soreyya cùng ngồi trên xe đi tắm với một người bạn thân của chàng, có gia nhân đông đảo đi theo. Khi ra khỏi thành bỗng chàng thấy tôn giả Ca Chiên Diên, đệ tử của Phật đang ôm bát đi vào thành khất thực. Tôn giả Ca chiên Diên có một màu da sáng đẹp như vàng ròng, sắc diện uy nghiêm khả kính đến nỗi đoàn người đi tắm biển chú mục nhìn ngài không biết chán. Thanh niên Soreyya là người hiếu sắc, thấy tôn giả bèn nghĩ thầm trong bụng: "Ồ, ước gì vị tôn giả ấy là vợ ta! Ước gì màu da của vợ ta cũng đẹp đẽ như da vị tôn giả ấy". Ngay khi tư tưởng ấy vừa khởi, thanh niên Soreyya tức khắc biến thành phụ nữ. Chàng vô cùng bối rối, vội nhảy ra khỏi xe lẫn vào đám đông trốn bi?t. Phụ nữ Soreyya không dám về nhà, đi mãi đi mãi, theo đoàn người tiến ra thành phố cho đến khi gặp một đoàn xe đi về phía đô thị Tắc ca. Nàng bạo dạn đến gần một xe xin quá giang đến thành Tắc ca. Những người trên xe là gia nhân của một vị phú hộ ở thành Tắc ca, trông thấy thiếu nữ xinh đẹp liền bằng lòng ngay. Họ bảo nhau: - Con trai của chủ chúng ta chưa có vợ, chúng ta hãy đưa nàng này về, thế nào cũng được trọng thưởng. Quả nhiên khi xe về đến thành Tắc ca, phú ông rất vui mừng được cô dâu xinh đẹp, làm lễ cưới ngay cho con trai mình. Thế là thanh niên Soreyya trở thành vợ của thanh niên Tắc ca, con trai của phú ông ở đô thị Tắc ca.
    Ðám cưới không bao lâu, nàng mang thai, sau mười tháng sanh ra một thằng con bụ bẫm. Ðứa con này vừa biết đi tập tễnh, nàng lại cho ra đời một thằng con khác. Soreyya trước làm nam nhi ở thành Soreyya đã có vợ hai con, bây giờ biến thành phụ nữ lại sinh ra hai đứa con là bốn. Thế là Soreyya làm cha hai trẻ, làm mẹ hai trẻ. Một hôm thành Tắc ca có hội chợ, tình cờ bà Soreyya trông thấy một thanh niên trong đám đông và nhận ra ngay đó là người bạn rất thân đã cùng ngồi xe đi tắm biển với mình dạo trước, khi chưa biến thành phụ nữ. Bà Soreyya bảo gia nhân đến mời thanh niên ấy về nhà mình.
    Thanh niên ngạc nhiên nhưng được người đẹp mời cũng khoái, thấy không có gì hại, liền theo gót gia nhân về nhà bà Soreyya. Ngồi vào "xa lông" thanh niên mới đánh bạo lên tiếng: - Thưa bà, có lẽ bà lầm chăng? Tôi chưa hề được trông thấy bà từ trước đến nay, vì đây là lần đầu tiên tôi đến thành phố này. - Thưa ông tôi không lầm đâu, có phải ông là người của thành Soreyya? - Thưa bà chính vậy. Thế ra bà biết. Soreyya bèn hỏi chàng thanh niên về sức khỏe của ông bà phú hộ cha mẹ mình và hỏi thăm tin tức vợ và hai con đang ở Soreyya. Thanh niên hỏi: - Thưa bà, họ đều khỏe mạnh. Tại sao bà biết họ? - Thưa ông tôi biết lắm chứ. Thế còn người con trai của họ, thanh niên Soreyya ở đâu? - Ồ thưa bà, xin bà đừng nhắc đến chuyện thương tâm ấy nữa. Bao nhiêu năm nay, việc ấy đã trở thành một vết thương lòng cho những người thân. Số là chúng tôi cùng ngồi xe đi tắm biển, nhưng khi ra khỏi thành, không biết chàng biến mất tự bao giờ, người thì đoán chàng xuống tắm bị nước cuốn trôi, người thì cho có lẽ chàng bị cá nuốt. Tìm khắp nơi không thấy nên gia đình đã làm chay cho chàng. - Thưa ông chàng không chết đi đâu cả, chính tôi đây là Soreyya ngày trước. - Thưa bà... bà nói cái gì thế? Soreyya là bạn rất thân của tôi, tôi biết rõ y là đàn ông. - Thưa ông, vậy mà tôi là Soreyya. - Sao lại có chuyện kỳ quái như thế? - Ông có nhớ lúc chúng ta đi xe ra khỏi thành đã gặp một vị tôn giả ôm bát vào thành hay không? - Vâng, tôi nhớ có gặp tôn giả Ca Chiên Diên ngày hôm ấy. - Ðấy, khi tôi trông thấy tôn giả, tôi nghĩ mong tôn giả là vợ mình, hay ít nhất vợ mình có được làn da mơn đẹp như tôn giả. Ngay khi tôi vừa có ý nghĩ ấy, tôi liền hóa thành phụ nữ. Ồ, thưa ông tôi bối rối quá, không thể nói cùng ai, tôi nhảy đại ra khỏi xe chạy trốn, và đến thành phố này. - Ồ, bạn ơi, bạn đã làm một việc quá điên rồ. Sao bạn không bảo tôi? Thế bạn có sám hối cùng vị tôn giả ấy không? - Không bạn ạ, tôi chưa từng sám hối Ngài. Nhưng bạn có biết hiện giờ Ngài ở đâu không? - Ngài ở quanh quẩn gần thành phố này. - Ước chi Ngài đến đây, tôi sẽ cúng dường thực phẩm cho Ngài. - Tốt lắm, vậy bạn hãy sửa soạn đi, ngày mai tôi sẽ thỉnh Ngài tới đây để bạn sám hối cùng Ngài.
    Rồi người bạn cũ của Soreyya, vốn là một Phật tử thuần thành, đi đến chỗ tôn giả Ca Chiên Diên ở để thỉnh Ngài về nhà cư sĩ thọ trai. Tôn giả hỏi: - Này thanh niên, nhưng con đâu có nhà ở đây? Không phải con là du khách của thành phố này sao? - Bạch tôn giả việc ấy không quan hệ, xin tôn giả nhận lời cho con ngày mai được cúng dường tôn giả tại nhà. Tôn giả im lặng nhận lời. Ðến giờ ngọ thực hôm sau Ngài cùng thanh niên đến nhà Soreyya. Sau khi bà Soreyya bày biện các món thức ăn thượng vị lên cúng dường, thanh niên bảo bà Soreyya quỳ xuống dưới chân tôn giả và thay lời nàng tác bạch: - Bạch tôn giả, xin tôn giả tha thứ cho bạn con. Tôn giả chẳng hiểu ất giáp gì trước sự tình ấy, bèn hỏi: - Có chuyện gì thế? - Bạch tôn giả, người đàn bà này trước kia là đàn ông, và là bạn rất thân của con. Một hôm y nhìn tôn giả và có ý nghĩ quấy, nên bị biến thành đàn bà tức khắc. Xin tôn giả hãy tha thứ cho y. - Ðược, ta tha thứ cho ngươi. Hãy đứng dậy.
    Vừa khi tôn giả thốt ra những lời ấy, Soreyya đứng lên và trở lại thân hình nam nhi như trước. Con trai Tắc ca, chồng của Soreyya, thấy vợ mình mới đó bây giờ đã hóa thành đàn ông liền bảo: - Này bạn ơi, vì bạn đã là mẹ của hai đứa con, tôi là cha của chúng, thì quả thật chúng là con chung của chúng ta. Bạn hãy ở lại đây với tôi, đừng có đi đâu, chúng ta sẽ "đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ" (vợ chồng đổi thành bè bạn ). Soreyya nói: - Hỡi bạn, tôi đã hai lần hóa thân trong một đời người. Ban đầu làm đàn ông, sau biến thành đàn bà và bây giờ biến thành đàn ông trở lại. Ban đầu tôi làm cha hai đứa trẻ, sau lại làm mẹ hai đứa trẻ khác. Tôi còn sống ở đời làm gì nữa! Tôi muốn xuất gia. Bây giờ bạn hãy săn sóc hai đứa bé này.
    Nói xong, Soreyya hôn hai đứa bé, từ giã chúng rồi xin đi theo tôn giả Ca Chiên Diên. Tôn giả nhận chàng về trong Tăng đoàn. Sau khi truyền giới cụ túc cho Soreyya, Ngài đưa tỳ kheo Soreyya về tinh xá Cấp cô độc nước Xá vệ. Câu truyện ly kỳ về đời tư Soreyya truyền đi rất nhanh khắp thành Xá vệ. Dân chúng tò mò đến nơi để biết rõ thực hư. Suốt ngày tỳ kheo Soreyya phải bận rộn về những người này. Câu hỏi bất di dịch của họ là: - Bạch đại đức, có phải tin đồn Ngài hóa thân hai lần là đúng không? - Ðúng. - Bạch Ðại Ðức, Ngài đã từng làm cha hai đứa trẻ và làm mẹ hai đứa trẻ khác, Ngài thương cặp con nào hơn? - Tôi thương cặp con do tôi làm mẹ nhiều hơn.
    Cuộc phỏng vấn cứ tái diễn như vậy không biết lúc nào ngưng, làm cho tỳ kheo Soreyya không rảnh phút nào để tham thiền nhập định. Do đó, Ðại Ðức quyết định rút vào rừng sâu, độc cư thiền định. Sau một thời gian ngắn, nhờ nỗ lực tu tập, Ðại Ðức chứng quả A La Hánvà trở lại nếp sống bình thường trong tăng đoàn ở tu viện. Những người đến thăm lại được dịp phỏng vấn tôn giả trở lại: - Bạch tôn giả, tin đồn rằng Ngài đã làm cha hai đứa trẻ và làm mẹ hai đứa khác, có đúng không? - Ðúng. - Ngài thương cặp con nào hơn? - Không thương cặp nào cả.
    Các tỳ kheo nghe tôn giả trả lời như vậy, liền đến bạch Phật:
    - Bạch Thế tôn, tỳ kheo Soreyya phạm tội nói dối. Trước kia vị ấy thường bảo: "Tôi thương hai đứa con do tôi làm mẹ hơn là hai đứa mà tôi làm cha". Thế mà bây giờ khi người ta hỏi, vị ấy lại đáp là không thương đứa nào. Bạch Thế tôn, như vậy là nói dối.
    - Này các tỳ kheo, tỳ kheo Soreyya không nói dối đâu. Trước kia ông ấy chưa chứng quả, bây giờ ông ấy đã chứng quả và biết rõ rằng CHẲNG PHẢI CHA HAY MẸ, MÀ CHÍNH LÀ CÁI TÂM KHÉO ÐIỀU PHỤC MỚI ÐEM LẠI LỢI ÍCH CHO CHÚNG SINH".
    Câu ấy trở thành Pháp cú thứ 46 được lưu truyền.

