1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tạp văn Trương Thái Du

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Ledung18, 24/02/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Sao truyền: fax, theo cách dịch của Huỳnh Phan Anh.
    http://news.nationalgeographic.com/news/2002/12/1212_021213_journeyofman.html
    http://dsc.discovery.com/news/briefs/20030421/writing.html
    Tôi đoán câu: ?oQuan quan thư cưu - Tại hà chi châu? nếu đưa vào phần mềm nọ, chắc chắn sẽ có một khả năng trở thành: ?oKhứ niên kim nhật thử môn trung - Nhân diện đào hoa tương ánh hồng?.
    Chopin hay nhà thơ của âm nhạc, trang 162, 163, 164, Guy De Pourtalès, Vũ Đình Lưu dịch, Ca Dao xuất bản tại Sài Gòn, 1972.
  2. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    TẢN MẠN VỚI NHẠC VÀ "nhạc" TRỊNH
    Hai mươi tuổi, sau khi kết thúc một mối tình vớ vẩn, ngồi trên vạt cỏ cháy triền đê sông Hồng tôi thốt lên : " Ta thấy em trong tiền kiếp, với cọng buồn cỏ khô?"
    Ba mươi tuổi, mệt nhoài mưu sinh rồi lận đận công danh sự nghiệp, từ Đà Lạt xuôi qua đèo Đờ Răng, vô tình nhìn thấy một ngọn núi lẻ loi đội mây, hai sườn núi trời quang, nắng vàng hoe, tôi lẩm nhẩm : " Mây che trên đầu và nắng trên vai?"
    Từ đó tôi hết mê nổi nhạc Trịnh.
    Thời gian thoi đưa, bè bạn tôi đứa nào cũng trưởng thành : Giảng viên đại học có, văn nghệ sĩ nổi tiếng có, đại gia cũng có? Năm thì mười họa thằng tôi mới gặp đứa này đứa kia mặt mày hớn hở xùy ra tấm danh thiếp, chức danh trí thức mậu dịch khua loảng xoảng. Rõ lạ, càng no cơm ấm cật, càng trí thức chúng càng khoái triết lý. Chúng thuộc nhạc Trịnh như thuộc sấm và dẫn nhạc Trịnh như kinh kệ tôn giáo.
    Ném nhạc Trịnh vào sọt rác ký ức đã lâu, tôi bỗng chột dạ. Tôi nghe tới nghe lui Khánh Ly như tìm lại chính mình. Cảm giác trồi sụt, lẫn lộn nhưng sau một tuần tự hành xác tôi không khỏi tâm đắc : Trịnh Công Sơn chính là nhà triết học vĩ đại, ông thánh vừa? ngủm của Sài Gòn 300 năm! Mặc tình ai chê bai trách cứ, tôi vẫn tin TCS là một nhà thơ tài ba, nhà hiền triết của tình yêu trong bể thân phận, nhà của mọi nhà nhưng tuyệt đối không thể là một nhà NHẠC được.
    Đọc vài bài nói về nhạc của các vị Nguyễn Hữu Liêm, Trịnh Thanh Thủy, Patrick Raszelenberg trên Talawas tôi đâm ra phân vân. Thậy vậy, so sánh "Cọng buồn cỏ khô?" và "Cọng cỏ khô buồn?" thấy hay hay là lạ. Có người bảo TCS sử dụng cấu trúc Pháp ngữ cho tiếng Việt, cho "thơ" của ông. Nhớ một thời văn nghệ sĩ Sài Gòn 280 năm rêu rao châm chọc họ Trịnh : " Sơn vàng ôm guitar đỏ hát nhạc màu ? da cam". Nói vậy tội cho "ANH" quá. "ANH" đã lên nông trường rồi ra biên giới với đôi chân không ngần ngại rồi mà dám bảo "ANH" da cam ư ?
    Từ ngày Trịnh ra đi, Sài Gòn hơn 300 năm gọi Trịnh là "ANH" (Viết hoa) như tôi đã nắn nót ở trên. Thiên hạ phát hiện ra "ANH" có biết bao nhiêu là bạn thân thiết và hằng hà sa số giai thoại vui buồn quanh cung Mi thứ của "ANH". Bọn nghệ sĩ choai choai bị ảnh hưởng nặng nề bởi ca từ của "ANH". Thơ thẩn, văn chương xào chữ của "ANH" hằng hà thiên lủng. Họ khoái nhất từ "vô thường" mà thực chất thì chẳng hiểu "vô thường" với Trịnh là cái quái gì. Xin mạn phép Bùi Giáng (dẫn theo La Toàn Vinh) để định nghĩa cái "vô thường" của họ Trịnh:
    Thu Ba ngồi cạnh Thu Bồn
    Thu Bồn khoái chí "vô thường" Thu Ba
    Vâng, tôi quả thực đã hơi quá đà. Nhân cách của TCS chính là nhạc cách (theo kiểu nói của Phùng Quán gì đó). Họ Trịnh và di sản của ông dù không quá lớn lao nhưng cũng "bất thường", hơn hẳn bao kẻ "bình thường" đi qua cõi đời này như giá áo túi cơm. Cái đáng buồn ở đây là sự đóng khung, máy móc của kẻ sĩ đời nay. Họ tự hạ thấp mình bằng việc chứng minh cái "sĩ" cái "trí" của mình với nhạc, họa, thi ca và cả triết học của họ Trịnh.
    Theo tôi ý tưởng của Nguyễn Hữu Liêm khi viết bài "Cái âm điệu tủi thân, bi đát" rất tích cực nhưng sự vụng về trong diễn đạt khiến "tâm" và "ngôn" mâu thuẫn quyết liệt với nhau. Những bài phản ứng tiếp theo chỉ đánh vào ''sự vụng về" đó. Rất mong người đọc, người tham luận có định hướng hơn, hơn là đi vào những chuyện "bà Tám" vô bổ, phù phiếm.
    ĐÀ LẠT 11/9/2003
    Trương Thái Du
  3. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Trương Thái Du
    Chuyện bếp núc viết sách: số trang và số chữ
    Thi thoảng đây đó trong các bài phỏng vấn, ta vẫn nghe nhiều nhà văn nói: ?oTôi đang viết quyển tiểu thuyết cỡ 300 trang??. ?oCuốn sách sắp tới độ năm sáu trăm trang??. ?oTôi sẽ dành 700 trang cho tập hai??. ?oTôi đã viết hai ba tiểu thuyết trên 400 trang??. Thật mơ hồ, tuy nhiên sự nhập nhoạng ở đây lại nằm trong định nghĩa thế nào là một trang viết. Số chữ trong một trang viết tỉ lệ với khổ giấy và độ lớn của ký tự. Sẽ có người phản bác không phải nhiều chữ là hay. Vâng, tôi chỉ muốn trình bày khía cạnh thuần kỹ thuật.
