1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tạp văn Trương Thái Du

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Ledung18, 24/02/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Tạp văn Trương Thái Du

    Viết là hành lạc

    Lý luận văn học cổ điển Á Đông cho rằng ?oTâm sinh ngôn?, ngôn viết ra là văn. Nguyễn Du nhận định: ?oChữ tâm kia mới bằng ba chữ tài?. Phê bình tác phẩm nào đó mà nói ?okhông có cái tâm? là nặng lắm, chẳng khác nào sổ toẹt mọi giá trị.

    Trên cùng chủ thể là người viết, nếu đảo ngược công thức kia sẽ rất lý thú. Rõ ràng văn mài giũa ngôn, gạn đục khơi trong, đẽo đá tìm ngọc. Văn, không cần qua trung gian ngôn, tác động thẳng vào tâm, soi sáng tâm. Tâm nào thì văn ấy. Tuy nhiên văn lại làm được một việc không ngờ là khai tâm.

    Tâm là ngôi nhà của lương tri. Vậy, viết chính là hành động của lương tri, dù điều này không tuyệt đối đúng trong mọi trường hợp. Lương tri là giá trị của nhân văn. Do đó, tính nhân văn luôn là yếu tố quyết định sự thành công của bất cứ tác phẩm văn học nào.

    Khai tâm hàm nghĩa mở mang tâm trí. Song khai tâm còn có nghĩa khác rất hay là vui vẻ, khoái lạc. Theo tôi, viết là con đường đi tìm khoái lạc. Đa số người viết đều nhận định ?onghề? này khá lao tâm nhọc tứ, rất khổ cực, là trò hành xác đáng sợ. Nhưng từ bỏ viết không dễ chút nào. Rất hiếm thấy một nhà văn, một nhà thơ thực sự tổ chức lễ giải nghệ.

    Đôi lúc tôi phân vân, không hiểu sự hành lạc kia có giống tự thỏa mãn? Vượt qua khuôn khổ cá nhân người viết, văn chương là con đẻ tinh thần của mối tình si, sinh ra sau những cuộc truy hoan nóng hổi. Nếu khai tâm là tia sáng mặt trời, thì tác phẩm thoát thai là ánh trăng mê hoặc.

    Như vậy viết, trước tiên là viết cho chính tác giả. Ảo tưởng hay mục đích đồng bóng sẽ vỡ nhanh hơn bọt xà phòng. Kết quả của sự viết, không giống đứa con sinh học, nó trưởng thành ngay khi vừa mở mắt. Nó sẽ có một cuộc đời, một thân phận và một số mệnh biệt lập với cha mẹ. Kẻ sáng tác đừng quá mong chờ được phụng dưỡng, hưởng thụ hiếu nghĩa truyền thống. Hãy đoan lượng con mình chắc chắn phải nếm trải đủ chua cay mặn ngọt, và đôi lúc cần trao gởi hoàn toàn cho thần may mắn.

    Tào Phi, ngôi sao sáng trong chòm Kiến An Tam Kiệt (Tào Tháo, Tào Phi, Tào Thực), từng viết hai tác phẩm lý luận văn học là Điển Luận và Luận Văn. Ông bảo văn chương là sự nghiệp lớn giữa đất nước, vẻ vang bất hủ, mang sức sống và tuổi thọ dài lâu. Ông cho rằng có mối quan hệ giữa khí chất, tài năng tác giả và tác phẩm. Tuy vậy đến hôm nay, giữa đời sống hiện đại, tinh hoa của họ Tào gần như đã mất tích, nếu không kể mấy vần thơ lác đác trong Tam Quốc Chí. Tư Mã Thiên dựng nên thuyết ?oPhát phẫn trứ thư? (phẫn uất mà trước tác). Sử Ký của ông đã, đang và sẽ vĩnh viễn song hành cùng văn minh nhân loại.

    Người viết đích thực của thế kỷ 21 là ai? Họ mang sứ mệnh gì? Tốt nhất dừng nên đặt ra những câu hỏi thừa như vậy. Hãy gõ bàn phím nếu cần. Hãy dấn thân nếu có thể. Hãy hồ hởi đón nhận ân sủng của văn chương. Hãy sảng mê cùng khoái cảm. Đó là cuộc chơi đầy ý nghĩa, hay nói cách khác, là giá trị của sự sống, của người viết.

    Đà Lạt, tháng 7 âm lịch, năm Giáp Thân

    Trương Thái Du
  2. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Tản mạn về thuyết ngã tâm và thói vọng ngoại
    Thuyết ngã tâm nói nôm na ra là lập luận tự xem mình như cái rốn của vũ trụ. Thuyết ấy áp dụng ở phương Tây người ta gọi là Âu tâm, ở Trung Quốc gọi là Hoa tâm và ở Hoa Kỳ hiện tại thì chắc chắn sẽ là Mỹ tâm?
    Thật ra thuyết ngã tâm xưa nay rất phổ biến trong từng cá nhân, cộng đồng, quốc gia và khu vực trên toàn thế giới.
    Chẳng hạn thuyết Âu tâm từng làm mưa làm gió suốt mấy thế kỷ vừa qua, tác động của nó đến trật tự thế giới hiện đại không phải nhỏ. Các ngài Âu tâm đặc phong mình là nền văn hóa ưu việt số một, chủng tộc thượng đẳng để bước vào bao cuộc thập tự chinh đầy máu me với tên gọi khá mỹ miều : khai hóa, thanh lọc giống nòi, truyền bá văn minh .v.v? Nhiều hệ quả từ thuyết Âu tâm rất chi là phi lý và ngớ ngẩn như R.Heine-Geldern''s (1937) từng đề ra giả định nền văn hóa Đông Sơn với biểu trưng rực rỡ nhất là trống đồng có nguồn gốc từ châu Âu (!?) [1]. Thực dân châu Âu trước kia chia loài người thành hai loại là da trắng và da màu. Từ ?oda màu? để chỉ nhóm người với họ là man di, mọi rợ. Người Việt học tiếng Tây, dùng luôn nghĩa Tây nên ngôn ngữ Việt Nam mới có cụm từ ?ocác sắc tộc thiểu số? khá kỳ cục.
    Chúng ta không lạ gì thuyết Hoa tâm, nhưng ít người biết ở Chiêm Thành hay Chân Lạp trước kia thuyết này cũng rất thịnh hành. Ngọn nguồn là từ triết lý tôn giáo Ấn Độ. Nhà vua của họ nói chung bao giờ cũng coi kinh đô của mình là trung tâm vũ trụ. Họ thường xây dựng hoặc chọn một ngọn núi có sẵn làm núi Meru (trục quay của vũ trụ) và đền tháp, điện thờ sẽ mọc lên xung quanh, điều đó chứng minh nhà vua là người cai quản vũ trụ. Đền Angkor Vat và Angkor Thom là một ví dụ.
    Nói chung thuyết ngã tâm mang đầy tính chủ quan, võ đoán và lòng tự tin quá mức. Tuy vậy nó vẫn phải đứng trên những nền tảng nhất định. Rất dễ xác tín các thể chế văn hóa quan niệm mình là tâm điểm của vũ trụ đã từng làm chủ những thành tựu khoa học, kỹ thuật, nhân văn và nghệ thuật siêu việt của nhân loại. Việc phát minh ra giấy và công nghệ in ấn của Trung Hoa chính là một cuộc cách mạng thông tin có tính toàn cầu. Nhiều giá trị phương Tây mang bản chất khai sáng hiện vẫn là trụ cột của văn minh loài người. Khiêm tốn như người Chăm, người Khơ Me cũng đã tạo tác được nhiều công trình kiến trúc tuyệt mỹ, độc nhất vô nhị trên thế giới trong thời hoàng kim rất sớm của mình.
    Từ xưa người Việt luôn tỏ ra rất ghét thuyết ngã tâm. Âu cũng dễ hiểu vì ta ở cạnh ông láng giềng hơi bị khổng lồ, cái gì của ông ấy mà chả nhất, nghe rêu rao riết cũng bực mình ?oBiết rồi? khổ lắm? nói mãi??. Thời tiền hiện đại nước Việt lại bị một gã Âu tâm nô lệ cho gần tám mươi năm. Căm thì có căm đấy, nhưng cũng không thể không phục. Có thể đó là căn nguyên của thói vọng ngoại chăng? Nói cho cùng, nếu không ngã tâm được thì đành vọng ngoại vậy, hai tiến trình này ở góc độ nào đó là đối nghịch nhau, là phản đề của nhau.