  3. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    21. BÀ LÃO DỊ KỲ
    Tâm phàm phu xoay vần theo ngũ dục, xao động không thể nắm bắt. Chỉ những người nào điều phục được tâm mìmh mới được yên vui". Câu thứ 35 ấy trong kinh Pháp cú có duyên khởi như sau:
    Thuở Phật còn tại thế, trong xứ Kiều tất la có một khu làng nằm dưới chân núi gọi là Mã đề thôn. Tại đấy có một bà lão sống một mình với một gia tài phong phú. Bà được mệnh danh là Mã Lão Mẫu. Vào một ngày an cư, sau khi đức Phật chỉ dạy cho chúng tỳ kheo pháp quán 32 uế vật trong thân, có 60 vị đi đến Mã Ðề thôn để thực hành thiền quán. Bà lão cho xây cất một tu viện cho 60 vị ấy cư trú và cúng dường đầy đủ về y phục, thực phẩm dược phẩm, mền chiếu trong suốt mùa an cư. Những tỳ kheo ấy muốn tinh tiến tu hành nên cùng đặt ra một quy luật như sau: không được hai vị tỳ kheo cùng đứng hay ngồi tại một chỗ đồng thời với nhau. Ðại chúng chỉ nhóm họp hai lần trong ngày là sáng sớm trước khi vào rừng tọa thiền và chiều tối sau khi ở rừng về, để bái yết vị thượng tọa chúng trưởng. Tuy nhiên, nếu có tỳ kheo nào bị bệnh, thì hãy đánh lên một hồi kiểng. Khi nghe tiếng kiểng tất cả sẽ nhóm lại để cùng lo cho bệnh nhân. Sau khi thỏa thuận quy luật trên chúng tỳ kheo đi vào rừng mỗi ngày.
    Một hôm bà lão đem thực phẩm tới chùa cúng dường, không thấy ai cả, bà bèn hỏi những người ở chung quanh, làm cách nào để gặp chúng tỳ kheo. Có người biết quy luật nói trên, bày cho bà lão đánh kiểng. Tức thì từ trong rừng các vị tỳ kheo lần lượt trở về. Bà lão lấy làm quái lạ thấy mỗi người đi từ một hướng, không ai đi chung với ai, nên nghĩ thầm: "Có lẽ các Ðại Ðức có chuyện cãi vã nhau chăng?" Khi họ đến gần bà hỏi ngay câu ấy, và được trả lời: "Không đâu lão mẫu ". Bà lão hỏi: - Nếu quý vị không xích mích thì tại sao khi tới đây quý vị đi chung, mà bây giờ mỗi người đi mỗi ngã như vậy? - Lão mẫu, chúng tôi mỗi người ngồi một gốc cây để thực hành phép thiền quán của Thế tôn chỉ dạy. - Thưa Ðại Ðức, phép quán gì thế? - Lão mẫu, chúng tôi quán 32 uế vật trong thân. - Thưa, phép quán ấy chỉ dành cho các vị tỳ kheo mà thôi, hay cư sĩ như lão cũng tập được?
    - Ồ, lão mẫu, phép quán ấy ai muốn học cũng được cả, không ai cấm. - Vậy thì xin chư Ðại Ðức dạy cho lão với. - Ðược, lão mẫu hãy nghe cho kỹ. Rồi một vị tỳ kheo đằm trách dạy cho bà lão phép quán 32 uế vật trong thân, để đi đến nhận thức rõ ràng về hoại diệt, chết chóc luôn ẩn tàng trong thân mình. Bà lão thuộc lòng ngay phép quán và tinh cần tu tập đến nỗi bà đắc quả vị thứ ba (Bất lai) trong bốn Thánh quả, trước cả các vị tỳ kheo.
    Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, bà quán thấy tất cả những vị tỳ kheo chưa ai đắc gì cả, và sau khi quán sát kỹ, bà thấy họ đều có khả năng chứng quả A La Hán. Khi nhận thấy điều này, bà lão quyết định hỗ trịï cho chúng tỳ kheo đầy đủ về mọi mặt, để họ có thể mau chứng quả. Vị nào thích hợp với món ăn nào, thức uống nào, bà cung cấp đúng như nhu cầu của họ. Bà thận trọng không cúng dường những thực phẩm có vị chua cho những người nào yếu bao tử. Vị nào ưa ngủ gục trong lúc tọa thiền, bà lão cúng cà phê. Vị nào yếu phổi, bà cúng thêm mền và áo lạnh. Trong tâm vị nào tưởng đến món ăn gì, bà lão biết ngay và đáp ứng.
    Nhờ sự chăm sóc chu đáo ấy, sau khi giải hạ, 60 vị tỳ kheo trở về bên Phật với sắc diện hồng hào tươi nhuấn, và tiến bộ khá hơn trên đường tu. Phật âu yếm nhìn đàn con trở về và bảo: - Này các tỳ kheo, chắc hẳn các con được an vui, sức khỏe, thực phẩm đầy đủ trong mùa an cư? - Dạ thưa vâng, Bạch Thế Tôn. Chúng con được an vui, sức khỏe, và khỏi lo gì đến chuyện ăn uống. Bởi vì có một bà lão ở Mã Ðề thôn biết được ý nghĩ chúng con, đến nỗi chúng con vừa ước món gì, là có ngay món ấy. Các vị tỳ kheo thi nhau kể chuyện về bà lão dị kỳ cho Phật và chúng Tăng ở Xá vệ nghe.
    Một vị tỳ kheo nghe xong, quyết đi đến Mã Ðề thôn để thiền định, và xin Phật: - Bạch Thế tôn, cho con tới đó. Phật bằng lòng, sau khi ra đề tài cho vị ấy thiền quán. Vị tỳ kheo lên đường đi dến Mã Ðề thôn. Khi đến ngôi chùa của bà lão bỏ vắng, vị ấy nghĩ: "Mình nghe bà lão dường như biết được tâm kẻ khác. Vậy nay mình vừa mới tới, quá mệt vì đường xa không thể quét dọn chùa. Mong sao bà lão cho người tới quét dùm". Bà lão đang ở nhà riêng, biết được ý ấy, bèn cho người tới quét chùa. Vị tỳ kheo lại ao ước trong lòng "ước chi mình có được một ly cô ca mát lạnh mà giải khát". Bà lão cho người đem ly cô ca lạnh cho vị tỳ kheo. Hôm sau, vừa thức dậy, vị t? kheo ước: "Mong sao bà lão dọn cho mình một bữa điểm tâm nhiều bị và thức ăn ngon lành". Bà lão cho người đem bữa điểm tâm đúng như vị ấy muốn. Vị tỳ kheo suy nghĩ: "Bà lão đã cho ta mọi thứ ta ao ước. Bấy giờ ta muốn gặp mặt bà. Mong sao bà hãy đích thân đến, mang cho ta thật nhiều thức ăn loại cứng loại mềm. Bà lão liền đi đến chùa cùng với thức ăn cúng dường đúng sở thích của vị tỳ kheo. Vị tỳ kheo nói: - Lão mẫu, có phải bà là Mã lão mẫu không? - Thưa vâng. - Bà có tha tâm thông à? - Tại sao Ðại Ðức hỏi vậy? - Vì bà đã cho tôi mọi thứ tôi nghĩ đến. - Nhiều vị tỳ kheo cũng có tha tâm thông. -Tôi không nói các tỳ kheo, tôi muốn hỏi bà. Bà lão tránh né trả lời bằng cách nói: - Thưa Ðại Ðức đâu cần phải có tha tâm thông mới có thể cúng dường các thứ ấy?
    Khi ấy vị tỳ kheo bắt đầu hoằng sợ, nghĩ: " Khốn thay, kẻ chưa chứng đắc như ta thì có khi nghĩ tốt nhưng cũng lắm khi nghĩ bấy. Nếu lỡ có một ý nghĩ bậy bạkhởi lên, bà lão sẽ tóm cổ ta như tóm bắt một kẻ trộm, và liếng hành lý ta ra khỏi chùa. Ta sẽ bị khốn đốn với bà lão. Chi bằng ta hãy thoát khỏi chốn này. Nghị vậy xong, vị tỳ kheo nói với bà lão: - Này lão bà, tôi muốn rời khỏi nơi đây. - Ðại Ðức đi đâu? - Trở về Thế tôn. - Ðại Ðức ở lại ít lâu đã. - Không tôi không thể ở lại. Tôi phải đi ngay.
    Thế là vị đại đức của chúng ta thu xếp hành lý thoát ra khỏi ngôi chùa bà lão, vừa đi vừa thở phào nhẹ nhõm cả người, như vừa thoát khỏi tử nạn. Khi trở về vườn Cấp cô độc, đến đãnh lễ Phật, Phật hỏi: - Sao, sao con không ở Mã Ðề thôn nữa à? - Bạch Thế tôn, bà lão biết hết mọi ý nghĩ trong tâm con. Và con nghĩ rằng, kẻ chưa chứng đạo như con thì có khi nghĩ tốt, nhưng cũng nhiều khi nghĩ bấy. Lỡ mà con có ý nghĩ xấu, bà lão ấy sẽ túm lấy đầu con, và sẽ làm con khốn đốn. - Con đi, chính nơi ấy con cần nên cư trú. - Bạch Thế tôn, con không thể nào ở chỗ ấy được nữa. - Này tỳ kheo, con có thể giữ một điều này thôi không? - Ðiều gì, Bạch Thế tôn, con chưa hiểu.
    - Chỉ giữ cái tâm của con, không làm việc gì khác.
    Sau khi nghe lời Phật dạy, vị tỳ kheo trở lại làng bà lão. Với thiên nhãn bà lão biết được vị tỳ kheo sắp đắc quả nên càng chu đáo cúng dường để hỗ trịï cho ông mau chóng đạt mục đích. Do đó, chỉ trong vài ngày vị ấy đắc quả A La Hán. Sau khi đắc quả, vị ấy suy nghĩ: "Bà ấy quả thực đã giúp đỡ ta rất nhiều. Nhờ bà lão ấy mà ta thoát ly được vòng sống chết. Không biết chỉ trong kiếp này bà ấy giúp ta, hay nhiều kiếp trước cũng vậy?" Vị La hán nhập định quán sát các tiền kiếp thì biết rằng trong 99 kiếp trước, bà lão đã làm vợ mình và đã ngoại tình với những người đàn ông khác, và làm cho mình phải thật điên bát đảo. Bà lão lại còn âm mưu giết mạng sống của mình. Khi biết được điều ấy, vị La hán nghĩ: "Ồ tín nữ này đã phạm biết bao tội ác!" Bà lão ngồi trong ngôi nhà riêng, biết được tâm niệm của vị A La Hán, và nghĩ: "Vị ấy đang nghĩ về tội lỗi 99 kiếp trước của ta. Nhưng trong vòng luân hồi đã qua, có lần nào ta giúp vị ấy không? Bà lão nhập định thấy ở kiếp thứ 100 về trước, bà đã cứu mạng sống của vị A La Hán khi vị ấy là chồng bà. Do đó, bà dùng thần giao cách cảm bảo vị La hán: - Hãy quán sát tiếp, đi sâu hơn nữa vào quá khứ. Bằng thiên nhị thông, vị La hán nghe được hiệu lệnh trên, và tiếp tục quán sát đến kiếp thứ 100 về trước của mình, thì thấy quả nhiên bà lão cứu mạng mình. Vị La hán nghĩ: "Tín nữ này quả đã giúp ta rất nhiều". Sau khi nghĩ như vậy, ngay tại chỗ vị ấy nhập Niết bàn vô dư y.
