1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tây Du Ký với khí công và với góc nhìn của người học Phật

Chủ đề trong 'Yoga - Khí công - Nhân điện - Thiền' bởi chung_trinhquang, 28/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Arthur Waley đã dịch tác phẩm của Lý Chí Thường ra tiếng Anh, nhan đề The travels of an alchemist, 1931.
    Waley sinh năm 1889 tại London, là nhà thơ, dịch giả, và nhà Trung Quốc học. Học ở Cambridge, rồi ông lấy hai học vị tiến sĩ văn chương ở hai đại học Aberdeen và Oxford. Ông giữ chức phó quản thủ Phòng Ấn loát và Đồ họa của Viện Bảo tàng Anh và giảng dạy Đông phương học tại một học hiệu trực thuộc Viện Bảo tàng này (1912-1930). Năm 1952, ông được trao tặng một huân chương (the Order of Companion of the British Empire). Năm 1953, được Nữ hoàng Anh ban tặng Huy chương Thi ca (Medal for Poetry).
    Ngoài bản dịch tác phẩm của Lý Chí Thường, Waley còn có các công trình nghiên cứu và dịch thuật quan trọng như sau:
    - Thơ Trung Quốc (Chinese poems, 5 quyển), 1918.
    - Nhập môn nghiên cứu hội họa Trung Quốc (An introduction to the study of Chinese painting), 1923.
    - Đạo đức kinh (The Way and its power), 1935.
    - Luận ngữ (The analects of Confucius), 1938.
    - Ba con đường tư tưởng Trung Quốc cổ đại (Three ways of thought in ancient China), 1939.
    - Nguyên thị vật ngữ (The tale of genji, 6 quyển, dịch tiểu thuyết Nhật), 1955.
    - V.v...
    Sau đây là một phần lớn văn bản của Trường xuân Chân nhân tây du ký, dựa theo bản tiếng Anh của Arthur Waley. Tuy nhiên, vì không có trọn vẹn bản tiếng Anh của Arthur Waley, tôi đã sử dụng phần trích đăng của Owen và Eleanor Lattimore, in trong hiệp tuyển Silks, spices and empire, nhà xuất bản Dell Publishing Co. Inc., New York 1971, các trang 57-61.
    LÊ ANH DŨNG
    (1993-10.02.1995)
  2. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Trích dịch Lý Chí Thường Trường Xuân Chân nhân tây du ký
    Ngày mùng 1 tháng Tư âm lịch (24-4-1219), chúng tôi đến nơi hạ trại của Khả hãn Tamuga. Lúc này tuyết bắt đầu tan, cỏ xanh phơn phớt một màu. Khi chúng tôi đến, một đám cưới đang được tổ chức trong trại. Các thủ lĩnh các bộ tộc quanh đấy năm trăm dặm cũng đến dự, mang theo nhiều lễ vật chúc mừng. Những chiếc xe đen và lều bạt xếp thành dãy dài, ắt hẳn chứa đến hàng ngàn tân khách.
    Ngày mùng 7, Khưu Sư phụ hội kiến Khả hãn và ông ta hỏi Sư phụ về thuật trường sinh bất tử. Sư phụ đáp rằng chỉ có những ai ăn chay lạt và giữ gìn giới luật mới có thể luận bàn về thuật ấy. Cả hai thỏa thuận rằng ông ta sẽ được truyền thụ bí thuật vào ngày trăng tròn (rằm). Nhưng bấy giờ tuyết lại rơi nhiều và vấn đề bị bỏ qua. Hoặc có thể Khả hãn đổi ý, vì ông bảo sẽ chẳng đúng đạo lý nếu như ông hưởng trước cha mình (Đại hãn) bí thuật này trong lúc Đại hãn đã vất vả triệu thỉnh Chân nhân đến đây từ ngàn trùng cách trở. Tuy nhiên Khả hãn truyền lệnh cho A-li-hsien phải đưa Sư phụ trở lại sau khi cuộc triều kiến với Đại hãn đã chu tất.