    Ngày xưa các cụ nhà ta không ưa Tàu nhưng lại hay ?oxổ nho?, con cháu hôm nay thì giỏi hơn, kính yêu Tây và xì xồ tiếng Tây không biết mệt. Ngày còn đi học, tác giả bài này từng dự một ?ohội nghị dân chủ sinh viên? rất kêu dưới một mái trường kỹ thuật. Ngài L.Đ.T, hiệu trưởng ?" giáo sư ?" tiến sĩ ?" nhà giáo ưu tú đáng kính đề xuất học trò và thầy cô tích cực rèn luyện Anh ngữ để từ từ phấn đấu sẽ học hành và giảng dạy bằng Anh ngữ. Nghe ra rất phù hợp với xu thế thời đại, nào là hòa nhập, bắt kịp thế giới, xuất khẩu lao động đem ngoại tệ về cho đất nước. Không ngờ có một ý kiến phá bĩnh : ?oNếu vậy mai này các kỹ sư của chúng ta lại phải học thêm một khóa ?otiếng Việt trong kỹ thuật? để giao tiếp với giai cấp công nhân tiên phong thì khá rắc rối. Có nhiều chi tiết máy tiếng Anh gọi là ?ocon mèo?, tiếng Việt gọi là ?ocon chó? cứ loạn tùng phèo lên sẽ nan giải lắm?. Chuyện này may mà bị bỏ lửng, thầy T đã về hưu, trường cũ của tôi đã qua thêm một hai đời hiệu trưởng nhưng vẫn sử dụng những giáo trình Việt ngữ được dịch từ tiếng Nga sang, độ những năm 1960 của thế kỷ trước! Không hẳn tôi không kính trọng thầy T, có điều tôi nghĩ thay vì làm một đại trí thức ngành giáo dục Việt Nam, thầy qua đài truyền hình VTV nhận ghế to thì khá xứng tầm. Các xướng ngôn viên ở đó cần được học thêm ngoại ngữ hơn ai hết. Cách phát âm, giọng đọc không chuẩn cũng chưa ghê gớm lắm, đằng này họ còn tùy tiện sử dụng ngoại ngữ không đúng chỗ. Thật khổ cho tôi và những người cùng hoàn cảnh chẳng hiểu ?oKinh Đô vi lích, trận bóng ?~đá bi?T kinh điển, tinh thần phe pờ lây?? hoặc ?oLai vờ xô, vi đi ô cờ líp, em xi?? là cái quái quỷ gì (chúng tôi chiếm đến hơn 70% dân số Việt Nam, ở nhà quê, vùng sâu, vùng xa). Hôm Trung Hoa phóng thành công tàu Thần Châu, không dưới 3 bản tin liên tiếp, VTV dịch tên phi hành gia ra tiếng Hán ?" Việt là Dương Lí Vĩ. Mấy ông thầy đồ già trợn ngược mắt như sắp trăn trối, họ bảo phiên âm Li theo kí tự La Mã có ít nhất 85 nghĩa, chọn hú họa trong ngần ấy nghĩa mà đúng chữ Lợi thì còn khó hơn dã tràng se cát tát biển đông!
    Tư tưởng vọng ngoại khiến cái gì của Tây cũng tuyệt, lời Tây nói vu vơ cũng thành chân lý. Có nhiều nhà báo chuyên viết chuyện phố phường nhân sinh dựng nên hẳn một công thức phổ thông. Chê thói hư tật xấu sẽ rút ra kết luận : ?oHình ảnh này đập vào mắt người nước ngoài thì sẽ ra sao??. Khen người tốt việc tốt hoặc thứ gì đẹp đẽ : ?oPhương Tây họ rất quý? rất coi trọng? và rất giá trị??. Có một dạo đi đâu cũng nghe câu hát ?oEm ơi Hà Nội chóp?? vì người ta đem củ hành, củ tỏi và chóp gầy chóp béo của Nga ?ongố? đặt lên các nóc nhà mới xây ở Tràng An cũ. Hiện tại thì văn minh hơn chút đỉnh, phong cách kiến trúc Pháp thuộc sống dậy mãnh liệt trong rất nhiều bản vẽ của các kiến trúc sư. Cũng vòm, cũng sảnh, cũng chỉ, cũng mái ngang mái dọc, hiên đông hiên tây, cũng đắp cột, tô tượng như ai nhưng thay vì áp dụng những chi tiết ấy lên một mặt bằng xây dựng hoành tráng ; họ lại linh động thu nhỏ vào những khuôn viên vài chục đến hơn trăm thước vuông là cùng, khiến công trình thành ra tủn mủn, vụn vặt, màu sắc hổ lốn tra tấn bàn dân thiên hạ đến nhức mắt.
    Tây mũi cao hay Tây mũi tẹt đều có chung nhận xét người Việt hiếu khách, thân thiện và rất dễ gần. Tuy nhiên trong thái độ ấy có bao nhiêu phần trăm vọng ngoại thì cần phải xem lại. Sự kệch cỡm đối chọi sau đây cũng cần tham khảo : Tây đi xe hơi, ở khách sạn 5 sao luôn được ngưỡng trọng tôn xưng là ông, bà. Tây ba lô mua bán trả giá đến từng xu, lóc cóc xe đò, xe đạp khắp nơi, không ai bảo ai mọi người đều thống nhất gọi là thằng là con.
    Tóm lại, ai vọng ngoại thì cứ việc vọng, văn hóa làng xã Việt Nam với tính bảo thủ cố hữu bèn sáng tạo ra một anh Chí Phèo đầy bản sắc để chửi tuốt tuồn tuột. Mà anh Chí cũng ngã tâm lắm chứ. Anh ấy chẳng là cái rốn của làng Vũ Đại thì còn ai vào đây.
    Sau khi hòa bình lập lại con cháu anh Chí bấm độn nhẩm tính được ba bốn thằng đế quốc nanh nọc bị cho ra bã trên mảnh đất hình chữ S, thế là văn ngôn ngã tâm của tiền nhân được trau chuốt lại không phải để chửi mà để ngâm vịnh. Kể cũng không cần nhắc lại điều đó ở đây, mỗi người Việt Nam chắc chắn đều có những minh họa cụ thể của riêng mình.
    Một kết hợp đằm thắm giữa thuyết ngã tâm và thói vọng ngoại, theo tôi, có lẽ là ở cái tên gọi phù phiếm nhưng đầy gợi cảm của Sài Gòn : ?oHòn ngọc viễn đông?. Tôi đã thử làm một tìm tòi bỏ túi bằng cách vào www.google.com tra chữ ?oHòn ngọc viễn đông?. Hơn một trăm kết quả hiện ra dày đặc. Khen ngợi, tự hào? nói chung là tình cảm tích cực phổ biến hơn rất nhiều nghi hoặc và báng bổ. Mỹ từ kia hình như do một gã Tây nào đó buột miệng thốt lên khi đến Sài Gòn thời nô lệ. Tôi ngờ rằng câu nói đầy đủ của gã là ?oSài Gòn là hòn ngọc viễn đông? thuộc Pháp?. Giả thuyết của tôi, tôi tin, đến cả anh Chí nhà ta cũng phải khen là ?ochí lý?! Khu vực viễn đông này, ngoài mấy mảnh tô giới cỏn con của Pháp ở Trung Hoa thì chỉ còn Đông Dương thuộc Pháp mà thôi. Sài Gòn âu cũng là tên chột làm vua xứ mù vậy. Chứ không, đem so Sài Gòn với Bangkok, Manila, Jakarta, Kualalumpur thì còn ?okhướt?, kể chi đến Đông Kinh, Bắc Kinh, Hương Cảng, Thượng Hải. Hóa ra người Việt đã tiếp thu có sáng tạo, có động não một câu nói hứng sảng, bằng cách tỉa bớt độ dài của nó và tung hê lên như pháo hoa đêm trừ tịch.
    Như thế thuyết ngã tâm chẳng là tài sản của riêng ai. Từ anh Chí năm xưa đến nước Mỹ hùng cường hôm nay đều vận dụng nó thuần thục đến không tưởng. Sau sự kiện 11 tháng 9, Bu Sờ chẳng tuyên bố ?oKẻ nào theo ta chống khủng bố là bạn ta, kẻ nào không theo ta là kẻ thù của nước Mỹ? đó sao. Sau đó Bu Sờ còn ngụy tạo hồ sơ vũ khí hủy diệt để qua mặt Liên hiệp quốc tấn công Iraq. Nếu không cho mình là đúng hơn hết thảy, là tâm điểm mà quả đất phải xoay quanh, là kẻ tạo dựng chân lý cho nhân loại thì có lẽ tổng thống Mỹ đã không nói năng và hành động như vậy.
    Bản thân mỗi sự tồn tại dường như khó phân định phải trái, chỉ nên xem nó có phù hợp với thời cuộc hay không mà thôi. Để từ bỏ một tồn tại lạc loài con người nói riêng và xã hội nói chung rất cần dũng khí và lương tri. Xem ra, sự phủ nhận công khai của phi hành gia Trung Hoa Dương Lợi Vĩ về quan niệm Vạn lý trường thành có thể nhìn thấy bằng mắt thường từ vũ trụ thật đáng noi theo. Ngẫm chuyện người lại thêm thẹn cho mình. Bản thân tôi cũng chẳng thể tự biết mình đang bới móc những đề tài nhạy cảm, để thu hút mọi người vào một cuộc tranh luận, một cái ?orốn? mang tên tôi ; hay tôi thực sự có cái tâm trong sáng, khơi gợi cộng đồng những suy tư hữu dụng cho chính họ. Ngã tâm tào lao hay vọng ngoại thiếu tự trọng là hai khuôn mặt cần được nhận diện của một thực thể văn hóa và con người Việt Nam hiện đại.
  3. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0

    ĐỌC LINH SƠN CỦA CAO HÀNH KIỆN
    Khép lại 81 chương của Linh Sơn [1] tôi mới hiểu mình chỉ bắt đầu đọc truyện. Nói đây là 81 truyện ngắn in cạnh nhau thì hơi quá. Thực ra, dễ thấy chúng cố ý rời rạc. Độc giả phải biến mình thành kẻ đồng sáng tác với nhà văn, đây là công việc thật nhọc nhằn.
    Tiểu thuyết hiện đại là vậy. Nó kén công chúng nhưng luôn giả vờ khuất phục ngoại cảnh bằng các tiểu đoạn đơn lẻ. Nó hầu như không có mở đầu và chẳng thèm kết thúc. Chỉ cần đọc xong chương đầu, một cú điện thoại không chờ đợi sẽ ném nó lăn lóc giữa chồng nhật báo, đặc san đầy tin tức nóng hổi và các khung quảng cáo bắt mắt. Những ngày sau, trong khoảng khắc hiếm hoi vô định, bạn lôi tiểu thuyết ấy ra từ cuối đống ấn phẩm hỗn độn, bạn có thể bắt đầu đọc tiếp chương hai, hoặc nhẩy đến hẳn chương 52 cũng chẳng sao.