    Tôi không rõ ở Tây người ta có ước lượng độ dài ngắn của 1 quyển sách bằng số chữ hay không. Mới đây, qua bài ?oĐầu và cuối của tiểu thuyết? [1], Milorad Pavic cho người đọc thấy ông cũng từng đếm chữ.
    Người Tàu thì khác. Phần lớn sách xuất bản ở Trung Hoa đều ghi chú số chữ rõ ràng. Hành xử này không chứng minh tác giả Tàu nhận thức cao hơn tác giả Việt, nó là truyền thống lâu đời. Thật vậy, tôi tin muộn nhất người Tàu đã đếm chữ khi sách thẻ trúc ra đời, cách nay trên 2500 năm. Thẩm mỹ đòi hỏi mọi chữ Tàu, bất kể số nét, phải chiếm diện tích như nhau. Tùy chiều dài thẻ trúc, tùy độ lớn của chữ, người ta dễ dàng đếm được số chữ trên một thẻ, nhân với số thẻ sẽ thành số chữ trong tập, lại nhân với số tập thì ra số chữ gần đúng trong quyển sách. Ai chẳng biết Sử Ký Tư Mã Thiên có 520 ngàn chữ. Trước Tư Mã Thiên, Lã Bất Vi từng quảng cáo sách của mình ở cửa chợ Hàm Dương. Ông ta treo giải ngàn vàng cho ai thêm bớt được một chữ trong tổng số hơn hai mươi vạn chữ của Lã Thị Xuân Thu. Sau này có giấy, đếm chữ phức tạp hơn nhưng họ vẫn làm, nên ta mới biết Hồng Lâu Mộng gồm 730 ngàn chữ.
    Tôi từng có kinh nghiệm ?~bực bội?T với nhiều quyển sách xuất bản tại Việt Nam. Lần nọ trên chuyến xe đò 6 tiếng từ Đà Lạt đến Sài Gòn, tôi đem theo 1 quyển sách 600 trăm trang khổ 13cm x 19cm để tận dụng thời gian. Không may sách dành cho người cận nặng nên chữ to như con bò. Đọc sách không mỏi mắt nhưng mỏi tay vì cứ phải sang trang liên tục. Hậu quả là tôi mất toi 3 tiếng một cách vô vị.
    Người Ta ở Tây cũng chẳng khá hơn. Một tác giả sống giữa thủ đô văn hóa Tây dương từng phán: "Tất cả các cuốn Tứ Thư, Ngũ Kinh nếu gộp chung lại tất cả và in thành một cuốn sách thì cũng chỉ vài trăm trang thôi, nghĩa là chỉ bằng một nửa cuốn sách mà các vị đang cầm trong tay thôi. Một người bình thường có thể học một tuần lễ là xong, thế mà các sĩ tử cứ nhai đi nhai lại trong mấy ngàn năm thì hỏi kiến thức có cái gì đáng kể?".
    ?oNgạc nhiên chưa?? ?" Tôi mạn phép nhại một lời thoại quảng cáo ?" Và còn ngạc nhiên hơn nữa khi tôi đem vấn đề ?osố trang, số chữ? tham khảo người bạn vong niên viết văn. Anh nhíu mày khó chịu và mắng tôi như mắng đứa trẻ con vô lễ: ?oThằng dở người! Ai chẳng biết với việc số hóa văn bản hôm nay, nhấn chuột hai lần là có ngay số chữ. Cái khác nhau giữa Ta với Tây và Tàu là bản sắc Việt Nam. Mày muốn tự đồng hóa thì cứ tự nhiên. Đừng bôi bẩn chúng tao!?.
    Tôi buồn lắm. Thì ra trên đời này chỉ tồn tại một sự thật duy nhất đó là không có gì là sự thật. Mọi cái khác mang tên gọi sự thật, chỉ là sản phẩm của các mức độ nhận thức. Nhận thức lạc lõng mang nhiều cảm tính hồ đồ của tôi chắc chắn chẳng thay đổi được thói quen của nhiều người.
    Chú thích:
    [1] http://evan.vnexpress.net/Functions/WorkContent/?CatID=4&TypeID=20&WorkID=725
  4. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Trương Thái Du
    Ngày xuân thanh bình
    đọc Lương Châu Từ của Vương Hàn
    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
    Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
    Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
    Vương Hàn (687 ?" 726) tự Tử Vũ người Tấn Dương, Tinh Châu, Sơn Tây. Năm 710 ông đậu tiến sĩ và ra làm quan. Bài Từ này Vương Hàn làm năm 713 tại Lương Châu. Lương Châu ngày nay thuộc tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc. Thời Đường những đạo quân lớn thường tập trung ở đây trước khi đi về phía Tây hoặc phía Bắc để phá vỡ các lực lượng du mục hung dữ luôn đe dọa Trung Hoa.
    Lương Châu Từ thuộc dòng thơ Biên Tái buổi Thịnh Đường. Tâm trạng bi nhưng không lụy của người lính chiến khắc họa thành công ước vọng hòa bình sâu sa, thê thiết nhưng giàu nhân bản. Tạm dịch nghĩa: Rượu nho đỏ ngon rót vào chén ngọc dạ quang. Ta đã muốn uống, lại được tiếng đàn tỳ bà giục giã thôi thúc vui vẻ. Nếu có lỡ say vạ vật nơi sa trường xin người đừng cười chê. Xưa nay chinh chiến mấy ai có ngày trở về.
    ?oDạ quang bôi? là thứ chén ngọc thạch trắng, phát sáng khi để trong bóng tối. ?oBồ đào mỹ tửu? là loại rượu nho sóng sánh màu đỏ sậm. Mạch so sánh ngầm ở câu thơ đầu khúc chiết nhưng đầy đủ đã làm nổi bật chữ ?obi? chủ thể xuyên suốt bài ca. Màu trắng tang thương, trắng cả trong bóng tối, làm nền, làm bồi cảnh cho màu đỏ nơi huyết quản chinh nhân trong bức tranh thơ trác việt.
