1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tàu ngầm Kilo-636MV và sức mạnh của Hải quân Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Triumf, 17/03/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. matkinhbu

    matkinhbu Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    1.602
    Đã được thích:
    716
    nhiều ông chửi hoành tá tràng vãi.

    hay cứ làm mấy lá kiến nghị, up lên đây rồi gửi đi cho nó oai cái thân nhỉ
  2. maxttien

    maxttien Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2011
    Bài viết:
    3.453
    Đã được thích:
    1.222
    Tính bình quân đầu người đi, ai lại tính sản phầm chung như thế [:D]

    Chúng nó bảo giữ xanh giữ sạch hộ, ôm cục nợ để chúng nó xả khí , nghe lời nó thì đúng là con bò =))
  3. vivaforwin

    vivaforwin Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/12/2009
    Bài viết:
    112
    Đã được thích:
    60
    Như đã thành lệ, cứ khi nào HP đăng đàn viết bài là cô nàng Jenna ( chả biết có phải cô nàng ha không nữa) lại xuất hiện [:D][:D][:D][:D][:D][:D][:D][:D]
  4. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Lặn lâu bơi nhanh là ưu thế tàu ngầm mang động cơ hạt nhân. Các nước không phải thường trực HĐBA đều bị cấm loại tàu này, trong khi tham vọng thì rất nhiều. Có lẽ vì thế thứ đồ cổ AIP được đem ra bơm thổi. Thằng nào tham chắc lại mắc câu.

    50 năm trước, năm 1954 con tàu ngầm động cơ nguyên tử đầu tiên được hạ thuỷ. Chương mới của cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu.

    [​IMG]

    Ý tưởng dùng lò phản ứng hạt nhân làm động lực công bằng mà nói xuất phát từ đế chế Đức. Loại động cơ đẩy không tiêu thụ Ô-xy được ông giáo sư Đức Gejzenberg phát minh ra để dùng cho tàu ngầm "U-wolves" Kriegsmarine. Tuy nhiên các nhà khoa học Đức đã không thể thực hiện xong công trình trước khi đế chế sụp đổ. Và kỹ thuật tàu ngầm nguyên tử đã rơi vào tay Mỹ cùng với hàng trăm ngàn phát minh sáng chế Đức khác.

    Nhưng ban đầu người Mỹ tập trung vào những chiếc máy bay chiến lược mang bom hạt nhân bay tầm xa. Không lực Mỹ khi đó đang có ưu thế bởi những phi đội máy bay đồ sộ. Tuy nhiên việc ném bom nguyên tử xuống lãnh thổ Liên Xô vẫn đòi hỏi phải có những sân bay chiến lược ngay sát biên giới kẻ thù. Tháng 7-1948, Mỹ đã đặt 60 máy bay B-29 ở Anh với bom hạt nhân lắp sẵn trên khoang. Tháng 4-1949, hiệp ước Bắc đại tây dương - NATO ra đời và trở thành một bộ phận trong chiến lược đe dọa hạt nhân của Mỹ. Số các căn cứ quân sự Mỹ cho đến cuối những năm 1960 đã lên đến con số 3400, ngày nay còn khoảng 1000.

    Mặc dù vậy, các chính trị gia và giới quân sự Mỹ cũng hiểu rằng việc cài cắm các máy bay ném bom chiến lược ở nước ngoài mang nhiều rủi ro và rắc rối, có thể dẫn đến những thay đổi chính trị bất lợi cho Mỹ trước làn sóng phản đối chiến tranh và chống đối chiến tranh hạt nhân. Vì vậy họ đã cân nhắc đến việc trang bị vũ khí nguyên tử cho các hạm đội. Phương án này càng được chú ý sau khi thử xong quả bom hạt nhân Bikini.

    Năm 1948, Mỹ đã thực hiện xong công đoạn thiết kế tàu ngầm trang bị lò phản ứng hạt nhân và bắt đầu thiết kế chế tạo lò hạt nhân thử nghiệm. Ý tưởng thành lập hạm đội hạt nhân không chỉ là trang bị bom hạt nhân mà còn là tàu có động cơ hạt nhân.

    Con tàu ngầm động cơ nguyên tử đầu tiên có tên mã SSN-571 được Mỹ lấy tên theo con tàu ngầm huyền thoại trong tiểu thuyết viễn tưởng của Jules Verne: Nautilus được khởi động chế tạo ngày 14 tháng 6 năm 1952 với sự hiện diện trong buổi lễ khởi công của TT Harry Truman ở xưởng đóng tàu Groton.