    81 chương sách của nhà văn kiêm họa sĩ họ Cao chứa 81 lũy thừa 81 nét màu, đan xen, chồng chéo, hòa lẫn mất hút trong nhau rồi lại hiển hiện tinh khiết đến tột cùng ở đâu đó. Hơn thế nữa, bức tranh còn bị che mờ bằng vô số cơn mưa, màn sương, bóng tối và cả rêu phong ướt át hai bên trung lưu dòng Trường giang hùng vĩ. Cộng thêm cơ man những huyền thoại, truyền thuyết, truyện hoang đường, sinh hoạt thần bí, cạnh các con người tận thủy cùng sơn như mới bước ra từ thời ăn lông ở lỗ, bàng bạc sắc màu dân vũ, dân ca nguyên sơ. Linh sơn, do đó, hiện lên thật lung linh hư ảo và có thể nói nó quá quyến rũ.
    Luận bàn qua loa vài điểm nhỏ trong quyến sách hơn 20 vạn chữ, bằng vài ngàn chữ, chẳng qua cũng chỉ là trò ?othầy bói sờ voi?.
    1. Về tên gọi Linh sơn
    Ngay chương đầu, chẳng cần dài dòng, họ Cao nói thẳng: ?oAnh hỏi hắn đi đâu??, ?oLinh Sơn?, ?oĐầu nguồn Vưu thủy? (trang 7). Trên chuyến xe đò đến Linh Sơn, lữ khách nhận thấy: ?oNgười vùng này có ngữ điệu riêng, dù rằng đều là con cháu Viêm Hoàng, chung nến văn hóa, chung nòi giống cả? (trang 6). Linh Sơn của Cao chắc chắn không phải Linh Sơn trong sách bói ?oSơn hải kinh?, cũng chẳng hề có ở địa lý chí ?oThủy kinh chú?. Mãi đến chương 71 họ Cao mới úp mở về Đại Vũ: ?oCông lao của ông là nạo vét Hoàng Hà, nhưng tôi hoài nghi lắm? (trang 516), ?oĐại Vũ trở thành người đầu tiên giết người khác để thỏa mãn ý thích của mình? (trang 517). Sự nghi ngờ ở đây không phải xóa công, Cao toan dời việc trị thủy về lưu vực Trường giang. Vua Đại Vũ thì vậy, còn mẹ Nữ Oa phải lật ngược về chương 58, trang 407: ?oKhi Nữ Oa tạo ra loài người thì bà cũng tạo luôn nỗi bất hạnh. Con người do gan của Nữ Oa biến thành, sinh ra ở trong máu của đàn bà nên hắn không bao giờ được trong sạch?.
    Cổ tích và huyền thoại của dân tộc Trung Hoa nói chung rất rối rắm, nhiều dị bản [2]. Viêm đế (tức Thần Nông) ở phương Nam, từ lưu vực Trường giang trở xuống, bà là vị thần có mình người đầu trâu [3]. Hoàng đế thuộc về phương Bắc, được cường điệu thành vị thần 4 mặt cai quản cả bốn phương, là con đẻ của dòng Hoàng Hà. Văn minh Hoa Hạ khai sinh trên cơ sở thống nhất Bắc ?" Nam bằng cuộc chiến tranh Nam ?" Bắc giữa Hoàng đế và Suy Vưu. Suy Vưu là con cháu Viêm đế nhưng đã giành ngôi báu của tiền nhân trước khi khai chiến với Hoàng đế. Suy Vưu thất bại trước Hoàng đế nhưng con người và không gian văn hóa Bắc ?" Nam đã hòa trộn làm một, cùng xây dựng huyền thoại Nghiêu ?" Thuấn.
    Cao Hành Kiện bám vào bầu vú ?ophong nhũ? [4] của văn hóa Hoa Hạ để đi tìm Linh Sơn. Đại Vũ (còn có tên khác là Hạ Vũ, người được Nho giáo cho là hiền nhân, được Nghiêu ?" Thuấn nhường ngôi theo tục truyền hiền) bị xem là kẻ đầu tiên giết người để thỏa mãn ý thích. Cao muốn vượt thoát, chiêm nghiệm giá trị của chủ nghĩa cá nhân, tay chân ông chới với, bản năng đã khiến răng ông vội cắn vào vú mẹ để khỏi rơi xuống vực. Ngày xưa, khi Hoàng đế thắng Suy Vưu rồi, liền hạ lệnh diệt chủng tộc Miêu (dân tộc của Thần Nông, Suy Vưu), bà mẹ hẳn đau đớn lắm. Vì không thể giết hết nhân dân nên Hoàng đế luôn lo ngại về tộc Miêu ở phương Nam.
    Tâm thức sâu thẳm của dân tộc Trung Hoa là tâm thức tội lỗi của những đứa con vừa hờn căm cha mình đã giết mẹ, vừa tìm cách chạy tội cho ông. Lạc đường trong mặc cảm ơ đíp văn hóa, Cao đã oán thán Nữ Oa, quy kết Hạ Vũ rồi ******** với chính mình để sinh ra Linh Sơn. Linh Sơn là núi thiêng của riêng họ Cao mà thôi, là nơi chủ nghĩa cá nhân tự thấy cần phải phôi thai ra chính nó, bỏ qua hiện thực lịch sử, quên mặc thời hữu và những bước đệm cần thiết. Sự hoang mang của nhân vật đi tìm Linh Sơn trong chương 76 chẳng biết có gần với xét lại không?
    Họ Cao đã đi về nơi hoang dã. Ông mong tìm được những bản thể đơn độc để chứng minh cho chủ nghĩa của mình. Ông sợ sệt thứ văn hóa đã được học thuật nâng lên thành kinh sách. Bàn về bài dân ca trinh nguyên Cao bảo: ?oChúng không bị các nhà văn làm hư hỏng! Bài ca xuất phát từ linh hồn! Anh hiểu chứ? Anh là người đã cứu một nền văn hóa đấy!? (trang 415 chương 59). Bút pháp phương Tây, một số thủ pháp nghệ thuật phương Tây dù họ Cao đã cố gắng dung nạp làm bạn văn, không giúp ông được mấy. Và để xa lánh thứ ?okinh viện? kia, ông, có lẽ vô thức chiếm phần nhiều, đã đến rất gần Lão Tử và Đạo Đức Kinh. Cao không tự mâu thuẫn. Nó chỉ đơn giản cho thấy Cao chưa thành công như nhiều người lầm tưởng. Rõ nhất trong trọn chương kết, chương 81, ông chào người đọc bằng cách diễn nôm văn vẻ và dài dòng tinh túy của Lão Đam: ?oĐạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh?.
    2. ?oChúng ta? và ?ota?.
    Cao bảo từ ?ochúng ta? là: ?okỳ dị và đạo đức giả?, ?okhông có cái gì giả dối hơn?, ?okhoa trương?, ?othứ vờ vĩnh không có thuốc chữa? (chương 52, trang 366). Họ Cao tránh ?ochúng ta? như tránh hủi. Ông chia ?ota? thành nhiều phân thể để phán xét tất cả. Cũng bởi cuộc đời ông, đáng tiếc, từng trải qua dằng dặc năm tháng, nơi những kẻ nhân danh ?ochúng ta? làm bao điều đáng xấu hổ.
    Những cái mạo danh ?ochúng ta? đã hành hạ Cao, biến ông thành con chim bị thương. Để rồi với tư cách nhà văn, nhà văn hóa, ?olương tâm của xã hội? (chương 79, trang 569), ông lại luôn cảnh giác những cành cây cong, mọc ra từ cội rễ văn hóa. Nỗi đau mà Cao ngỡ chỉ quằn quại rên xiết rõ nét nhất trên từng cái ?ota?, thực ra trong ?ochúng ta? nó khủng khiếp không kém. Nó tàn bạo gấp bội vó ngựa Mông Cổ cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14. Nó phổ quát hơn sự kỳ thị người Hán trong 100 năm đầu Thanh triều. Nhưng ?ochúng ta? đã không đầu hàng. Từng phút từng giây ?ochúng ta? đồng hóa mọi âm mưu nô dịch bằng tính nhân bản trường tồn, để hôm nay trên chính trang viết của Cao, đó là sự thật không thể không đề cặp. Nguyên Huyện trưởng thời Quốc dân đảng bảo: ?oBây giờ thì khác! Chẳng phải chúng ta đang sống yên ổn sao?? (chương 57, trang 406).
    Căm thù kẻ mạo danh ?ochúng ta?, Cao căm thù luôn cái ?ochúng ta? vĩ đại của cả một nền văn hóa. Tôi không rõ Cao có kết kuận văn hóa Trung Hoa là căn nguyên của trò mạo danh kệch cỡm kia không. Anh trai Phục Hy và em gái (chính là bà Nữ Oa luôn ẩn hiện trong hành trình của Cao) sống sót sau nạn nước lụt đã lấy nhau vì cô đơn, vì cái ?ota? quá nhỏ bé trước thiên nhiên. Nữ Oa đẻ ra rất nhiều cục thịt be bé. Bà bảo bọc chúng trong bào giấy, rồi leo lên thang trời. Gió thổi mạnh, bào giấy rách toang, các cục thịt rơi vãi khắp mặt đất hóa thành những con người [5]. Ai rơi xuống lá cây thì lấy họ Diệp, rơi xuống khúc gỗ thì mang họ Mộc? Từ đó trên mặt đất mới có những cái ?ota? yếu đuối. Nền văn minh nông nghiệp phải quên đi cái ?ota? để cùng nhau trị thủy, đắp đê, rồi xây Trường Thành cản vó ngựa Hung Nô.
    Hôm nay, ngàn vạn đô thị mọc lên. Khối ?ochúng ta? bỗng thành vật cản. Những cái ?ota? cửa đóng then cài, không chơi với hàng xóm có còn nhớ cha ông họ ngày xưa vẫn dùng ?ochúng ta? để đổi công cày cấy, trồng trọt, thu hoạch vụ mùa. Hãy để ?ochúng ta? tự nhiên phân hóa, biến thành những cái ?ota? đúng như nó cần cho một lịch sử quần cư đô thị công nghiệp muộn màng của Á Đông. Mọi vội vã hấp tấp, hoặc áp đặt trên cơ sở chạy theo hình mẫu nào đó chỉ làm rối loạn quá trình tiến hóa tất yếu, gây ra những hiểu lầm và xung đột mù quáng.