  4. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    22. ÔNG TRƯỞNG GIẢ KEO KIỆT​

    Cách thành Vương Xá không xa có một gia đình ông trưởng giả mệnh danh là Keo Kiệt. Bởi vì, mặc dù ông sở hữu tài sản kho đụn chất đống, gia súc ruộng vườn chất đống, ông không bao giờ sử dụng những của cải ấy cho vợ con hay cho chính mình, nói gì đến người thiên hạ. Một buổi sáng, sau khi có việc đến cung vua trở về, ông Keo Kiệt trông thấy một người ăn xin đang gặm một miếng bánh tiu giữa đường (thứ bánh làm bằng bột mì trộn đường bỏ vào dầu sôi phồng lên thành một cái bánh rỗng ruột). Ông thèm quá, định bụng về bảo vợ làm như vậy. Nhưng về đến nhà, ông suy nghĩ: "Nếu ta nói cho bà ấy biết ta thèm bánh tiu, bà ấy sẽ làm cho cả nhà cùng ăn thì sẽ tốn quá nhiều bột, đường, mè, dầu mỡ và các thứ khác. Chi bằng lặng thinh tốt hơn ".
    Nghĩ vậy ông Keo Kiệt lặng lẽ vào phòng, leo lên giường nản thở dài sườn sượt, chiến đấu với cơn thèm, nhưng sợ hao tốn ông không dám thố lộ cùng ai nỗi thèm khát ấy. Thấy chồng buồn bã, bà vợ đến bên hỏi han: - Sao ông buồn rầu như vậy? Có chuyện gì không? - Không có gì đâu, bà ạ . - Vua có quở trách ông chăng? - Không có. - Các con trai, con gái, dâu rễ, cháu chắc, người ăn kẻ làm, tôi tớ trong nhà, có đứa nào làm ông phất lòng hay không? - Tuyệt đối không có chuyện ấy. - Vậy thì, hay là ông đang ao ước một chuyện gì? Ông keo kiệt nghe vợ nói vậy, càng sợ tốn hao của cải, nên nhất quyết không hở môi, vẫn nằm bất động mà thở dài. Bà vợ năn nỉ:- Này, ông hãy nói đi, ông muốn cái gì thì bảo? Ông trưởng giả nuốt nước bọt đánh ực một cái, rồi mới thở dài não nuột bảo: - Phải, tôi đang thèm một chuyện. - Thèm chi, ông hãy nói ra thử tôi nghe. - Tôi thèm ăn một cái bánh tiu. Trời đất quỷ thần đi! Bộ mình nghèo lắm sao? Tại sao ông không bảo tôi ngay? Thứ bánh đó làm dễ ợt. Tôi có thể làm ngay một mớ bánh tiu cho dân chúng cả thành phố này ăn. - Này, nhưng tại sao bà nghĩ điên rồ như vậy? Dân chúng ai làm nấy ăn mắc gì tới bà? - Vậy thì, tôi có thể làm bánh cho hết thầy người ở con đường này ăn. - Cái đầu của bà làm sao vậy, hả? Tại sao lại cứ nghĩ chuyện ngoài đường? - Vậy, tôi có thể làm bánh cho cả nhà ăn. - Bà điên mất rồi. Bà có biết nhà ta đông đến mấy trăm mấy ngàn miệng ăn không? - Vậy, tôi sẽ làm bánh cho ông, tôi và các con chúng ta ăn. - Tại sao bà phải bận tâm tới chúng nó? - Vậy, tôi sẽ làm bánh cho ông và tôi ăn thôi. - Nhưng còn bà , bà ăn bánh tiu làm gì đã chứ? -Vậy, thì tôi chỉ làm bánh cho một mình ông ăn thôi. - Bà nói vậy nghe mới được. Nhưng ở trong cái nhà này, chúng ta làm gì cũng có nhiều người trông thấy. Vậy bà hãy đem bột đường dầu mè và các thứ soong chảo lò bệ đi với tôi lên tuốt trên tầng lầu thứ bẩy, ở chót vót trên cao ấy, chúng ta mới làm bánh được, khỏi bị ai dòm ngó. - Ðược rồi. Bà vợ soạn tất cả dụng cụ và vật dụng làm bánh, lễ mễ bưng lên tầng lầu chót. Ông trưởng giả xách xâu chìa khóa đi theo khóa hết các lối đi lên. Sau khi đến tầng lầu cuối, khóa cửa xong, ông mới bảo vợ bắt đầu khuấy bột chiên bánh.
    Lúc ấy, tại Kỳ viên tịnh xá, Ðức đạo sư bảo tôn giả Mục Liên: - Này Mục Liên, trong thành phố kia, có ông trưởng giả keo kiệt đang ngồi trên tầng lầu chót mà chiên bánh vì sợ người thấy. Vậy, ông hãy vận thần thông đến đó, đem tất cả người và bánh lại đây cho ta. Trưa nay, ta và chúng tỳ kheo sẽ độ ngọ bằng rỗ bánh ấy và cải hóa trưởng giả keo kiệt. - Thưa vâng , bạch Thế tôn. Tôn giả Mục Liên vâng lời, vận thần thông đi đến chỗ trưởng giả. Ngài hiện hình đắp y chỉnh tề đứng giữa hư không, ngay trước cửa sổ. Ông Keo Kiệt nhìn ra giật mình tự nhủ: "Chính vì sợ gặp những người như vậy mà ta mới leo tấn đây, Thế mà sa môn này cũng lò dò tới được, lại đứng ngay trước cửa sổ!" Rồi ông tức giận nói lớn: Này, tỳ kheo kia, muốn gì mà đứng như trời trồng ở đó? Dù ngươi có đi tới đi lui cho mỏi cả chân, cho thành một con đường mòn giữa hư không, ngươi cũng không được gì đâu." Tức thì, vị tôn giả khởi sự đi tới đi lui. Ông Keo Kiệt tức mình bảo: "Ngươi đi lui đi tới làm chi cho mất công! Dù ngươi có ngồi kiết già giữa trời, ngươi cũng không được gì đâu!" Tôn giả liền ngồi giữa hư không. Ông Keo Kiệt bảo: - Ngồi kiết già làm chi đó? Vô ích mà thôi. Cho dù ngươi có phun ra khói đi nữa, ngươi cũng không được gì đâu. Tôn giả liền phun khói vào cửa sổ, khói lên đầy đặc cả gian phòng. Sợ tôn giả sẽ làm gian phòng phát hỏa nên ông keo kiệt không dám nói thêm "dù ngươi có phun lửa, ngươi cũng không được cái bánh nào!" Ông tự nhủ: "Sa môn lì lợm này có lẽ nhất quyết ăn cho được cái bánh của mình mới chịu đi". Rồi ông bảo vợ: - Này bà, thôi hãy chiên một cái bánh nhỏ xíu đưa ông ta đi cho xong. Bà vợ lấy một ít bột bỏ vào chảo dầu. Nhưng cái bánh phồng lên đầy cả chảo. Ông bảo bà: - Bà lấy nhiều bột quá. Ðể tôi lấy cho. Ông lấy một chút bột dính đầu muỗng bỏ vào chảo. Do thần lực của tôn giả, cái bánh này còn lớn hơn cái bánh trước. Ông Keo Kiệt cứ tưởng mình lấy quá nhiều bột, nên tiếp tục chiên cái khác nhỏ hơn mới đem cho. Nhưng càng ngày bánh cứ càng lớn thêm, không thấy cái nào nhỏ cả, ông bèn bảo bà - Thôi, bà hãy lấy đưa cho ông ấy bất cứ cái nào, một cái một mà thôi.
    Bà vợ lấy một cái bánh đã chiên từ nơi rỗ. Nhưng bà không rứt ra được cái nào, nên bảo: - Ông đi, bánh mắc dính vào nhau. Tôi không thể nào gỡ ra được một cái. - Ðể tôi gỡ cho. Rồi ông cầm một cái bánh, bà cầm rỗ bánh, cả hai cố kéo cho rứt ra một cái mà biếu vị sa môn. Nhưng ông không tài nào rứt ra được, mồ hôi đổ ra nhễ nhại, ướt cả mặt mày y phục. Mắt hai vợ chồng đỏ ngầu vì khói do tôn giả phun ra. Cuối cùng ông trưởng giả mệt nhoài, không thiết gì nữa, bảo vợ: - Này bà, tôi không ăn uống gì nữa hết. Bà hãy đem hết rỗ bánh cúng dường vị sa môn đi.
    Mục Liên tôn giả thu hồi thần lực làm cho hết khói, rồi thuyết pháp cho ông keo kiệt nghe. Nghe xong, ông phát sinh lòng tin thanh tịnh đối với Tam bảo, cung kính mời: - Bạch Tôn giả, xin ngài hãy tới đây, ngồi trên chỗ này mà dùng bánh của con. - Này trưởng giả, đức Ðạo sư đang chờ dùng bánh này. Ta hãy đem tới cúng dường Ngài. - Bạch tôn giả, nhưng hiện Ngài ở đâu? - Ngài đang ở Kỳ viên tinh xá, cách đây chừng 45 dặm. - Quỷ thần ơi, xa như vậy làm sao chúng con tới kịp giờ Ngài dùng ngọ? - Trưởng giả, nếu ngươi muốn, ta sẽ đưa ngươi vợ ngươi và bánh đến nơi Ngài trong chớp mắt. Ðỉnh cầu thang sẽ ở nguyên chỗ, nhưng cái chân cầu thang này sẽ ở ngay cổng vào tinh xá. Các ngươi sẽ đến đó trong khoảng thời gian ngắn hơn đi bộ xuống bảy tầng lầu. - Bạch tôn giả, như vậy rất tốt.
    Tôn giả hóa phép cho cái chân cầu thang ở ngay cổng tinh xá . Vợ chồng ông keo kiệt xuất hiện trước Ðấng Ðạo sư, đảnh lễ và thỉnh Phật dùng bánh. Khi Phật và chúng tỳ kheo ngồi vào phòng ăn, ông trưởng giả đặt một cái bánh vào bát của Ngài. Tăng chúng thì dùng bánh nơi rỗ do bà vợ dâng lên. Vợ chồng trưởng giả cũng được dùng bánh cho đến khi thỏa thích. Sau khi đức Phật, Tăng chúng và hai cư sĩ dùng xong bữa, rỗ bánh vẫn còn nguyên vẹn như cũ. Ðức Phật bảo đem bánh ấy để ngoài cổng tinh xá cho chim ăn. Ðến nay nơi ấy vẫn còn được gọi là động Bánh.
