1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tây Dương Gia tô bí lục

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi preludeNo1, 04/09/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    [112]Tức là phép cắt yểm long mạch.
    [113]Nguyên văn: nhữ tào bất khả tử, tu tồn tam tứ nhân ? (các ngươi không thể chết hết, phải còn 3, 4 người ?).
    [114]Tức là nước Tây Dương (Nguyên thư phiên: IthiTô, nhưng chú là nước Tây Dương. Đây chỉ nước Italia. ND)
    [115]Câu nói này của Jêsu bao hàm cả hai ý: nếu không được làm vua nước Jiuđê thì cũng phải cố để khỏi mất chức quốc sư nước Italia.
    [116]Thiệt là diệu trí!
    [117]Jêsu, Jêsu! Cha mẹ vái con, ơn lễ trịnh trọng, đi không lời chào, sao ngươi nỡ tâm? Ngày nay lễ chúa Jêsu lên trời là căn cứ theo tích này.
    [118]Nguyên thư ở đoạn này chép tên chim là ?olinh điểu?.
    Linh điểu = tích linh điểu, tức là chim chìa vôi. Nhưng theo các huyền thoại Thiên Chúa giáo đều kể chuyện chim bồ câu khi nói về Chúa Thánh Thần (Spiritu Sancto). Như vậy, có phần chắc chữ linh là chữ cáp bị chép nhầm. Cáp điểu là chim bồ câu (chữ cáp và chữ linh viết thảo dễ lẫn).
    [119]Ngày nay có bức ảnh thờ vẽ hình chim bồ câu. Lại có ảnh thánh Thôma sau lưng có hình chim bồ câu phun tỏa ánh sáng, gọi đó là ánh sáng do chúa Phiritô Santô mang xuống.
    Quyển V
    Nhờ viện quân Lâmbô, Jêsu hoá phép sinh yêu
    Trúng mưu kế nữ thần, quân Jêsu đành thua trận
    Chim bồ câu đã bay đi rồi, các môn đồ của Jêsu bèn chia nhau đi truyền đạo các nơi trong nước Jiuđê, tới cả những nơi Jêsu đã từng đến để thuyết dụ lại, chỉ có Jiuse cùng vợ là Maria ở lại nhà. Jêsu thường dẫn đoàn quỷ quân Lâmbô hiện lên giữa không trung, đi lại qua các làng lúc trước đã đến giảng đạo để khiến cho dân các làng ấy thêm tin [1] . Jêsu cũng dẫn quỷ quân hiện đến cả những làng chưa có người tin theo đạo mình. Vì vậy đâu đâu dân chúng cũng xôn xao kinh sợ. Những kẻ ngu nhát hễ trông thấy đã vội vàng vái lạy từ xa.
    Trong tháng ấy, trên bầu trời nước Jiuđê, sao Chổi đi vào vị trí sao Phòng, ba tháng mới mất. Quan chiêm tinh [2] tâu với vua Hêrôtê Antipa rằng: ?oHiện nay đồ đảng yêu tặc lại dấy lên, chỉ năm tháng nữa thì yêu binh sẽ kéo đến vây bức kinh đô?. Vua Antipa bèn hạ chiếu hễ bắt được các môn đồ tả đạo chuyên đi mê hoặc dân chúng làm rối loạn phong tục thì cho chém ngay không tha [3] .
    Bấy giờ nước Jiuđê gặp nạn mất mùa đói kém, các môn đồ của Jêsu đi đến đâu cũng dọa chắc chắn rằng: ?oChúa Trời giáng sinh làm người bị giặc giết hại [4] , cho nên mới xảy ra tai biến sao Chổi và nạn đói. Đó là do chúa Trời trừng phạt, ngày tận thế chỉ trong vòng ba mươi năm nữa mà thôi. Các người cần phải cùng nhau chung dốc một lòng?. Những kẻ ngu khờ nghe nói đều lấy làm sợ, càng bền lòng tin đạo hơn [5] . Các viên quản giáp và thầy cả thông giáo [6] thuộc 5 huyện [7] nghe tín đồ đảng tả đạo lại dấy lên, bèn trình lên quan tổng trấn Philatô [8] . Tổng trấn chuyển tâu lên triều đình. Bấy giờ vua Hêrôtê Antipa đã già, truyền ngôi lại cho con là Hêrôtê Agrippa [9] . Vua Agrippa hạ chiếu truyền cho dân chúng các nơi ai có công bắt diệt yêu đạo sau khi chết sẽ được phong làm thần. Kẻ nào chứa chấp che giấu thì phải tội tử hình [10] . Vì vậy dân chúng không dám che giấu, bắt được 6 người [11] giải về kinh. Vua Hêrôtê Agrippa phán rằng: ?oGã con thợ mộc tiếm xưng là con chúa Trời, triều đình đã bắt xử tử, còn thì tha thứ hết cho bọn các ngươi. Thế mà nay các ngươi dám lôi kéo dân chúng của ta hùa theo đạo của nó, thật là coi thường phép nước!? Bọn 6 môn đồ bị bắt đều vái lạy xin được tâu bày, đoạn dâng thư mật [12] để nhà vua ngự lãm. Bọn họ nói nếu nhà vua thi hành các phép kín đã tâu thư thì cơ đồ bền vững muôn vạn năm, bờ cõi được mở ra rộng lớn. Vua Agrippa cho hội họp triều thần để cùng nghe đọc và nghị bàn về bức mật thư ấy. Đình thần là bọn Xani tâu rằng: ?oHưng phế là số lớn của trời đất, xưa nay đều thế cả, bệ hạ hà tất phải bận tâm lo nghĩ chuyện năm trăm năm sau làm gì. Nếu theo giáo thuyết của bọn kia rồi ra không chừng chẳng còn đất mà táng mộ tổ!? Bọn 6 môn đồ thưa rằng: ?oÝ kín của thầy Jêsu chúng tôi là tuy nói cấm thờ cúng tổ tiên, nhưng chỉ ngăn cấm dân chúng mà thôi. Còn đối với vua quan thì các đời đều có đền miếu thờ phụng?. Vua Agrippa nghe xong mắng rằng: ?oVua mà bắt dân bỏ việc thờ cúng là kẻ bất nhân còn nói gì đến việc gây dựng đất nước! Đã nghe lời thuyết giáo của hắn thì phải tôn hắn làm thầy, thế là bọn các ngươi dạy ta lập kế ngu dân nhưng kỳ thực muốn làm ngu ta trước hết [13] . Tên yêu tà rậm râu [14] thật quỷ quyệt thay! Chết rồi mà còn lắm mưu mô xảo quyệt!?
    Lúc bấy giờ có viên thống binh ở trấn Jiuđia [15] tên là ĐôSaNùng nghe tin bắt được 6 tên yêu tặc cả mừng, vội vã về kinh dâng lời phản kháng xin nhà vua cho xử tử ngay, nếu tha cho chúng thì thiên hạ sẽ nói ra sao? [16] . ĐôSaNùng lại tâu mình biết phép kín yêu đạo kiêng kị nhất, xin cho được bí mật tâu riêng với vua, ĐôSaNùng tâu xong được vua cho phép theo kế mà thi hành [17] .
    ĐôSaNùng sắp đặt mưu kế cấm ngục tốt không cho người ngoài và những kẻ làm nghề thầy lang qua lại dò la, ai trái lệnh bị tội chết. Sau đó đem quân bao vây các làng tả đạo, ra lệnh rằng: ?oNay giết 6 tên giám mục tả đạo [18] , phanh thịt cho chó ăn, lệnh cho dân làng già trẻ, trai gái mỗi người phải nộp hai đồng tiền để mua chó?. Truyền lệnh xong, sai lính mở một cửa cổng thả xuống [19] cho dân làng đi ném tiền vào sọt. Khi ném tiền ai nấy đều phải nói to rằng: ?oNộp tiền mua chó ăn thịt vít vồ?. Kẻ nào không tuân lệnh thì bắt về kinh trị tội. Khi mọi người đã ra hết rồi, hễ khám thấy kẻ nào còn trốn tránh thì chém đầu. Dân chúng cả sợ răm rắp tuân lệnh. Cứ thế ĐôSaNùng đem quân đi vây các làng tả đạo, thu được hơn ba trăm quan tiền [20] . Nguyên là phép cấm của Jêsu rất nghiêm, những kẻ đã nộp tiền giết giám mục thì hồn ắt bị đày xuống địa ngục không được chúa Trời nhìn nhận, vì thế họ không dám trở lại theo tả đạo nữa. ĐôSaNùng biết dân tả đạo sợ điều đó cho nên mới dùng kế ấy để phá phép.
    ĐôSaNùng trở về kinh sai người đi mua 60 con chó bảo rằng đó cũng là một kế đánh vào điều kiêng kỵ của tả đạo [21] . Hồi đó ĐôSaNùng xin cho đắp một lũy nhỏ, lùa bọn 6 tên vào trong đó mà giết đi. Bọn 6 người nét mặt vẫn thản nhiên như không [22] , kẻ bị đâm bằng giáo, kẻ bị lột da hoặc bị hành hình trên bàn trác [23] hoặc bị cưa người ra từng khúc [24] . ĐôSaNùng cho quân bí mật bao vây quanh 6 lớp, sai phanh thây, xáo lộn hết rồi thả đàn chó vào ăn thịt. Bao nhiêu xương xẩu còn lại, ĐôSaNùng sai lính băm vụn ra vứt xuống sông, không mảy may để lại vết tích. Thầy trò Jêsu thường căn dặn dân đạo vét máu người tử vì đạo đưa về thờ [25] . Nay bị hào lũy ngăn cách có muốn lượm xác cũng không vào được, dẫu lặn xuống sông cũng không mò được. Quả nhiên dân tả đạo tìm
  2. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    đến, nhưng chỉ đành đứng nhìn mà khóc rồi về không [26] .
    Còn 6 môn đồ của Jêsu chưa bắt được, vua Hêrôtê Agrippa xuống chiếu truy lùng khắp nơi, kẻ nào che giấu thì trị tội cả vợ lẫn chồng [27] . Vì vậy bọn 6 người sống sót đi đến đâu cũng không ai dám chứa.