    Lạ là, cái ?ota? của họ Cao nhìn bề ngoài thật cô đơn, nhưng hắn chẳng cô độc tí nào. Dòng máu văn hóa cuộn chảy không ngừng nghỉ, nóng hổi, ken dày, đậm đặc trong tâm trí hắn. Không theo trật tự, nhưng hắn lướt qua biết bao cá nhân lừng lẫy của lịch sử Trung Hoa từ Bàn Cổ lập thiên địa, đến Hán, qua Đường, xuôi Minh, tới Thanh và hoàn toàn không muốn dừng lại ở ngày hôm nay. Đằng sau sự bất hủ do lập đức, lập công, lập ngôn của tiền nhân là trùng điệp những thế hệ, những lớp sóng ?ochúng ta? lớn lao của dân tộc Trung Hoa. Cao phân thân, cuối cùng cũng để thấy ?ochúng ta? trong cái ?ota? nơi ông. Giữa hành trình bị ảo tưởng là vô định, hiếm khi trên đoạn đường thật dài Cao chỉ có một mình. Khi không phân thân được, Cao vẫn rất cần một con người, tức là cần đứng giữa ?ochúng ta? để nhận thức về ?ota?.
    3. Ảnh hưởng và tránh né.
    Tagore từng nói đại ý: ?oPhải biết hấp thụ vẻ đẹp tối thượng của phương Tây mới có thể vô nhiễm trước sự xấu xa cùng cực của chính nền văn hóa đó?. Điều này thật dễ hiểu, âm dương vẫn hòa hợp trong một thực thể. Người Trung Hoa luôn muốn Lão Tử song hành bên cạnh Khổng Tử để kiềm chế tính hiếu thắng và hoành tráng của Nho giáo.
    Có người đã chỉ ra, mà tôi không đủ kiến thức để kiếm chứng, về hình thức, vài chỗ trong Linh Sơn Cao bị ảnh hưởng phương Tây rất rõ. Nào là đối thoại phi lý kiểu Beckett (chương 19), nào là tác giả vận dụng phương pháp "nhận diện bản thể" kiểu Roquentin trong Buồn Nôn của Sartre (chương 26) [6]. Theo tôi hình thức là cái bên ngoài, không quan trọng.
    Chương 39 và 41, Cao tả về cuộc viễn du vào khu tự trị dân tộc Mèo. Ánh mắt Cao thật lạ lẫm trước cảnh mới, trước lễ hội tưng bừng và những hình ảnh đậm nét bản sắc riêng biệt như đua thuyền rồng, hát giao duyên và mở chợ tình, cúng bái tổ tiên. Điều toát ra trong hai chương sách này, hình như không khác mấy dòng ánh sáng ngạc nhiên háo hức của các bức tranh lão thực dân Paul Gauguin vẽ ở Tahiti, khoảng năm 1891 đến 1893: Những thiếu nữ ở trần, tay nâng niu sản vật nhiệt đới, đôi mắt ngọt ngào hơn cả miếng dưa hấu giữa mùa hạ khô khát. Cao cố gắng hòa mình vào không gian huyền ảo, tuy vẫn thắc thỏm: ?o? mọi người vào phòng ăn đã bày sẵn tiệc rượu, có cả bia và nước ngọt, chỉ thiếu mỗi khăn ăn? (trang 264). Chẳng biết trong tiệc đêm chiêu đãi của hoàng gia Thụy Điển, sau lễ trao giải Nobel, Cao Hành Kiện xúng xính trong bộ cánh đuôi tôm có sử dụng khăn ăn duyên dáng như một quý tộc Pháp quốc chính hiệu không?
    Phụ nữ, dù chỉ là phần nhỏ của con người Cao trong phép phân thân, hay một cuộc đời hư cấu bên cạnh Cao, luôn chứa đựng giùm tác giả triết lý nhục dục. Tôi thấy công thức của nhà văn Nga nào đó ?oMột cộng một bằng một? ở đây: ?oKhi một người đàn bà và một người đàn ông ở bên nhau? Thế giới không tồn tại? Chỉ còn lại ********? (chương 64, trang 467, 468). Đôi khi tôi nghi ngại sự sùng mỹ phiến diện của Cao: ?oTôi rất ghét đàn bà xấu xí, tôi không có cảm tình với chị chút nào? (chương 73, trang 529). Cao có phủ nhận cái ?ota? ở một nửa nhân loại hay không, tôi đâu dám chắc. Tuy nhiên khung hình của Linh Sơn có vẻ tươi mát hơn với những người đàn bà đổi chỗ xoành xoạch, rất giống các cô bồ hay bạn gái qua đường sẻ chia nhiệm vụ cao cả của Jame Bond trong loạt phim thị trường ?oĐiệp viên 007?.
    Cao nghĩ Đại Vũ là kẻ giết người, thì Cao thừa dũng khí không từ một ai trong lịch sử Trung Hoa. Vậy mà tôi vẫn thấy tiếc, tiếc cho nhà văn Cao Hành Kiện, bậc thầy thượng thừa của kỹ thuật viết. Ông đã vô tình bỏ quên cả trăm năm lịch sử dân tộc Trung Hoa hết bị liệt cường xâu xé lại đến Nhật Bản xâm lăng. Làm sao có thể tính được bao nhiêu người đã nằm xuống dưới đường tên mũi đạn hoặc trong khói thuốc phiện, bao nhiêu tiền bạc bị bóc lột, bao nhiêu đất đai bị cắt nhượng, bao nhiêu bảo vật bị cướp bóc, bao nhiêu di sản văn hóa bị đại bác xóa sổ. Ngay cả hoàng cung Thanh triều cũng không tránh khỏi tan hoang. Ở một công viên nào đó, người phương Tây văn minh nhất thế giới đã treo chiếc bảng ?oCấm chó và lũ Trung Quốc?!
    Thời thanh niên tràn trề sức sống Cao phải nếm trải đày ải và chịu nhiều khổ nhục. Họ cấm ông cầm viết, luôn xét đoán và đe dọa bỏ tù ông. Đó là vết nhơ không ai có thể phủ nhận. Tuy vậy trong Linh Sơn, đôi khi Cao tỏ ra ngây thơ không thể tưởng tượng: ?oNghe nói có đức Hồng y giáo chủ tòa thánh Vatican đến Quảng Châu, thế là ông làm một chuyến đến Quảng Châu mong ngài thỉnh giáo cho đạo lý chân chính của Thiên chúa giáo. Kết quả không những ông không được gặp vị giáo chủ mà còn còn bị nghi ngờ muốn câu kết với người nước ngoài? Một hôm ông bỗng tỉnh ngộ rằng Thiên chúa ở tít trời Tây không thể cầu cứu được, vậy quay về Phật tổ? (Cao kể lại lời của một nhà sư, chương 47, trang 326 và 327). Chi tiết hài hước làm duyên lấy điểm này cố tình quên béng rằng từ thời Thuận Trị, Khang Hy vua Trung Quốc không hề cấm đoán Ki Tô. Thậm chí Khang Hy còn giao mấy hoàng tử cho tu sĩ Ki Tô dạy dỗ, rồi ông định theo Chúa với vài điều kiện tiên quyết. Sau này các tu sĩ dòng thánh Dominique và dòng thánh Francois d?T assisie đã mạt sát tất cả thần học và lễ nghi Trung Hoa, làm triều đình và dân chúng nổi giận, khiến mối giao hảo cũ bị phá vỡ. Sự thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa Trung Hoa và Ki Tô giáo nếu không là món nợ lâu đời, thì cũng có căn nguyên từ xa xưa.
    Tôi không tin các vị giám khảo khả kính khi xét giải Nobel sẽ lưỡng lự, nếu Cao kể ra những tội ác mà thực dân phương Tây từng tung tóe trên mảnh đất Trung Hoa. Sự thật lịch sử luôn có thể được quan sát bằng con mắt nhân hậu, không thành kiến dân tộc chủ nghĩa. Họ cũng chẳng nỡ hiểu lầm nếu Cao nhìn nhận Thiên chúa giáo khác họ, với đôi mắt Á Đông, nhưng cùng bản thiện rất con người.
  4. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    4. Tạm kết luận cho những vấn đề đã nêu
    Lịch sử nói chung là nhận thức thời gian đã qua trên cở sở chuỗi luận của kẻ chiến thắng, kẻ mang lợi thế. Như vậy tinh chất nguyên nghĩa nhất của sử liệu chính là ánh xạ phát ra từ tâm thức của những cá nhân, những thân phận đơn lẻ, những cái ?ota? trong lũ ?ochúng ta?.
    Lịch sử trong văn chương đôi khi chỉ cần phục vụ cho văn chương mà thôi. Tuy nhiên Cao đã viết: ?oLịch sử loài người nếu chỉ do những qui luật không thể biết điều động bên trái bên phải, những trào lưu mù loà đến rồi lại đi, mà chẳng nghe ra tiếng nói khác nhau của cá nhân thì thật là buồn. Theo nghĩa đó, văn học chính là bổ sung cho lịch sử. Những qui luật lớn lao của lịch sử khi không thể giãi bày loài người được, thì con người cũng có thể lưu lại tiếng nói của chính mình. Loài người không phải chỉ có lịch sử, mà còn lưu lại văn học. Ấy cũng là con người phí không còn gìn giữ được chút tự tin thiết yếu? [7].