    Ở xứ sở này sáng lạnh, chiều tối nóng; có nhiều cây trổ hoa vàng. Dòng sông chảy về đông bắc. Hai bên bờ mọc nhiều thân liễu cao. Người Mông Cổ dùng cây liễu làm khung lều. Sau mười sáu ngày đường, chúng tôi đến một nơi mà dòng sông Kerulan uốn vòng về tây bắc, bao quanh mấy ngọn núi. Vì thế chúng không theo dòng sông đi đến tận nguồn, mà quày sang tây nam, đi theo lối ngựa trạm [Yi-ehr-li post road: con đường chuyển thư]. Những người Mông Cổ chúng tôi gặp nơi đây đều hân hoan khi thấy Sư phụ; họ bảo đã mong chờ Sư phụ từ năm ngoái...
    Các đỉnh núi lớn giờ đây dần dần trông rõ hơn. Từ nơi này trở đi, khi chúng tôi đi về hướng tây, vẫn còn là vùng đồi núi và dân cư đông đúc. Dân chúng sống trên các cỗ xe đen và trong những mái lều trắng; họ đều là thợ săn và người chăn thú. Quần áo họ may bằng da thú, lông thú, lương thực là thịt và sữa cô đặc. Đàn ông thắt tóc thành hai bím, thòng phía sau tai. Phụ nữ có chồng đội nón làm bằng vỏ cây phong (birch), có cái cao khoảng sáu tấc. Thường họ phủ lên nón chiếc khăn len đen; nhà giàu dùng lụa đỏ. Đuôi nón giống con vịt, gọi là ku ku (...).
    Ngày 27 tháng Tám (15.9.1219), chúng tôi đến chân núi Yin Shan. Một số người Uighurs ra gặp chúng tôi, và vậy là chúng tôi đã tới một thị trấn nhỏ. Viên quan địa phương đem biếu chúng tôi rượu bồ đào [rượu nho, rượu chát, rượu vang], trái cây ngon, bánh, củ hành, vải Ba Tư...
    Đi tiếp về hướng tây là thành phố lớn Beshbalig. Các viên quan, quý tộc, dân chúng, hàng trăm nhà sư, đạo sĩ, đi ra mãi ngoài thành để đón thầy trò chúng tôi. Các nhà sư đều mặc áo nâu. Mũ áo của đạo sĩ không giống như ở Trung Quốc.
    Ngày 18 tháng Mười Một (03-12-1219), sau khi vượt qua một con sông lớn, chúng tôi tới vùng ngoại vi phía bắc của thành Samarkand. Quan trấn thành là Ngài I-la, cùng các quan lại Mông Cổ và các viên chức sở tại, ra bên ngoài thành đón thầy trò chúng tôi. Họ mang theo rượu bồ đào và dựng rất nhiều lều. Đoàn xe chúng tôi nghỉ chân nơi đây...
    Thành cất dọc theo những kênh đào. Vì mùa hè và thu không mưa, hai con sông được uốn dòng để chảy dọc theo từng đường phố, cung cấp nước dùng cho tất cả dân cư. Trước khi Khwarizm Shah thua trận, dân số nơi đây hơn một trăm ngàn hộ; nay chỉ còn lại một phần tư số này, trong đó một phần rất lớn là người Hui-ho [người Hồi hột]. Những người này hoàn toàn không biết làm đồng áng vườn tược, họ phải thuê người Hoa, Kitai và Tanguts. Việc hành chính ở đây cũng do nhiều người thuộc nhiều quốc tịch rất khác biệt nhau đảm nhiệm. Ở đâu cũng thấy thợ thủ công người Hoa. Trong thành phố có gò lớn cao độ ba chục thước, trên là cung điện mới của Khwarizm Shah...
  3. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Viên quan trấn thành cho dọn yến tiệc khoản đãi, và gởi biếu mười tấm gấm thêu vàng (gold brocade), nhưng Sư phụ không chịu tiếp nhận. Sau đó, viên quan này hàng tháng trợ cấp gạo, bột bắp, muối, dầu ăn, rau quả... Càng ngày ông càng tỏ ra cung kính hơn.
    Khi thấy rằng Sư phụ uống rất ít, ông xin phép được ép khoảng năm mươi ký nho để làm rượu bồ đào mới cho Sư Phụ. Sư phụ đáp: ?oTôi không cần rượu, nhưng hãy cho tôi năm mươi ký nho; tôi sẽ dùng nó để tiếp khách của tôi.? Số nho này giữ được trọn mùa đông. Chúng tôi còn thấy những con công và voi lớn được đưa về từ Ấn Độ, cách hàng ngàn dặm về hướng đông nam.