    Lần ấy Phêrô cải dạng lén đến gò núi có mộ tổ của vua Hêrôtê lừa phỉnh dân chúng đào một cái giếng ở chỗ có mạch đất rốn rồng. Việc chưa xong, Phêrô tình cờ nghe người chủ nhà bảo rằng: ?oCó chiếu truy lùng yêu tặc rất gấp, chẳng biết định bắt ai?? Phêrô thấp thỏm lo sợ, nhưng cuối đầu cười đáp: ?oAi bắt được yêu tặc ắt được làm quan to? [28] . Hôm sau Phêrô hỏi thăm dân tả đạo ở kinh về, họ nói không thu nhặt được di tích gì, chỉ ghi được ngày tháng bị hành hình mà thôi. Phêrô bèn cải dạng làm ăn mày, bí mật đi tìm các môn hữu còn lại mà bảo rằng: ?oPhen này hết chỗ dung thân! Chúng ta phải mau thu gói sách vở cùng với mấy chiếc đinh và chiếc mũ gai là di vật của thầy, theo lời dặn mỗi người một ngả mà trốn sang nước Tây Dương [29] ?.
    Mọi người đang ngồi bàn tính, bỗng thấy Jêsu hiện ra bảo rằng: ?oNước này dân chúng hung tợn cứng đầu, đạo ta không thi hành được. Các ngươi hãy tạm lánh sang nước Italia chừng một năm để tìm cách báo thù cho ta, phải làm cho vua tôi nước ấy lập đền thờ ta cho kỳ được mới thôi, còn các việc khác về sau sẽ định?. Xong đó môn đồ Jêsu giả dạng ăn mặc như kẻ nông nô chia đường mà đi [30] .
    Cha Jêsu là Jiuse tiếp được thư mật của Phêrô, xiết đỗi kinh sợ, vội đem vợ là Maria trốn sang nước Tây Dương. Vượt qua ba tầng núi non trùng điệp, gian nan khốn khổ vô cùng. Maria cùng với chồng nhìn nhau khóc mà nói rằng: ?oTừ khi Thiên Chúa Jêsu giáng sinh chỉ thấy chuốc cho nhà ta bao nỗi đau buồn?. Bỗng thấy Jêsu hiện lên an ủi rằng: ?oNgày nay cực khổ một đời, nhưng sau sung sướng được thờ cúng muôn đời, mong đành lòng nén chịu?. Jiuse nói: ?oTriều đình đang truy lùng ráo riết, xin đức chúa Con đừng hiện lên nữa làm liên lụy đến hai người chúng tôi? [31] .
    Jêsu dẫn đường cho vợ chồng Jiuse qua núi rồi bất ngờ biến mất.
    Nói về Jêsu không đạt được chí lớn, cho cái chết của mình không phải do số mệnh định trước, nên vẫn ôm ấp hy vọng các môn đồ rồi ra sẽ thi hành được phép thuật của mình [32] . Nay thấy 12 môn đồ bị ?ogiặc nước? giết mất một nửa, Jêsu hết sức căm giận quyết khiến yêu binh một phen dấy lên rửa hận báo thù. Jêsu bèn tụ họp quỷ quân LâmBô sai cầm giáo gậy cho cưỡi mây ngũ sắc kéo tới bao tỏa kinh thành Jêrusalem. Jêsu tay cầm cờ đỏ, miệng quát thét chỉ huy chúng quỷ khiêu khích quan quân xuất chiến. Ngày hôm sau, Jêsu phóng hỏa đốt cháy nhà cửa của dân chúng kinh thành. Chữa được đám cháy phía đông thì ngọn lửa lại bùng lên phía tây, dân chúng thật vô cùng cực khổ. Vua Hêrôtê Agrippa truyền cho quan chiêm tinh là CaGiTa bốc thẻ bói. Lời thẻ nói: ?oTên giặc này khi còn sống bị 660 quân lính khảo đả. Vậy nay cũng xin dùng số 6 để mà chế ngự nó [33] . Lại phải dùng quỷ đánh quỷ thì mới thắng, phải dùng lửa mà dập lửa thì mới phá được phép thuật của nó. Nạn giặc này xem ra cũng phải hơn một năm mới dẹp được?.
    Bấy giờ là có quan chiêm tinh tên Ipenso [34] tâu rằng: ?oGió thổi về hướng sao Giốc rất độc, xin hoàng thượng lui về cung tạm lánh?. Bấy giờ thái thượng hoàng Hêrôtê Antipa băng hà, dân chúng kinh thành có phần xao xuyến. Quần thần tâu rằng: ?oHiện nay yêu tặc mới dấy lên hoành hành, xin hãy quàn tạm?. Vua chuẩn tấu. Rồi đó triều đình tuyển chọn các thầy phù thủy phép thuật cao cường [35] . Thống binh ĐôSaNùng sau khi được vua Hêrôtê Agrippa ban chiếu cho phép tùy nghi hành động bèn sai mổ bò làm lễ lớn khao thưởng âm binh, hứa trọng thưởng cho kẻ nào bắt được Jêsu. Các pháp sư bèn bện cỏ làm quân [36] chất cao như núi, tiếng kêu la ăn uống ầm ầm. Một hồi trống lệnh vang lên, âm binh cầm cung kiếm chia đường tỏa đi chống giặc. Đi trước mỗi đạo âm binh đều có một lá cờ trứng đề chữ: ?oVâng mệnh chúa Trời, chém đầu yêu tặc Jêsu?. Lại truyền cho dân chúng trong ngoài kinh thành vót tre làm cung tên giả, hễ thấy quỷ quân của Jêsu kéo đến lập tức reo hò bắn tên tới tấp. Lại có lệnh cấm không được bắn lầm vào dân, ai trái lệnh thì bị chém.
    Bài bố đâu đó xong xuôi, ĐôSaNùng cũng phỏng theo phép của Jêsu, đầu đội mũ triều thiên, mặc áo Italiêng đính cườm, ngoài khoác áo liên châu dài vạt, một tay cầm cây gậy bạc, một tay vẫy cờ lệnh. Quân tiền đạo trương lá cờ đỏ lớn, giữa đề: ?oĐôSaNùng, con Thiên Chúa vâng mệnh diệt trừ Jêsu giả danh con Thiên Chúa?, mười sáu chiếc lọng vàng vẽ hình mây che rợp đoàn quân, 660 tay cung nỏ hộ vệ ĐôSaNùng đi ra cửa nam kinh thành. ĐôSaNùng lên chòi cao trên cổng thành, cầm ống loa sắt gọi to: ?oThây ma tên giặc Jêsu có giỏi hãy đến đây giao chiến!?. Vừa dứt lời bỗng thấy Jêsu đưa quân đến. Từ xe thấy cờ hiệp của ĐôSaNùng, Jêsu cả giận, từ trên mây quắc mắt nhìn xuống quát to rằng: ?oChính ta mới thật là con chúa Trời. Ngươi sao dám tự xưng là con Thiên Chúa?? ĐôSaNùng cũng trừng mắt mắng rằng: ?oChính ta mới thật là con chúa Trời, cớ sao ngươi dám mạo nhận?? [37] Jêsu quát đáp: ?oNếu ngươi quả là con chúa Trời thì hãy lên trên mây này cùng ta giao chiến!? ĐôSaNùng cũng quát lại: ?oNgươi quả là con chúa Trời thì hãy xuống đất đây giao chiến với ta!? [38] Thế là Jêsu phất cờ đỏ, lớn tiếng ra lệnh cho lính LâmBô [39] xuống đánh. ĐôSaNùng cũng vẫy cờ phép [40] hô âm binh: ?oĐánh!? Mười pháp sư gióng trống khua chiêng rầm trời nhắm lên các đám mây ngũ sắc mà chỉ trỏ làm dấu bắt quyết. Bấy giờ quân LâmBô của Jêsu cưỡi diều giấy bay lượn khắp nơi. Sáu phía kinh thành [41] trống nổi vang dậy. Dân chúng hò reo ầm ầm. Vua Agripa nghe huyên náo bèn ra trước cửa lầu đứng xem. Các quan tùy tùng vội tâu: ?oQuỷ quân bay lượn loạn xạ, xin thánh thượng lui vào trong cung?. Vua Agrippa đành phải nghe lời.
    Hai Thiên Chúa con giao chiến mấy chục hiệp không phân thắng bại đều phải lui quân về [42] . ĐôSaNùng cho mổ trâu, giết bò khao thưởng âm binh.
    Ngày hôm sau [43] , có đám mây đen từ hướng đông bay về phía phía kinh đô. ĐôSaNùng lại trương cờ dàn quân như hôm trước.
    Ba hồi trống lệnh vừa dứt, mười pháp sư cấp tốc cho âm binh ra nghênh địch. Dân chúng kinh đô lại nổi trống reo hò vang trời, nhà nhà đều gương cung nhằm đám mây mà bắn loạn xạ. Lần này không thấy Jêsu hiện ra, chỉ thấy một vạt mây đen rắc xuống một lớp mưa bụi chỉ trong chốc lát rồi tan. Quân dân những ai bị mưa ướt phần lớn đều ốm nặng sưng nhọn lên mà chết. Trong kinh ngoài quận bị một nạn dịch lớn, dân chúng ai nấy đều kinh sợ, thì thào bàn tán Jêsu có phép thuật linh thiêng [44] . Lại có kẻ vụng lén làm lễ cầu đảo. Nhà vua biết chuyện sai treo một móc sắt và một thanh gươm ở mỗi ngả đường, rồi
  3. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    tung quân do thám đi khắp nơi, hễ bắt được kẻ nào phao tin đồn nhảm thì cắt lưỡi, cầu đảo vụng trộm thì chém đầu. Từ đó, dân chúng không dám ho he bàn tán gì nữa. Lại sai pháp sư vẽ mặt nạ hình trẻ con giao cho âm binh rước đi các nơi trừ tà đuổi quỷ, có qui định ban thưởng nhiều ít khác nhau.
    Jêsu từ khi gây ra nạn dịch, thấy dân chúng kinh dị thì cho là nhà vua ắt cũng phải lo sợ. Tháng sau [45] , Jêsu lại cưỡi xe mây trương cờ sai sáu tướng đốc xuất 6 đạo quân LâmBô từ phía bắc kéo đến. Quân của ĐôSaNùng [46] trèo lên mặt thành nhận ra 6 viên tướng ấy đều là môn đồ của Jêsu. Thế là quân lính gương cung tới tấp bắn lên. Quân của Jêsu bối rối chuyển tránh không dám xuống đất. Jêsu lớn tiếng gọi rằng: ?oHỡi Hêrôtê Agrippa, hãy mau mau dựng đền thờ phụng thầy trò ta!? [47] ĐôSaNùng đáp: ?oMi là kẻ phạm tội, ta sẽ làm cái nhà xí quẳng mi vào? [48] . Jêsu cả giận nói rằng: ?oNgươi không thương tiếc nước của ngươi hay sao? [49] Phen này ta phải giết hết dân chúng nước ngươi!? ĐôSaNùng đáp: ?oSống chết có mệnh. Mi có giỏi cứ giết cả đi xem nào!? Jêsu càng tức giận nói rằng: ?oSớm muộn cả nhà ngươi cũng phải đày xuống địa ngục!? ĐôSaNùng đáp: ?oNếu có địa ngục mi cứ chỉ cho ta xem. Còn ta thì đã sẵn nhà ngục chờ mi từ lâu. Nay mi cứ đọ sức với ta, nếu ta chết có người khác kế tiếp, để xem mi có tác yêu tác quái mãi được hay không?? Jêsu chỉ quát hừm một tiếng rồi bỏ đi.