    Ðức Phật thuyết tùy hỷ pháp cho hai cư sĩ. Khi nghe xong thời pháp, của Phật, ông bà trưởng giả đều đắc quả Dự lưu (Nhập dòng thánh). Họ đảnh lễ Phật, bước lên cầu thang, và do thần lực của tôn giả Mục Liên, đến ngay tầng bảy của tòa lâu đài mình. Ðức Thế tôn nhân đấy đã khen tôn giả Mục Liên một lời về sau được ghi vào kinh Pháp Cú như sau:
    "NÀY CÁC TỲ KHEO, MỘT VỊ TỲ KHEO MUỐN CẢI HÓA MỘT GIA ÐIÌNH MÀ KHÔNG LÀM MẤT TÍN TÂM CỦA HỌ, KHÔNG LÀM HAO TỔN TÀI SẢN CỦA HỌ, KHÔNG PHIỀN NHIỄU HỌ, THÌ PHẢI NHƯ ONG HÚT MẤT HOA, CHỈ GIỮ LẤY MÙI VỊ, KHÔNG LÀM TỔN THƯƠNG HƯƠNG SẮC VÀ NHƯ VẬY CHÍNH LÀ HẠNH CỦA PHÁP TỬ MỤC LIÊN."

  5. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    23. TÔN GIẢ TÍ HON​

    Thuở Phật còn tại thế, một hôm vị đệ tử Ðại trí của Ngài, Tôn giả Xá Lợi Phất, đi khất thực trong thành Vương xá, Ngài bỗng nhớ tới một người bạn nghèo của thân phụ, và muốn đến gieo phước cho ông. Tôn giả đi đến nhà ộng lão. Khi thấy Tôn giả từ xa đi lại, ông lão nghĩ thầm " Kìa là cháu Upatissa (tên của Tôn giả lúc ở đời) yêu dấu của ta ngày xưa đến khất thực. Y không biết rằng ta chẳng còn gì để cho y ". Nghị thế, ông lão lánh mặt, tự nhủ xin được chút gì mới cúng dường tôn giả. Ít hôm sau, ông lão kiếm được một ít cháo và một mảnh y phục nhờ sự tụng đọc kinh điển Bà la môn. Ông định bụng sẽ cúng dường tôn giả. Lúc ấy tôn giả đang nhập định, quán sát ông lão muốn bố thí, nên ngài xuất định, ôm bát đến nhà ông lão. Khi tôn giả đến trước cửa như thường lệ, ông lão ra đãnh lễ tôn giả, mời vào nhà để cúng dường. Tôn giả chỉ nhận phân nửa bát cháo, rồi đấy nạp bát. Nhưng ông lão năn nỉ: "Bạch tôn giả, đây chỉ có một phần ăn. Xin tôn giả nhận tất cả, cho con được phước báu đời sau. Con muốn cúng tất cả cho Ngài. Nói rồi ông đổ trọn bát cháo vào bát tôn giả. Tôn giả Xá Lợi Phất dùng cháo ngay tại chỗ. Khi Ngài dùng xong ông lại cúng nốt mảnh y phục cho Ngài: - Bạch Tôn giả, nguyện cho con đời sau có trí tuệ siêu việt như Ngài. - Này Bà la môn, ngươi sẽ được toại nguyện. Tôn giả đáp, và sau khi nói lời tùy hỷ công đức, Ngài đứng lên tiếp tục du hành đến Kỳ viên tinh xá.
    Ông lão sau khi cúng dường Tôn giả thì vui mừng vô hạn, và càng tăng lòng ái mộ đối với Tôn giả. Do sự kính ái này, ông lão thác sinh vào gia đình một thí chủ thường xuyên của Tôn giả Xá Lợi Phất. Khi bà tín nữ mang thai, bà đâm ra khát khao hơn bao giờ hết, được cúng dường cháo hàng ngày cho chúng tỳ kheo của Tôn giả Xá Lợi Phất gồm tất cả 500 vị. Bà khao khát được mặc y vàng, đến ngồi ngoài cổng tinh xá mà chực ăn phần cháo thừa của chúng Tăng, để thừa hưởng phước trí trang nghiêm. Thân quyến và chồng bà giúp bà thực hiện ước nguyện ấy, cúng dường cháo hàng ngày cho chúng tỳ kheo. Có người cho rằng sự thích mặc áo vàng của bà là điềm báo trước người con trong bụng sẽ là một vị tỳ kheo đệ tử Phật, và họ lấy làm sung sướng. Ðúng kỳ sinh nở, một hài nhi xinh đẹp ra đời, cả gia đình hân hoan đón tiếp. Họ tắm em bé bằng nước thơm, mục cho em bé những y phục vô cùng quý giá đã may sẵn từ trước, và đặt em bé n?n trong một chiếc nôi lộng lẫy như một hoàng cung, đạp cho em bé một cái mền gấm sang trọng. Rồi thỉnh tôn giả Xá Lợi Phất và chúng tỳ kheo đến quy y cho em bé. Khi tôn giả đến em bé đang nằm ngửa nhìn chăm chăm vào Tôn giả với một cặp mắt tinh anh lạ kỳ, một cách nhìn trìu mến như đối với người đồng hàng quyến thuộc. Em bé nghĩ: "Ðây là thầy của ta đời trước, nhờ Ngài mà ta được sang quý ở đời này. Ta phải cúng dường Ngài một cái gì." Khi người mẹ ẵm em bé lên để thụ tam quy, ngũ giới với tôn giả, những ngón tay của em bé quấn vào trong cái mền gấm. Gia nhân la lên: "Kìa, tay em bé bị kẹt trong cái mền gấm", và chạy lại gỡ ra thì em bé òa khóc như không muốn rời. Người mẹ nói: "Ðể vậy đừng làm em bé khóc", và ẵm con đến cho Tôn giả. Khi đến trước Tôn giả, em bé thả tay cho cái mền rớt phủ trên chân Ngài. Người mẹ thông ngôn rằng: - Bạch Tôn giả, xin Ngài nhận cho con của cúng dường này, và cho con được thụ tam quy ngũ giới làm đệ tử ngài. Tôn giả hỏi tên đứa bé đó là gì? - Bạch Tôn giả xin ngài cho hài nhi cái tên của ngài lúc tại thế. - Vậy nó sẽ mang tên Tích Sa (Upasstisa là tên của tôn giả ).
    Khi được bảy tuổi Tích sa nói với mẹ: - Thưa mẹ, con muốn xuất gia theo Tôn giả Xá Lợi Phất. - Tốt lắm cho con xuất gia. Rồi bà mời Tôn giả lại rồi bạch: - Bạch tôn giả, đệ tử của Ngài xin được xuất gia với Ngài. Chiều nay con sẽ đưa y đến tu viện. Sau khi đươc Tôn giả nhận lời, bà mẹ sắm nhiều lễ vật cúng dường, và dẫn chú bé đến Kỳ viên tinh xá. Tôn giả nói với Tích Sa:
    - Tích Sa này, đời sống của người xuất gia rất cam khổ. Khi muốn ấm nhà ngươi phải gặp lạnh, muốn mát ngươi lại gặp nóng. Những tỳ kheo phải sống ngược đời như thế đấy. Liệu ngươi có sức chịu đựng không?
    - Bạch Tôn giả con sẽ làm tất cả những gì ngài dạy bảo.
    - Tốt lắm.
    Rồi Tôn giả dạy cho Tích Sa quán pháp bất tịnh bằng cách học 5 món đầu trong 32 món ô uế trong thân là tóc, lông, móng, răng, da. Tôn giả lại truyền cho Tích Sa thấp giới và từ đó Tích Sa khởi sự cuộc đời của một chú tiểu.
    Ðể mừng việc xuất gia của con, cha mẹ Tích Sa cúng dường cháo thấp cẩm cho toàn thể chúng tăng ở Kỳ viên suốt một tuần lễ. Những tỳ kheo chưa chứng quả không ngớt thì thầm với nhau: "Ngon thật. Ðâu phải chúng ta luôn luôn được như thế này".
    Sau bảy ngày thết đãi chúng tăng, cha mẹ tích Sa từ giã trở về nhà. Qua ngày thứ tám, chú tiểu Tích sa bắt đầu ôm bát đi bọc hậu đoàn tỳ kheo do tôn giả Xá Lợi Phất dẫn đầu, để vào thành Xá vệ khất thực.
    Những người trong thành phố bảo nhau: "Nghe đồn hôm nay chú tiểu Tích sa sẽ đi khất thực trong thành phố. Ta hãy sửa soạn tặng phẩm cúng dường". Bởi thế, khi Tích Sa vào thành, những người quen biết cha mẹ chú tiểu đều đem phẩm vật cúng dường tới tập. Chú tiểu nhận được 500 bát đầy phẩm vật và 500 bộ y phục đem về chùa. Hôm sau, những người chưa được cúng lại thân hành đem phẩm vật t?i tinh xá. Chú tiểu nhận thêm 500 bát, 500 y, rồi dâng tất cả một ngàn y, một ngàn bát cho chúng tỳ kheo tại tinh xá Cấp cô độc. Do đó chú được đại chúng mệnh danh là thí chủ Tích Sa.
    Một hôm vào thời tiệt giá buốt, trong khi Tích Sa quét dọn chung quanh tinh xá, chú tiểu thấy chư tăng tụm năm tụm ba đang sưởi bên những đống lửa, bèn hỏi:
    - Bạch chư Ðại đức, tại sao chư Ðại đức phải hơ lửa vậy? (Trẻ con thường không biết rét là gì).
    - Chú tiểu đi chúng tôi lạnh cóng cả người phải hơ cho ấm.
    - Bạch chư Ðại đức khi nào trời rét thì ta đắp mền cho ấm. Mền sẽ ngăn cái lạnh không cho thấm vào cơ thể.
    - Chú tiểu có nhiều phước đức mới có mền mà đạp, chớ chúng tôi làm sao có mền được?
    - Bạch chư Ðại đức, thế thì ngày mai, vị nào cần mền xin hãy đi với con vào thành.
    Rồi chú xin chư tăng thông báo như vậy cho chúng tỳ kheo trong tinh xá. Bởi vậy hôm sau có một ngàn vị tỳ kheo cùng đi theo chú tiểu. Trước khi vào thành Xá vệ, chú ghé từng nhà ở ngoài thành và đã được 500 cái mền. Khi vào thành mọi người đổ xô đến cúng dường theo lời yêu cầu của chú tiểu. Tại một cửa tiệm, ông chủ đang ngồi sau một đống mền cao ngất. Một người đi đường đến rỉ tai:
    - Này, có một chú tiểu đang đi xin mền đấy, nên giấu hết đi. Ông chủ nói:
    - Nếu tôi muốn cho, thì tôi cho. Không muốn thì tôi không cho. Giấu làm gì?
    Nhưng khi người kia đi khỏi ông chủ ngẩm nghĩ, và giấu bớt hai cái mền thượng hạng trong số mền bày bán. Ngay lúc ấy Tích Sa cũng vừa đến. Mới thấy mặt chú tiểu ông đã đem lòng thương mến vô cùng. Cả người ông tràn ngập một niềm kính yêu chan chứa. Ông nghĩ: "Coi đáng yêu chưa tề! Trông mặt mũi một bé trai kháu khỉnh như thế kia, thì dù có đem cho cả thịt da tim ruột của ta, ta cũng không tiệc, nói chi tới vài ba cái mền". Và lập tức, ông rút ngay cái mền quí giá nhất đặt dưới chân Tích Sa, đảnh lễ mà bạch:
    - Bạch Ðại đức, mong sao con được thấm nhuần ánh sáng đạo mà ngài đã thấy.
    - Cư sĩ sẽ toại nguyện.