    Cuối tháng nhuận (12-02-1222), toán thám sát trở về, Liu Wên báo cáo với Sư phụ rằng con thứ nhì của Khả hãn (Chagatai) đã đem binh đi trước, sửa thuyền và chữa cầu. Bọn thổ phỉ đã bị quét sạch. Ho-la, Pa-hai và những người khác đã đến doanh trại của ông hoàng này thông báo rằng Sư phụ mong muốn gặp Đại hãn. Ông đáp rằng Đại hãn đã đi về hướng đông nam rặng Đại Tuyết sơn. Nhưng tuyết phủ dày ải quan đến hơn trăm dặm không thể nào qua được. Tuy nhiên hoàng tử nói rõ rằng ông hạ trại ngay trên đường đến chỗ Đại hãn và mời Sư phụ nán lại cùng ông, chờ đến khi nào có thể qua núi.
    Đại Tuyết sơn (Hindu Kush): Rặng núi chủ yếu ở đông bắc Afghanistan. Nó là nhánh phía tây của rặng Hy mã lạp sơn, trải dài tám trăm cây số (năm trăm dặm Anh) hướng về phía tây nam từ rặng núi lớn Pamirs trên đất Nga và gồm luôn rặng Koh i Baba ở Afghanistan. Đỉnh núi cao nhất là Tirich Mir (7.692 thước; tức 25.236 bộ Anh), nằm ở Chitral trên lãnh thổ Pakistan. (LAD chú)
    Từ đây chúng tôi đi về hướng đông nam, và đến chiều tối thì dừng chân gần một kênh đào cũ. Hai bên bờ mọc một loại cây giống như lau sậy nhưng không có ở Trung Quốc. Những cây to còn xanh qua suốt mùa đông. Chúng tôi bẻ lấy mấy cây làm gậy. Một số thì chúng tôi dùng để chống càng xe đêm ấy, và chúng cứng đến độ chẳng hề gãy. Những cây nhỏ rụng lá mùa đông và tươi lại vào mùa xuân. Đi thêm về phía nam giữa các ngọn đồi, có loại tre lớn đặc ruột. Quân lính dùng loại này làm cán giáo, cán lao. Chúng tôi còn thấy những con rắn mối dài cả chín tấc, da xanh đen.
    Ngày 29 tháng Ba (11-5-1222), Sư phụ sáng tác một bài thơ. Thêm bốn ngày đường nữa chúng tôi đến trại của Đại hãn. Ngài phái một quan đại thần là Ho-la-po-te đến đón chúng tôi... Khi chỗ ở cho Sư phụ đã được sắp xếp xong, Sư phụ lập tức đến triều kiến Đại hãn. Ngài tỏ lòng cảm kích nói: ?oCác vua khác triệu khanh đến mà khanh đều từ tạ. Nay khanh lại vượt vạn dặm đến với trẫm. Đây là đại hạnh của trẫm.?
    Sư phụ đáp: ?oKẻ ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc như hạ thần đến với thánh thượng là ý trời vậy.? Đại hãn đẹp dạ, mời Sư phụ an tọa và sai dọn tiệc. Rồi ngài hỏi: ?oTừ phương xa đến đây, khanh đem thuốc trường sinh gì cho trẫm?? Sư phụ đáp: ?oThần có thuật trường sinh chứ không có thuốc trường sinh.? Đại hãn hài lòng vì sự thành thực của Sư phụ, và sai dựng hai lều cho Sư phụ cùng các môn đệ, nằm ở phía bên đông lều của Đại hãn...