    ĐôSaNùng khua trống thúc giục dân chúng bắn theo Jêsu. Lần ấy hai con chúa Trời không xáp trận giao chiến. Các tướng tùy tùng hỏi nguyên do tại sao, ĐôSaNùng đáp rằng: ?oCâu nói cuối cùng ta tỏ cho hắn hiểu ta đã biết chuyện kín của hắn [50] cho nên hắn phải bỏ mà đi?.
    Năm ấy, nước Jiuđê bị nạn dịch rất nặng, nhà vua xuống chiếu khuyên dụ dân chúng trong kinh ngoài quận những nhà có người chết hãy tạm nén không than khóc, không mặc đồ tang, hò la đánh trống để xua đuổi ma quỷ [51] . Thống binh ĐôSaNùng tâu vua rằng: ?oLần này Jêsu có thêm 6 tên môn đồ bị giết dạo trước, thế tất lại kéo tới đông hơn nữa, xin hoàng thượng hãy xuống chiếu triệu vời các vị đại linh sơn thần đem thần binh đến trợ chiến. Sơn thần vui mừng được đội ơn triều đình ắt sẽ chém đầu yêu tặc đem dâng. Còn 6 đạo quỷ binh của Jêsu, chúng ta sẽ chặn riêng từng ngả mà đánh đuổi thì bọn chúng phải tan chạy. Lại như lời quẻ nói rằng: ?oDĩ hỏa xạ hỏa? (lấy lửa bắn lửa) xem ra cũng có lý: dạo trước tên Jêsu kia đã phóng hỏa đốt nhà dân, nay ta cũng đốt mồi lửa đầu mũi tên mà bắn xem yêu tặc đối phó ra sao?. Vua Hêrôtê Agrippa bèn hạn chiếu triệu 23 vị sơn thần xưa nay linh hiển đem thần binh đến trợ chiến, thần nào đánh thắng quân giặc thì được gia cấp phong thưởng [52] . Các thần vâng mệnh cưỡi mây về hội đều được lệnh đóng quân ở ngoài thành.
    ĐôSaNùng ra lệnh cho dân chúng lấy tro trộn mỡ đắp vào mũi tên, hễ thấy quân LâmBô kéo đến liền châm lửa mà bắn để trợ chiến với thần binh [53] .
    Một tháng sau, quả nhiên Jêsu lại dẫn quân LâmBô từ tám hướng rầm rộ kéo đến bủa vây kinh thành. ĐôSaNùng cắt cử nhiều võ quan đốc suất thần binh của các sơn thần và âm binh của các pháp sư ra trận. Một hồi trống lệnh vừa dứt, lửa cháy lóa trời như đèn đuốc. Các sơn thần múa rìu vung búa từ bốn phía xông ra. Thần binh ném tên tay [54] đầy trời như ****. Dưới đất, dân chúng bắn hương đen lên tới tấp. Các pháp sư cầm gậy phép chỉ trò điều khiển âm binh.
    Jêsu cầm cờ quát thét quân LâmBô đánh tới, nhưng bọn chúng thấy nguy không dám xuống, Jêsu cả giận quát giục 6 tướng môn đồ đốc quân vào đánh, lại tự mình dẫn một đội quân nhỏ sà xuống toan đoạt lấy cờ lệnh của ĐôSaNùng, bị một bộ tướng của ĐôSaNùng bắn rơi mũ triều thiên. Quân LâmBô vội nhặt dâng trả cho Jêsu. Jêsu vội làm dấu chữ thập để trấn áp. ĐôSaNùng cũng làm dấu thánh giá để trấn áp Jêsu. Các sơn thần giao chiến quyết liệt từ các phía, cờ lọng rợp trời như mây che, ngựa thần vun vút tung vó giữa không trung. Bỗng một đám mây mù bao tỏa dày đặc, trời đất tối đen như mực, chỉ còn nghe tiếng hò reo quát thét. Rồi chiêng trống nổi lên vang động kinh thành, đứng sát bên tai mà nói cũng không ai nghe tiếng. Trong khoảnh khắc, mây mù tan hẳn, ngước lên thấy sắt giăng khắp trời, Jêsu mắc lọt vào giữa lưới. Quân của ĐôSaNùng tưởng phen này sẽ được tóm cổ Jêsu, bèn ùa reo hò bắt. Bỗng 6 tướng môn đồ của Jêsu bay tới cầm ống lửa mà thổi. Lửa cháy rừng rực khắp trời nung chảy lưới sắt. Jêsu trốn thoát. Quân ĐôSaNùng khắp mọi phía hò reo giục trống chạy đến trợ chiến. Tiếng người tiếng trống rồn rập theo sau. Quân LâmBô của Jêsu bị một phen đại bại.
    Bấy giờ vua Hêrôtê Agrippa mới lên ngôi chưa được bao lâu, gặp lúc trong nước bị trận đói lớn, lại thêm yêu tặc dấy lên. Vua cha vừa mới mất, yêu khí càng thêm tác quái. Hơn nữa, sau tám tháng hạn hán, quân dân ốm đau dịch bệnh thật là khốn khó trăm chiều, vua càng thêm buồn giận. Quốc sư Mensa [55] mới 18 tuổi là người thông minh mẫn tuệ giỏi thuật âm dương, tâu vua rằng: ?oXin hoàng thượng cho đào mả Jêsu, nhặt lấy xương cốt cùng với giá câu rút, đinh sắt mũ gai của hắn đem đốt để hủy cho hết linh thiêng. Một mặt xuống lệnh bắt giam cha mẹ hắn để trị tội? [56] .
    Chiếu vua truyền đến, dân chúng đưa đường cho quan quân, tới nơi thì thấy hang mộ không [57] . Lại cho tìm giá câu rút [58] thì dân địa phương nói rằng trên núi Gôgôtha có nhiều hình cụ xử tử vẫn vứt bỏ đấy không ai dùng đến. Chỉ cách đây bốn tháng có hai người ăn mày nói: vì bọn họ nghèo khổ cùng cực quá, xin cho nhặt mấy thanh gỗ ấy để bán cho người ta làm củi [59] . Quan quân tầm nã đến nhà Jêsu ở Nazaret thì chỉ thấy bốn vách mốc nên không thấy tang tích gì. Sự việc tâu lên, vua Agrippa cả giận nói rằng: ?oTên yêu tặc này thật xảo quyệt nham hiểm?. Rồi vua hạ chiếu cấp bách truy nã các môn đồ của Jêsu còn đang trốn tránh, dân chúng kẻ nào giấu giếm bao che bị tru di ba họ [60] . Lại truyền cho các quan trấn thủ bất chợt phải đem quân đi bao vây các làng tả đạo, hễ bắt được thầy tu thì đem chém ngay khiến cho dân các làng tả đạo phải kinh sợ [61] . Lệnh truyền đã hơn một tháng nhưng vẫn chưa bắt được tên nào. Vua lại hạ chiếu truyền rằng: ?oNay còn 6 tên yêu tặc lén lút trốn tránh, hễ ai bắt được một tên thì được thưởng vàng 50 lạng, được ban quan tước vào hạng chim phượng [62] , sau khi chết được phong làm thượng đẳng phúc thần, được lập đền thờ ở làng?. Từ đó quyền hào các nơi đua nhau thám thính lùng sục, nhưng vẫn không bắt được tên nào [63] .
    Mấy tháng sau Jêsu lại đem quân LâmBô đến khiêu chiến. Vua hạ chiếu truyền cho 23 đại linh sơn thần [64] đem quân dàn trận chận giặc ở ngoài cửa bắc kinh thành. Một mặt truyền cho dân các làng thờ thần đều lập bàn thờ, đặt bồn hương, rước lọng thần cùng với áo mũ kiếm kích của thần đi hộ tống ở đằng sau. Vua Agrippa lên lầu cao duyệt trận địa thấy hương khói ngùn ngụt lan tỏa, cuối cùng bốc vọt lên mây như chiếc cầu vồng, hồi lâu không lay động, ngọn lửa tỏa sáng khắp bốn phía [65] . Đình thần tâu rằng: ?oTrận này xem chừng quân lính có phần lo sợ, ngờ Jêsu quả đúng là con chúa Trời. Xin hoàng thượng dự liệu cách trấn an?. Vua Agrippa bèn phỏng theo phép của thống binh ĐôSaNùng sai treo trước lầu ngự một lá cờ lớn có đề chữ: ?oThiên Chúa Agrippa? [66] .
    Các sơn thần vâng mệnh hiện ra trên không giữa ba ngày, tàn vàn cao vút, nghi vệ đường đường, mỗi thần đều cưỡi một con ngựa quý, lúc ẩn lúc hiện giữa các tầng mây. Thần binh đều mặc áo đỏ, ửng rực cả cánh đồng. Mười vị pháp sư cầm gậy phép niệm chú bắt quyết đốc thúc các đạo kỳ binh [67] tiến lên trước để thừa cơ xông trận. ĐôSaNùng làm phép yểm tà bằng cách lấy máu chó bôi lên chóp nón trận, trương cờ đại tướng đốc thúc quân lính tiến về phía các tướng môn đồ của Jêsu đang cầm ống sắt thổi lửa xuống đằng xa.