  6. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    Chú tiểu chúc tụng, rồi nói lời tùy hỷ công đức. Ngày hôm ấy chú tiểu nhận đúng một ngàn cái mền cho chúng tỳ kheo. Do đó, chú lại được mệnh danh là người cho mền. đó là nhờ công đức lúc mới sinh Tích sa đã cúng dường mền cho Tôn giả Xá Lợi Phất.
    Tại tinh xá Kỳ viên, chú tiểu Tích Sa phải tiếp đón những cậu bé bạn cũ đến thăm . Ngày nào chúng cũng tới, hỏi han mọi chuyện, làm cho chú không có thì giờ mà tham thiền nhập định gì hết. Nghĩ rằng sanh tử là việc lớn, chú đến xin Ðức Phật một đề mục thiền định để rút vào rừng sâu tu tập.
    Khi đến một khu làng, Tích sa gặp một ông lão. Chú hỏi:
    - Thưa cư sĩ, gần đây có một cánh rừng nào để tu sĩ ẩn cư không?
    - Bạch Ðại đức, có.
    - Vậy, xin người hãy chỉ đường cho tôi đến đó.
    Mới nhìn chú, ông lão đã có cảm tình, nên bằng lòng dẫn chú đi. Vừa đi chú vừa hỏi ông lão địa danh những nơi đi qua. Khi tới rừng, ông lão nói:
    - Bạch Ðại đức, đây là chỗ tốt lành. Ngài hãy ở đây và xuống làng chúng tôi mà khất thực.
    Dân chúng yêu kính chú khôn cùng và năn nỉ: "Ðại đức ở đây thật lâu với chúng tôi để chúng tôi được thọ tam quy ngũ giới với ngài".
    Họ cúng dường những vật dụng cần thiết cho Tích Sa. Mỗi khi nhận Tích sa đều chúc lành cho thí chủ như sau:
    - Mong thí chủ được hạnh phúc an vui. Mong thí chủ thoát khỏi khổ ách.
    Sau hai tháng ở rừng nỗ lực tu tập thiền định, Tích Sa chứng quả A La Hán. Bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất có ý định thăm chú, nên bạch Phật:
    - Bạch Thế tôn, con sẽ đi thăm chú tiểu Tích Sa.
    - Ðược, ngươi cứ đi.
    Tôn giả đến bên người bạn cố tri của ngài là tôn giả Mục Kiền Liên:
    - Hiền huynh, Tôi sẽ đi thăm Tích sa.
    - Tôi cũng đi với.
    Và tất cả những vĩ đại đệ tử của Phật như ngài Ca Diếp, A Nậu Lâu Ðà, Ưu Ðà Di, Phú Lâu Na,v.v... đều đi cùng tôn giả Xá Lợi Phất để thăm chú tiểu ở trong rừng. Khi đoàn Thánh chúng đến, dân cư tiếp đón nồng nhiệt. Họ vô cùng hân hoan được trông thấy vị Thánh đệ tử Xá Lợi Phất nổi danh thiên hạ, và xin ngài ban cho một thời Pháp. Nhưng tôn giả từ chối:
    - Ta đến thăm chú tiểu Tích Sa của ta cái đã.
    Khi Tích Sa được tin, chú xuống làng thi lễ, và làm bổn phận của một chú tiểu đối với những vị trưởng thượng đầy uy đức của mình. Chỗ nghỉ ngơi đã được dân cư lo chu đáo tại một ngôi chùa trong làng. Họ lập lại lời thỉnh cầu nghe Pháp, mặc dù trời đã tối. Tôn giả Xá Lợi Phất nói:
    - Vậy, hãy đốt đèn lên và loan tin cho Phật tử xa gần đến nghe.
    Khi dân làng tề tựu, tôn giả Xá Lợi Phất bảo Tích sa: - Này Tích sa, các thí chủ của con ngỏ ý muốn nghe pháp. Con hãy nói pháp cho họ đi.
    Toàn thể dân làng đều đồng thanh thưa:
    - Bạch Tôn giả, vị đại đức của chúng con không biết gì ráo, ngoài ra hai câu: "Mong gia chủ được hạnh phúc an vui, mong gia chủ thoát khỏi khổ ách." xin Ngài cho vị khác nói pháp cho chúng con nghe.
    Khi ấy tôn giả hỏi chú tiểu:
    - Tích sa, nhưng làm sao để được hạnh phúc an vui? Người ta phải làm thế nào để thoát khỏi khổ ách? Con hãy giải rộng hai câu ấy.
    - Thưa vâng, bạch Tôn giả.
    Tích Sa thăng tòa, giảng như nước chảy về khổ đế, nguyên nhân khổ, Niết bàn và con đường đưa đến tịch diệt. Và chú kết luận:
    - Bạch chư Tôn giả, đó là đường đi của một vị A La Hán để thoát khỏi khổ ách, để được an vui.
    - Giỏi! Con đã thông thuộc rành rẽ giáo pháp.
    Những cư dân nghe xong thời pháp đều rất ngạc nhiên. Một số mừng vì lâu nay được cúng dường một vị thông tuệ, nhưng một số tỏ ý bất mãn, bảo nhau:
    - Không dè vĩ đại đức thuyết pháp hay như vậy. Tại sao lâu nay đại đức cứ câm miệng hến không chịu nói gì cả? Thật gan lì.
    Từ tinh xá Cấp cô độc, đức Thế tôn biết được tâm niệm bất kính của những cư dân này đối với Tích Sa. Ngài động lòng từ bi, muốn cho họ khỏi tội báo xúc phạm một vị A La Hán, nên đích thân đến làng thăm chú tiểu. Khi thấy đức Phật thân hành đi đến làng để thăm Tích sa, dân làng mới hoàn toàn công nhận tầm quan trọng của vĩ đại đức tí hon ấy. Ngài bảo Tích Sa đưa ngài lên ngọn núi cao nhất từ đó có thể nhìn xuống biển cả, và hỏi:
    - Tích Sa, khi đứng trên đỉnh núi này, nhìn quanh con thấy gì?
    - Bạch Thế tôn, con thấy nước biển mênh mông không bờ bến.
    - Con nghĩ gì khi thấy đại dương?
    - Bạch Thế tôn, con nghĩ: trong vô số kiếp luân hồi, ta đã đổ bao nhiêu là nước mắt để khóc vì những nỗi đau khổ, nước mắt ta có lẽ còn nhiều hơn nước mắt trong bốn biển lớn kia.
    - Ðúng lắm, Tích Sa.
    Rồi ngài đi thăm động đá nơi Tích Sa cư trú.
    - Con nghĩ gì khi cư trú nơi đây?
    - Bạch Thế tôn, con nghĩ: Ta đã chết vô số lần, vô số lần thi hài ta đã nằm trên đất này.
    - Ðúng lắm, Tích Sa! Không có một nơi nào trên mặt đất mà chúng sinh không xả bỏ thân mạng vô số lần ở đó.
    Và Ngài hỏi tiếp:
    - Tích Sa, khi con nghe tiếng hổ báo gầm trong rừng sâu con có sợ không?
    - Bạch Thế tôn, con không sợ. Trái lại một niềm yêu thích núi rừng lại dâng lên trong tâm khảm con.
    Và Tích Sa đã đọc cho Phật nghe 60 bài thơ mình đã cảm hứng từ rừng sâu.
    Sau khi thăm các nơi, đức Thế tôn từ giã:
    - Tích Sa, bây giờ ta trở về tinh xá. Con muốn đi theo ta, hay ở lại rừng?
    - Bạch Thế tôn, nếu thầy con (chỉ Tôn giả Xá Lợi Phất) muốn con trở về, con sẽ trở về. Ngài muốn con ở lại, con sẽ ở lại.
    Tôn giả đoán biết Tích Sa không muốn trở về nên bảo:
    - Tích Sa, con hãy ở lại rừng, nếu con muốn vậy.
    Tích Sa đảnh lễ Phật và chư Tôn giả rồi quay trở về rừng, sau khi đưa tiễn các Ngài một quãng xa.
    Tại Diệu pháp đường trong tinh xá Cấp cô độc, khi chúng tỳ kheo ngồi bàn tán về hạnh xả ly của Tích Sa, họ không ngớt lời tán thán:
    - Khó thay, những gì Tích Sa đã làm! Bỏ tất cả lợi dưỡng, cung kính, để rút vào ẩn cư trong rừng sâu!
    Ðức Phật nhân đó thốt lên bài kệ thứ 75 trong kinh Pháp cú:
    "MỘT NẺO ÐƯỜNG DẪN ÐẾN THẾ LỢI, MỘT NẺO ÐƯỜNG KHÁC DẪN ÐẾN NIẾT BÀN. HÀNG TỲ KHEO ÐỆ TỬ ÐẤNG GIÁC NGỘ KHI HIỂU NHƯ VẬY, KHÔNG NÊN THAM ÐẮM LỢI DƯỠNG THẾ GIAN, MÀ PHẢI CHUYÊN TÂM VÀO HẠNH ÐỘC CƯ THIỀN ÐỊNH."
  7. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    24. ÐỊNH NGHIỆP KHÓ TRÁNH​

    Thuở Phật tại thế, có một vị tỳ kheo số phần xui xẻo. Mặc dù thầy tu hành rất tinh tấn, giới hạnh trang nghiêm mà không bao giờ được no đủ. Số "con rệp" ấy theo đuổi thầy mãi cho tới khi mãn phần, sau khi đã đắc quả A La Hán. Ðến ngày lâm chung, nhờ thần lực của Tôn giả Xá Lợi Phất, vị Tôn sư của thầy, thầy mới ăn một bữa no lòng trước khi lìa đời.
    Thầy xui xẻo từ khi còn trong bụng mẹ. Chẳng những riêng thầy xui xẻo, mà thầy còn mang sự bất hạnh đến cho tập thể trong đó có hiện diện của mình. Thầy là con của một gia đình đánh cá ở một làng ven biển có 1000 hộ khẩu. Từ khi thầy nhập thai, cả làng đi biển không đánh được con cá nào suốt cả tháng, mọi người phải ăn rong biển cho đỡ đói lòng. Họ bắt đầu nghi ngờ có một gia đình hắc ám trong làng đã đem tai vạ cho tất cả. Do đó họ cố tìm cho kỳ được cái gia đình xui xẻo ấy để loại ra khỏi tập thể. Phương pháp họ làm là chia số hộ khẩu trong làng thành hai nhóm, mỗi nhóm 500 gia đình để làm ăn riêng, sinh hoạt riêng. Kết quả là một nhóm bắt đầu khá giả trở lại, một nhóm tiếp tục số phận xui xẻo. Nhóm này lại chia hai để biết cái gia đình xui xẻo ấy nằm ở đâu. Khi chia thành hai nhóm nhỏ cũng như trước, 250 gia đình bắt đầu khá còn 250 gia đình vẫn còn xui. Lại chia hai lần lượt như vậy để biết gia đình xui xẻo nằm nhóm nào, cuối cùng họ khám phá ra gia đình của thầy tỳ kheo nọ. Cả gia đình thầy bị loại ra khỏi làng, đi lang thang như những người Do thái.