    Bộ mặt hưng vượng của xã hội Nhật Bản hôm qua thế giới gọi là thần kỳ. Đến Đài Loan, Hàn Quốc thì mọi người bảo do công bà đỡ Mỹ. Phát triển vũ bão liên tục của Trung Quốc hơn 25 năm nay, cộng thêm khởi sắc Việt Nam, đã đến lúc người ta đặt vấn đề nghiêm túc về ?oGiá trị Á Đông?. Trương Di Vũ, Phó giáo sư Khoa Trung văn đại học Bắc Kinh từng trả lời phỏng vấn ông Phùng Lâm ngày 06-10-1996 như sau: ?oCho dù người Thụy Điển không thích chúng ta, nhưng cũng sẽ chọn một đại biểu của chúng ta để chứng tỏ lòng yêu ghét và sức mạnh của họ? [8]. Họ Trương còn đoán trước năm 2005 hoặc lâu nhất là 2010 điều này sẽ xảy ra. Nếu suy diễn trường hợp Cao Hành Kiện là sự lúng túng của người Thụy Điển thì không ổn, nhưng rõ ràng nói về Cao, thật khó bước hẳn ra ngoài những ?oGiá trị Á Đông? tinh kết trong cá nhân ông. Đó phải chăng là quan hệ tương thiết giữa ?ota? và ?ochúng ta?.
    Một trong những khuôn mặt nhân văn của ?ochúng ta? là tôn trọng, nâng đỡ cái ?ota?, ngược lại cũng có thể đúng. Song, khi đối diện với chính mình, cái ?ota? chỉ còn đơn thuần là phương tiện. Vậy giá trị của ?ota? phần lớn phụ thuộc vào điều nó đa mang. Biện hộ ?ochúng ta? đã làm ?ota? tha hóa là con đường một chiều [9].
    Chắc chắn Cao Hành Kiện biết Suy Vưu từng dẫn đầu 81 anh em và đám ma quỷ bất ngờ truất phế mẹ Thần Nông khoan hòa nhân ái, để đến nỗi nhà tan cửa nát.
    Viết giữa xóm nhà lá Thủ Thiêm, quận 2, TP HCM
    Tháng 9.2004
    ------------
    Chú thích:
    [1] Núi thiêng, Cao Hành Kiện, Ông Văn Tùng dịch, NXB Văn Nghệ TP HCM 2003.
    [2] Tất cả những dữ kiện thần thoại và truyền thuyết Trung Hoa tôi sử dụng trong bài đều rút từ quyển ?oThần Thoại Trung Quốc?, Đinh Gia Khánh, NXB KHXH, Hà Nội 1991.
    [3] Kinh Dương Vương, thủy tổ dân tộc Việt Nam chính là cháu 4 đời Thần nông. Tôi nói Thần Nông là Bà chứ không phải Ông trên cơ sở lập luận cá nhân. Hình ảnh Quan âm sau này trong Phật Giáo Việt Nam và Trung Hoa khẳng định Thần Nông không thể là Ông. Chế độ phụ hệ đưa xuống từ lưu vực Hoàng Hà đã cưỡng ép và biến đổi giới tính của Thần Nông chăng? Xin người đọc để ý thêm đôi long nữ được mô tả trong nghi thức cúng bái tổ tiên của người Mèo tại chương 41.
    [4] Phong nhũ nghĩa là vú to, tôi mượn từ này trong một tựa truyện của Mạc Ngôn.
    [5] Thần thoại Việt Nam có mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đẻ ra bọc 100 trứng, nở thành 100 con. Bào hay bọc là như nhau, nên ở VN và Trung Quốc đều gọi người trong nước là ?ođồng bào?.
    [6] Theo Thụy Khuê - Cao Hành Kiện - Sóng từ trường II
    [7] Lý do của văn học ?" Cao Hành Kiện ?" Diễn văn khi nhận giải Nobel - Nguyễn Tiến Văn dịch, nguồn tanvien.net
    [8] Xin xem ?oĐại dự đoán Trung Quốc thế kỷ 21?, trang 813, Nhà xuất bản Văn hóa ?" Thông tin, 1999.
    [9] Cùng thời với Cao Hành Kiện, người Việt Nam có Lưu Quang Vũ cũng suy tư bằng vở kịch ?oTôi và chúng ta?. Xét cụ thể trên tác động xã hội, họ Lưu có vẻ sáng sủa hơn Cao.
  5. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    HUYỀN THOẠI HOÀN KIẾM
    Người Việt Nam ai cũng nhìn thấy giữa hồ Gươm bàng bạc sương mù quá khứ một câu chuyện nhiều dị bản. Tựu chung là : ?oThuở hàn vi, Lê Lợi nhặt được thanh kiếm cổ quý giá có khắc hai chữ triện THUẬN THIÊN. Ông mang nó bên mình suốt cuộc kháng chiến cam go giành độc lập cho dân tộc, cởi bỏ ách đô hộ giặc Minh. Ngày thái bình đến, trong một lần ngồi thuyền rồng du ngoạn giữa hồ Lục Thủy, rùa thần đã nổi lên đòi Lê Lợi trả lại gươm thiêng?.
    Nhìn từ nhiều góc độ dân gian, câu chuyện lung linh tầng tầng lớp lớp vẻ đẹp huyền ảo. Những người kinh viện lại diễn tả cực kỳ đa nghĩa : Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán (Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, 1975, tr.39-40) tìm hiểu rất sâu xa ý nghĩa hồ Hoàn Kiếm :
    "Sử Lý-Trần hầu như chẳng nói đến hồ Gươm (?).
    "Chuyện "Trả gươm thần ", người Hà Nội nghe kể đã nhiều, song ý nghĩa câu chuyện thì chưa mấy ai đào sâu tìm hiểu. Trên đại thể, người ta cho truyền thuyết ấy kể việc Lê Lợi được gươm thần đề chữ "Thuận Thiên" từ nước : ý trời trao sứ mệnh cho người anh hùng đứng lên xướng nghĩa cứu dân, giúp nước, quét giặc ngoại xâm. Mười năm khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, người anh hùng lên làm vua, đi thuyền trên hồ, trời sai Rùa Vàng hiện lên lấy lại thanh gươm. Chủ đề bất tuyệt : "Chiến tranh và Hòa bình"?
    "Thực ra đấy là vang bóng của một mẫu đề thần thoại và một lễ tiết cổ xưa. Nếu về mặt chính trị-xã hội, thanh gươm là biểu tượng của quyền uy thì về mặt thần thoại-lễ thức, thanh gươm là biểu tượng của Tia chớp-Lửa. (?) Nhúng gươm xuống nước là nghi lễ biểu thị sự hòa hợp Nước-Lửa, một nghi lễ phồn thực. Lại vì gươm là tượng trưng của chớp lửa nên nghi lễ nhúng gươm xuống nước cũng là một nghi lễ chống lụt (?).
    "Sự tích hồ Gươm-gắn liền với một vị anh hùng lịch sử Lê Lợi-là sự diễn tả về mặt thần thoại một lễ nghi cổ xưa chung cho cả vùng Đông Nam Á : nghi lễ chống lụt và cầu mong sự hài hòa của non nước ?".
    ***
    Trước thời Lê, hồ gươm vốn là một khu đầm lầy rộng và không sâu lắm, có cửa thông ra sông Hồng. Có lẽ Lê Lợi đã cho nạo vét, đắp đập, biến đầm lầy thành một cái hồ rồi bắt rùa từ Lam Kinh, Thanh Hoá về thả .
    Ngược dòng lịch sử ta thấy : Năm 1400, Hồ Quý Ly thoán ngôi họ Trần, đổi tên nước và tiến hành cải cách. Tuy nhiên sự nghiệp của ông không thành. Một mặt quý tộc Trần nổi lên khắp nơi, cầu viện nhà Minh phục quốc. Lẽ nữa là dân Việt mông muội, cứ khư khư thờ vua cũ, không coi họ Hồ ra gì. Năm 1407, nhà Minh triệt được họ Hồ, sát nhập An Nam vào đế quốc Trung Hoa. Năm 1418 Lê Lợi khởi nghiệp. Trong quá trình kháng chiến chống Minh giành lại độc lập ông đã áp dụng nhiều chính sách quân sự, chính trị rất khôn khéo trên cơ sở biết người biết ta. Việc cầu phong cho Trần Cao làm An Nam quốc vương, gửi cống vật và dàn hòa với Minh đế là kế sách nhất thời quan trọng.
    Vậy là sau 10 năm đằng đẵng nằm gai nếm mật, Lê Lợi lại ở vào vị thế giống Hồ Quý Ly trước đây. Phải chăng vì vậy mà truyền thuyết ?oHoàn kiếm? được thêu dệt ?
    Nếu các nghiên cứu về rùa đã dẫn hoàn toàn đúng, rõ ràng Lê Lợi đã ra lệnh hoặc ủng hộ việc ngăn hồ, thả rùa. Do đó không có lý do gì để nghi ngờ Lê Lợi cũng can dự vào cuộc xây dựng màn kịch trả gươm.
    Cho dù huyền thoại ?ohoàn kiếm? ra đời trên bất cứ nền tảng văn hóa nào, mục đích duy nhất và cuối cùng của nó vẫn là hợp thức hóa, chính thống hóa sự ra đời của Lê triều. Hình ảnh rùa thần mang tính chất siêu nhiên, nó là bản sao của ?oThăng long? thời Lý Công Uẩn, và xa lạ với khái niệm ?othiên tử - con trời? trong triết lý Khổng giáo. Điều này chứng tỏ xã hội Việt Nam khi đó vẫn còn hơi hớm thần quyền lạc hậu. Để lấy lòng dân, Lê Lợi phải làm cho họ tin tưởng rằng mình có sự hậu thuẫn của các lực lượng siêu nhiên.
    Nếu nhìn nhận lịch sử là sự vận động đa chiều của xã hội, thời điểm ra đời của huyền thoại Hồ gươm chính là bước ngoặt đáng lưu ý. Từ đó về sau, những truyền thuyết hoang đường như vậy vẫn còn xảy ra nhưng ở mức độ cường điệu khá thấp, và tác dụng ngày càng hạn hẹp. Nó chỉ ra chiều hướng thượng của dân trí.