    Bên phía quân LâmBô của Jêsu, đạo quân phía đông mặc áo trận màu đỏ, cầm giáo đỏ, cưỡi đám mây xanh. Đạo quân phía tây đội mũ trận màu bạc, trương cờ trắng, cưỡi mây vàng. Đi đầu là hai đội quân cung tên ngồi trên, dải mũ xanh. Tiếp theo sau là hai đội quân cầm giáo dài cưỡi mây trắng. Jêsu che lọng ngồi trên đám mây đỏ ở chính giữa, đầu đội mũ triều thiên, mặc áo thụng đính hạt cườm, tay trái khua cờ lệnh, tay phải cầm gậy bạc. Từ xa trông thấy lá cờ hiệu đề chữ: ?oThiên Chúa Agrippa? trên lầu thành, Jêsu cả giận quát rằng: ?oNgươi có phép thiêng gì mà dám tự xưng là Thiên Chúa thần linh?? ĐôSaNùng cũng quát đáp: ?oThứ mi có uy linh gì mà khi còn sống dám tiếm xưng danh hiệu?? Jêsu không đối đáp được, bèn phất cờ lệnh thúc quân xông thẳng xuống lầu ngự của vua Agrippa. Lầu ngự bỗng nổi trống lệnh, tên bắn lên trời tới tấp như mưa. Jêsu không thể xáp xuống được, đành phải lượn vòng từ trong ra ngoài. Các sơn thần thấy quân LâmBô đánh áp vào lầu ngự vội từ phía sau lướt tới, cả ba mặt đánh xuống cùng một lục. Quân LâmBô của Jêsu kinh hoảng tan chạy. Môn đồ của Jêsu cưỡi xe mây chia đường đón đánh. Các sơn thần cũng chia quân bổ vây. Quân hai bên giao chiến, tiếng hò reo vang trời. Sáu tướng của Jêsu lượng sức không chống nổi, chỉ một lúc sau phải tìm đường tháo chạy rồi đột nhiên biến mất. Bỗng thấy các bồn hương thờ sơn thần bày giữa đồng xoay tròn chạy chụm vào nhau, gươm giáo dựng ngược chĩa lên trời, chỉ trong chốc lát đổ vỡ mất 10 bình hương. Dân chúng các làng vung gậy thúc trống đuổi theo, gặp lúc các sơn thần cũng vừa kịp đến tiếp ứng. ĐôSaNùng dẫn quân đuổi theo mà bắn. Jêsu ngồi trên mây quát: ?oNgươi là ai mà dám đương đầu với ta??. ĐôSaNùng lớn tiếng quát: ?oTa chính là kẻ dạo nọ đã đâm thủng ngực mi!?
    Jêsu cả giận, lại đốc thúc đội quân tùy tòng đánh xuống để giết ĐôSaNùng. Bọn quỷ binh đến gần ngửi thấy mùi máu chó tanh lợm, không dám xuống, đành chịu đứng khựng giữa lưng chừng trời. ĐôSaNùng thấy đội quân ấy đều có đuôi chim [68] bèn hô lớn: ?oBắn chết bọn quân thiên thần đi! Bắn chết bọn quân thiên thần đi!? [69] Đoạn truyền lệnh châm lửa bắn, tên lửa tới tấp bay lên như đóm. Bọn quân ?othiên thần? hoảng sợ bỏ chạy [70] . Kỳ binh của các pháp sư và thần binh của các sơn thần cũng vừa từ phía sau đánh áp tới. Chỉ trong khoảnh khắc, các đạo thần binh của các sơn thần và quân LâmBô của Jêsu đều biến mất, trên trời dưới đất yên ắng như không có chuyện gì.
    Trận này dân chúng đứng xem chật ních như nêm. Vua Agrippa đứng trên lầu cao chỉ thấy âm binh xoay vòng, thấp thoáng ẩn hiện trong mây, giơ tay cả cười rằng: ?oThật là
  4. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    việc lạ xưa nay chưa có!? Sau trận giao chiến, triều đình cho khao thưởng quân sĩ. Vua Agrippa hỏi ĐôSaNùng: ?oNạn giặc này liệu đến bao giờ thì hết?? ĐôSaNùng tâu rằng: ?oQuân lính của yêu tặc Jêsu đều là những kẻ chết không phải do số mệnh định trước cho nên thường hay hung hăng táo tợn. Nhưng xem mấy trận giao chiến vừa rồi thì chỉ có đội quân ấy, ngoài ra không đáng kể. Những kẻ chết đúng mệnh thì uể oải không có nhuệ khí, Jêsu không thể điều khiển được chúng [71] . Đó chẳng phải ai khác ngoài những kẻ bị hành hình từ trước đến nay ở núi Gôgôtha, xác chết phi mệnh chồng chất lâu ngày cho nên mới hiện ra như vậy. Thần lại đã lo trước rằng bọn này dễ gây biến, vì vậy khi hành hình 6 tên môn đồ của Jêsu, thần đã phanh thây cho chó ăn thịt, đập nát xương vứt xuống sông là cốt để cho bọn chúng mất bớt đi linh thiêng, cho nên bọn chúng mỗi khi lâm trận thường bỏ chạy. Vì vậy thần mới liệu đoán rằng bọn 6 tên ấy cũng chẳng tác yêu tác quái được bao lâu nữa. Chỉ có tên Jêsu sẽ làm phiền hoàng thượng phải lo nghĩ?.
    Từ đó cứ 10 ngày, Jêsu lại dẫn yêu binh đến quấy phá. Tướng sĩ canh giữ cẩn mật nhưng cũng chỉ vu vơ bắt gió mà thôi. Dịch bệnh vẫn lan truyền, dân chúng không ngớt bàn tán những lời phao đồn xằng bậy.
    Vua Hêrôtê Agrippa rất lo lắng, bèn hội họp các đại thần để bàn bạc. Quan tả thừa tướng MiNê tâu rằng: ?oQuân Jêsu thế lực hùng mạnh, tuy chỉ có bấy nhiêu nhưng một địch được vạn. Hung ác như bọn giặc này xưa nay chưa từng nghe nói. Nay thần xin hoàng thượng hạ chiếu truyền cho các sơn thần trong cả nước không kể lớn nhỏ đều phải đem quân đến hội để bắt cho được yêu tặc Jêsu. Sau khi tan giặc, ai nấy đều sẽ được vẻ vang gia thăng phẩm trật. Như thế để xem yêu tặc giỏi thoát lối nào [72] . Lại xin hoàng thượng truyền chiếu cho thiên hạ biết: Ai hiến được kế lạ, người thì được phong quan cao chức trọng, quỷ thì được phong phúc phần?. Vua Agrippa khen phải, bèn sai thảo chiếu như lời tâu. Do đó các thần bốn phương đất nước cả mừng lũ lượt đưa quân về kinh triều cận. Đã có chiếu truyền: các thần binh đến nơi thì cho lên đường đi đánh ngay. Rồi đó vua ban tiệc lớn cho các thần. Từ đó dân gian khắp nơi nhìn lên trời bất chợt thấy những trận giao chiến không rõ thắng bại, bên nào thật bên nào giả cũng không phân biệt được.
    Một đêm vua Agrippa đang ngủ, thấy một nữ thần nhẹ nhàng bước vào sụp lạy. Đi theo nữ thần là 10 thị nữ, tất cả đều mặc áo đỏ tay hồng. Nữ thần tâu rằng: ?oThiếp là nữ thần ở núi nọ, nghe chiếu truyền xin đến dâng kế đánh yêu tặc?. Nói đoạn bưng chiếc hộp xà cừ dâng lên, trong hộp có 6, 7 thỏi nhỏ, một thỏi là diêm tiêu, một thỏi hoàng tiêu, một thỏi than đen, một đoạn ống sắt và một hòn đạn sắt. Nữ thần nói tiếp: ?oỞ núi thần ở có rất nhiều những thứ này. Trộn lẫn mấy chất đó nhồi vào ống sắt mà đốt thì phát ra tiếng nổ như sấm, khói bốc khét lẹt khiến cho khí ác không thể ngưng tụ được?. Rồi đó nữ thần nói rõ cách thức điều chế thuốc đạn cùng là cách chế tạo pháo thăng thiên và súng phun lửa. Nữ thần lại xin nhà vua cho đốt trụi ngọn núi nơi Jêsu chết và thiêu hủy hang mộ Jêsu khiến cho linh hồn Jêsu phải tan tác [73] . Vua Agrippa hứa làm theo lời tâu của nữ thần.
    Sáng hôm sau vua ngự triều, sai người đi đốt núi Gôgôtha và phá hủy hang mộ Jêsu. Vua lại sai người tìm đến ngọn núi nữ thần đã nói, quả nhiên thấy một ngôi đền nhỏ. Trong đền có mấy cái hang rất nhiều diêm tiêu và hoàng tiêu, đào lên lại thấy một chiếc ống sắt lòng rộng bằng cái đấu, dài 4 thước, bên trong có nhiều lỗ nhỏ, quân lính bèn nhặt lấy đem về. Vua Agrippa sai người theo đúng lời dặn của nữ thần chế ra năm mươi cỗ súng lớn nhỏ, điểm hỏa bắn thử, quả nhiên phát ra tiếng nổ ầm vang như sấm động, các đồ dùng sành gốm rung chuyển vỡ choang.
    Lại thử pháp thăng thiên: vừa châm mồi cả ống lửa liền bay vọt lên trời phun lửa ra như mưa. Thử tiếp súng phun lửa: mồi châm xong, đạn lửa bay ra như sao. Người đời sau có loại súng sắt bay lên trời khạc lửa là bắt đầu từ đó. Đến đời vua Lý Tông [74] phép chế súng truyền ra ngoại quốc, từ đó ở Trung Hoa mới có.
    Các phép thuật đã đầy đủ, người ngoài không hay biết, vua Agrippa bèn triệu bốn vị thần có danh tiếng vào triều căn dặn những điều cơ mật. Chỉ trong chốc lát đã thấy bốn vị thần mặc áo vàng, đi hia rồng hiện ra trước ngự tọa. Vua truyền: ?oNay quân ta có súng thần công trợ chiến, các thần cần báo cho nhau biết, cẩn thận chớ kinh sợ. Trận chiến sắp tới các thần hãy dàn quân ba mặt, giả vờ đánh thua, từ từ lui chạy, dụ cho yêu tặc đuổi theo chạy đến ngọn núi ĐôngLâmLiệt [75] . Các đạo quân gặp nhau mai phục dưới chân núi, cải dạng che giấu các hỏa pháo và xa pháo để cùng lúc nổi lên chặn đánh; bắt bọn yêu tặc Jêsu chính ở trận này?. Bốn vị danh thần vái lạy vâng mệnh rồi biến khuất.