    Ngày 21-1-1954, trước sự chứng kiến của TT Eisenhower, Nautilus được hạ thuỷ. 8 tháng sau ngày 30-9-1954, nó được chấp nhận trang bị trong hải quân Mỹ. Ngày 17-1-1955, Nautilus bắt đầu ra đại dương. Chỉ huy trưởng đầu tiên, Eugene Wilkinson truyền đi tin tức đầu tiên: “Chúng tôi đang bơi trên con tàu mang động cơ hạt nhân.”

    Ngoại trừ 2 lò phản ứng Mark-2 sức đẩy 9860KW, tàu Nautilus có thiết kế thông thường, lượng choán nước 4000 tấn, vận tốc hơn 20 knot, tầm hoạt động đạt đến 25 ngàn dặm và tiêu thụ 450g U235 mỗi tháng. Điều đó có nghĩa là tàu hoạt động gần như chỉ phụ thuộc vào việc cung cấp ô-xy và thức ăn cho thuỷ thủ đoàn.

    [​IMG]

    Cho dù vậy thì lò phản ứng của tàu Nautilus quá lớn và không còn chỗ để lập khoang vũ khí riêng như bản vẽ dự án. Bảo vệ sinh học chống bức xạ là các tấm chì và thép cũng như các vật liệu khác chiếm đến 740 tấn làm cho tàu rất nặng nề, vấn đề về khối lượng. Cuối cùng thì tàu cũng có 6 ống phóng và 24 quả ngư lôi.
    Cũng như mọi dự án khác, các rắc rối bắt đầu nảy sinh từ đây.

    Thậm chí ngay cả khi thử nghiệm, Nautilus đã có vấn đề. Đó là vỡ đường ống dẫn hơi nước ở nhiệt độ gần 220 độ C, 18 at từ lò phản ứng đến turbine. Không chỉ là ống dẫn chính mà hầu như tất cả các đường ống dẫn hơi phụ khác đều bị nứt vỡ.

    [​IMG]

    Tai nạn, như kết luận của cuộc điều tra sau đó nói rằng: đó là do nhà đóng tàu, thay vì sử dụng ống thép các-bon có mác А-106 làm ống dẫn hơi lại dùng loại ống thép có mác kém bền A-53. Sự hư hỏng cũng làm dấy lên nghi ngờ về việc các nhà thiết kế đã sử dụng ống thép hàn trong các hệ thống làm việc dưới áp lực. Để loại trừ hậu hoạ, việc thay thế các ống thép đã ngốn mất vài tháng và tốn kém rất nhiều tiền bạc.

    Sau khi đưa Nautilus vào trang bị, trên các phương tiện truyền thông Mỹ bắt đầu thường xuyên có những câu chuyện thuỷ thủ đoàn bị ốm nặng với các triệu chứng rõ ràng là nhiễm xạ nặng. Vỏ chống phóng xạ sinh học đã bị rò rỉ và thủy thủ đoàn lĩnh đủ phóng xạ. Hải quân Mỹ đã phải tức tốc thay thế thay thế một phần thuỷ thủ đoàn và con tàu thì lại nằm ụ để thay đổi thiết kế vỏ bảo vệ phóng xạ. Cho đến tận ngày nay, thực hư, thông tin cụ thể về việc này như thế nào vẫn bị giấu nhẹm và không hề có ai hay biết.

    [​IMG]

    Ngày 4 tháng 5 năm 1958, tàu Nautilus trên đường từ Panama về San Francisco thì bốc cháy trong buồng turbine. Dầu dễ bắt lửa được phát hiện đã chảy ra thấm vào lớp cách nhiệt turbine trước đó vài ngày, nhưng việc này đã không hề được chú ý. Ngọn lửa và khói như mùi sơn mới chỉ được phát hiện khi có người trong buồng kế bên, lúc đó khói đã dày đặc và không thể nhìn thấy gì, các thuỷ thủ đoàn mang mặt nạ để dập lửa nhưng vô vọng bởi không thể nào phát hiện ra lửa cháy ở đâu.