    ---
    Thư tịch:
    1. Đại Việt Thông sử - Lê Quý Đôn ?" 1759
    2. Lam Sơn thực lục ?" Nguyễn Trãi ?" 1431
    3. Keith Taylor ?" Quyền uy và tính chân chính ở VN thế kỷ 11 ?" NXB Trẻ, Sài Gòn 2001
  6. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Đọc ?oMùa trái đắng?
    tiểu thuyết chưa viết của một tác giả nào đó
    Giới thiệu: Xưa nay truyền thống chỉ có thể phê bình, phân tích những tác phẩm đã ra đời, đã được viết. Trong thoáng suy tư xốc nổi, tôi bỗng muốn phá cách làm mới, thử ?ođọc? một quyển tiểu thuyết ?oma?.
    Phải nói ngay ?oMùa trái đắng? là tựa đề khá sến. Tôi biết tác giả từng ướm thử cái tên ?oKhổ qua? nhưng thấy ?obí hiểm? quá nên thôi. Hình như trong tiếng Hán ?" Việt, trái của dây leo gọi là ?oqua?, trái của cây thân mộc gọi là ?oquả?. ?oKhổ qua? diễn nôm rất phù hợp với cốt truyện, nhưng chỉ ngại thâm Nho át Nôm.
    Truyện có bốn nhân vật chính, nữ khoác nam tính và nam mang nữ tính. ?oHắn?, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít theo đặc trưng Huế, được áp cho hai phụ nữ. Chữ ?ochàng? sử dụng cho đấng mày râu. Tân Lang, người miền bắc Việt Nam, cô gái thành đạt này đã ?omua? chàng Vương từ Trung Quốc làm chồng. Văn Kiều, người miền nam Việt Nam, anh ta hợp đồng chung sống với Jane vài tháng để cải thiện mức sống. Vương, người Việt Đông (tên gọi khác của Quảng Đông) Trung Quốc, quê hương nghèo khó nên thất nghiệp và không may bị bọn buôn người qua biên giới bắt bán cho Tân Lang. Jane Fonda, cựu nữ quân nhân Mỹ trong chiến tranh Việt ?" Mỹ, lãnh lương hưu, hàng năm hay sang Vũng Tàu tránh lạnh mùa đông.
    1. Đắp đảo hiện thực hay chỉ là trò nói ngược sống xít
    Bối cảnh xã hội của truyện rõ ràng ở Việt Nam. Nào là Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Vũng Tàu rồi đến Huế, Đà Nẵng, Hội An, Đà Lạt. Song Việt Nam trong truyện không phải Việt Nam mọi người vẫn thấy. Đó là Việt Nam ?ocon rồng châu Á? trong mơ: xe bốn chỗ ngoại hạng hiệu Mê Linh (hơn hẳn Toyota) loang loáng trên các xa lộ cao tốc, thành phố thương mại chọc trời. Sự tương phản giàu nghèo là con đỉa hút máu văn minh, là bóng ma kỹ thuật số. Chàng thợ may Văn Kiều xuất lộ từ khe nứt ấy. Nghe lời dỗ ngon dỗ ngọt của ma cô, chàng đành đoạn bán mình cho Jane vì gia cảnh khốn khó!
    Hãy tưởng tuợng quyển sách này như một ngôi nhà. Nỗ lực của tác giả là thay đổi vị trí đồ gia dụng như giường, tủ, bàn ghế? Sự hoán chuyển, có thể rất vô lý, tất khiến dòng đối lưu không khí cũ mèm chệch hướng. Hậu quả là thanh âm miệng nói vẫn thế nhưng tai nghe sẽ cảm nhận khang khác. Cái ?okhác? gánh vác những gửi gắm của người viết. Cũng bằng cách đó tác giả mong tránh được gốc ?okịch? trong đối thoại. Bản thân các đối thoại khó hiện diện ngoài đời, nên độ chênh giữa văn và đời không xuất hiện, tính ?okịch? bị triệt tiêu. Tiếc là thủ pháp đối thoại gián tiếp hay bị lạm dụng, nét linh động kém đi, lắm lúc nó thành ra trần thuật lê thê. Nhược điểm này khá rõ, là sạn đen giữa bát cơm trắng.
    Trong truyện, bốn nhân vật có cái chung rất đáng nghi ngờ là nói tiếng Việt Nam giỏi hơn bất cứ người bản xứ bình thường nào. Lời giải thích trơn tuột: Nữ chiến binh Jane trẻ trung từng mang lý tưởng cứu thế. Choáng ngợp trước nền văn hiến lâu đời, Jane quay ra thù ghét mục đích cuộc chiến bại hoại, ghét chính trị giả nhân giả nghĩa nói chung. Jane ráo riết vừa học tiếng Việt, vừa tìm cách lẩn trốn nhiệm vụ luôn gắn với sự chết chóc của một người lính Mỹ. Jane trung niên miệt mài theo ngành Việt Nam học, xông xáo cáng đáng từ thiện trong cộng đồng Việt Nam tị nạn. Càng muốn tìm hiểu Việt Nam cặn kẽ, Jane càng phải học nhiều, từ chữ Hán đến chữ Nôm và tiếng Hán Việt. Chàng Vương đến với tiếng Việt rất tự nhiên. Chàng mồ côi từ bé, cha mẹ chàng là nạn nhân của ***************** Trung Hoa. Vương là con nuôi một gia đình người Hoa gốc Việt từng sống ở Hải Phòng, bị làn sóng bài Hoa năm nọ tống về vùng nông thôn chậm tiến giữa tỉnh Việt Đông. Chu Văn An, ông nuôi của Vương đã truyền cho Vương tất cả kiến thức của một thầy đồ Việt Nam thủ cựu. Văn Kiều và Tân Lang không siêu như hai người kia. Họ chỉ được trang bị 2000 chữ Hán ?" Việt thông dụng, từ dạo phổ cập đại học cộng đồng bắt buộc và miễn phí theo luật định. Văn Kiều dùng mớ kiến thức đó để đọc câu đối, đại tự và nghiền nghẫm nó mỗi khi đi chùa xám hối (đều đặn mùng một và mười rằm mỗi tháng). Tân Lang vô thần rất khoái bút đàm, hằng tuần ?ohắn? viết hàng mớ bản sao truyền gửi tới tắp qua Trung Quốc, dụ dỗ hậu duệ thương nhân Lã Bất Vi, Phạm Lãi mua các thiết bị công nghệ tân tiến nhất sản xuất tại Việt Nam.
    Người đọc có thể cười về phương pháp tráo đổi, về áp đặt tính cách nam nữ, cười về kiểu xây dựng nhân vật rất phi lý của truyện. Nhưng tôi tin nụ cười đó đắng chát. Vị đắng chén trà Tàu luôn khơi nguồn cho chuỗi ngọt hậu. Vị đắng của ?oMùa trái đắng? lại xộc lên cái nồng gắt hoa cải quê nghèo, và nước mắt phải chăng là niềm day dứt khôn nguôi trước hiện thực và viễn cảnh tương lai đang bị đắp đảo lột trần.
  7. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    2. Phủ nhận giới tính hay giải phóng phụ nữ?
    Đúng là ở ngày hậu văn minh sẽ có cuộc giải phóng phụ nữ toàn diện. Nhưng giải phóng phụ nữ chắc hẳn không hàm nghĩa phủ nhận giới tính. Từ thời Thần Nông xa xưa, người phụ nữ Việt Nam vốn nắm giữ quyền lực tối cao. Bóc tách những biểu hiện hiện đại mong tìm ra dấu tích mẫu hệ là việc không dễ và khó tránh phản biện. ?oĐạo Phật chắc chắn đã du nhập vào Việt Nam nói riêng và nền văn minh Thần Nông nói chung khi xã hội hãy còn theo mẫu hệ. Phật bà Quan Âm bước lên bệ thờ và khẳng định sự sùng kính nữ giới của cộng đồng.? (trang n + 180). ?oNgười Việt Nam gọi nhau bằng tên riêng, hòa đồng, thân thiện nhưng đôi khi bỗ bã, không như nhiều nền văn hóa khác, nơi phụ quyền luôn lấn át vai trò của người mẹ trong gia đình và khối quần cư.? (trang n + 185). ?oTruyện cổ tích Trầu cau chính là dấu ấn chuyển mình từ chế độ đa phu sang hình thức hôn phối một vợ một chồng.? (trang n + 186).
    Tác giả đã mạnh dạn khoác vào những nhân vật nữ phẩm chất rất đàn ông. Câu chuyện tưởng chừng vô lý nhưng hoàn toàn không vô tưởng. Tuy lồ lộ ảnh hưởng ?oGiới tính thứ hai? của Simone De Beauvoir và chủ nghĩa Siêu hiện thực phương Tây hơn năm mươi năm trước, nhưng tác giả không muốn hổng chân. Khai mở lịch sử cổ xưa bằng phương pháp quy nạp, hắn đã thành công khi tạo được nền tảng để sự giả định đứng vững. Nơi đó, phụ nữ không còn là phái yếu. Họ có thể làm bất kỳ điều gì người đàn ông có thể làm, dù ngoài thực tế họ vẫn phải trầm mình trong hệ lụy hàng ngàn năm bị đè nén, bị xem là cái bóng của cha, của chồng, của con và của cả nền luân lý Á Đông cổ điển. Đi xa hơn nữa, các nhân vật nam đều ?omặc váy? không ngượng ngập. Họ hoán vai rất thành công. Chàng Vương nghiện Thẩm mỹ viện, một tuần ít nhất cố dành nửa ngày ra đó chải chuốt, nặn trứng cá và buôn chuyện xóm làng với vài ông bạn thân. Tân Lang lại thích lê la quầy rượu, nói chuyện chính trị và ngắm nhìn không chán các anh phục vụ lực lưỡng xung quanh. Hai hình ảnh song đối vừa buồn cười, vừa như lời cảnh tỉnh.