    Thời tiết càng nóng hơn và Đại hãn di chuyển lên một điểm cao trên dãy Tuyết sơn để tránh nóng. Sư phụ cùng đi theo. Đại hãn ấn định ngày 14 tháng Tư (24-6-1222) sẽ hỏi Đạo. Điều này được các quan Chinkai, Liu Wên, và A-Li-hsien cùng ba quan hầu cận Ngài ghi chép. Nhưng ngay khi đến kỳ hẹn, lại được tin bọn thổ phỉ làm loạn. Đại hãn quyết định thân chinh tiễu trừ, và hoãn lại cuộc hẹn đến ngày mùng 1 tháng Mười (05-11-1222). Sư phụ xin phép được trở về nơi ở cũ trong thành. Đại hãn nói: ?oVậy thì khanh sẽ kiệt sức vì đi trọn quãng đường trở lại đây.? Sư phụ nói chỉ là chuyện hành trình hai mươi ngày mà thôi, và khi Đại hãn phản đối rằng chẳng có ai hộ vệ cho Sư phụ thì Sư phụ đề nghị nhờ quan Yang-A-kou...
    Chúng tôi vượt qua ngọn núi lớn nơi có ?ocổng đá?, những trụ đá ở đây trông giống như hai chân nến lớn. Nằm vắt ngang lên trụ là một phiến đá lớn, trông từa tựa chiếc cầu. Dòng suối bên dưới chảy xiết, và đoàn kỵ mã chúng tôi khi thúc bầy lừa chở nặng hành lý vượt suối đã mất hết mấy con lừa chết đuối. Hai bên bờ là xác các thú vật khác cũng đã chết tương tự như vậy. Nơi này là cửa ải, mà trước đây không lâu quân binh đã quyết liệt giao phong để chiếm cứ. Khi chúng tôi ra khỏi hẻm núi, Sư phụ sáng tác hai bài thơ.
    Khi Sư phụ đến trại của Khả hãn, cỏ cây vào cuối tháng Ba xanh mượt, khắp nơi cây cối rộ hoa, ngựa và cừu đều béo khỏe. Nhưng khi nhận được phép của Khả hãn để lên đường, trời cuối tháng Tư, chẳng còn lấy một ngọn cỏ cọng rau. Trước cảnh tiêu sơ này, Sư phụ cảm tác một loạt mấy bài thơ
    .LÊ ANH DŨNG dịch chú
  4. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Tây du ký có bài Lão tôn Phật không?
    Thỉnh thoảng cũng không tránh khỏi có người nghĩ rằng: ?oTrong Tây du ký, Ngô Thừa Ân đã mạnh mẽ bài bác, nhạo báng đạo Lão, đã biến hình thành đạo tu tiên, dưới nhiều hình thức, từ nhẹ nhàng đến sống sượng, thô bạo để đề cao Phật giáo...? [Lý Việt Dũng, báo Người lao động cuối tuần, số 127, ngày 09-7-1993, tr. 19.]
    Đạo Lão có nhiều trường phái, trong đó không tránh khỏi những biến tướng rơi vào chỗ mất chân truyền hay tông chỉ vô vi thanh tịnh của đạo Lão. Trong Tây du ký, Ngô Thừa Ân nếu có bài bác, chính là bài bác cạnh khía mê tín dị đoan, câu chấp hình danh sắc tướng của các đạo sĩ.
    Ngô Thừa Ân thực ra rất tôn trọng và hiểu đúng chân truyền nội đơn (tịnh hay thiền) của Lão giáo [Phương Tây có khi dịch là alchemy (Anh), alchimie (Pháp)]. Theo đó, đạo giải thoát phải thực hành từ chính trong thân hành giả, ngoài thân không có đạo giải thoát. Đạo Lão dùng thuật ngữ nội dược (internal elixir) để ám chỉ lý này. Nếu lầm lẫn tưởng rằng có thể bào chế ngoại dược (external elixir) để làm thuốc trường sinh bất tử là rơi vào bàng môn tả đạo. [ Xem lại Phụ lục 3: Lý Chí Thường Trường xuân Chân nhân Tây du ký. Khi Thành cát Tư hãn hỏi Khưu Trường xuân: ?oTừ phương xa đến đây, khanh đem thuốc trường sinh gì cho trẫm?? Chân nhân đáp: ?oThần có thuật trường sinh chứ không có thuốc trường sinh.? Thuốc trường sinh chỉ là ảo tưởng về ngoại dược. Thuật trường sinh là phương pháp tu thiền, tịnh luyện (nội dược). Câu trả lời của Khưu Chân nhân rất sâu sắc.]