    Do không tìm ra nguồn lửa, chỉ huy tàu đành phát lệnh dừng turbine nổi lên cấp tốc đến mức kính tiềm vọng và cố gắng thông hơi đuổi khói qua các ống thông. Tuy nhiên, biện pháp này không mang lại kết quả và con tàu đành nổi hẳn lên mặt nước để thông gió thật mạnh qua các cửa lấy khí cưỡng bức bằng động cơ diesel. Cuối cùng đã có thể cho người vào buồng máy tìm nguồn cháy và dập tắt. 2 thuỷ thủ mang mặt nạ dưỡng khí chống khói (trên tàu chỉ có 4 chiếc) vào buồng máy dùng dao và kìm xé rách vỏ cách nhiệt turbine đang bị cháy và phân huỷ. Việc đó làm cho đám lửa bốc cao cả mét. Thật may, bình dập lửa được mang đến và tỏ ra có công hiệu. Họ vẫn phải vừa dập lửa vừa xé rời vỏ cách nhiệt để ngăn lửa lan rộng. Mỗi thuỷ thủ chỉ có thể thay nhau làm việc này trong buồng máy 10-15 phút bởi khói lọt vào trong mặt nạ. Chỉ sau 4 giờ, ngọn lửa mới bị dập tắt hoàn toàn.

    Sau khi về đến San Francisco qui trình dập lửa mới được đưa ra và thiết bị thở được cung cấp cho tất cả thuỷ thủ đoàn.

    [​IMG]

    Tháng 5 năm 1958, trong khi chuẩn bị cho chuyến thám hiểm Bắc Cực, hệ thống xả nước ngưng mới cho turbine hơi được lắp đặt. Nó bị rò rỉ, ngấm nước bên ngoài lẫn với nước ngưng hơi và có nguy cơ phá hỏng toàn bộ hệ thống động lực. Nhiều nỗ lực để tìm ra chỗ rò rỉ đã thất bại. Và chỉ huy tàu lại có quyết định như thường lệ khi đến Seattle là dặn các thuỷ thủ mặc áo thường dân và giữ im lặng mang con tàu nhiễm đầy nước phóng xạ đến xưởng để tìm cho ra chỗ rò rỉ. Một nửa số nước nhiễm phóng xạ (khoảng 80 lít) được rút ra khỏi bình ngưng tụ ở Seattle. Sau đó không thấy nước mặn tràn vào bình ngưng nữa. Có khả năng, chỗ rò rỉ nằm ở giữa hệ ống ***g của giàn ngưng và đã được đóng kín bằng chất tự bít lỗ thủng.

    Ngày 10-11-1966, trong khi tập trận NATO ở biển Bắc, Nautilus va chạm với tàu sân bay Es***. Hậu quả là Es*** thủng một lỗ to tướng dưới nước. Nautilus cũng bị hỏng một số thiết bị và phải lết 10 knot vào căn cứ New London xa 360 dặm.

    Ngày 22-7-1958, Nautilus dưới sự chỉ huy của William Andersen rời cảng Trân châu đi vùng cực.

    Việc này bắt đầu từ năm 1956, Đô đốc hải quân Berk nhận lá thư từ ông nghị Jackson. Ông ta quan tâm đến khả năng hoạt động của tàu ngầm hạt nhân dưới lớp băng vùng cực. Lá thư này đã buộc hạm đội Mỹ phải tổ chức một chiến dịch qui mô đến Nam Cực. Một phần các đô đốc hạm đội Mỹ e ngại sự liều lĩnh và chống lại việc đưa tàu đến Nam Cực. Nhưng các chỉ huy tàu ngầm thì lại cho đó là một cơ hội để thể hiện.

    Còn Andersen thì chuẩn bị cho chiến dịch này với lòng hăm hở gấp 3. Trên tàu Nautilus được lắp đặt các thiết bị đặc biệt cho phép xác định điều kiện băng giá. La bàn mới MK-19 không giống loại thông thường làm việc được ở vĩ độ cao. Ngay trước chuyến đi, Andersen nhận được bản đồ mới và các chỉ dẫn hàng hải vùng cực cùng độ sâu các vùng nước, ông ta còn được máy bay đi cùng theo đúng tuyến đường nautilus sẽ đi.