    Bà mẹ khám phá rằng chính từ ngày mang thai thầy, tai họa mới đến cho cả làng và cho gia đình, nên muốn cho thầy chết đi. Tuy nhiên, một người chỉ còn một đời cuối cùng này là giải thoát (chứng quả A La Hán, không còn trở lui cõi đời) thì không ai có thể giết chết được trừ phi chính nghiệp lực của vị ấy. Do vậy cuối cùng mẹ thầy vẫn phải sinh ra thầy, và nuôi cho đến khi thầy biết đi xin ăn. Trong thời gian có đứa con mang sự xui xẻo ấy, bà rất vật vả khốn đốn trong việc kiếm ăn. Cho đến một ngày không chịu đựng được nữa, sau khi đẩy thầy vào xin ăn tại một nhà nọ, bà mẹ tẩu thoát.
    Ðứa trẻ - vị A La Hán tương lai - ngơ ngác khi bước ra không thấy mẹ, cũng không có cái gì ăn, bèn đi lang thang đầu đường xó chợ lượm những mẩu bánh người ta vứt bên đường để ăn cho đỡ đói. Trong "cuộc lữ" đó, đứa trẻ tình cờ gặp Tôn giả Xá Lợi Phất. Ðộng lòng thương, Ngài hỏi:
    - Con cái nhà ai? Sao gầy sọp thế?
    - Bạch Tôn giả, con là một đứa mang lại sự xui xẻo cho mọi người, nên không ai chịu nuôi con, con phải ốm đói.
    - Con có muốn xuất gia trở thành một tu sĩ không?
    - Bạch Tôn giả con muốn lắm chớ, nhưng ai mà chịu chứa chấp con?
    - Lại đây, ta sẽ độ cho con.
    Ðứa trẻ vui mừng đi theo Tôn giả. Tôn giả Xá Lợi Phất dắt về vườn Cấp Cô Ðộc, tắm rửa sạch sẽ, cho ăn cơm và Thế phát quy y cho cậu bé làm một sa di đuổi quắ [Chú thích: "Khu ô sa di" là chú tiểu còn quá nhỏ chưa đến tuổi thụ giới - 16 tuổi - chưa làm được việc gì ngoài việc đuổi quắ cho chúng khỏi làm ồn náo trong giờ chư Tăng tọa thiền.] Lớn lên, đến tuổi thành niên, Tôn giả cho thầy thọ giới cụ túc thành một vị tỳ kheo.
    Số phần xui xẻo vẫn theo mãi chân vị tỳ kheo suốt cả đời. Mỗi khi đi khất thực, người ta vừa để vào bát của thầy một muỗng cơm thì thấy bát đã đầy tràn, làm cho không ai có thể bỏ gì thêm được nữa. Khi thầy về tới chùa, thì trong bát chỉ có độc một muỗng cơm để cầm hơi cho thầy khỏi chết đói. Cứ như vậy cho đến ngày mệnh chung đã chứng quả A La Hán, thầy cũng chưa bao giờ được một bữa ăn no lòng.
    Biết thầy sắp mãn phần ở dương gian, Tôn giả Xá Lợi Phất động lòng thương xót nghĩ: "Losaka (tên của thầy tỳ kheo xui xẻo) hôm nay sẽ mệnh chung. Ta sẽ làm đủ mọi cách giúp vị ấy ăn m?t bữa cho no trước khi chết."
    Với ý định ấy, Tôn giả dẫn vị tỳ kheo đi vào thành Xá vệ khất thực. Nhưng vì có Losaka, Tôn giả không xin được món gì, Ngài đành phải bảo vị ấy trở về, và đi một mình để xin ăn. Sau khi khất thực đầy bát, Tôn giả đem về cho v? tỳ kheo. Ngài đứng ôm bát trước mặt đệ tử bảo:
    - Con hãy ăn đi.
    Vị tỳ kheo ngần ngại không dám ăn trước mặt tôn sư, và nhất là để Ngài cầm bát, mặc dù thầy rất đói. Tôn giả giục:
    - Con đừng ngại, ta phải cầm bát để chờ cho con dùng bữa cho xong mới được. Vì nếu không có ta ôm bát, tất cả thức ăn này sẽ biến mất, và con sẽ tiếp tục đói.
    Vị tỳ kheo vâng lời thọ thực. Nhờ thần lực của Tôn giả Xá Lợi Phất, vị ấy ăn được một bữa no lòng trước khi xả báo thân chót của một vị A La Hán.
    Sau khi thầy tỳ kheo xui xẻo quá vãng, các tỳ kheo khác nhóm họp tại Diệu pháp đường trong vườn Cấp Cô Ðộc hỏi đức Thế tôn nguyên nhân vì sao, với một đời giới hạnh thanh tịnh, tu hành tinh tấn, vị tỳ kheo bạc phước vẫn phải gánh chịu sự rủi ro suốt đời như vậy. Phật dạy:
    - Này các tỳ kheo, những hành động của chính vị ấy trong tiền kiếp là nguyên nhân sự xui xẻo hiện tại của y. Trong tiền kiếp y cũng là một tỳ kheo, do lòng ganh tị, y đã cản trở cư sĩ cúng dường một vị tỳ kheo khác, trong khi vị này đã chứng quả A La Hán. Vì ác nghiệp ấy cho nên dù có tu hành thanh tịnh, y vẫn thọ quả báo thiếu thốn, xui xẻo trong nhiều đời kiếp, cho đến khi chứng quả.
    LỜI BÀN: Mặc dù huyễn hóa, mà nhân quả vẫn không mất, hành động và hậu quả theo nhau như bóng với hình. Cho nên người trí chỉ sợ nhân, không sợ quả, trong khi người ngu rất sợ quả xấu mà lại không gieo nhân tốt. Vị tỳ kheo đệ tử Tôn giả Xá Lợi Phất, mặc dù bị một số phận hẩm hiu đeo đẳng cho tới chết, vẫn luôn luôn nhất tâm thanh tịnh tu hành, không sanh tâm ghen ghét phiền muộn, nhờ vậy cuối cùng chứng quả Vô sanh (A La Hán). Ấy là vui lòng trả nợ cũ mà không gây thêm nợ mới, là cái nghiệp đưa đến sự đoạn tấn các nghiệp vậy.
  8. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    25. LẠI TRA HÒA LA​

    Khi đức Phật du hóa tại xứ Kuru đến thị trấn Thu la, dân chúng đồn đãi kéo đến bái yết Ngài để nghe thuyết pháp. Bấy giờ trong hội chúng có thanh niên tên là Lại Tra Hoà La, con trai của một gia đình thượng tộc giàu có nhất vùng, sau khi nghe pháp, suy nghĩ:
    -"Như ta hiểu lời Thế tôn dạy, thì ở nhà thật khó thực hành đời sống phạm hạnh m?t cách viên mãn, hoàn toàn trong sạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đạp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình ".
    Nghĩ vậy xong, sau thời thuyết pháp của Phật, sau khi hội chúng đảnh lễ Phật mà lui về, thanh niên ấy đến bên đức Thế tôn, xin Ngài xuất gia tu học.
    -Bạch Thế tôn như con được hiểu lời Thế tôn dạy, thì tại gia thất không dễ gì sống đời sống phạm hạnh một cách viên mãn, hoàn toàn trắng sạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đạp áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Bạch Thế tôn mong Thế tôn hãy cho con xuất gia dưới sự hướng dẫn của Thế tôn.
    - Nhưng này thanh niên, con có được cha mẹ bằng lòng cho xuất gia chưa?
    - Bạch Thế tôn, con chưa được cha mẹ bằng lòng.
    - Này thanh niên, Như Lai không cho xuất gia nếu cha mẹ không bằng lòng.
    - Bạch Thế tôn, vậy con sẽ làm những gì cần thiết để cha mẹ bằng lòng cho con xuất gia.
    Lại Tra Hòa La đảnh lễ Phật ra về, xin cha mẹ:
    - Thưa ba má, con muốn cạo bỏ râu tóc, đạp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình. Xin ba má hãy bằng lòng cho con xuất gia.
    Khi nghe nói vậy ông bà phú hộ bảo:
    - Này con đừng ăn nói dại dột. Con là đứa con duy nhất của ba má, được nâng niu như vàng ngọc từ tấm bé, lẽ nào ba má để cho con xuất gia? Huống chi, nhà ta vàng nén, hột xoàn kim cương chất đống, bao nhiêu của chìm của nổi, tài sản mấy đời tổ tiên để lại, tất cả đều dành cho con. Con hãy ăn chơi thỏa thích rồi muốn tu thì bố thí, làm phước là được rồi. Con chưa biết gì đến sự gian khổ, làm sao ba má để cho con sống đời khổ hạnh được? Ba má không bao gi? cho con xuất gia.
    Sau ba lần năn nỉ không được chấp thuận, Lại Tra bèn nằm lăn ra giữa nhà, tuyệt thực với ý định: "Ta sẽ chết ở đây, nếu không được xuất gia".
    Hai ông bà đưa cơm cháo gì đến, Lại Tra vẫn nằm bất động. Một ngày, hai ngày, ba ngày, rồi bảy ngày trôi qua, chàng nhất định không ăn uống, không cục cựa, mục cho cha mẹ năn nỉ khuyên lơn. Thân thể chàng đã yếu lả, mắt lờ đờ như người hôn mê sắp chết. Ông bà phú hộ đâm hoảng, đến cầu cứu những người bạn trẻ của con:
    - Này các cháu, Lại Tra Hòa La đòi đi tu, hai bác không cho nên nó tuyệt thực nằm vạ cả một tuần lễ nay chẳng chịu nhúc nhích nói năng chi cả. Các cháu hãy đến năn nỉ nó ăn uống trở lại dùm. Hãy khuyên nó bỏ ý định xuất gia.
    Các thanh niên làm theo lời, đến bên Lại Tra Hòa La để khuyên nhủ. Nhưng sau năm bảy lần thuyết phục, chàng vẫn nằm bất động. Thấy Thế nguy, họ đề nghị với ông bà phú hộ:
    - Thưa hai bác, chúng cháu thấy rõ Lại Tra đã nhất quyết theo ý định của mình, không thì chết. Vậy hai bác nên bằng lòng cho anh ta xuất gia, họa may thỉnh thoảng hai bác còn gặp lại được. Nếu không, hai bác đành vĩnh viễn mất người con.
    Hai ông bà đành phải chấp thuận, đến nói với Lại Tra:
    - Thôi, con đã nhất quyết thì ba má cũng chìu lòng. Nhưng đi tu xong, thỉnh thoảng phải về nhà thăm ba má và mấy người vợ mới cưới của con, kẻo chúng nhớ, tội nghiệp.
    Lại Tra mở bừng mắt ngồi nhỏm dậy, trở lại ăn uống. Sau khi lấy lại sức chàng từ giã cha mẹ ra đi, đến chỗ Phật trú :
    - Bạch Thế tôn con đã được cha mẹ cho phép xuất gia. Xin Thế tôn hãy cho con xuất gia tu phạm hạnh.
    Ðức Phật nhận lời cho thanh niên cạo tóc, đạp áo cà sa, thọ đại giới, theo Ngài về ở tinh xá Kỳ viên nước Xá vệ. Tôn giả Lại Tra tinh tiến tu học, ưa thích đời sống độc cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, chẳng bao lâu đã đạt đến cứu cánh cao tột của đời phạm hạnh, vì cứu cánh này mà những thiện gia nam tử từ bỏ gia đình, ấy là quả vị A La Hán. Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm xong, không còn phải trở lui cuộc đời này nữa.