    Jêsu lại dẫn quân đến khiêu chiến, đứng giữa không trung quát to rằng: ?oMau lập đền thờ cúng thầy trò ta! Bằng không phen này cả nước ngươi phải chết!? ĐôSaNùng vẫy cờ lệnh cho âm dương binh [76] tiến lên. Một tiếng thanh la vang dậy, vô số lọng thần [77] vụt ra khỏi mây lấp lóa đầy trời không đếm xuể. Chỉ nghe tiếng gươm giáo chạm nhau lanh lảnh, bóng cờ phần phật tung bay, khi chụm khi tan, lúc ẩn lúc hiện. Các thần xông sát quyết chiến, trăm quân bên dưới một lòng. Trên mặt thành, quân lính nổi trống khua phèng đinh tai nhức óc. Jêsu chống trái đỡ phải, cờ đỏ rập rờn, uy phong lẫm liệt. Bên quân của ĐôSaNùng, âm binh bị vây hãm, sấp ngửa chạy về thành. Mười pháp sư làm phù phép đốc thúc nhưng không thể xua chúng tiến lên. Bỗng thấy Jêsu vẫy cờ xám, lập tức lửa ngọn lả tả rơi xuống như sao, thiêu cháy lọng vàng của các thần. Quân LâmBô giáo mác tua tủa xúm đánh các thần nhỏ. Các thần nhỏ không chống cự nổi đều lăn nhào xuống đất. Quân LâmBô cả tiếng gào thét quát hỏi: ?oCác thần kia đã biết tài của con chúa Trời hay chưa??. Các vị thần lớn vội quạt gió thổi mưa dập tắt các ngọn lửa cháy lọng. Thấy các thần nhỏ thua bại, các thần lớn nhất tề xông đến tiếp cứu. Jêsu hô lớn: ?oKẻ nào không chịu tiến thì chém!? Rồi đó quân Jêsu từ hai phái áp đánh kinh thành. Khắp nơi sương mù vàng ợt, chỉ nghe tiếng trống ?ophầng phầng? không rõ phát từ đâu. Trời đất tối sầm, đôi bên vẫn chưa phân thắng bại. Bỗng thấy một đội quân ?othiên thần? ào tới quần lượn trên trời, gặp lúc một đội thiết diện quân cũng vừa kéo đến xung kích xông vào giao chiến, quân ?othiên thần? thua chạy. Rồi đó một vị sơn thần từ trên trời cưỡi ngựa hạ xuống báo với ĐôSaNùng: ?oThần tôi vừa đi do thám về, thấy yêu tặc Jêsu có 6 đội quân ở đằng xa, mỗi đội đều trương một lá cờ lớn đề chữ ?oVít vồ?, thanh thế rất hùng mạnh. Lại thấy dưới dân gian giáo đồ tả đạo phần nhiều đều theo bọn chúng, ngửa mặt nhìn lên trời mà vái lạy. Xin tướng quân tìm cách trấn an lòng người?.
    Lúc ấy ĐôSaNùng đang ở trên lầu thành cửa đông, vội sai làm ngay 6 lá cờ đỏ, mỗi cờ cũng đều đề chữ ?oVít vồ?. Rồi đó ĐôSaNùng sai người truyền loa gọi các thần trở về đón cờ đem đi. Thế là 6 ngọn cờ đỏ bay vút tận mây, dân chúng nhìn lên ai nấy đều trầm trồ cho là kỳ lạ. Giữa lúc giao chiến đang hăng, hai bên đều muốn cho quân lui nghỉ, chợt có một vị thần mặc áo vàng xông lên quát lớn: ?oMột trận thấy anh hùng!? Thế là quân hai bên lại xông vào hỗn chiến, chỉ thấy màu đỏ màu đen nhào lượn lên xuống, chiến bào phất bay, cờ đỏ rập rờn ngang dọc. Bỗng nghe một hồi trống đại, không rõ hiệu trống của bên nào, sau khoảnh khắc thấy 6 đội quân ào ạt lướt tới, mỗi đội đều trương cờ hiệu ?oVít vồ?. ĐôSaNùng nghe dứt tiếng trồng bèn cầm loa truyền lệnh: ?oCác vít vồ bên ta nghênh chiến!? Lệnh vừa dứt bỗng thấy 6 lá cờ đỏ cùng lúc trương lên [78] . Quân hai bên xông vào hỗn chiến, giẫm đạp lên nhau, không phân biệt được quân vít vồ bên nào nữa. Bỗng thấy Jêsu hiện ra phất cờ hiệu đuôi nheo, đầy trời chớp lóa mắt. Thần binh sợ hãi bỏ hàng ngũ mà xô nhau tháo chạy. Các thần giả cách đánh thua lui chạy về dãy núi phía đông kinh thành rồi dàn quân ba mặt đóng giữ.
    Quân LâmBô hò reo: ?oBọn thần binh tan chạy rồi! Thần binh tan chạy rồi!? Jêsu được lướt thúc quân đánh vào kinh đô để vây tỏa hoàng cung, chẳng ngờ gặp sức kháng cự không phá được, phải quay ra khiêu chiến với cả ba phía thần binh. Đang lúc do dự cầm chừng, bỗng từ lầu ngự trên mặt thành nổi vang ba tiếng trống, các cỗ súng mai phục dưới chân núi nhất loạt phát hỏa, sấm vang chớp giật [79] , súng lớn súng nhỏ nổ vang, khói trắng bốc lên mờ mịt. Sáu tướng vít vồ tái mặt, dúi dụi ngã nhào trong mây. Jêsu kinh hoảng bỏ chạy. Quân LâmBô thấy vậy đều xô nhau tẩu thoát. Bỗng lúc ấy, lửa pháo thăng thiên từ dưới đất vọt lên, quân LâmBô hoảng hốt lăn nhào xuống đất. ĐôSaNùng hô quân ùa tới chém giết, chỉ thấy áo rách tơi tả vương đầy mặt đất. Cả đoàn quân LâmBô của Jêsu mất hút, không biết biến đi đằng nào.
    Trong trận này, vua Agrippa cùng với các đại thần văn võ và các quan binh chỉ đứng trên mặt thành cầm quân đóng giữ, khua chiêng gióng trống trợ chiến từ xa. Dân chúng kinh thành hò reo vang dậy, thật là một phiên hội mừng náo nhiệt. Chẳng bao lâu trở lại yên tĩnh, mây tạnh trời quang.
    Jêsu thua bại, dẫn tàn quân chạy về núi Gôgôtha, chỉ thấy tro bụi một bãi tro tàn không sót một lùm cây ngọn cỏ [80] . Jêsu cùng đám bại binh dắt díu nhau gào la mà chạy, ra đến vùng núi Cát [81] mới dám dừng lại nghỉ ngơi. Bỗng thấy các thần dẫn quân đuổi theo gần kịp đang tung lưới sắt bủa vây. Jêsu vội vứt cờ đỏ, rơi mũ triều thiên chạy bay về núi Cửa ải [82] nấp trốn trong một hang sâu. Các thần tới nơi lùng sục nhưng không bắt được [83] . Chợt có một con phượng hoàng xanh [84] vút lên không bay về kinh đô cất tiếng tâu rằng: ?oYêu tặc Jêsu chạy trốn vào núi Cửa ải, bọn thần đã đem đội quân tới lùng soát nhưng chưa biết rõ chỗ ẩn nấp. Xin hoàng thượng nhân thời cơ ra uy trời đánh đuổi yêu tặc ra ngoài biên giới. Nếu không y sẽ quay lại gây phiền nhiễu cho triều đình phải lo nghĩ?. Vua Agrippa lập tức truyền lệnh cho ĐôSaNùng dẫn ba nghìn pháo thủ và đốc thúc các đạo thần binh đi lùng bắt, đến hơn 20 ngày mới quay về. Từ đó Jêsu không dám lẻn về quấy phá nước Jiuđê nữa, khí thế ?othiêng liêng? vì vậy cũng hao tổn mất tám, chín phần.
    Trong trận ấy, việc súng thần thật là một sự là từ xưa chưa từng nghe nói. Cùng lúc bắn lên [?] [85] , thần binh của triều đình đã bị ?ongã? mất đến nửa số. Nạn giặc Jêsu quấy phá quả nhiên trước sau phải mất đến hơn một năm mới dẹp yên. Lời tiên đoán ?oDùng quỷ đánh quỷ, lấy hỏa trị hỏa? cũng được chứng nghiệm.
    Các thần đánh bại quỷ binh của Jêsu, cắt được thủ cấp hơn 3 nghìn sọt, chở về đổ đống ở
  5. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    cánh đồng ngoài kinh đô. Binh lính và dân chúng tranh nhau chạy ra xem. Thoạt đầu thấy đúng là đầu người, hồi lâu nhìn kỹ thì hóa ra đều là xương đầu lâu. Vua sai xét nghiệm mới hay đó là xương sọ của kẻ tử tù. Trong triều ngoài quê bấy giờ mới biết âm hồn của những kẻ chết không phải do số mệnh ở núi Gôgôtha bị Jêsu lôi kéo, cho nên mới liều lĩnh hung hăng như vậy. Nay bị các thần chém đầu, phải hiện nguyên hình như cũ. ĐôSaNùng ra lệnh hỏa thiêu để diệt trừ oan khí [86] .
    Vua Agrippa vì chuyện Jêsu dấy yên binh hại nước càng căm ghét tả đạo, truyền chiếu lùng bắt bọn vít vồ lánh trốn càng gấp hơn. Tả thừa tướng MiNê tâu rằng: ?oTừ nay nên cấm hẳn không cho dân ngu [87] năm huyện thờ tả đạo nữa?. Vua lại hỏi thống binh ĐôSaNùng phải làm cách gì để ngăn cấm? ĐôSaNùng tâu: ?oDân bị mê hoặc đã sâu, phải có phép thật nghiêm mới sửa được. Nay ta phải dùng phép của hắn mà trị hắn thì công việc đỡ phiền phức mà có hiệu quả. Thần được biết Jêsu cấm người ta không được gọi đạo ta [88] là đạo chính và không được gọi thầy cả đạo ta là thầy, chỉ dành những tiếng ấy để xưng hô với hắn mà thôi. Bọn vít vồ đi đến đâu, dân ngu đều rải chiếu kín đất mà đón rước, những kẻ phú hào dẫn dân binh vác gậy đỏ xếp hàng hai bên đường nghênh đón. Bọn vít vồ ngồi xe son che lọng vàng, đàn ông đàn bà cầm nến sáp đi theo hoặc quỳ lạy nghẽn đường, già trẻ thảy đều tung hô hoan hỷ. Xem ra bọn họ chỉ biết tôn kính vít vồ mà khinh miệt quan lại của triều đình, bảo triều đình là quân vô đạo, bảo các thầy cả đạo ta là những kẻ làm phép ngụy. Đại khái bọn chúng mê hoặc lòng người, coi khinh phép nước như thế [89] . Hơn nữa chúng rao giảng toàn những điều có hại đến luân thường [90] . Nay xin hoàng thượng cho đổi cách xưng hô: gọi các cố đạo là thầy cả đạo chính, nắm quyền ngăn cấm tả đạo, như thế công việc thưa giản mà phép tắc được nghiêm hơn. Nếu cứ để như trước thì e rằng bọn nha lại tham tiền của đút lót thả lỏng cho bọn thầy tu tả đạo coi thường phong tục. Cần phải đặt lệ thưởng to phạt nặng, kiên trì vài bốn chục năm trở lên thì mới có thể uốn nắn bọn chúng trở về chính đạo?.