    Câu thơ thứ hai xưa nay có rất nhiều cách hiểu. Đa số cho rằng người chiến sĩ rất muốn uống rượu nhưng lại bị tiếng đàn tỳ bà giục giã lên đường. Nghĩa ấy sẽ rất khập khiễng khi vận vào câu tiếp theo, nếu đã uống vội uống vàng thì làm sao có thể nghiêng ngả say trên sa trường. Cũng xuất hiện khả năng ?otỳ bà mã thượng? là cách ví von chùm lục lạc nhạc ngựa của đoàn kỵ mã đang chồn chân. Sự nôn nao gấp ruổi nơi loài thuần thú va đập với dục năng rất người ở đây là muốn uống, muốn say, muốn tạm quên sự đời. Phần dịch nghĩa tôi không đưa khả năng này vào, xin tạm để đây như một tồn nghi, một lối hiểu cần thêm nghiền ngẫm. Ổn nhất khi giải thích ?otỳ bà mã thượng? là nhóm nhạc công ngồi trên lưng ngựa giúp vui cho buổi tiệc khao quân xuất trận.
    Đàn tỳ bà và rượu vang đỏ mang đặc trưng Tây Vực. Rượu truyền thống của người Trung Hoa là rượu lúa mạch, rượu gạo. Chiếc chén ngọc quí giá biết thưởng thức hơi men xa lạ, người lính viễn chinh thấu triệt kỳ thanh trong cung đàn xứ khác trưng ra khuôn mặt khó thấy của văn hóa Trung Hoa: sự khát khao làm chủ các giá trị hữu và phi vật thể từ bên ngoài.
    Câu ba, từ ?osa trường? có rất nhiều điều để nói. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người Trung Hoa hằng mấy ngàn năm không ngon giấc khi nghe thoảng trong gió lạnh tiếng hí ngựa Hồ. Họa Bắc phương khiến sa mạc, những vùng cát trắng mênh mông phía Tây và Bắc Trung Nguyên đồng nghĩa với chiến trường. Người Hán hai lần mất nước bởi những đoàn quân từ phương Bắc. Họ thường nhận định quá trình Hán hóa kẻ thù ở Trung Hoa đồng nghĩa với phục quốc. Trong mối tác động tương hỗ, không thể không quan tâm tới cách họ dung nạp văn hóa ngoại lai và biến nó thành của mình.
    Vương Hàn nặng lòng đặt nét màu cuối cho bức tranh: ?oCổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?. Chén rượu hồng bất ngờ vượt lên trên cả niềm đau chia ly, để ngời ngợi nỗi bi thống máu xương chiến địa. Ngoại ngôn trong Lương Châu Từ rất gần với vô ngôn. Nói là vô bởi ta chẳng thấy bờ biên ngôn ngữ, hơn nữa như Lão Tử viết: ?oTri giả bất bác, bác giả bất tri?, ôm đồm ?obác giả - khối kiến thức rộng lớn của bể từ? khác gì tự biến mình thành kẻ bất tri.
    Nghệ thuật của Vương Hàn nằm giữa đỉnh cao nghệ thuật Thịnh Đường Thi, song tư tưởng ông gửi gắm còn cao hơn thế. Không biết tự bao giờ nó đã vươn khỏi biên giới quốc gia khai sinh ra mình. Ánh sáng nhân văn luôn lan tỏa mạnh mẽ và vĩnh viễn trường tồn. Ở Việt Nam, tư tưởng này khá nhiều lần phảng phất trong các danh tác cổ kim. Có thể kể ngay ra đây bài ?oMàu tím hoa sim? của Hữu Loan vừa gây sóng cồn về ?obản quyền? trong làng văn nghệ:
    Từ chiến khu ba
    Nhớ về ái ngại
    Lấy chồng thời chiến chinh
    Mấy người đi trở lại
    Lỡ khi mình không về
    Thì thương người vợ chờ
    Bé bỏng chiều quê
    Hoặc Hòn Vọng Phu của Lê Thương:
    ?
    Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn,
    Vui ca vang rồi đi tiến binh ngoài ngàn.
    Người đi ngoài vạn lí quan san,
    Người đứng chờ trong bóng cô đơn.
    ?
    Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về,
    Ai quên ghi vào gan đã bao nguyện thề.
    Nhìn chân trời xanh biếc bao la,
    Người mong chờ vẫn nhớ nơi xa
    Bao nhiêu năm bồng con đứng đợi chồng về,
    Bao nhiêu phen thời gian xóa phai lời thề,
    Người tung hoành bên núi xa xăm,
    Người mong chồng còn đứng muôn năm
  5. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Hiếm có dân tộc nào, nền văn minh nào lâu bền và vững mạnh mà không yêu chuộng hòa bình và hòa hợp. Người Trung Hoa hiểu điều đó không phải nhờ Mạnh Tử từng dạy: ?oAi không thích giết người thì thống nhất được thiên hạ?. Càng đối mặt với đại họa thì càng hiểu ý nghĩa của hòa bình. Khát khao hòa bình cộng với biết bao công sức và xương máu lương dân từ thời Chiến Quốc đến triều Minh để xây Trường Thành, vẫn chưa đủ để bảo vệ người Trung Hoa thoát khỏi cảnh chiến chinh. Minh Thành Tổ dời đô từ Nam Kinh đến Yên Kinh để trực tiếp chống chọi Bắc Họa cũng chẳng xong. Mặc cho Trường Thành cao dài như bất tuyệt, mỗi lần chính trị Trung Hoa đồi bại, quí tộc phản trắc nhũng nhiễu là nước mất, nhà tan.
    Đoàn chinh nhân trong thơ Vương Hàn là gì nếu không phải những viên gạch tạo nên bức Trường Thành trừu tượng của dân tộc Trung Hoa. Mặc dù là gốc rễ của mọi thành tựu, là tiền phương ngăn cản chiến tranh tạo dựng hòa bình, nhân dân ở đâu cũng cứ đời đời là nạn nhân của mưu toan thế sự mờ ám bất công.