    Thử nêu thí dụ tiêu biểu, Hồi thứ 44 và 45 kể việc Ngộ không, Bát giới, Sa tăng vào quán Tam thanh, dẹp hết các cốt tượng trên bệ thờ đi; và khi các đạo sĩ mê muội quỳ lạy xin ?okim đơn? để được trường sinh bất tử, ba anh em bèn hội ý chớp nhoáng và hào phóng ban cho ngay mấy bình... nước tiểu! [TDK V 1988: 101-110]
    Nếu vịn vào sự việc này rồi đề quyết Ngô Thừa Ân báng bổ đạo Lão thì chẳng khác nào mượn cớ Thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên (738-824) đời Đường chẻ tượng Phật nơi chùa Huê lâm, đất Trường An, để kết án Thiền sư hủy báng Phật, phạm tội đại ác nghịch.
    Cũng vậy, nếu chấp cứng vô mặt chữ truyện Tây du, thì khi đọc Hồi thứ 16, tới đoạn các sư chùa Quan âm dở trò ma giáo, tự đốt chùa mình vì mong cướp đoạt cà sa báu của Đường tăng [TDK II 1982: 112-134], hay khi đọc Hồi thứ 23, thấy Bát giới tuyên bố với Tề thiên một câu xanh rờn rằng: ?oNgười ta thường nói: Hòa thượng là con ma háo sắc.? [TDK III 1988: 61] thì biết đâu chừng thiên hạ cũng dám chụp mũ Ngô Thừa Ân là bài Phật tôn Lão lắm chứ?!
    Cho nên khi đã thấu đáo chỗ nghịch thường này ở truyện Tây du thì cũng tức khắc sẽ hiểu vì sao trong lúc triết gia Đức Friederich Wilhelm Nietzsche (1844(1900) bị chụp mũ là chống Chúa (anti-Christ), chống Ki tô giáo (anti-Christianity), thì một triết gia Đức khác là Karl Theodor Jaspers (1883-1969) vốn một lòng sùng tín Chúa lại quả quyết rằng chỉ có những ai đọc Nietzsche hời hợt ở bề ngoài (only superficial readers) mới dám bảo rằng Nietzche bài xích Chúa. [?oI want to show how much of a Christian he is, this ?~Anti-Chirst?T Nietzsche. (...) Only superficial readers blinded by his aggressive extremism can see in him nothing but hostility to all things Christian.? Karl Jaspers, Nietzsche and Christianity, translated by E. B. Ashton, Henry Regnery Co., Gateway E***ion, 1963, p. viii.]
    Trong Tây du ký, thường thường cứ mở đầu một hồi lại dẫn hai câu thơ đậm nét khẩu quyết hành thiền của đạo Lão. Chẳng hạn:
    Ngoại đạo mê chân tính,
    Nguyên thần giúp bản tâm.
    Hồi thứ 35, [TDK IV 1988: 107].
    Trẻ thơ hỏi mẹ tà hay chính,
    Kim, mộc thăm dò rõ thực hư.
    Hồi thứ 38, [TDK IV 1988: 177].
    Trẻ thơ bỡn cợt lòng thiền rối,
    Vượn cắp đao về mộc mẫu trơ.
    Hồi thứ 40, [TDK IV 1988: 224].
    Yêu ma lừa bản tính,
    Nhất thể bái chân như.
    Hồi thứ 77, [TDK VIII 1988: 152].
    Ngoài ra vẫn có nhiều bài thơ dài mô tả thuật luyện đan (thiền) của đạo Lão. Thí dụ tiêu biểu là chín câu thơ trích trong bài thơ dài ở Hồi thứ 22 như sau:
    Nhân thử tài đắc ngộ chân nhân
    Dẫn khai Đại đạo kim quang lượng
    Tiên tương anh nhi, xá nữ thu
    Hậu bả mộc mẫu, kim công phóng
    Minh đường thận thủy nhập hoa trì
    Trùng lâu can hỏa đầu tâm tạng
    Tam thiên công mãn bái thiên nhan
    Chí tâm triều lễ Minh hoa hướng
    Ngọc hoàng Đại đế tiện gia thăng.
    Lê Anh Minh phiên âm, theo bản chữ Hán [TDK 1987: 161].