    Ngày 19-8-1957, Nautilus đến vùng biển giữa Greenland và Spitsberg. Cuộc thử nghiệm dưới băng của Nautilus đã không thành công. Trong khi thiết bị đo chiều dày băng báo 0 mét, tàu nổi lên. Thay vì mở được cái lỗ trên băng, Nautilus đụng phải tảng băng nổi. Vụ va chạm làm hư hỏng nặng kính tiềm vọng và đành phải quay về.
    Thay vì phải sửa chữa, hàn lại kính bằng thép không gỉ trong điều kiện công nghiệp đòi hỏi có trình độ cao thì kính có khuyết tật lại bị giấu đi và bắt đầu chuyến đi mới. Nhưng nỗ lực lần 2 đến vùng cực cũng không thành công. Mất vài giờ Nautilus cố gắng vượt vĩ tuyến 86 không thành và đành quay về vì bộ định hướng từ trường hỏng. Anderson quyết định không thể liều lĩnh với tính mạng. Ở vùng cực chỉ cần một sự chệch hướng nhỏ là có thể dẫn đến tai hoạ, đưa con tàu đến chỗ không hề biết trước được.

    Cuối tháng 10-1957, Anderson đã phản ứng với một báo cáo của Nhà Trắng, trong đó thể hiện sự thờ ơ với chiến dịch đến vùng cực dưới những lớp băng khiến ông ta thất vọng, và càng thôi thúc ông ta dẫn dắt Nautilus thực hiện chuyến đi lần nữa. Ông ta viết thư cho Nhà Trắng thuyết phục rằng vào năm tới, Nautilus đến vùng cực chỉ còn là sự giải trí. Lầu Năm Góc nhiệt thành ủng hộ, ngay sau đó, đô đốc Berk trở thành người nhiệt tình hăng hái và chuẩn bị cho chuyến phiêu lưu của Anderson. Chiến dịch thử sức vùng cực được chuẩn bị trong sự bí mật nghiêm ngặt- các vị chỉ huy lo sợ cho sự thất bại lần nữa. Chỉ một nhóm nhỏ trong chính phủ biết việc này. Để che dấu nguyên do thực sự của việc lắp đặt thiết bị định vị mới trên Nautilus, Anderson tuyên bố Nautilus chuẩn bị để tham gia tập trận với tàu ngầm Skate và Hafbik.


    Ngày 9-6-1958, Nautilus lại khởi hành đến vùng cực, khi đã rời xa Seattle, Anderson ra lệnh cho sơn lại số hiệu tàu để che dấu tung tích. Bốn ngày sau, con tàu đã ở gần đảo Aleutian. Biết rằng đây là bãi nông cần thiết để con tàu có thể đi xa hơn. Ông ta ra lệnh cho tàu nổi lên. Nautilus di chuyển dọc ngang trong vùng để tìm đường đi đến vùng cực- tìm kiếm những khe hở trong chuỗi những hòn đảo để tiến lên hướng bắc. Cuối cùng thì hoa tiêu Jenkins đã tìm thấy vùng nước sâu cần thiết để vượt qua chuỗi đảo, trở ngại đầu tiên để tiến vào biển Bering.

    Còn sau đó Nautilus phải trườn qua eo biển Bering chật hẹp chất đầy những tảng băng. Con đường đến phía tây đảo Saint Lawrence hoàn toàn bị đóng kín bởi những tảng băng trôi nổi. Một số chúng lớn quá 10 m, dễ dàng xé rách toạc con tàu và nhấn chìm nó xuống đáy biển. Dù đã vượt qua phần lớn quãng đường, Anderson vẫn ra lệnh cho Nautilus đi theo hướng khác. Vị chỉ huy tàu Nautilus không mất hết hy vọng-dường như con đường tiếp cận từ phía đông nhã nhặn hơn với các vị khách. Tàu rời những tảng băng Siberia và hướng đến phía nam đảo Saint Lawrence, lặn sâu dưới làn nước Alaska. Những ngày sau họ vượt lên mà không phải mạo hiểm. Sáng 17-6, tàu Nautilus đã đến được biển Chukotska.