    Vua Hêrôtê Agripa nghe xong lo ngại phán rằng: ?oCha chả ghê thay kẻ hiểm tâm ngang ngạnh! Nay trẫm sẽ nghiêm cấm, truyền cho con cháu, vạn năm không được nới tay!? Rồi đó vua truyền lệnh lập sổ ghi tên dân tả đạo các làng trong nước trình lên để xem xét. Đổi gọi cố đạo các làng là thầy cả đạo chính. Tờ chiếu đại lược viết: ?oBọn các ngươi tiêm nhiễm yêu ngôn đã lâu, quay lại khinh miệt cha ông khi còn sống thì không nuôi dưỡng, không cung kính; đến khi chết thì đào huyệt chôn sâu, không thờ cúng, không xót thương. Tuy gọi là loài người mà lòng dạ thật đúng là loài chó lợn. Nay trẫm truyền đổi tên cố đạo gọi là thầy cả đạo chính coi giữ phong tục các làng; một mặt đặt ra những điều lệ mới, ghi rõ cho mọi người đều biết như sau:
    ? Điều 1: Các cố đạo trước đây từ nay đổi gọi là thầy cả đạo chính.
    ? Điều 2: Chức thầy cả đạo chính ở mỗi làng lớn đặt 3 người, làng không lớn lắm đặt 2 người, làng nhỏ đặt 1 người, được cấp lương ấn có phân biệt các mức nhiều ít khác nhau.
    ? Điều 3: Dân tả đạo mỗi khi có việc tang ma chôn cất đều phải đến trình để thầy cả đạo chính đích thân đến kiểm soát và chỉ bảo cho cách thức làm đám tang đúng theo phép nước.
    ? Điều 4: Dân tả đạo mỗi nhà đều phải lập một bàn thờ, viết thụy hiệu tổ tiên từ 5 đời trở xuống mà thờ phụng.
    ? Điều 5: Dân tả đạo đến ngày giỗ cha ông, tùy theo hoàn cảnh mỗi nhà giàu nghèo mà soạn lễ cúng, nhất thiết phải trình để thầy cả đạo chính và trưởng ấp đến tận nơi xem xét.
    ? Điều 6: Các hương trưởng phải phân bổ cho dân tả đạo các nhà theo lệ đóng góp vào việc thờ thần của làng.
    ? Điều 7: Viên hương trưởng nào mà phụ họa làm theo dân tả đạo thì bị xử trảm.
    ? Điều 8: Dân tả đạo khi làm lễ cưới thì cả hai vợ chồng đều phải lạy bàn thờ tổ tiên nhà vợ cùng là lạy sống cha mẹ vợ, sau đó mới đón dâu về nhà chồng. Về đến nhà chồng thì phải lạy bàn thờ tổ tiên nhà chồng cùng là lạy sống cha mẹ chồng.
    ? Điều 9: Ai cáo giác bắt được bọn đồ đảng yêu đạo thì được ban phẩm hàm quan tước, sau khi chết được phong phúc thần như đã nói trong chiếu chỉ năm ngoái.
    ? Điều 10: Dân tả đạo kẻ nào không tuân theo những điều khoản trên đây thì thầy cả đạo chính và hương trưởng phải bắt dẫn lên quan trên xử trảm cả vợ lẫn chồng.
    ? Điều 11: Thầy cả đạo chính kẻ nào tham tiền của đút lót mà ngấm ngầm làm theo tả đạo thì bị khép tội bất trung với mệnh vua, xử trảm.
    ? Điều 12: Thầy cả đạo chính và hương trưởng nếu dốc lòng nghiêm cấm tả đạo và sửa đổi cho dân tả đạo trở lại quốc tục thì sau khi chết được phong làm thần làng.
    ? Điều 13: Khi thầy cả đạo chính được sắc ban về làng, hết thảy dân tả đạo đều phải sửa soạn xe son lọng vàng, cầm gậy đỏ và đèn sáp xếp hàng hai bên vệ đường nghênh đón.
    ? Điều 14: Thầy cả đạo chính và hương trưởng nếu không may bị thiệt mạng trong khi thừa hành chức vụ thì lập tức được gia phong, triều đình sẽ bổ ngay người khác đến thay thế [91] .
    ? Điều 16: Kẻ nào cất giữ quần áo, chuỗi hạt, tranh ảnh, sách vở của yêu tặc, hạn trong một tháng phải đem đến nộp cho thầy cả đạo chính và hương trưởng để chuyển lên quan trên thiêu hủy. Sau hạn đó, khám xét thấy kẻ nào còn cất giấu thì xử trảm [92] .
    Dân tả đạo từ trước chỉ tôn kính Jêsu cùng các vít vồ, đến nay nghe lệnh truyền xuống ai nấy sững sờ buồn thiu lo sợ bị đày xuống địa ngục. Bọn họ bàn tán với nhau không biết làm thế nào. Nhưng vì sợ phép nước, ai nấy đều phải tuân hành theo đúng chiếu thư. Các thầy cả đạo chính thì đều mong được phong thần, cho nên càng dốc lòng nghiêm cấm tả đạo. Cứ như thế trong khoảng hai chục năm mới tạm dẹp được tập tục tà giáo.
    Xét việc bài trừ tả đạo ở nước Jiuđê, bất cứ điều gì cũng đều phải tuân theo phép của Jêsu mà phá thuật của Jêsu, chẳng hạn việc đề chữ trên cờ hiệu, đổi gọi cố đạo là thầy cả đạo chính, cùng là lệ phong thần, bổ nhiệm người thay thế để duy trì phép tắc cho nghiêm, v.v. Cách thức trấn áp những kẻ mù quáng như thế thật là rất diệu, đúng là ?ovỏ quýt dày, móng tay nhọn? vậy. Ngày nay bọn Tây Dương cũng vẫn phải sợ những phép ấy.
    Sau khi dẹp xong yêu tặc, vua Agrippa xuống chiếu đại xá thiên hạ, chỉ trừ 6 tên giám mục môn đồ của Jêsu. Bấy giờ trong triều ngoài nội người ta đều cho rằng bọn chúng đã cải tà quy chính, tuyệt hẳn không dấy lên nữa. Nhưng chỉ một năm sau, trong dân gian có viên quản giáp tên là MaLa cùng với người làng TônNi tên là ANga bắt được một thầy tu tả đạo tên là MiNghi. Lại viên quản giáp tên là NôTư bắt được thầy tu tả đạo tên là TuânTê. Cả hai gã ấy chỉ mới ngoài 20 tuổi [93] . Bấy giờ hai gã đều giả dạng làm thầy lang đến chữa bệnh ở hai làng kia, hương trưởng lấy làm ngờ [94] dẫn tuần đinh bắt giữ xét hỏi: ?oCó phải ngươi là thuộc hạ của bọn vít vồ hay không?? Người ta đồn rằng nếu hai gã ấy là bè đảng ngụy đạo thì thế nào chúng cũng chối cãi. Chẳng ngờ hai gã kia tự nhận là đúng [95] . Thế là cả hai liền bị dẫn nộp lên tổng trấn. Quan tổng trấn tâu báo về triều, vua Agrippa cho lệnh giải về kinh. Tra khảo đầu đuôi, hai gã ấy mới phải khai rằng: ?oCả 6 môn đồ của Jêsu đã trốn sang Tây Dương, lập thêm bọn chúng tôi làm thầy cả, tất thảy là 54 người, bảo ở lại lén lút trà trộn trong dân gian. Lại căn dặn rằng: Các ngươi phải vững lòng tin, rằng chờ ngoài mười năm, năm mươi năm nữa, kẻ kia dễ sống đại được nghìn tuổi không chết hay sao? [96] . Nó chết thì con nó nối ngôi hoặc giả đó là kẻ ngu tối, hoặc là gặp nhiều sự cố rắc rối, hoặc sẽ bị người của đạo ta trừ khử đi v.v. Do đó mà bọn chúng không lưu ý đến việc cấm đạo nữa. Các ngươi còn trẻ, đến lúc ấy khoảng sáu, bảy mươi tuổi, chắc là chưa chết hết, ít nhất cũng còn một phần ba sống sót. Lúc bấy giờ các ngươi sẽ bí mật lập đạo, cùng nhau đi thuyết dụ dân chúng, há lại không dụ được vài ba trăm nhà hay sao? Cứ đà ấy nhen nhóm gây dựng dần dần mà trỗi dậy. Lúc ấy bọn ta đã già yếu rồi, cho nên phải dặn trước để các ngươi nghe ngóng thăm dò, bốn phương tìm nhau tụ hội lại dần dần thì giáo dân hai nước [97] cũng như con một nhà vậy. Như thế bọn chúng nó làm gì được chúa Jêsu của chúng ta?? [98] .
    Nghe lời khai của hai gã thầy tu, vua Agrippa cả kinh đập tay [99] xuống án phán rằng: ?oBọn giặc này thật ngang ngạnh, cứng đầu! Đúng như ***** [100] của chúng vẫn nói là trên dưới một lòng, vững như sắt đá, kẻ trước chết người sau tiếp!? [101]
    Liền đó vua sai ghi họ tên quê quán của bọn thầy tu tả đạo 52 tên còn lại đem niêm yết khắp nơi để lùng bắt. Một mặt sai quân tầm nã đến tận quê quán của từng tên bắt giam gia quyến và tịch thu mọi thứ lễ phục, giấy tờ, bằng sắc [102] . Lệnh truy lùng tả đạo càng gắt gao hơn trước, đến nỗi đàn bà con gái nhà giàu thường có những chuỗi ngọc trang sức nhưng đều phải tháo rời ra chẳng ai dám đeo, vì sợ người ta ngờ là chuỗi con niệm. Đồ đạc dụng cụ trong nhà, những thứ gì có hình dáng chữ thập cũng đều phá hủy hết. Những ai trùng tên với bọn thầy tu đang bị truy nã đều xin đổi tên. Rồi đó tả thừa tướng MiNê theo lời của ĐôSaNùng, sai trói ngược hai tên thầy tu tả đạo vào bó tre khô, tưới dầu châm lửa đốt cho cháy rụi thành than, xúc đổ xuống sông, còn lòng ruột không cháy thì vứt cho chó ăn [103] . Một mặt ban ngay sắc phong sinh thần [104] và lập đền thờ sống cho những người đã có công bắt giữ yêu tặc.