    Họa Bắc phương với Việt Nam mấy ngàn năm nay, trớ trêu lại mang tên Trung Hoa. Trong chuỗi liên đới Bắc ?" Nam của lịch sử Á Đông, Chiêm Thành là kẻ thiệt thòi cuối cùng và đã biệt tích. Nho Giáo lên ngôi ở Việt Nam trong thế kỷ 15 sau quãng thời gian 20 năm đất nước bị Minh triều nô dịch. Sự chiến thắng của tư tưởng Nho Giáo trong đời sống chính trị Đại Việt ảnh hưởng không nhỏ đến con đường nam tiến của dân tộc Việt Nam. Nên chăng đặt câu hỏi văn minh Chiêm Thành còn lại gì trong lòng dân tộc Việt Nam, ngoài kỳ quan Tháp Chàm ngạo hận trở thành di sản quí giá vinh danh nhân loại.
    Ngày xuân thanh bình, ngân nga bên xứ hoa ngàn Đà Lạt Vạn Xuân mấy câu Hán Việt Lương Châu Từ, bỗng thấy trời xanh thấu lòng biển. Dòng sông mây trắng miên man chảy về đông, hun hút nỗi bất tri sa mạc nước. Với người thơ Vương Hàn, nhân văn là thái độ trước nghĩa hướng của các ngôn từ chiến tranh, hòa bình và hòa hợp.
    Nguyên tác Hán văn phồn thể:
    ??z词
    ZZ'O
    古来征^~?人>z?,
    Nguyên tác Hán văn giản thể:
    ??z词
    ZZ'O
    古来征^~?人>z?,
    Bản dịch của Trần Trọng San
    Rượu bồ - đào, chén dạ quang
    Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
    Sa trường say ngủ ai cười
    Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu
    Bản dịch của Trương Thái Du
    Rượu ngon
    hồng chén dạ quang
    Lòng ham,
    nhạc giục hoang mang tỳ bà
    Đừng cười
    ra trận ta say
    Chiến chinh máu chảy xưa nay ai về?
    Thung lũng Đa Thiện,
    Đà Lạt xuân 2005
  6. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Trương Thái Du
    Xin được trao đổi với học giả An Chi ?" Huệ Thiên Võ Thiện Hoa
    Trong mục Chuyện Đông Chuyện Tây, Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số Tân Niên 523 ngày 20.02.2005, học giả An Chi có luận bàn xung quanh cách giải cấu hai từ Âu và Lạc tại bài khảo cứu ?oThử viết lại cổ sử Việt Nam? của tôi. Bài này là kết quả tổng hợp và chỉnh lý từ 4 bài viết về lịch sử đã từng đến với bạn đọc qua talawas và hiện được nhiều trang web sử dụng, sau khi kho sách vnthuquan.net lưu trữ phiên bản đầu tiên tại: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n2n3n2nqn31n343tq83a3q3m3237nvn
    Tôi rất vui vì được một chuyên gia Hán ?" Nôm quảng học để tâm tới tiền đề ngữ nghĩa thứ hai trong bài khảo cứu ấy. Tuy vậy, xin được trình bày thêm về phương pháp tiếp cận của tôi, hầu mong thảo luận lại một vài nhận định có vẻ đầy truyền thống của ông An Chi.
    Đầu tiên xin được định nghĩa "giải cấu là gì?" qua hai trích đoạn:
    1. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3011&rb=07&von=20: "Deconstruction" được hình thành từ khái niệm "social construct" (Kiến tạo xã hội), một khái niệm thực ra đã thấy có ở Marx trong câu nói nổi tiếng "Con người là tổng hòa các quan hệ xã hội". Các nhà triết học thế kỷ XX như Lacan, Foucault và chính Derrida đã phát triển một cách sâu sắc khái niệm này và cho rằng toàn bộ đời sống xã hội, bao gồm không chỉ triết học, luật pháp, khoa học... mà cả chủng tộc, giới tính và thậm chí ham muốn của con người, cũng chỉ là sản phẩm do xã hội kiến tạo ra (social construct). Nói ngắn gọn, toàn bộ xã hội loài người chỉ là tập hợp các kiến tạo xã hội (social constructs) hoặc đôi khi cũng được gọi là kiến tạo văn hoá (cultural constructs). Vì thế, theo Derrida, để nghiên cứu thực tại (như văn bản chẳng hạn) cần phải thoát khỏi, hay phá bỏ các kiến tạo xã hội (de-construct - giải kiến tạo). Derrida đề xuất cách đọc giải kiến tạo (deconstructive readings), theo đó văn bản không thể được là sản phẩm của một tác giả duy nhất với thông điệp duy nhất, mà chỉ là nơi gặp gỡ, tranh chấp của vô số các mối quan hệ xã hội. (Ngô Tự Lập).
    2. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=3037&rb=07&von=20: ?oVậy đọc/tư duy/viết triết lý là tuần tự thực hành, can thiệp vào đối tượng nghiên cứu theo bốn bước: Bước đầu: nhận ra sự xây dựng đối tượng khu vực nghiên cứu (văn học, triết học, tôn giáo, xã hội, chính trị,) đã sử dụng, đặt cơ sở trên những cặp đối nghịch nào. Bước thứ hai: nêu rõ cái trật tự, hệ thống lớp lang trên dưới các cặp đối nghịch được gắn vào nhau. Một cách tổng quát, khi ta deconstruct, nghĩa là ta can thiệp vào cái công trình xây dựng nào đó, ta sẽ nhận thấy sự xếp đặt theo một lớp lang, trật tự nào đó không dưa trên những bản chất đích thực của từng cặp nhưng ngược lại nó phản ánh một sự chọn lựa chiến thuật, dựa trên một ý thức hệ chủ trì nào đó. Bước thứ ba: Ðảo nghịch/lộn cái trật tự đã được thiết định của hệ thống bằng cách chỉ/trình bày cho thấy rằng khái niệm ở vế dưới (thể xác, vật chất, cá biệt, ác, nữ...) có thể có lý do chính đáng để được xếp lên trên, vào chỗ những khái niệm từ lâu vẫn nằm trên, đè nén áp đảo. Và bước cuối cùng: lập ra một vế/khái niệm thứ ba cho mỗi cặp đối nghịch, vế mới này biến đổi hẳn cấu trúc nguyên ủy của cặp trước, và đồng thời cũng tái tạo chúng, khiến cho cặp đối nghịch nguyên thủy không còn thể nhận diện được nữa. (Đào Trung Đạo).
  7. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Như vậy "giải cấu" nôm na là tạm gỡ cấu trúc truyền thống để tìm cái gốc của vấn đề. Truyền thống bao giờ cũng thấp thoáng bóng dáng bảo thủ. Do đó luận điểm kinh viện của ông An Chi không khó hiểu, thậm chí với nhiều bạn đọc, nó rất có lý.