    Bản dịch tiếng Việt còn lại tám câu như sau:
    Thế rồi gặp được vị chân nhân,
    Đạo lớn truyền cho sáng cõi lòng.
    Trước thu anh nhi và xá nữ,
    Sau thả mộc mẫu với kim công.
    Nước thận từ mi về đầu lưỡi,
    Lửa gan từ thận xuống tâm nang.
    Ba nghìn công trọn lòng theo lễ,
    Lên điện Minh hoa lạy Ngọc hoàng.
    [TDK III 1988: 33]
    Được muoi_mot sửa chữa / chuyển vào 17:55 ngày 06/01/2006
  5. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Tam giáo đồng tông
  6. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Nói chuyện Trư Bát giới
    Bài Đường tăng! Anh là ai? cho thấy cuộc thỉnh kinh của Đường tăng gồm năm nhân vật mang tính biểu tượng. Năm mà một, là một con người với năm phương diện. Trong năm nhân vật đó, Bát giới có vẻ như đã được hư cấu hơi bất công với những tính cách bị cường điệu.
    [​IMG]
    Một con người với năm phương diện
  7. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Để tượng trưng cho những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người, Bát giới được cách điệu hóa thành một nhân vật nửa người nửa thú. Cái phần may mắn thuộc về người thì lại quá dung tục: bụng phệ, quần áo xốc xếch trễ tràng, hay nói dối, khéo biết nịnh, lười biếng, ham ngủ, thích đùn việc cho kẻ khác mà lỡ khi không thối thác được, phải đành cáng đáng đảm đương thì chàng bèn vênh váo, ra mặt ta đây.
    Bát giới rất ham ăn, ăn nhiều chừng nào cũng được, ăn theo kiểu thực bất tri kỳ vị (không biết mùi mẽ món ăn ra sao). Chuyện xảy ra ở quán Ngũ trang, núi Vạn thọ, là một trong những trường hợp tiêu biểu. Ở Hồi thứ 24, sau khi Tề thiên chia phần cho ba anh em mỗi người một quả nhân sâm, thì Bát giới ?ovừa cầm lấy quả, đã phồng mồm trợn mắt, đút tỏm vào miệng, nhai ngốn ngấu nuốt ực xuống bụng...? Rồi chàng hỏi: ?oCác anh ăn gì đấy? (...) Mùi vị ra sao?? Chàng thú nhận: ?o...em ăn vội quá (...) chẳng biết mùi vị ra sao cả, chẳng biết nó có hột hay không nữa...? [TDK III 1988: 90].
    Bát giới còn có tánh... ẩu, ăn nói bạt mạng. Ở Hồi thứ 19, khi đã nhận Đường tăng làm thầy, trước phút lên đường thỉnh kinh, trước cái giờ bắt đầu thực hiện sứ mạng thiêng liêng cao cả, Bát giới vẫn rán... gỡ gạc: ?oThưa sư phụ, con đã nhận giới hạnh của bồ tát (...) ở nhà bố vợ ăn chay giữ giới, không bao giờ ăn mặn, nay gặp sư phụ con xin phá giới một bữa.? [TDK II 1982: 186].
    Hay như Hồi thứ 23, khi mấy thầy trò tá túc qua đêm tại nhà bà góa họ Giả có ba cô con gái nheo nhẻo chưa chồng, muốn kén mấy thầy trò làm rể, ứng cử viên Bát giới mau mắn tìm cách loại bỏ ngay ?ođối thủ số một? là chính sư phụ mình. Trước mặt bà mẹ góa, Bát giới nói: ?oThưa mẹ, mẹ hãy thuyết phục các em đừng có quá kén chọn như thế. Như thầy Đường tăng của con, tuấn tú đẹp trai thật, mà không dùng được việc gì đâu.?
    Bà mẹ nghe vậy, cẩn thận khuyên Bát giới nếu muốn cưới vợ thì phải thương lượng với sư phụ, chàng ta gạt phắt: ?oKhông cần phải thương lượng. Ông ấy có phải bố đẻ con đâu. Muốn hay không là do con tất.?