    Năm mươi hai tên môn đồ ngụy đạo nghe tin gia quyến bị bắt tống ngục, trong vòng ba
  6. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    năm đều lục tục ra đầu thú, 20 tên quá sợ hãi xin hoàn tục về nhà lấy vợ, bèn triệu quản giáp, thầy cả và hương trưởng đến bảo lĩnh cho về, đều làm đúng lời hứa lấy vợ, ở yên tại quê nhà. Còn lại 22 tên [105] vẫn bền lòng không chịu bỏ đạo, vua truyền theo phép cũ đem thiêu sống đổ tro, vứt ruột cho chó ăn.
    Hồi bấy giờ ở nước Jiuđê, số người bị dụ dỗ theo tả đạo, chỉ mới trong phạm vi 5 huyện, nhưng cũng chỉ rải rác, không phải toàn tòng. Đến khi quan quân bắt giết 6 môn đồ của Jêsu, rồi ra lùng bắt bọn 54 tên vừa nói thì pháp lệnh của triều đình cấm tả đạo được nghiêm khắc tuân phòng, người ta đều tưởng rằng dân tả đạo trong năm huyện đã kinh hồn bạt vía. Nhưng 24 năm sau, bỗng có tin người làng Xana bắt được 3 thầy tu tả đạo tên là Nicôla, Jêpêsô và Timông [106] . Ba người này lẩn trốn trong hang núi đã hơn một hai năm. Dân làng thấy bọn họ ở độc thân không lấy vợ, lấy làm ngờ, bèn bắt nộp quan trấn, quả nhiên đúng sự thực. Áp dẫn về kinh, vua Hêrôtê Agrippa càng thêm kinh lạ. Đến khi tra khảo duyên cớ tại sao sống độc thân thì Nicôla và Jepensô đều khai là vì nhà nghèo không dám lấy vợ, còn Timông thì nói vì bị bệnh lao nên cha y bảo đừng lấy vợ thì sống được lâu hơn [107] . Vua Agrippa quát rằng: ?oNói láo cả! Chẳng giống tính người, cứ giao xuống cho tra khảo, chết bỏ!? Bấy giờ bọn Jepensô mới chịu khai: ?oBọn chúng tôi không phải là thầy cả, mới chỉ là môn đồ do các giám mục lập sẵn để tiện trao chức về sau [108] . Giám mục dặn kín chúng tôi rằng: Nếu 54 thầy cả đều chết hết thì bọn các người tất cả 50 người hãy cầm lấy bằng sức tự lập làm thầy cả để thay thế?.
    Vua Agrippa cả sợ nói rằng: ?oCha chả! Bọn bay gốc sâu rễ bền!?. Nói đoạn hạ lệnh tịch thu hết bằng sắc và các thứ đạo phục. Tờ sắc đại khái viết như sau: ?oThiên Chúa Jêsu ban sắc truyền rằng: thầy cả trước đã chết, nay trao chức cho khanh thay thế. Khanh hãy dốc lòng vỗ về khuyên bảo dân chúng, ngày sau khi qua đời cho khanh cùng được thiêng liêng? [109] . Lại có đoạn nói: ?oThầy cả nào được vít vồ (*************) nào truyền chức thì mang tên vít vồ ấy. Như vậy là để khi sống gọi tên mình là nhớ đến đạo, khi chết rồi thì theo linh hồn của vít vồ mình để cùng được thiêng liêng? [110] .
    Vua Agrippa lại càng kinh lạ nói rằng: ?oBọn giặc năm xưa chỉ nói 54 tên, không thấy khai rõ bọn này. Dự liệu dặn dò nhau từ trước, mưu mô bọn này thật xảo quyệt, hiểm độc biết bao! Tuy vậy, bắt thêm được một đồ đảng của yêu tặc ta lại có thêm một phép mới để trừng trị bọn chúng!?.
    Rồi đó vua sai biên họ tên quê quán của bọn thầy tu dự bị, 45 tên còn lại truyền đi cho các địa phương truy nã. Bấy giờ 47 tên thầy tu dự bị vẫn sống ở quê quán, nhưng dân làng chẳng ai hay biết, chỉ lấy làm lạ là bọn ấy đã lớn tuổi vẫn không chịu lấy vợ mà thôi. Đến khi bọn chúng bị bắt thì mới vỡ lẽ. Chiếu vua truyền xuống: những kẻ thú tội chịu lấy vợ đều được tha, giao cho thầy cả đạo chính và hương trưởng bảo lĩnh giám sát như đã nói trước. Trong số đó chỉ có 5 tên trước sau vẫn không chịu bỏ đạo đều bị tử hình như đã nói. Một mặt cũng phong tặng cho người làng Xana như đã hứa trước [111] .
    Vua lại xuống chiếu truyền rằng: dân chúng ai có việc đi đâu cần phải có giấy thông hành [112] cùng với tờ cam đoan [113] rằng mình không phải là dân tả đạo. Ai không có giấy tờ thì giao cho trưởng ấp nơi đến trú ngụ giữ lại xét hỏi [114] . Sau đó lại có chiếu truyền: hạn trong một năm, đàn ông đàn bà trong nước từ 20 tuổi trở lên nếu không lấy vợ lấy chồng đều coi như đồ đảng của yêu tặc, giao cho trưởng ấp đem trát đến bắt, không tha. Dân chúng đều lấy làm lo sợ, chẳng người nào dám ở độc thân không lấy vợ lấy chồng. Từ đó cái rễ Gia Tô mới dừng lại không bén được tấc nào [115] . Trước đó dân tả đạo trong 5 huyện tuy bề ngoài vẫn tôn phụng thầy cả đạo chính, nhưng trong lòng vẫn mong ngóng trông đợi, thường kiếm cớ đi xa để lén lút xin chịu phép ngụy đạo [116] . Nay thấy các vít vồ đã chết hết, thầy cả ngụy đạo đều bị dẹp láng, vĩnh viễn không có ái dám đứng ra làm phép giải tội, phép cưới, phép xức dầu, phép thụ bánh thánh v.v. đến bấy giờ dân tả đạo mới chịu răm rắp tuân theo phép nước.
    ________________________________________
    [1]Thật là mưu trí!
    [2]Nguyên văn: thái sử. Thời cổ, sử quan thường kiêm việc chiêm tinh (xem thiên văn để đoán nhân sự).
    [3]Jêsu cấm không cho xem thiên văn chính là vì cớ ấy.
    [4]Gọi vua nước mình là ?ogiặc?, dân tả đạo nước nào cũng ăn nói như thế cả.
    [5]Ngày nay các cố đạo dọa nạt người ta, đại khái cũng nói như thế.
    [6]Thông giáo: đạo thờ chúa Trời của người Jiuđê (Do Thái giáo).
    [7]Thuộc kinh thành Jêrusalem.
    [8]Nguyên thư chép: PhiNùngTô, có lẽ chép nhầm. Đây vẫn là quan tổng trấn Philatô đã nói ở cuối Q. III.
    [9]Nguyên thư phiên LiTê. Theo Sử ký Hội Thánh thì sự việc nói ở đầu quyển này thuộc về đời vua Hêrôtê Agrippa.
    [10]Ngày nay người Tây Dương sợ phép này nhất.
    [11]Không rõ tên là gì.
    [12]Nguyên văn: Bí ý thư = thư trình bày các ý kín.
    [13]Đúng thế!
    [14]Chỉ Jêsu.
    [15]Trấn ấy gần kinh đô. (Nguyên thư phiên: KhuDiA trấn. ND)
    [16]Nguyên thư: kháng ngôn sát tha tử, tha thiên hạ vị hà? Chữ ?otha? sau có lẽ phải hiểu theo nghĩa chữ nôm: tha = tha thứ, dung tha, thì câu văn mới thông nghĩa.
    [17]Từ đây trở xuống là những việc làm theo lời ĐôSaNùng mật tâu với vua. Sử ký của nước Jiuđê nói việc này xảy ra khi vua EsoDi (Hêrôtê) còn tại vị, như thế so sánh này với sử ký nước Jiuđê có chỗ không giống nhau.
    [18]Nguyên thư: Kim sát viết vô lục nhân (Nay giết 6 tên vít vồ). Bạn đọc theo dõi đến đây thì biết rằng 12 môn đồ lớp đầu của Jêsu chỉ có Phêrô được chọn làm vít vồ (*************). Đây nói ?o6 vít vồ? thì không chính xác, xin tạm sửa là 6 giám mục.
    [19]Nguyên văn: Khai nhất môn phóng hạ. Đây nói đến kiểu làng thời Trung cổ có hào sâu, cánh cổng mở ra thả qua hào kiêm làm cầu đi lại, khi đóng thì rút lên. Vì vậy nói ?othả xuống?.
    [20]Về sau người Tây Dương có lệ nộp tiền nhân danh là bắt đầu từ đó.
    [21]Xem đoạn dưới sẽ rõ.
    [22]Đó là làm theo phép của Jêsu.
    [23]Bàn trác, chữ Nôm trong nguyên văn (ghép 1 từ Hán và 1 từ Nôm đồng nghĩa cái bàn). Tiếng địa phương một số nơi miền Trung ngày nay cũng có người vẫn quen gọi chiếc bàn dài khổ hẹp là bàn trác. Nguyên thư chú thích: ?oBàn trác có một thanh dọc một thanh ngang, cũng như hình chữ thập, đóng đinh 4 chân tay để ngang trên đất?. Chú như vậy chúng tôi cho là có chỗ lầm ở đoạn trước.
    [24]Nay trong ảnh các thánh tông đồ bên cạnh đều có vẽ các thứ hình cụ.
    [25]Đã nói thể xác do đất vắt nên là vật hèn mọn thì vét máu về làm gì?
    [26]Bọn Tây Dương rất sợ phép này.
    [27]Thủ đoạn của bọn Tây Dương trước hết bảo với người vợ để vợ ngăn cản chồng. ĐôSaNùng làm theo phép đó, thật rất diệu!
    [28]Quyệt lắm, làm thêm một dịp để nạt gia chủ.
    [29]Tức Italia.
    [30]Chia nhau mỗi người một ngả, kể cũng là mưu xảo đấy.