    Một hôm, Tôn giả đến đảnh lễ Phật:
    - Bạch Thế tôn, nếu ngài cho phép, con sẽ xin trở về ngôi làng cũ.
    Ðức Phật quán xét biết tôn giả bây giờ đã có thể trở về, không có gì nguy hiểm cho phạm hạnh, nên Ngài dạy:
    - Lại Tra, ngươi có thể làm những gì ngươi nghĩ là là phải thời.
    Sau khi đảnh lễ Ðấng Ðạo sư, tôn giả Lại Tra thu xếp lên đường. Ðến thị trấn Thu La, tôn giả tuần tự khất thực. Khi đến nhà cha mẹ, Tôn giả ôm bát đứng ngoài cổng. Thoáng thấy bóng chiếc cà sa, ông phú hộ chưa kịp nhìn kỹ, đã nổi trận lôi đình, nghĩ: "Kia là một sa môn trọc đầu tới xin ăn. Vì những người đó mà đứa con độc nhất của ta đã bỏ nhà ra đi biền biết. Nay còn tới tới đây báo hại cái gì?" Rồi không thèm nhìn ra, ông quát tháo:
    - Này sa môn trọc đầu kia, hãy đi đi! Ta không muốn nhìn cái mặt mo ấy. Ði cho mau, đi cho khuất con mắt của ta!
    Tôn giả lặng lẽ ôm bát tiếp tục đi. Chợt, từ ngõ sau nhà, người tỳ nữ bưng nồi cháo đi đổ. Tôn giả hỏi:
    - Này chị, chị bưng cái gì thế?
    - Tôi đem nồi cháo ăn còn thừa từ bữa qua đi đổ vào thùng rác ngoài lộ.
    - Xin chị hãy đổ vào bát của bần tăng cũng được, khỏi phải đi xa cho nhọc.
    - Càng tốt .
    Khi người nữ tỳ đến gần để trút cháo vào bát tôn giả, Cô ta nhận ra đôi chân quen thuộc. Ðánh bạo nhìn lên tay, mặt, thì rõ ràng là vị tiểu chủ ngày xưa, không còn lầm gì nữa. Nữ tỳ chạy vào nhà:
    -Thưa ông bà chủ, tiểu chủ đã về tới ngoài kia!
    Bà phú hộ mừng rỡ:
    - Ðâu, đâu? Nếu thật như mày nói, thì mày sẽ được phần thưởng xứng đáng, con ạ.
    Ông phú hộ cũng chạy ra:
    -Con ta đâu nào?
    - Thưa, tiểu chủ đang ngồi ăn bát cháo thừa đàng kia.
    Lúc ấy tôn giả đang ngồi tựa lưng vào một bức tường mà dùng cháo vừa xin được. Bà phú hộ nhìn kỹ đúng là con mình, liền chạy đến khóc:
    - Con đi là con! Sao con về nhà mà không vào trong nhà của con, lại ngồi dọc đường dọc sá thế này! Lại đi ăn cháo vữa cháo thiu! Hãy vào nhà đi con!
    - Thưa gia chủ, bần tăng không có nhà. Bần tăng có đến nhà của gia chủ, nhưng không nhận được bố thí, chỉ nhận được lời sỉ nhục và xua đuổi.
    Ông phú hộ cũng đã nhận ra, bèn tới năn nỉ :
    - Này con, con hãy vào nhà. Ba má sẽ dọn đồ ăn ngon lành cho con. đừng ăn cháo thiu mà đau bụng.
    - Thưa gia chủ, hôm nay việc ăn uống đã xong.
    - Vậy thì trưa mai, con hãy nhận lời của ba má.
    Tôn giả im lặng chấp thuận. Ông bà phú hộ trở vào nhà bàn mưu tính kế. Ông nói:
    - Con ta đã về tới đây, phải làm sao để giữ chân nó ở lại, đừng cho nó ra đi. Ngày mai, bà với tôi phải hợp sức mà thuyết phục nó. Trước hết, bà hãy dọn cho nó một bữa ăn ngon lành, có gà rô ti, có rượu ngon hảo hạng, đừng thiếu món gì. Rồi còn gì nữa? À, hãy đem tất cả vàng bạc, kim cương, ngọc ngà châu báu trong kho ra, chất một đống giữa nhà cho thật cao, ngập mặt ngập mày, mà chỉ cho nó nhìn, cho nó biết tài sản của mình là nhiều như vậy. Kế đó là phần việc của mấy con dâu. Chúng nó đâu rồi bà hãy gọi chúng ra đây, để chúng ta cắt công cắt việc.
    Khi các con dâu đến, ông phú hộ bảo: - Này các con dâu! Ngày mai chồng của các con về ăn cơm tại nhà đấy. Các con phải tận lực hợp sức cùng ba má để kéo nó ở lại, đừng cho nó đi. Các con hãy trang điểm cho thật lộng lẫy huy hoàng. Hãy đeo vào đầu, vào cổ, vào tay, vào chân những đồ trang sức mà ngày xưa chồng các con nó ưa nhìn thấy các con đeo. Hãy xức nước hoa, tưới dầu thơm cho thật nhiều vào, trét phấn, thoa son, bôi mi mắt, kẻ lông mày, uốn tóc cho nó dợn sóng lên, chống lỗ mũi, lỗ tai lên.
    Những cô dâu khúc khích che miệng cười:
    - Thưa ba, không có chống lỗ tai đâu ạ! - Vậy thì, các con hãy cứ làm cái gì các con nghĩ là hợp thời, để quyến rũ chồng các con cho bằng được.
    Rồi ông bà phú hộ cắt đặt cho gia nhân chưng dọn, trang hoàng nhà cửa, ngọc ngà châu báu được đem ra chất giữa nhà một đống, lấy màn che lại. Các cô vợ trẻ trang sức lộng lẫy như đào hát đứng thành một đống, cũng lấy màn che lại. Phú ông ngắm nghía toàn thể nhà cửa, vàng ngọc và người, tỏ vẻ đắc chí, hài lòng:
    - Thế là được. Ngày mai, cứ như vậy mà thi hành.

  9. shimizu_hn

    shimizu_hn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/07/2002
    Bài viết:
    1.176
    Đã được thích:
    0
    Hôm sau, đến giờ thọ trai, tôn giả ôm bát từ từ tiến vào cổng. Ông bà đon đả ra mời. Khi tôn giả vào nhà, ông chỉ:
    - Này con, hãy nhìn đây, (ông kéo màn) vàng bạc châu báu cả đống đó, tất cả đều là của con. Con hãy ở lại mà thụ hưởng, muốn chi cũng được.
    - Thưa gia chủ, nếu gia chủ dành cái đống đó cho tôi, thì xin gia chủ một ít cái bao bố may sẵn, tộng nó vào, rồi mướn một hay hai, ba chiếc xe vận tải chở ra ngoài sông lớn mà đổ ngay giữa dòng, cho nó chìm sâu xuống đáy nước. Vì sao? Vì nó là nguồn gốc của tất cả khổ não đến với gia chủ.
    Ông phú hộ lại kéo cái màn che mấy bà vợ cũ ra. Các nàng chạy đến ôm chầm lấy tôn giả, khóc ròng kể lể:
    - Ối chàng đi! Bộ chàng muốn mấy cô tiên nào trên trời nên đi tu để được lên trên đó phải không? Chàng đã bỏ bê chúng thiếp để mơ tưởng lên trời ở với tiên. Hu hu, hu hu.
    - Các chị, không phải vì mục đích được sanh lên cõi trời mà bần tăng xuất gia tu phạm hạnh.
    Khi ấy các bà vợ cũ của tôn giả tự đấm ngực, khóc lóc thảm thiết:
    - Ối, cha mẹ làng nước đi, chồng chúng ta bây giờ lại gọi chúng ta bằng chị! Ối, trời đất quỷ thần ôi!
    Rồi họ ngã lăn ra giữa nhà, bất tỉnh nhân sự. Tôn giả nói với ông bà phú hộ:
    - Thưa gia chủ, gia chủ muốn thí đồ ăn thì bố thí đi, chớ có phiền nhiễu bần tăng.
    - Hãy ăn đi, con yêu dấu. Ðồ ăn đã dọn sẵn.
    Thọ thực xong, tôn giả đứng lên nói bài kệ:
    Mày ngài mắt phượng mà chi?
    Tốt tươi rồi cũng một bì xương khô.
    Tâm: rừng tham ái sầu lo
    Thân: nhà chứa bệnh, nấm mồ chờ ai
    Nào đâu mắt phượng mày ngài
    Khi thây quăng bỏ ra ngoài đồng hoang?
    Mưa sa gió cuốn phũ phàng,
    Ðống xương vô chủ võ vàng trăng soi
    Ðãy da chứa đủ tanh hôi
    Lại toan sơn phết ra mòi bảnh bao!
    Kẻ ngu mê hoặc, lăn vào
    Như nai sa bẫy, người nào khác chi!
    Ai đà giải thoát sầu bi
    Tránh xa lưới ái, tình si đâu còn!
    Bẫy nào bắt được nai khôn
    Ăn xong vừa đủ, tẩu bôn vô rừng
    Thợ săn ngơ ngác hết mừng
    Thì đành đấm ngực vẫy vùng khóc la.
    Ðọc xong bài kệ, tôn giả cáo từ đi đến rừng Lộc uyển ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây.
    Khi ấy, vua xứ Kuru bảo người hầu cận sửa soạn cho vua dạo rừng. Ngưòi hầu thấy tôn giả liền trở về tâu:
    - Tâu Ðại vương, ngoài rừng Lộc uyển, có vị sa môn đang ngồi, chính là con trai của gia đình thượng tộc ở thị trấn này, tên Lại Tra Hòa La.
    - Vậy thay vì đi dạo rừng, ta hãy đến thăm vị tôn giả ấy.
    Vua cùng người hầu đi đến rừng Lộc uyển, chỗ tôn giả đang ngồi. Vua cung kính đưa tấm nệm gấm ra mời.
    - Xin tôn giả hãy ngồi trên tấm này cho êm.
    - Ðại vương, tôi đã có tọa cụ. Ðại vương hãy ngồi trên chỗ của Ðại vương.
    - Bạch tôn giả người đời thuờng xuất gia vì bốn sự suy vong: Một là lão suy, hai là bệnh suy, ba là tài suy, bốn là thân suy. Như những người khác lúc trẻ thụ hưởng dục lạc đã đầy đủ chán chê, đến khi già không còn ham muốn gì nữa, và cũng đã hết sức lực mới vô chùa nghỉ. Ðó là lão suy. Lại như người mắc bệnh kinh niên không thể lao động sản xuất được, ở ngoài đời không lợi chi cho ai, lại thêm gánh nặng cho gia quyến, nên xin vô ở chùa. Ðó là bệnh suy. Rồi có những người làm ăn thất bại, hoặc đánh số đề bị phá sản, đổ nợ đổ nần, không thể gầy dựng lại được, bèn chán nản vô chùa xin gởi tấm thân tàn sống nốt quãng đời còn lại. Ðó là tài suy. Cũng có những người xuất gia vì lẽ không còn ai thân thích để nương tựa. Ðó là thân suy. Thông thường đều vì bốn sự suy vong này mà xuất gia. Nhưng xét tôn giả, tuổi còn thanh xuân, tóc đen nhánh, thì không phải là lão suy. Da dẻ hồng hào tươi nhuấn chứng tỏ sức khỏe không đến nỗi nào, thì đâu phải bệnh suy. Tôn giả xuất thân từ một gia đình thượng tộc giàu nhất vùng này thì đâu phải tài suy. Song thân còn đủ, các bà vợ đang mong chờ, thì cũng không thể gọi là thân suy. Vậy tôn giả xuất gia vì nguyên nhân gì?