    Vì chỉ có một ứng cử viên mà lại đến những ba nàng con gái, bà mẹ góa than thở: ?oGả đứa lớn thì sợ đứa thứ hai tị. Gả đứa thứ hai thì sợ đứa út tị. Muốn gả em út cho con lại sợ đứa lớn tị...? Bát Giới sốt sắng đề nghị: ?oNếu sợ các em tranh nhau, thì mẹ gả tất ba em cho con là xong, đỡ phải cãi nhau ầm ĩ, làm rối gia đạo. (...) Giá mà thêm mấy cô nữa, con rể mẹ cũng sẵn sàng thu nhận. Thuở nhỏ, con đã học được phép nhẫn nại, có bao nhiêu vợ con cũng có cách ăn ở được vừa lòng.? Và đến khi bà mẹ bảo rằng các con bà không chịu lấy Bát giới làm chồng, anh chàng ứng xử thật mau mắn: ?oMẹ ạ, các em không chịu lấy con, hay là mẹ lấy con vậy.? [TDK III 1988: 62-68].
    Tóm lại, đối với chuyện hưởng lạc thú trần tục, Bát giới vốn giàu sáng kiến, nhanh trí không ai bằng.
    Là nhân vật nửa người nửa thú, vì cái đầu heo mà Bát giới mang họ Trư. Trư là heo; chữ Hán viết trư với bộ thỉ, và thỉ cũng là heo. Ba lần heo cả thảy! Cái đầu vốn được coi là nơi chỉ huy mọi tư duy của con người. Tất cả những vận động tư duy của họ Trư thông qua cái đầu heo như vậy đố làm sao khỏi mang ?odấu ấn? của... heo!
    Thế thì trăm cám đổ đầu heo. Lý lịch trích ngang của Bát giới cho thấy chàng mới vào đời đã có... tiền án, tiền sự rồi. Thuở còn làm Thiên bồng Nguyên soái cai quản sông Trời (Thiên hà), một lần dự tiệc chiêu đãi tại cung Diêu trì, quan anh lỡ vui quá chén, say xỉn, nhè đi lạc vô cung Quảng hàn, dở trò bốc hốt cô Hằng Nga. Đội tuần tra nhà Trời (tức là Củ soát Linh quan) bèn bắt giữ và truy tố quan ra tòa về tội quấy rối ********. Thượng đế đề nghị mức án cao nhất là tử hình (chém đầu).

    Rủi ro cho quan là Thiên đình không có... án treo. Thành thử, dù Thái bạch Kim tinh hết sức vận động mà cũng chỉ có thể xin giảm án xuống mức thấp nhất là đánh hai ngàn gậy và đày biệt xứ (bắt hạ trần). Bát giới do nghiệp lực dẫn dắt, không dè sanh nhằm đúng... ổ heo!
  8. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Gắn cho Bát giới chiếc đầu heo, phải chăng Ngô Thừa Ân đã cố tình buộc anh chàng vào những rắc rối tính dục? Nếu Sigmund Freud (1856-1939) có dịp phân tích, biết đâu sẽ thêm được vài phát kiến bổ sung cho lý thuyết về tính dục của ông. Trong truyện Tây du ít ra có hai đoạn tiêu biểu.
    Một, ở Hồi thứ 23, đoạn kể bà góa họ Giả kén rể. Để giúp Bát giới chọn một trong ba cô con gái làm vợ, bà gợi ý: ?oBa đứa con gái ta khéo tay lắm, đứa nào cũng có móc một chiếc áo lót bằng sợi gấm trân châu, con mặc vừa áo của đứa nào, thì mẹ gả đứa ấy cho.? Bát giới khoái chí, liền nhanh nhảu: ?oMẹ mang ngay cả ba chiếc áo ra đây để con mặc thử, con mặc vừa tất là con sẽ lấy tất đấy.?
    Người đàn bà quay vào trong nhà, rồi chỉ mang ra một chiếc đưa cho Bát giới. Anh chàng cởi phăng chiếc áo gấm xanh đang mặc ra, giật lấy chiếc áo lót con gái, mặc ngay vào người... [TDK III 1988: 69].
    Hai, ở Hồi thứ 72, đoạn kể Bát giới trêu ghẹo bảy con yêu nữ nõn nà ở suối Trạc cấu. Khi tận mắt chứng kiến bảy cô ả đang... ?otrăm phần trăm? ngâm mình dưới suối, trông thật tươi mát, thì Bát giới mừng rơn, cười nói: ?oCác nữ bồ tát đang tắm đấy à? Cho hòa thượng tôi tắm cùng được không??