    Tôi xin ví dụ trong đời sống: theo nghiên cứu lâu nay ai cũng biết, đa số người đời thường có xu hướng chọn người yêu giông giống cha hoặc mẹ mình. Dễ hiểu thôi, đứa bé ra đời trong vòng tay ôm ấp thương yêu của cha mẹ. Cử chỉ, nét mặt của cha mẹ nó là biểu trưng đầu tiên của tình thương và sự an toàn. Khi trẻ trưởng thành, gặp ai đó ?ogiông giống?, lập tức "kinh nghiệm" thơ bé được sử dụng để sinh ra mến mộ, thương yêu, tương tư...
    Theo tôi chữ Âu mà Trần Thánh Tông dùng cũng vậy. Nó là cái tâm thức Việt sâu thẳm mà ít có khả năng tác giả ý thức được. Cho nên cứ tưởng Kim Âu là Hán văn, nhưng tôi tin sự việc phức tạp hơn nhiều. Để cho bài viết bớt lê thê, tôi đã cắt bớt đoạn trích trong Lĩnh Nam Chích Quái: ?oLong Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Có rất nhiều điều có thể ?ogiải cấu? trong đoạn này, chẳng hạn ?oÂm là Lạc Long Quân hay Âu Cơ??. Nó có chứa đựng nội dung mẫu hệ hay không? Thủy - hỏa tương khắc, nhưng hỏa - thổ lại là tương sinh! Mẹ đất, cha nước? Người Việt Nam hay nói ?oĐất mẹ? và ?oQuê cha? vậy thì ?oQuê cha? ở đâu? Ngoài biển ư? Có ai nói ?oĐất cha? ?" ?oQuê mẹ? không?
    Quyển Văn Minh Lạc Việt (có ghi trong phần thư tịch bài viết của tôi), trang 81, Nguyễn Duy Hinh nhận định: ?oTrong thuyết văn có chữ Âu. ?oÂu tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh Ân Lâu phản?. Nghĩa là: Âu là chiếc chậu nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu, đọc Ân Lâu phản (tức Âu). Chú ý chữ mà ngày nay đọc Khu lại đồng âm với Âu, điều đó chứng tỏ ngữ âm đã thay đổi. Chữ Âu viết bộ Ngõa chỉ đồ gốm, không hề chỉ ý người?. Thiết nghĩ gốm cũng không xa đất là mấy, hay nói cách khác đất nung thì thành gốm. Ông Trương Củng, một thành viên Hán học của kho sách vnthuquan.net đã bổ luận hộ tôi: ?oChữ Âu "O ghép bởi chữ Khu ? (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa " là ngói. Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu?. Vậy việc tôi đoán định Âu là Hán tự ký âm Việt ngữ với nghĩa Đất không tùy tiện chút nào.
    Riêng chữ Âu của Hồ Quý Ly thì ông An Chi sẽ không có căn cứ nào mà bảo đó là từ Kim Âu trong Hán văn. Thật vậy, một bạn đọc thân thiết của tôi (yêu cầu được giấu tên) đã hướng tôi đến liên tưởng mơ hồ sau:
    U = nhô lên = đồi, núi ~ Vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) f Vú em = Dưỡng mẫu
    U = mẹ ~ bu (mẹ già).
    Khu (đất) ~ U = mẹ.
    Cho nên có thể Âu = Khu = U = Mẹ = Đất = Núi.
    Vậy mẹ Âu Cơ là tiên ở trên đất, trên núi là đúng rồi. Kim Âu của Hồ Quý Ly phải là Núi Vàng, chứ không thể là cái chậu bằng vàng được! Phải chăng lời ru ?oẦu ơ? của bên nôi của tất cả chúng ta cũng liên quan đến chữ Âu, đến mẹ đất, đến Âu Cơ người mẹ đầu tiên của cả dân tộc Việt Nam.
    Với chữ Lạc thì lại khác. Ông An Chi so sánh cách lý giải chữ Lạc là nước của nhiều người đi trước với cách của tôi rồi đưa ra một tam đoạn luận khá ngộ nghĩnh. Nếu ông mở lòng, du di cho rằng tôi đã công nhận Lạc là Nước (qua tham khảo sách vở trong quá trình mày mò viết đoạn ấy) thì ông có thể đồng ý với tôi mọi con đường khác đều đi đến kết quả Lạc là Nước. Ngay cả ông Tây viết sử Việt là Keith Taylor cũng tin Lạc là Nước trong quyển ?oSự ra đời của Việt Nam? khoảng 25 năm trước. Do đó tôi đánh bạo dùng một câu nói của Khổng Tử để luận mà không cần trích dẫn dài dòng, rắc rối. Điều này sẽ dẫn đến nghi vấn: tôi đã đóng góp thêm vào việc chứng minh Lạc là Nước, hay đơn giản như ông nói đó là sự dễ dãi?.
    Phương pháp tìm nghĩa của tôi là tìm nghĩa trong ngữ cảnh vì tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học. Vì thế tôi không tài nào hiểu nổi chữ Nước trong Đất Nước làm sao lại có thể bắt nguồn từ chữ Lược như ông An Chi tin tưởng. Công đoạn cuối với chữ Âu và Lạc tôi đã dùng một thuật toán tiểu học: Nếu Âu đúng là Đất, Lạc là Nước thì nó sẽ đúng trong mọi trường hợp. Sau đó tôi thay Âu bằng Đất và Lạc bằng Nước vào tất cả khái niệm, tên gọi của nền văn minh Thần Nông (tức vùng đất phía nam Dương Tử) có từ tố Âu và Lạc, và thấy không hề có một từ nào trở thành vô nghĩa. Nếu An Chi nói công thức này sai (như tôi đã lường trước trong chú thích của bài khảo cứu), thì ông nên dẫn chứng sẽ thuyết phục được nhiều người.