    Đến đây thì chuyến thám hiểm của Anderson sụp đổ. Băng trôi dày đặc sâu đến gần 2 chục mét bao vây tàu, vẫn có thể tránh được va chạm nhưng tín hiệu phía trước thậm chí còn nhiều băng hơn. Nép mình dưới đáy biển, Nautilus trườn qua những tảng băng lớn ở khoảng cách chỉ trên dưới 1,5m. Tránh bị xé rách chỉ còn là phép màu. Khi nổi lên tàu đã bị lạc hướng giữa biển băng dày đặc. Anderson hiểu: chiến dịch đi đến vùng cực đã hoàn toàn thất bại…

    Phải quay về, nhưng vẫn còn chút hy vọng cuối cùng, cuối mùa hè lớp băng sẽ là mỏng nhất. Nhưng giới tướng lĩnh Mỹ đã nổi giận, ngay khi quay về, Anderson bị gọi đến Washington để giải thích. Nhưng với vẻ quả quyết và được Lầu năm góc ủng hộ, ông ta vẫn còn 1 cơ hội nữa. Bây giờ thì có hoa tiêu đi thăm dò trước, máy bay được huy động để tìm đường. Đến giữa tháng 7, tín hiệu khả quan đến với Nautilus lúc đó đang ở Trân châu cảng. Lập tức Anderson ra lệnh lên đường.


    Ngày 27-7, tàu đến biển Bering và hướng về biển Chukotska. Đến 1-8, tàu đến vùng cực, lặn dưới lớp băng dày 2 chục mét, Anderson dồn hết nỗ lực để chú ý quan sát, giữ cho tàu khỏi va vào băng. Ngày 3-8 tàu đến điểm cực bán cầu Bắc và sau đó rời về Greenland. Máy bay đón Anderson thẳng về Washington báo cáo công trạng. Một lễ diễu hành được tổ chức để chào đón Anderson.

    Ngày nay, việc đến cực bằng tàu ngầm không còn khó khăn, nhưng năm 1958, sự kiện tàu ngầm nguyên tử Mỹ đến vùng cực, nghĩa là rất gần biên giới Liên Xô, là một tín hiệu đe dọa rõ ràng. Cuộc đua trong lòng đại dương, một chương của chiến tranh lạnh bắt đầu…
  5. Muganba

    Muganba Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/04/2013
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    4
    Phần "không khói" là bao nhiêu hở con la liếm đít Phúc kia? Đầu tư Mỹ qua Vịt vài tỷ đô trừ vào cái số lẻ của16 nghìn tỷ nhể?

    Cái nick SSX nịnh hót, ăn chất thải của Phúc, theo đuôi ăn lấy ăn để đến nỗi liếm phải đít Phúc làm chính Phúc nổi cơn chó dại nó chửi vào mặt, phải bỏ nick giờ quay sang dùng nick Jenna tiếp tục vân vê bi Phúc à? Phò rạc. :))

    Liếm đít Phúc kiểu ấy nó cáu nó quạt vỡ mồm lần nữa lại phải thay nick mới nhá phò.

    Phúc nó giả điên để chửi bới chính quyền chứ éo vừa ngu vừa điên như phò nhá, hít lấy.

    Con bò là con éo biết tính hiệu suất thả khí thải các bon tính trên giá trị sản phẩm làm ra. Học trò của giáo sư lừa tình hay đồ đệ của phò rạc Jenna tăng rồng vậy? Nếu học trò của Phúc thì quá ngu, éo hiểu thầy dạy cái gì. Còn học trò của Jenna sờ ích thì quá đúng, ngu giống thầy.=D>
  6. werty98

    werty98 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    8.164
    Đã được thích:
    5.561
    Bắt đầu có không khí rồi đấy :D
  7. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Mày về hỏi cụ nhà mày GDP của thằng cướp cạn là bao nhiều đi. Chửi phải có bài có bản, có vần có điệu nghe chưa con.
  8. maxttien

    maxttien Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2011
    Bài viết:
    3.453
    Đã được thích:
    1.222
    Con bò là con ôm cục nợ giữ sanh sạch đẹp hộ chúng nó, rồi bắt dân phải è cổ ra trả nợ lão ấy chửi cái điện gió là vì thế.[:D]
    Còn đốt được bao nhiêu than hay dầu nó tùy thuộc vào năng lực của nền công nghiệp.
    Thích dùng điện gió cho xanh sạch sao không thử ra trường sa nhể, [:D]

    Còn nếu tính hiệu suất thì tính trên GDP đầu người ấy nhá không đào đâu ra được cái số 150 đâu[:D]
  9. alsou

    alsou Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/07/2003
    Bài viết:
    2.780
    Đã được thích:
    786
    Thằng khôn thì đã không theo fukov bái sư rồi..
    Chỗ cái hội Trâu Quỳ nâng bi thổi kèn nhau chú dây vào làm gì?
  10. Molotov

    Molotov Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/06/2013
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    =)) vui vãi :lol:

Chia sẻ trang này