    Nói là làm. Cựu Thiên bồng Nguyên soái nhà ta ỷ mình thạo nghề sông nước, liền ?ocởi tuột chiếc áo dài bằng gấm thêu, rồi nhảy tòm xuống nước (...) biến thành một con cá trê, (...) cứ nhanh như cắt luồn quanh kẽ đùi mấy nữ quái.? [TDK VIII 1988: 45-46].
    Nói theo ngôn ngữ tính dục của Sigmund Freud, việc khoái mặc áo lót đàn bà con gái cho thấy Bát giới có triệu chứng bị bệnh fetishism; còn việc hòa thượng ta cắc cớ biến làm cá trê cứ nhè kẽ đùi con gái người ta mà quậy tưng chứng tỏ anh chàng bị cái gọi là libido chi phối.
    [​IMG]
    Bà goá họ Giả kén rể​
  9. muoi_mot

    muoi_mot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/12/2002
    Bài viết:
    569
    Đã được thích:
    0
    Có lẽ hiểu rõ ẩn ức tận đáy lòng Trư Ngộ năng không ai khác hơn là chính... Bát giới. Cho nên, ở Hồi thứ 23, tuy làm đệ tử cửa Phật mà anh chàng cũng chẳng nề hà gì khi thú thật với Tề thiên rằng: ?oNgười ta thường nói: Hòa thượng là con ma háo sắc.? [TDK III 1988: 61].
    Đúng là phát ngôn có ?okhẩu khí?!
    Kết thúc cuộc thỉnh kinh, Đường tăng và Tề thiên đều thành Phật. Sa tăng thành kim thân la hán cũng oai chán. Đến đỗi con ngựa kia cũng lột xác hóa rồng thiêng, mỹ hiệu là Bát bộ Thiên long. Lận đận duy một mình anh Bát giới!
    Kết thúc cuộc thỉnh kinh, ở Hồi thứ 100, khi Phật tổ xét thành tích thi đua khen thưởng cá nhân tiên tiến, xuất sắc, họ Trư bị phê: ?oTính ương vẫn còn, sắc tình chưa hết?. Rồi xét vì năng khiếu ?oăn khoẻ, tính lười, dạ dày to lắm? [TDK X, 1988: 208] của Trư, Như lai phong cho chàng làm Tịnh đàn Sứ giả với chức năng đặc nhiệm là có đủ thẩm quyền để... ăn uống được đồ cúng tế của khắp cả thiên hạ.
    Nếu coi cuộc thỉnh kinh của năm thầy trò Đường tăng là sự vận động tiến hóa của mỗi con người để hoàn hảo hóa bản thân, để đạt tới cứu cánh toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, thì sự thất bại của Bát giới phải chăng là bi kịch của kiếp người? Phải chăng cái bản năng vật dục, cái chất Trư-Bát-Giới tiềm tàng trong mỗi con người hóa ra lại rất khó đối trị?
    Nếu có thể hiểu được như vậy, thì phải chăng trong cuộc tranh đấu gian khó, quyết liệt mà vinh quang nhất của mỗi người để trở thành một con Người chính danh với chữ N viết hoa trân trọng, chung quy lại sự thành bại vẫn là tùy thuộc ở kết quả hoán cải được bản năng Trư-Bát-Giới trong chính mình?
    Phải chăng cái chất Trư trong con người có xu hướng kéo tụt con người xuống tận cùng mọi nấc thang giá trị đạo đức, nhưng chính sự chế ngự thành công cái chất Trư đó lại sẽ đưa con người tiến lên được nấc thang cao tột của giá trị con Người?

    (Với nhan đề Chất Trư trong mỗi con người, đã đăng báo Người lao động, số Xuân Ất Hợi, tháng 01.1995.)
    LÊ ANH DŨNG
    (31.12.1994)
  10. huyenquangtu

    huyenquangtu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/10/2005
    Bài viết:
    135
    Đã được thích:
    0

    éu?c tatu4tuoi s?a vo 22:25 ngy 16/10/2006

Chia sẻ trang này