    Sau hết, học giả An Chi hình như hơi thiếu kiên trì khi không thử xét kết quả to lớn mà luận đề Lạc là Nước và Âu là Đất đem đến. Phần lớn kết quả này đều có trong bài viết của tôi, ông An Chi vô tình không nhận ra thì tôi thấy rất lạ. Khi áp luận đề kia vào Sử Ký (Nam Việt Úy Đà Liệt Truyện, Kiến Nguyên dĩ lai hầu giả niên biểu) và Hán Thư (Tây nam di lưỡng Việt Triều Tiên truyện) thì mọi tồn nghi, khó hiểu xưa nay trong ấy cũng sáng tỏ. Thậm chí, nó còn xóa sạch các nghi vấn về dị biệt rắc rối giữa Sử Ký và Hán Thư. Đơn cử 3 chi tiết sau:
    1. Người ta từng thắc mắc tại sao Thái Sử Công nói về chiến tranh giữa Nam Việt và Mân Việt thì lại dùng ?oÂu Lạc tương công (Âu Lạc đánh nhau với Mân Việt)?. Đơn giản là vì người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà làm vua Nam Việt cũng gọi nơi họ sống là Âu Lạc, và Âu Lạc hoàn toàn có thể là tên Việt ký âm bởi Hán tự của nước Nam Việt.
    2. Sử ký: ?oCố Âu Lạc tả tướng Hoàng Đồng trảm Tây Vu Vương? ?" Có thể đây là ông tả tướng của triều đình Nam Việt đã đầu hàng quân Hán.
    3. Sử Ký viết: Kỳ Tây Âu Lạc lõa quốc diệc xưng vương (phía tây Âu Lạc là nước trần truồng cũng xưng vương). Hán Thư trong cùng sự kiện lại viết: Tây hữu Tây Âu kỳ chúng bán nuy nam diện xưng vương (phía tây có vùng đất dân chúng mặc khố mà cũng quay mặt về phương nam xưng vương). Hàng trăm học giả người thì bảo Tư Mã Thiên thừa chữ Lạc, người bảo Ban Cố thiếu chữ Lạc, không thể thống nhất. Với luận đề của tôi thì chẳng ai thiếu ai thừa cả, họ đều đúng và còn bổ xung cho nhau nữa. Âu và Lạc đều có thể đứng riêng thành tên gọi vùng đất người Lạc Việt sinh sống. Lạc Việt = Nước Việt, nên Tây Âu = Đất Tây = Tây Âu Lạc (Âu Lạc ở đây là Phiên Ngung).
    Các phương cách mới tìm hiểu ngữ nghĩa những tên gọi đã đi xuyên qua hơn 2000 năm lịch sử không thể được mọi người quan tâm ngay và sớm đi đến đồng thuận. Cứ như chữ Bia (vừa qua mấy chục năm) ông dùng ví von, vài người Tây học tôi tham khảo đã mâu thuẫn kịch liệt với nhau. Đa số không nghĩ như ông, họ bảo Bia là âm Anh - Mỹ, âm Pháp bị biến thành La Ve kia!
    Tóm lại, tôi rất cảm ơn ông An Chi đã thông qua một bạn đọc mà đến với nghiên cứu của tôi. Hy vọng sau ông ?oxông đất?, còn nhiều người nữa sẽ tham khảo cách tôi đã tìm ra ngữ nghĩa các từ ?oGiao Chỉ, Tượng quận, Cửu Chân và Nhật Nam bằng thiên văn; Lạc Việt, Việt Thường, Âu Lạc bằng giải cấu, so sánh và một phép toán ấu học.
    Thung Lũng Đa Thiện, Đà Lạt
    04.3.2005
  8. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Chú thích:
    Mục Chuyện đông chuyện tây, tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, số tân niên (523) ra ngày 20.2.2005
    Câu hỏi: Trong thiên nghiên cứu "Thử viết lại cổ sử Việt Nam" (http://vnthuquan.net), tác giả Trương Thái Du có khẳng định rằng quốc hiệu Âu Lạc có nghĩa là "đất nước" (âu = đất; lạc = nước). Do đó Lạc Việt chính là nước Việt". Tác giả biện luận: ?oĐất nước và tổ quốc: Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương ?oKhổng Tử thế gia? thuật lời Khổng Tử: ?oKhâu này nghe nói? Quái vật do nước sinh ra là con rồng?. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của ?onước?. Ngôi nhà của ?onước? tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là ?onước?. Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho ?ođất?. Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: ?oXã tắc lưỡng hồi lao thạch mã ?" Sơn hà thiên cổ điện kim âu?. Hồ Quý Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) thành Kim Âu. Thành ngữ ?oTấc đất tấc vàng? khá gần gũi với ?okim âu?. Ngựa đá đứng trên đất vàng, thử hỏi làm sao mà non nước Việt Nam chẳng vững chãi Vạn Xuân.?
    Tác giả còn diễn giải thêm ở chú thích số 15: ?oXin các bậc thông Nho đọc đến đây đừng bảo tác giả nói bậy về chữ Âu. Tôi tin âm Âu mang nghĩa Việt nhưng phải mượn chữ Hán để viết. Tôi muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm.?
    Trên đây là cách "giải cấu" của tác giả Trương Thái Du về hai tiếng "Âu", "Lạc" trong bài đại luận "Thử viết lại cổ sử Việt Nam". Xin hỏi: Ông An Chi có nhận xét gì về sự giải cấu đó?
    (Ông Phùng Hữu Đảm, Q.3, TP.HCM)
    Trả lời: Trước nhất, xin nói về tiếng "Lạc".
    Thực ra thì trước tác giả Trương Thái Du đến gần 34 năm, tại Hội nghị nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương lần thứ 4, tháng 4 năm 1971, trong bài tham luận "Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc", hai đồng tác giả Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc cũng đã giải thích rằng Lạc có nghĩa là "nước". (Xin xem toàn bài trong tập kỷ yếu Hùng Vương dựng nước, t.IV, Nxb KHXH, Hà Nội, 1974, tr.134-41). Trong bài tham luận, hai đồng tác giả cũng đã nhắc đến vấn đề "Lạc Long Quân là giống rồng", "Long Quân hay Long Vương đều có nghĩa là vị vua thống trị miền nước." Khác nhau chỉ là ở chỗ hai đồng tác giả này biện luận kỹ càng hơn còn Trương Thái Du thì lại quá dễ dãi. Ta hãy cùng nhau đọc lại lập luận ngắn ngủi của ông Trương: ?oĐất nước và tổ quốc: Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương ?oKhổng Tử thế gia? thuật lời Khổng Tử: ?oKhâu này nghe nói? Quái vật do nước sinh ra là con rồng?. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của ?onước?. Ngôi nhà của ?onước? tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là ?onước?.