    Tôi không phản đối khát khao giải phóng phụ nữ trong truyện. Điều nên tâm niệm là: trao thêm quyền lực gia đình và xã hội cho chị em, không có nghĩa đánh tháo trách nhiệm của đàn ông. Đó mới là con đường đi tới sáng sủa. Nếu tác giả chịu khó lăn lộn thực tế hơn nữa, nếu việc tả cảnh, tả tình khéo tay hơn chút nữa, hiển nhiên người đọc sẽ bớt thấy gượng gạo. Khi ấy, những tràng cười của độc giả khi cầm quyển truyện trên tay chắc chắn rất thoải mái nhưng vẫn không mất đi nét thâm trầm, lắng đọng.
  8. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    3. Không che dấu tính dục hay dùng dục tính câu khách?
    Một phần tư truyện tả cảnh ********. Trong mây mưa, các triết lý xen vào lổm ngổm đến độ chói tai. Hai cặp Tân Lang ?" Vương và Văn Kiều ?" Jane tình cờ gặp nhau trên chuyến du lịch ?oKhám phá di sản của nhân loại? từ Huế qua Mỹ Sơn rồi dừng chân tại Hội An. Họ kết thân rất nhanh để đi đến cao trào là cuộc ******** tập thể trong một ngôi nhà cổ (thuê ngắn hạn) bên sông Hoài. ?oNhững mộc gỗ rệu rã trệu trạo cọ vào nhau tạo thành âm thanh đêm bí hiểm, xoay vòng quanh chiếc đèn ***g đỏ bầm ma quái treo ngoài hiên. Tiếng rên khoái lạc của Tân Lang và Jane lại tìm về nữ tính, đu bám vào chân gió tê buốt xuyên dọc con đường ven sông. Hai kẻ gieo giống cắn răng, hì hụi gồng mình ******** như người máy, như bọn nô lệ hèn nhát nhất. Họ sợ thanh âm đĩ thõa lỡ bộc phát sẽ xúc phạm bà chủ đầy quyền lực đang nhấp nhổm bên trên.? (trang n + 280). Rồi họ bỗng nhận ra, mỗi người trong họ có chút ít ham muốn đồng tính. Khi Tân Lang và Jane mệt ngoài, say đắm ôm nhau ngủ thì Vương cùng Văn Kiều thao thức, đụng chạm và rạo rực.
    Ta thấy tác giả đã bị ảnh hưởng của nhóm nhà văn nữ ?otân hiện đại?, ?otân tả thực? đang nổi đình nổi đám ở Trung Quốc gần đây. Nếu tác giả khéo léo thêm một tí, trau chuốt ngôn ngữ cho hành vi tính dục trở nên thanh hơn, thì sự ảnh hưởng này sẽ được công nhận rộng rãi. Nói cho cùng ảnh hưởng chẳng có gì xấu, nó là quá trình chủ thể học hỏi tự làm đẹp. Xấu hay đẹp luôn nằm trong chất lượng của sự ảnh hưởng mà thôi.
    Truyện đi vào đoạn kết, Tân Lang và Jane ôm hai quả bầu vượt mặt. Không ngờ giấc điệp hồi xuân quá dữ dội, Jane tin chắc đứa con rốt lòng của mình rất sáng láng. Bệnh viện phụ sản lại cho rằng Jane hoang tưởng. Siêu âm tới lui, nghe đo tim thai nhiều lần bác sĩ vẫn kết luận Jane mắc bệnh phù thủng cục bộ, chứ không phải sắp vượt cạn. Tân Lang thì khác, ?ohắn? mang cảm giác chới với. ?oHắn? phân vân chẳng biết mình có thể vừa trở thành một người mẹ tốt, vừa không bị tách ra khỏi biết bao lạc thú thanh xuân cùng nhiều tham vọng xã hội đang mở ngõ. ?oHắn? sợ đèo bồng, sợ tuổi ba mươi phơi phới phải ngậm ngùi cất tiếng hời ru mênh mang diệu vợi trong tù ngục.
    Đúng là đảo điên, kẻ có mong không, người không tưởng có. Và còn đảo điên hơn nữa khi hai gã đàn ông ?obán mình? nọ lén lút thông đồng, rủ nhau bỏ trốn lên cao nguyên Lâm Viên với cuộc tình đồng tính chẳng hứa hẹn một thế hệ tiếp nối. Tiểu đoạn khép màn âm u màu sắc địa ngục: ?oĐêm đen như nhựa đường, lạnh như thạch nhũ hang sâu, sương bảng lảng cùng ma trơi uốn éo quanh đồi thông mang hình thù một bàn chông nhọn hoắt. Tiếng cú rúc, tiếng quạ kêu, tiếng chim lợn eng éc quấn vào nhau, chụp xuống căn nhà rông bé xíu có hai thằng người đang tập tành ********, với sự giúp sức của dược liệu, thuốc kích thích và các trợ cụ ứng dụng công nghệ hiện đại bậc nhất hành tinh.? (trang cuối).
  9. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    4. Yếu tố lịch sử xuyên suốt hay làm dáng văn hóa ?" chính trị chính em?
    Truyện chứa rất nhiều những suy tư, khắc khoải về lịch sử. Ngay tên riêng của các nhân vật gần như đều được nêm mớm từ lịch sử. Vương và Văn Kiều khiến ta nhớ đến gia đình Vương ngoại trong Đoạn trường tân thanh. Tân Lang thì rõ ràng ghép tên hai anh em sinh đôi từ cổ tích Trầu Cau. Jane Fonda là cô ca sĩ phản chiến của cuộc binh lửa Việt ?" Mỹ.
    Tác giả tạm chấp nhận lý thuyết ?ovườn địa đàng Phi châu? và sử dụng công trình nghiên cứu di truyền mới nhất của Spencer Wells để vẽ chân dung tiên tổ người Việt Nam hiện đại. ?oCuộc di cư đầu tiên của Eva và Adams tiến hành dọc bờ biển Nam Á cách nay 60 ngàn năm. Đến bán đảo Peninsular một nhánh xuống Úc châu, nhánh còn lại hướng lên phía Bắc, qua Việt Nam và dừng chân bên lưu vực Trường giang. Dòng người thứ hai từ Phi châu đến Trung Đông cách đây 45 ngàn năm, hai nhóm nhỏ tách ra tại đó lại đi đến Ấn Độ và cực bắc Trung Hoa.? (trang n + 50). Truyện gọi không gian văn hóa địa lý bao la (phía nam từ đồng bằng sông Mã, phía bắc là lưu vực Trường giang, phía đông giáp biển, phía tây dựa vào cao nguyên Tây Tạng) là văn minh Thần Nông. ?oNền văn minh này khởi đầu phát triển rất mau chóng, có nhiều thành tựu bất diệt nhưng nhược điểm lớn nhất của nó là không tạo ra được chữ viết. Văn minh Hoàng hà song song ở phương bắc, không kém văn minh Thần Nông bao nhiêu nhưng thế mạnh của nó là ký tự tượng hình với bằng chứng khảo cổ là những mảnh giáp cốt có niên đại 8600 năm . Chữ Việt trong từ Bách Việt, Việt Nam do người phương bắc thảo ra, mang ý nghĩa là đi về phương nam, vượt qua dòng Trường giang, xa xôi, vùng đất lạ?? (trang n + 60).
    Lịch sử trong truyện khởi đi từ cổ tích đến thần thoại, truyền thuyết, huyền niệm hoang đường. Những chất liệu thô mộc chưa kịp chế biến kỹ lưỡng được đặt thẳng lên bàn ăn: ?oTừ Hồng Bàng, có trong bất cứ quyển sử nào chiết tự là Giang (sông) ?" Điểu (chim) và Nghiễm (mái nhà) ?" Long (rồng). Chim tất nhiên biết bay như tiên và đẻ trứng, nhà của nó trên núi. Rồng hợp với biển khơi vô bờ.? (trang n + 12). ?oThánh Gióng thời đó chưa biết hiếu nghĩa, lập công xong chẳng thèm chào cha mẹ sinh dưỡng, về hưu là bay thẳng lên trời. Hắn nghi ngờ chiếc roi và con ngựa bằng sắt quá. Có sự khập khiễng nào đó giữa thời đại của Thánh Gióng và kỷ nguyên đồ sắt.? (trang n+14). ?oVẻ đẹp của trống đồng chẳng từ ngữ nào mô tả nổi. Tuy nhiên võ đoán di chỉ Đông Sơn (miền biên viễn của một không gian văn hóa bao la, lớn hơn cả nước Xích Quỷ) là trung tâm, là đỉnh cao muôn trượng, tỏa hào quang khắp nơi, thật khó ổn lắm thay.? (trang n + 20).
    Đến khi có tín sử, có văn bản để kiểm chứng thì cái chất chính trị xạm như chàm, rất tiếc, luôn dính vào khuôn mặt văn hóa. Tác giả quá non tay nên không thể tách bạch, chắt lọc, làm nổi lên tâm thức vàng ròng. ?oSấm trạng trình chỉ nên xem là một áng sử thi. Từ Việt Nam xủng xoảng mở đầu có lẽ là cách nói xuôi, nói nôm về nước Nam Việt của Triệu Đà. Nhầm lẫn cố ý của nền chính trị thơ trẻ Đinh, Lý, Trần là đã xem Triệu Đà như ông vua khai quốc.? (trang n + 29). Từ chuỗi luận lịch sử, tác giả khiên cưỡng suy diễn chuỗi luận trong một dòng họ: ?oRất lạ, Hồ Quý Ly và Hồ Thơm cùng một tổ. Ông nào cũng bước ra vũ đài bằng cái họ vay mượn. Nếu Nguyễn Huệ không chết thảm, chết khi đang ôm ấp hoài bão đại cường truyền kiếp, thì cái ngày ông tuyên xưng Hoàng đế của toàn cõi Việt Nam hình chữ S, ông cũng lấy lại họ cũ thôi. Đáng buồn là gốc mầm Nguyễn Quang Toản chưa hứa hẹn đem đến cho người Việt Nam một minh quân.? (trang n + 205)
    Ngày hôm qua luôn gắn liền với nhận thức và ký ức cá nhân. Jane bảo: ?oĐáng lý Mc Caine phải nói kẻ không ngờ thua đã thua. Trên phương diện con người và xã hội cuộc chiến tranh kia chẳng có kẻ thắng. Ở trường hợp này, trên đỉnh cao chiến thắng, sự thua thiệt, mất mát, tụt lùi lại càng thăm thẳm hơn bao giờ hết.? (trang n + 80). Cũng Jane nói giữa thánh địa Mỹ Sơn: ?oĐiều lạ lùng là nỗi đau của con người trong chiến tranh, theo thời gian sẽ gần như bị xóa nhòa, còn những nỗi đau văn hóa thì ngày càng thấm thía hơn. Một thế kỷ nữa, dù có trùng tu và khôi phục thật nhiều, thương tích của Mỹ Sơn dưới thảm bom B52 năm 1968 vĩnh viễn không thể kéo da non.? (trang n + 260). Các thế hệ ?olâm chiến? đang dần dần mai một, văn chương Việt Nam hôm nay sẽ ít chú trọng mô tả chiến tranh như một hiện thực. Như thế không có nghĩa chiến tranh bị quên lãng. Nó sẽ đào thải mọi phù phiếm và biểu trưng nhất thời, để mãi mãi được ghi nhớ như bài học đắt giá quá đáng.