    - Ðại vương, tôi xuất gia vì bốn điểm thuyết giáo của Ðấng Ðạo sư mà tôi thấy đúng như thật. Thứ nhất là, ngài dạy mọi sự ở thế gian đều là vô thường.
    - Nghĩa là sao, xin Tôn giả giải thích.
    - Ðại vương, như thân thể đại vương đó, lúc nào cũng như lúc nào hay mỗi lúc mỗi khác?
    - Như vậy trẫm đã hiểu. Quả vậy, thân thể là vô thường, đổi khác luôn luôn, nhất là ở tuổi già như trẫm. Năm nay đã khác năm ngoái, nói gì tuổi trẻ với lúc già, thật khác nhau trời vực. Còn điểm thứ hai là gì, thưa tôn giả?
    - Thứ hai là vô hộ, vô chủ: không ai giúp đỡ mình được, không có chủ tể.
    - Sao lại không? Như trẫm đây, biết bao nhiêu người phò tá, trẫm là chủ cả nước, muốn chi được nấy, làm sao tôn giả lại nói vậy?
    - Ðại vương, Ðại vương có thể đem cả tài sản ngai vàng để thuê mướn kẻ khác đau thay, già thay, chết thay cho đại vương không?
    - Cái đó thì không được.
    - Ví như đại vương tạo nghiệp ác, phải đọa địa ngục, đ?i vương có thể nào đem tài sản đút lót cho Diêm vương để khỏi đọa, hay chính mình làm mình phải chịu?
    - Ðúng như vậy, mình làm mình chịu, không thay được. Thế trẫm đã hiểu vô hộ. Còn vô chủ thì sao?
    - Ðại vương có thể làm chủ cái thân xác Ðại vương được chăng? Bảo nó không được bệnh không được già, không được chết, nó chịu nghe chăng? Bảo cái tay đừng run, cái chân đừng quị, mắt đừng lờ, tai đừng lãng, được không? Ðại vương có thể bảo cái thân của Ðại vương khi nó đang đau: "Hãy khoẻ mạnh trở lại" không? Và Ðại vương có biết khi nào thì nó đau, khi nào nó chết không?
    - Ðúng thế, quả thật trẫm không thể làm chủ được thân này, dù trẫm đang làm chủ cả quốc gia. Còn điểm thứ ba là gì, thưa tôn giả?
    - Thứ ba, là trên thế gian không có cái gì là của mình.
    - Ủa sao tôn giả nói vậy? Trẫm có biết bao nhiêu là kho tàng, châu báu, giang sơn gấm vóc này đều thuộc về trẫm. Nói gì đến vật, ngay cả đến người, trẫm cũng sở hữu từ quan đại thần lớn nhất trở xuống, trẫm sai đâu chạy đó, sao lại không sở hữu?
    - Ðại vương, khi Ðại vương nằm xuống, ngài có thể đem theo tất cả kho báu, giang sơn xuống âm phủ để tiếp tục sử dụng, hay phải giao lại cho kẻ khác, còn mình chết tay không? Ðại vương có thể bắt tất cả đình thần, quyến thuộc, dân chúng cùng chết theo qua bên kia thế giới để Ðại vương tiếp tục làm chủ, hay Ðại vương phải ra đi một mình, để người khác thay Ðại vương trị vì thiên hạ?
    - Thưa hiền giả, đúng thế. trẫm không thể nào mang theo cái gì khi chết mà phải chết một mình, trị trọi, để lại giang sơn này cho người khác. Thảm thương thay! Còn điểm thứ tư là gì, xin tôn giả hãy giảng?
    - Thứ tư là, thế gian này thật thiếu thốn, thèm khát, nô lệ cho dục vọng, tham lam không bao giờ vđi.
    - Nói vậy trẫm nghĩ e chỉ đúng với người thường, chứ trẫm đây mà còn thiếu thốn thèm khát cái gì. Vì trẫm muốn gì cũng có, đâu còn thèm gì nữa.
    - Ðại vương, giả sử bây giờ đại vương được tin phi báo của các đội quân tuần tiễu rằng: phía đông có mỏ vàng, phương nam có mỏ dầu hỏa, phương tây có mỏ kim cương, còn phương bạc hiện có một xứ giàu có, đất đai phì nhiêu mà gặp ông vua trụy lạc bê tha, cai trị mất lòng dân, nên sự phòng vệ rất lỏng lẻo, thì Ðại vương nghĩ thế nào?
    - Thưa tôn giả, trẫm sẽ hội họp đình thần, cắt công tác cho vị này phụ trách khai thác mỏ vàng, vị kia đào mỏ kim cương, vị nọ tìm cách khoan mỏ dầu. Còn với cái xứ giàu có phì nhiêu dễ chiếm ấy, thì trẫm sẽ sai võ quan cử binh tới chiếm để mở mang bờ cõi.
    - Ðại vương, đó chính là sự thèm khát, túi tham không đáy nơi Ðại vương. Người đã có một nước thì thèm chiếm thêm nước khác, cho đến kẻ vô sản thì thèm bắt con vịt, con gà của hàng xóm về làm của mình. Ðại vương kết tội kẻ trộm vụt, bỏ tù nó, mà quên rằng chính mình là kẻ trộm lớn nhất khi mưu tính như vậy. Do đó mà Phật dạy: thế gian luôn luôn thiếu thốn, thèm khát, nô lệ cho lòng tham và dục vọng.
    - Hay thay, bạch Tôn giả, quả như lời Tôn giả, bốn điểm thuyết giáo của đức Ðạo sư thật vi diệu. Lành thay đức Thế tôn! Trẫm xin quy y bậc A La Hán, Chánh đẳng giác, và xin cáo từ Tôn giả.
    - Ðại vương, xin từ biệt.

    (thuật theo kinh Ratthapala, Trung Bộ kinh tập II, Hòa thượng Minh Châu dịch)
  10. psychocolate

    psychocolate Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/09/2003
    Bài viết:
    618
    Đã được thích:
    0
    26. NGƯỜI CHĂN BÒ NANDA
    Khi còn tại gia tôn giả Nanda là một thanh niên chăn bò mướn. Ngày ngày, Nanda dẫn bò đến ăn cỏ bên bờ sông Hằng thuộc địa phận xứ Kosambi. Lúc ấy gặp dịp đức Thế tôn trú tại đấy, cùng với chúng tỳ kheo 1250 vị.
    Một hôm Thế tôn cùng các tỳ kheo du hành dọc bờ sông. Ngài thấy một khúc gỗ lớn trôi theo dòng nước, và chỉ cho các tỳ kheo:
    - Này các Tỳ kheo, các con có thấy khúc gỗ lớn trôi theo dòng nước kia không?
    - Thưa vâng, bạch Thế tôn.
    - Các tỳ kheo, nếu khúc gỗ ấy không đâm vào bờ này, không đâm vào bờ kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên đất nổi, không bị người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị lọt vào xoáy nước, không bị mục nát bên trong,... thì nó sẽ hướng về biển, xuôi theo biển, nhập vào biển, Vì cớ sao, này các tỳ kheo, vì dòng sông này hướng về biển, xuôi theo biển, nhập vào biển. Cũng vậy, hỡi các tỳ kheo, nếu các con không đâm vào bờ này, bờ kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn, không bị người hay phi nhân nhặt lấy, không lọt vào xoáy nước, không mục nát bên trong,... thì các con sẽ hướng về, sẽ xuôi theo Niết bàn, sẽ nhập vào dòng Niết bàn. Vì sao? Này các tỳ kheo, chính bởi vì pháp của Như Lai giảng nói xu hướng Niết bàn, xuôi theo Niết bàn, nhập vào Niết bàn.
    Khi được nghe nói vậy, một vị tỳ kheo bạch:
    - Bạch Thế tôn, bờ này là gì? Bờ kia là gì? Thế nào là chìm giữa dòng? Thế nào là mắc cạn trên đất nổi? Thế nào là bị người nhặt, phi nhân nhặt? Thế nào là lọt vào xoáy nước? Thế nào là mục nát bên trong?
    - Các tỳ kheo, bờ này ám chỉ sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Bờ kia chỉ cho sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. "Bị chìm giữa dòng" dụ cho hỷ và tham (khoái thích, ham muốn). Mắc cạn trên đất nổi đồng nghĩa với ngã mạn. "Bị người nhặt" là dụ cho vị tỳ kheo sống quá liên hệ với cư sĩ, chung vui chung buồn, an lạc khi chúng an lạc, đau khổ khi chúng đau khổ, trói buộc mình trong các công việc chúng xướng xuất. Ðó là vị tỳ kheo bị loài người nhặt lấy. Và này các tỳ kheo, "Bị phi nhân nhặt lấy" có nghĩa là vị tỳ kheo tu phạm hạnh với mơ ước được sanh lên cõi trời, hưởng phước báo chư thiên. "Bị lọt vào xoáy nước" là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng: tài lợi, sắc đẹp, danh tiếng, ăn và ngủ. "Bị mục nát bên trong" ám chỉ vị tỳ kheo theo các ác pháp, có những hành động khả nghi, không giữ giới mà hiện tướng thanh tịnh, nội tâm hủ bại, đầy dục vọng, đó gọi là mục nát bên trong.
    Khi ấy người chăn bò Nanda đứng cách Thế tôn không xa. Chàng tiến lại bạch:
    - Bạch Thế tôn, con không đâm vào bờ này, con không đâm vào bờ kia, con không chìm giữa dòng, con không bị mắc cạn trên đất nổi, con không bị loài người nhặt lấy, con không bị phi nhân nhặt lấy, con không lọt vào xoáy nước, con không mục nát bên trong. Bạch Thế tôn, mong Thế tôn cho con được xuất gia với Thế tôn, được thọ đại giới.
    - Này Nanda, hãy đem trả bò cho chủ của con đã.
    - Bạch Thế tôn, chúng sẽ tự trở về. Các bò mẹ đang mong gặp lại chúng.
    - Tuy vậy này Nanda, con hãy trả lui các con bò ấy cho những người chủ.
    Nanda vâng lời dắt bò về trả cho chủ rồi trở lại bên Phật:
    - Bạch Thế tôn, con đã trả lại những con bò. Hãy cho con được xuất gia với Thế tôn. Hãy cho con thọ đại giới.
    Rồi Nanda, người chăn bò, được xuất gia với Thế tôn, được thọ đại giới. Sau khi thọ giới không lâu, Tôn giả Nanda sống một mình an tịnh, thân cảm được lạc thọ mà các thiện gia nam tử vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình đã hướng đến. Vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã được làm xong, không còn bị trói buộc vào đời này nữa. Tôn giả Nanda trở thành một vị A La Hán.

Chia sẻ trang này