    Thực ra, từ lập luận dễ dãi và lỏng lẻo trên đây, ta chỉ có thể thiết lập tam đoạn luận dưới đây mà thôi:
    Quái vật do nước sinh ra là con rồng.
    Lạc Long Quân là "vua rồng".
    Vậy Lạc Long Quân là ông vua do nước sinh ra.
    Thế thôi! Chứ ta tuyệt đối không có bất kỳ căn cứ nào để suy ra rằng Lạc có nghĩa là "nước" cả. Nếu ta theo cách lập luận của Trương Thái Du và nếu chẳng may tên đấng phu quân của mẹ Âu Cơ không phải là Lạc Long Quân mà là "Bạch Long Quân" hay "Hắc Long Quân" chẳng hạn, thì Bạch hay Hắc tất nhiên phải có nghĩa là "nước". Rõ ràng là phi lý!
    Huống chi, nếu cách chứng minh của Trương Thái Du có hoàn toàn đúng đi nữa thì Lạc cũng chỉ có thể có nghĩa là "nước" trong nước tương, nước mắm v.v.. (tạm gọi là nước1), chứ đâu phải là "nước" trong nước Nga, nước Nhật, v.v.. (tạm gọi là nước2). Vì hai thứ "nước" này khác hẳn nhau. Một số tác giả có gợi ý rằng nước2 phải sinh từ nước1 nhưng họ chưa chứng minh được vấn đề một cách đủ sức thuyết phục. Còn Trương Thái Du thì hoàn toàn không chứng minh nên dĩ nhiên là lập luận của ông không có giá trị. Riêng cá nhân chúng tôi lại thấy rằng nước2 tuyệt đối chẳng có liên quan gì đến nước1 cả.
    Nước2, theo chúng tôi, là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ ., mà âm Hán Việt hiện đại là lược, có nghĩa gốc là "ranh giới" (Từ nguyên, nghĩa 9; Từ hải, nghĩa 2; Hán ngữ đại tự điển, nghĩa 3; v.v..), rồi nghĩa phát sinh bằng hoán dụ là "vùng đất nằm trong ranh giới đó", và cuối cùng mới có nghĩa hiện hành là "xứ sở". Về nghĩa thì như thế còn về âm thì ta cũng có nhiều thí dụ để minh họa cho mối quan hệ "n ~ 1":
    ___ nện ~ liện .. (cùng nghĩa); ___ nòi ~ lọai 类 , âm xưa là loài (= loài, giống); ___ non (trong núi non) ~ loan 峦(núi nhọn; sống núi, đỉnh núi, v.v..); ___ nỗng (trong gò nỗng) ~ lũng z" (gò đất cao); v.v..
    Đặc biệt hơn hết là chính chữ lược . với nghĩa "mưu chước", lại là nguyên từ của chữ nước trong nước cờ, đường di nước bước, v.v.. Và ta có:
    ___ lược (= ranh giới) ~ nước (trong nhà nước);

    ___ lược (= mưu lược) ~ nước (trong nước cờ);
    Hai trường hợp đồng dạng từ nguyên học trên đây cho phép ta có thể tin vào lời khẳng định mà chúng tôi đã đưa ra.
    Bây giờ xin nói về chữ Âu. Vẫn biết Trương Thái Du "muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm" nhưng có "giải cấu" thế nào đi nữa thì cũng phải phân biệt rành mạch Hán ra Hán, Việt ra Việt. Đằng này, tác giả lại đem râu ông nọ cắm cằm bà kia. Làm sao mà chữ Âu trong thơ của Trần Thánh Tông lại có thể có nghĩa là "đất" khi mà nó là tiếng Hán rặt ròng, tiếng Hán 100%. Chữ "Âu" của Trương Thái Du có nghĩa là "đất" hay không là một chuyện chứ chữ Âu " của Thánh Tông nhà Trần thì dứt khoát phải là "tiểu bồn dã" (chậu nhỏ vậy), "vu dã" (chậu vậy) như đã cho trong Từ hải (nghĩa 1 & 2) và tất cả các quyển từ điển tiếng Hán khác. Và hai chữ Kim Âu của nhà vua là một danh ngữ tiếng Hán chánh tông dùng để ví với sự vững chắc, sự thịnh trị, như trong câu thơ của Tống Khuýnh:
    Quốc gia toàn thịnh tự kim âu.
    (Nước nhà toàn thịnh tựa âu vàng)
    chứ có liên quan gì đến đất cát?
    Dùng để chỉ một loại thức uống có độ cồn nhẹ, bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière. Nhưng cũng chính vì thế mà nó chỉ có nghĩa trong những cấu trúc như: bia bọt __ bia Tiger __ bia hơi __ v.v. Chứ nếu, với hai câu
    Trăm năm bia đá thì mòn
    Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ,
    mà ai đó lại bắt từ bia của tiếng Việt phải gánh cái nghĩa của từ bière trong tiếng Pháp thì thật là buồn cười. Trường hợp chữ "âu" ở trên cũng thế mà thôi!
    Xem ra, việc viết lại cổ sử Việt Nam chẳng đơn giản chút nào!
  9. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG ƯU TƯ TRONG LỄ HỘI HOA ĐÀ LẠT
    Trương Thái Du
    1. Lan man chữ nghĩa
    Tương truyền năm 1893, khi đoàn thám hiểm của bác sĩ Yersin đặt chân đến cao nguyên Lâm Viên, thông qua phu dẫn đường phiên dịch ông hỏi cư dân bản địa: ?oĐây là đâu??. Một người đã trả lời: ?oĐây là Đạ Lạch?. Ngữ âm này ngay lập tức biến thành địa danh Dalat trên bản đồ Đông Dương thuộc Pháp. Khi Việt hóa Dalat, chúng ta có tên gọi Đà Lạt.
    Chính vì nguồn gốc từ Đà Lạt không được Yersin ghi chép lại, hoặc có ghi chép nhưng đã thất lạc nên trước nay xuất hiện rất nhiều cách giải thích ngữ nghĩa. Gần đây mọi người hầu như đã thống nhất với nhau rằng Đà Lạt tức là Đạ Lạch: (Dòng) nước, (dòng) suối của người Lạch. Cũng cần nhấn mạnh thêm một lần nữa: Ở chợ Đà Lạt được xây dựng năm 1937, người ta gắn một phù điêu chữ Latin: Dat allis laetium allis temperriem (cho người này niềm vui, cho người kia sự mát lành). Nhiều người từng lầm tưởng đó không phải là kiểu chơi chữ Dalat mà gán ghép nó thành gốc rễ của tên gọi Đà Lạt.