    Sử liệu trong văn chương hiện ra thật trinh nguyên và ít định kiến cộng đồng, tập thể. Cố gắng dựng lên những đường nét thuận chiều xuyên suốt lịch sử của tác giả, không ngờ biến nhiều trang viết thành khô cứng, ít sống động, gây cho người đọc cảm giác nhàm chán. Ở góc độ cởi mở hơn, có lẽ tác giả muốn tiểu thuyết là kho tri thức cá nhân để mọi người tham khảo. Rốt lại, đọc sách chính là quan sát sự quan sát, suy nghiệm, tư duy của kẻ khác. Thế kỷ 21 bùng nổ tri thức, người ta không thể ôm đồm tất cả mà luôn ước cầu cơ duyên. Sau khi kiểm chứng độ tin cậy, mới dám mong chút tri thức ít ỏi nào đó là của mình. Tìm kiếm tri thức rất quan trọng, nhưng việc phải làm, việc quan trọng hơn hết của một cá nhân chắc chắn là ứng dụng tri thức ấy như thế nào trong đời sống thực tế.
  10. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    5. Nghệ thuật, ngôn ngữ và thần khí
    Một lần nữa tôi lại dẫn Nguyễn Du: ?oChữ tâm kia mới bằng ba chữ tài?. Tài có phải là kết cấu, bút pháp, nói chung là nghệ thuật viết, là hình thức? Theo tôi, tài không hẳn chỉ nằm tại Mỹ, nơi công thức Chân ?" Thiện ?" Mỹ. Nếu hội họa từng phá tan khối bê tông cốt thép ?ođường nét, màu sắc, bố cục? để tung tẩy thì văn chương luôn khúm núm bên khuôn phép sáo mòn, cái tháp ngà của niềm tự tôn ngờ nghệch.
    Sai lầm lớn nhất của phê bình văn học là tính hình thức của chính nó. Nó lúc nào cũng đeo đôi kính đổi màu mang đủ thứ tên gọi và khái niệm hổ lốn, soi mói các tác phẩm văn học. Hậu quả nhãn tiền: với đa số tác giả, họ rất nghệ sĩ ở quyển sách đầu tay và chuyển qua làm thợ lành nghề trong quyển tiếp theo. Một ngày đẹp trời không xa, phần mềm viết văn sẽ ra đời. Chỉ cần bạn nhập ý tưởng, lập tức chương trình điện toán sẽ cấu thành hàng chục cách viết, hàng trăm kiểu thể hiện ý tưởng kia bằng loại ngôn ngữ nào bạn muốn, tất nhiên có tham khảo đủ văn cảnh trước, sau và toàn bộ những gì chính nó đã dựng nên . Tôi tin rồi các nhà văn sẽ sớm lặng dừng sợi dây thần kinh day dứt về hình thức, để cuối cùng họ tập trung vào công việc tối thượng là tìm kiếm những ý tưởng nhân văn.
    Đã đến lúc nhìn lại cặp khái niệm ?oTài ?" Tâm? và ?oTài ?" Đức?. Sự mổ xẻ, đoạn phân quen thuộc chỉ thành công rất hãn hữu. Ở mức độ bao quát, ?oTâm? hay ?oĐức? và ?oTài? đều là con đẻ của ?oTrí?. Kẻ bất trí không thể có tài, và càng không thể sở hữu tâm sáng, đức dày.
    Lý luận văn học hình như luôn bị ám ảnh bởi yêu cầu giản dị của ngôn ngữ. Đây là ám ảnh có thật của nghệ thuật nói chung. Tôi xin dẫn trường hợp Chopin, nhà thơ trác việt của chiếc đàn dương cầm. Ông từng nói: ?oRốt cục tôi cần đến sự giản dị. Sau khi thử thách mọi khó khăn, sau khi chơi rất nhiều nốt, tôi phải chấp nhận cái gì giản dị nhất, chính cái giản dị ấy là vẻ duyên dáng, là nét thể hiện cuối cùng của nghệ thuật. Người nào muốn đạt ngay được cái giản dị ấy thì không bao giờ thành công vì người ta không thể bắt đầu bằng chỗ chấm hết?. Sách vở máy móc là vậy, nhưng nữ văn sĩ George Sand đã chứng kiến lao động nghệ thuật của Chopin: ?oY đóng cửa trong phòng suốt ngày, khóc, cười, đi lại, viết đi viết lại một phách đến hàng trăm lần. Ngày hôm sau Y lại kiên nhẫn đem ra viết lại thật kỹ lưỡng trong cơn thất vọng. Y mất sáu tuần lễ cặm cụi trên một trang giấy để rồi sau cùng trở lại giữ nguyên câu đã viết ra ngay lúc đầu? . Cuộc xung đột giữa người nghệ sĩ và ông thợ lành nghề thật khủng khiếp. Thần khí của cái tâm đã chiến thắng.
    Tác giả của ?oMùa trái đắng? nên biết những điều trên. Mừng là trong truyện, hắn không quan tâm đến sự gò bó của định kiến và những yêu cầu giản dị bàng quan. Hắn phải chấp nhận lời chê bai hắn không có thứ ngôn ngữ của riêng mình. Ngôn ngữ hắn hấp thụ được từ thời đại thế nào, hắn dùng thế ấy, không đau đớn dằn vặt từng con chữ, không màng khi nó là thứ ngôn ngữ chính trị áp đặt, ngôn ngữ ngoại giao tráo trở khoa trương bóng bẩy, ngôn ngữ báo chí thuần thông tin, hay ngôn ngữ chợ búa thô vụng. Có điều, tôi không thể phủ nhận thần khí của hắn đã nhập vào đám chữ kia. Rất khó nói văn hắn vô hồn và vô cảm. Đó là sự thành công tối thiểu của hắn, ở một người đọc khắt khe nhất. Tôi hoàn toàn ủng hộ hắn. Thật ra quá chăm chút đến sự giản dị, nhà văn dễ biến mình thành kẻ đồng bóng cầu kỳ. Ngộ thoại ?oThôi ?" Xao? của Giả Đảo, một thi sĩ thời Đường ngày xưa là ví dụ rất điển hình.
    6. Kết kuận
    Trong phê bình truyền thống, phần này sẽ dành để nói vài câu đãi bôi, chẳng hạn:
    ?oTác giả X đang bắt đầu một sự nghiệp văn chương thật sáng sủa. Tôi tin X sẽ vững tin vào mình với những tác phẩm tiếp theo thành công hơn, có nghề hơn?
    ?oX là một tác giả trẻ (tuy rằng X sắp làm ông ngoại). Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió. Mong rằng trải qua thử thách cay nghiệt của nghề văn, bạn sẽ sớm trăm tuổi bạc đầu râu!?
    ?oKhông thể ngảy tót lên chuyên nghiệp ngay được. Hãy gột rửa phù phiếm để xoa tay nặn một tác phẩm đích thực. Tôi biết X thừa khả năng.?
    ?oX là con chim đang làm tổ, con ong đang hút mật. Kỳ vọng lắm thay một mùa xuân hoa lá tràn trề.?
    ?oVới đà tiến thế này, nhà văn trẻ của chúng ta sẽ chẳng cần chờ đến ba trăm năm cho vài giọt nước mắt. Xin X nhớ tặng tôi quyển truyện thứ hai cùng một chiếc khăn tay siêu thấm.?
    Bạn đọc đang cười tôi ư? Kiểu khoá đuôi kia có lâu rồi, thời người ta còn cố lịch sự, bóng gió, nho nhã. Đến buổi kinh tế thị trường đầy dẫy toan tính, kết luận của một bài phê bình đơn giản đi rất nhiều: nếu không vờ vĩnh tránh né, xiên xỏ, chửi bới, cãi cọ; thì người ta quảng cáo đánh bóng, thổi nịnh, bốc thơm không giới hạn. Xin miễn dẫn ra nhằm gìn giữ sự trong sạch cho quyển sách chưa được mở máy vi tính để gõ bàn phím lưu vào ổ cứng.
    Với tiểu thuyết ?oMùa trái đắng?, xin chỉ nói một câu: ?oĐây là tác phẩm ?oma? rất xứng đáng có vé trong chuyến xe luân hồi sớm nhất?. Nếu đồng ý như vậy, bạn, tôi hoặc ai đó là thân sinh hậu kiếp của con ?oma? kia không thành vấn đề nữa. Nâng niu thiện chí chia sẻ với mọi người một ý tưởng trọn nghĩa tinh thần, phải chăng đã là quả ngọt của bất cứ hồn văn nào?
    Nhà khách Dâu tằm tơ, thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng.
    Giữa tháng 9.2004
    Chú thích

Chia sẻ trang này