    Người Lạch, chủ nhân đầu tiên của mảnh đất Đà Lạt là một phân chi trong dân tộc Kơ Ho. Dân tộc Kơ Ho lại là một chi lớn trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên Việt Nam với những đặc trưng văn hóa - chủng tộc thuộc về đại cộng đồng người tiền Đông Nam Á bản địa xa xưa. Những thành tựu nghiên cứu văn hóa lịch sử Việt Nam và thế giới gần đây cho thấy thuật ngữ ?oCộng đồng người tiền Đông Nam Á? trải rộng từ Indonesia lên đến bờ nam sông Trường Giang Trung Quốc. Bằng các phương pháp truy nguyên ngữ âm học, các chuyên gia ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã đi đến kết luận chữ Giang trong Trường Giang là Hán tự kí âm phương ngữ. Thật vậy, chữ Giang ghép bởi chữ Thủy (mang nghĩa nước, sông) và chữ Công (kí âm). Công có họ hàng với Krông, tức là dòng sông, dòng suối trong ngôn ngữ của cộng đồng người Đông Nam Á cổ và hiện vẫn tồn tại trong ngôn ngữ Tây Nguyên. Trường hợp tên gọi Mêkông (tiếng Thái, tức là mẹ của các dòng sông, dòng suối) cũng vậy. Ngày nay ở Tây Nguyên nhóm từ Đạ / Đak / Krông đều chỉ nước, sông, suối.
  10. Ledung18

    Ledung18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2005
    Bài viết:
    181
    Đã được thích:
    0
    Tại hội nghị nghiên cứu thời kì Hùng Vương năm 1971, trong tham luận ?oThử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc?, Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã giải thích Lạc nghĩa là nước. Hai ông cũng liên hệ được Lạc với Nác (tức nước) theo phương ngữ miền trung Việt Nam. Theo tôi từ Lạc không đơn thuần chỉ là nước mà nó đôi khi còn được sử dụng với nghĩa Xứ Sở với các dẫn chứng liên hệ như Negeri (tiếng của người Mianagkabau ở Malaysia), Nưgar (tiếng của người Chiêm Thành).
    Như vậy, khi xâu chuỗi các nghiên cứu trên lại với nhau ta có một nhóm từ tố mang nghĩa rất giống nhau là : Đạ / Đak / Krông / Lạc / Nác / Nước / Nưgar / Negeri. Câu hỏi đặt ra ở đây là: trong môi trường văn hóa - chủng tộc Đông Nam Á cổ, phải chăng cả dải đất Việt Nam ngày nay đều thuộc về con cháu vua Hùng, tổ tiên họ đều từng ở trong bọc trứng của Âu Cơ tức là Mẹ Đất? Chữ Âu ngoài nghĩa đất còn có thể là U, Mẹ, Núi, Non (1).
    Nếu các nhà nghiên cứu của chúng ta tiếp tục các nỗ lực về nguồn không mệt mỏi, tôi tin rằng họ sẽ sớm chứng minh được từ Lạc, Nác và Đạ cũng như Đak có một mẫu số chung là nền văn hóa tiền Việt Nam. Xin được nêu ra ở đây một giả thuyết: không đơn giản Lạc / Nác / Đạ / Đak nói về nước, về sông, suối. Có thể chúng còn mang một nghĩa rộng hơn, trừu tượng hơn đó là Xứ Sở tương tự như Nưgar, Negeri. Do đó Đà Lạt, trái tim của Tây Nguyên là gì nếu không phải ?oXứ sở của người Lạch thuộc dân tộc Kơ Ho, hậu duệ của một trong năm mươi người con lên núi cùng bà mẹ cao quí Âu Cơ?. Và thật tuyệt vời Đà Lạt lại chính là một tên gọi giúp chúng ta chứng minh nghĩa của Lạc Việt là Xứ sở của người Việt.
    2. Lễ hội hoa hay festival hoa
    ?oHoa nghĩa là gì??, một người bạn Nhật đang học tiếng Việt đã chỉ vào những cánh phướn sặc sỡ có dòng chữ Festival Hoa và hỏi tôi. Cái tên gọi nửa Tây - nửa Ta ấy còn vô duyên hơn rất nhiều công trình dành cho Lễ hội hoa 2005 vẫn dang dở bê tông, cát đá, xi măng, sắt thép trên thảm đất đỏ nhoèn nhoẹt dưới mưa phùn.
    Cái khó của những lễ hội Việt Nam là làm sao vừa tôn vinh truyền thống dân tộc, vừa hài hòa với hiện đại. Song le, trên mảnh đất Lâm Viên này sự xung khắc giữa truyền thống thiểu số bản địa và ký ức Pháp thuộc lại hé mở nhiều khía cạnh cần xem xét cẩn trọng.
    Nguồn gốc mỹ danh ?oThành phố hoa? bắt đầu từ một bài báo của P. Munier trên Tạp chí Đông Dương (1941): ?oỞ bên phải tôi một lọ lớn cắm hoa Glay-ơn tuyệt đẹp. Ở bên trái tôi là nhũng đóa hoa Cẩm chướng xinh tươi như ở Pháp. Trong một lọ hoa khác là vài nhành Địa lan màu vàng tôi vừa hái trong rừng. Trước cửa sổ sáu cành hoa Mimosa đong đưa trong gió. Ba đóa hoa Cẩm tú cầu như ba khối tròn mà xanh biếc đặt trên lò sưởi chờ cắm vào bình. Đà Lạt là như vậy đó! Trước hết Đà Lạt là xứ sở của hoa??(2).
    Sau năm 1954, dưới trào Chủ tịch hội đồng thị xã Nguyễn Vỹ, cuộc cách mạng Việt hóa các địa danh Đà Lạt nói riêng và cao nguyên Lâm Viên nói chung, diễn ra rộng khắp. Tên danh nhân và những vùng đất lịch sử - văn hóa nước Việt thay thế dần tên Pháp: Duy Tân, Hàm Nghi, (Hồ) Xuân Hương, Vạn Kiếp? Các phương ngữ bản địa thì biến thành Việt âm: Langbian thành Lâm Viên, Djilinh thành Di Linh, B?Tlao thành Bảo Lộc?

Chia sẻ trang này