    [31]Không dám tự xưng là cha mẹ, chỉ nói là ?ohai người chúng tôi?. Cha mẹ các cố đạo ngày nay cũng xưng hô như thế.
    [32]Chính là cái ý: lúc sống không được làm vua thì sau khi chết cũng phải được làm thần.
    [33]Tả đạo kiêng số 6 là vì vậy. ĐôSaNùng mua 60 con chó cũng do cớ ấy.
    [34]Nguyên thư phiên là YBiênTa.
    [35]Ai có phép làm cho những thuyền giấy bay lên trời là cao thủ được tuyển.
    [36]Nguyên văn: thảo binh, nghĩa là binh lính bằng cỏ (rơm) tết lại. Đây nói về phép phù thủy bện cỏ làm âm binh.
    [37]Hai vị ?oThiên Chúa con? tranh nhau phân biệt thật, giả. Cách ĐôSaNùng trấn an lòng dân rất diệu!
    [38]Bẻ lại tả đạo chỉ bằng một câu. Lời của ĐôSaNùng thật khoái trá tột diệu!
    [39]Nguyên văn: LâmBô binh, nghĩa là lính âm phủ, cũng có thể dịch là ?oâm binh?. Nhưng như thế dễ lẫn với việc ĐôSaNùng cũng có đội ?oâm binh? (kết bằng cỏ) do các thầy phù thủy chỉ huy.
    [40]Nguyên thư chép: Thập đạo sư huy pháp kỳ, lôi pháp cổ ? Theo ý chúng tôi đúng ra phải là: Thập đạo pháp sư huy pháp ký (cách sau mấy câu sẽ có nói đến 10 pháp sư).
    [41]Sáu phía (lục diện) = đông, tây, nam, bắc, trên trời, dưới đất.
    [42]Jêsu nói chúa Trời có ba ngôi, đến trận đánh này mới hay chúa Trời lại có bốn ngôi (Ngôi thứ tư do ĐôSaNùng đóng giả. ND)
    [43]Nguyên thư chép: thứ nguyệt (= tháng sau). Theo lối kể chuyện thông thường các mốc, Thánh thể không xác định, có lẽ ?othứ nhật? (= ngày hôm sau) thì hợp lý hơn: tiếp tục cuộc giao chiến ngày hôm trước tạm lui quân.
    [44]Bọn họ nói: Thượng hoàng băng hà dân chúng bị nạn dịch là do nhà vua cấm đạo Jêsu cho nên bị Jêsu trừng phạt.
    [45]Nguyên thư chép: thứ nhật (= ngày hôm sau). Sau khi đã gây ra nạn dịch, có lẽ phải là ?othứ nguyệt? (= tháng sau) thì hợp lý hơn. Chúng tôi tạm điều chỉnh mấy chữ (thứ nguyệt, thứ nhật) trong hai câu trên cho dễ theo dõi.
    [46]Nguyên văn: Dương binh = quân dương gian do ĐôSaNùng chỉ huy, phân biệt với quân âm phủ của Jêsu. Cố nhiên trong huyền thoại đang kể đây, cái gọi là ?oquân dương gian? ấy, như bạn đọc đã biết, lại cũng là một thứ âm binh do các thầy phù thủy điều khiển.
    [47]Hễ linh thiêng thì người ta sẽ lập đền thờ, cần gì phải cầu xin?
    [48]Có ý nhắc đến việc Jêsu bị quẳng vứt vào đống phân tro.
    [49]Tựa như lời lẽ đàn bà!
    [50]Nguyên chú ở trên đã nhắc đến chuyện kín ấy.
    [51]Cốt để thống nhất ý chí của dân chúng.
    [52]Nước ấy nhiều núi nên có nhiều sơn thần linh thiêng. Lại thấy Jêsu thường dạy cho các
  7. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    môn đồ cắt yểm các mạch núi chẳng phải chỉ cốt làm ngu dân mà còn muốn làm ngu cả thần nữa. Đang tâm của Jêsu thật hiểm độc!
    [53]Đời sau dùng hương đen là do sự tích ấy. Khi trước Jêsu bảo người ta bỏ việc thắp hương thờ cúng. Nay ĐôSaNùng lấy tro dùng hương mà bắn, thật là đối chọi chan chát. Người ta thường đồn nhảm rằng đạo Tây Dương kiêng dùng hương đen là bởi tích này.
    [54]Nguyên văn: phóng thủ tiễn.
    [55]Nguyên thư phiên là MiênSa.
    [56]Jêsu cấm người ta đi học, ghét những người thông minh tái trí là cốt đề phòng trước những người như Mensa.
    [57]Nguyên thư chép: Chiếu vua truyền đến làng Nazaret. Chúng tôi lược đi mấy chữ vì Nazaret là quê quán chứ không phải nơi Jêsu tử nạn. Địa danh này sẽ thêm vào ở cách mấy câu sau khi nói quan quân tìm đến nhà ở của Jêsu.
    [58]Giá câu rút và hang mả Jêsu ở trên núi DiÔ (chữ tắt phiên âm tên núi Calavariô, tức Gôgôtha. ND).
    [59]Chỉ còn lại 2 giá xử tội 2 tên tù cướp không ai nhận. Ngày nay bọn Tây Dương thuê người thu vét vết tích kẻ bị hành hình đại loại cũng như thế.
    [60]Nay bọn trong đạo cũng sợ phép này.
    [61]Nay bọn trong đạo cũng sợ phép này.
    [62]Nguyên văn: phụng cấp. Quan hàm chim phượng thuộc hàng đại thần được mặc áo chầu ở ngực có thêu hình chim phượng, nguyên thư có chú thích là tương đương bậc tam phẩm.
    [63]Nay bọn trong đạo cũng sợ phép này.
    [64]Nguyên thư chép: sơn linh hỏa thần, đúng ra có lẽ là ?ođại linh sơn thần? vì các đoạn sau không thấy nói gì về hỏa thần.
    [65]Đúng là bậc Thượng thượng đẳng tối linh thần.
    [66]Phong tục xứ ấy còn man rợ không biết kiêng kỵ điều gì. Một đằng thì Jêsu giả danh chúa Trời, bọn vít vồ lại mượn danh Jêsu. Một bên thì ĐôSaNùng phỏng theo cách của Jêsu, vua LiTê (Agrippa) lại phỏng theo cách của ĐôSaNùng. Thật là phép diệu để uy hiếp yêu quái, trấn an lòng dân. Trong trận chiến lần trước thấy Thiên Chúa có bốn ngôi, đến trận này lại hóa ra 5 ngôi. Ha ha!
    [67]Kỳ binh = đội quân có phép biến hiện kỳ lạ; ở đây chỉ âm binh (bện bằng cỏ) của các tay phù thủy.
    [68]Nguyên thư chép: Nùng khán kiến giá bưu quân độ phủ vĩ? Thủ vĩ = đầu đuôi, trước sau: đặt trong câu này khiến cho cả câu bị phá vỡ, không hiểu được. Chúng tôi xác định ở vị trí chữ thủ đúng ra là chữ điểu. Huyền thoại Thiên Chúa giáo thường hay nói đến các thiên thần đầu người mình chim, như Thiên sứ Gabrien, Chúa Thánh Thần hiện xuống với hình chim bồ câu v.v. Đoạn văn trên mô tả đội quân hộ vệ của Jêsu là quân thiên thần đầu người đuôi chim (điểu vĩ). Ý đó phù hợp với các câu tiếp theo và cả với nguyên chú. Chữ điểu mà chép nhầm ra chữ thủ là do thói quen (thủ vĩ là từ thường dùng trong văn kể chuyện).
    [69]ĐôSaNùng vốn biết tả đạo gọi đội quân ấy là ?oquân thiên thần?.
    [70]Chim vốn sợ chó.
    [71]Đoán đúng ý kín của Jêsu, ĐôSaNùng quả là viên tướng hiểu thấu lý lẽ.
    [72]Ý chừng cũng chạy đằng trời?
    [73]Nay thấy bọn chúng bắt bỏ việc thờ thần, cắt yểm sơn mạch chính là để mưu toan thi hành kế ấy (Lời chú này ở vị trí nói trên xem ra không hợp ý. ND).
    [74]Tức Tống Lý Tông (Triệu Vân) vua thứ 5 nhà Nam Tống (1225-1265).
    [75]Núi này phải phía đông kinh thành (Tên phiên âm trong nguyên thư. ND).
    [76]Âm dương binh: Theo tác giả thì bên quân của ĐôSaNùng bao gồm cả nhân binh (người), thần binh (quân của cá sơn thần + nhân thần) và âm binh (ở đây cũng gọi là kỳ binh, quân của các pháp sư, bện bằng rơm), vì vậy ở câu trên nguyên thư gọi chung là ?oâm dương binh?.
    [77]Nguyên thư chép: ?ovô số thần hội vân xuất?? không có nghĩa. Chúng tôi căn cứ vào chi tiết đã trần thuật ở các đoạn trên mà xác định đây là chữ cái (= cái lọng; thần cái = lọng thần). Hai chữ hội và cái viết chân thì khác nhau nhưng viết thảo thì có dáng chữ gần giống nhau. Có lẽ vì vậy người chép nguyên thư đã đọc sai và chép nhầm (xem mẫu đối chiếu chữ cái ở tờ 57b, dòng 2 trong nguyên thư).
    [78]Đức chúa Con ở trên trời có 6 tướng vít vồ, Đức chúa Con dưới đất cũng có 6 tướng vít vồ. Đây lại là một trận giao chiến hết sức kỳ lạ nữa.
    [79]Lấy sấm chọi với chớp, thật là kỳ diệu.
    [80]Nguyên văn: toàn vô cố khí (hoàn toàn không còn khí sắc cũ).
    [81]Nguyên văn: Sa sơn, có lẽ không phải là tên riêng, ý tác giả muốn nói đến những núi cát ở sa mạc Xinai?
    [82]Nguyên văn: Ải sơn, có lẽ cũng không phải là tên riêng mà chỉ là dãy núi trong đó có cửa ải?
    [83]Jêsu thường bảo các môn đồ: Nếu không trấn áp linh hồn bọn chúng thì chúng sẽ giết hết các ngươi. Nay xem Jêsu bị thua bại bởi mưu trí của vị nữ thần, mới hay rằng Jêsu biết lo xa tính toán.
    [84]Nguyên văn: Thanh sồ. Sồ là con phượng hoàng còn non. Nguyên thư viết chữ Sồ với bộ mã (= người chăn ngựa hoặc cưỡi ngựa) có lẽ là chép nhầm vì hai chữ này đồng âm và có nửa chữ giống nhau.
    [85]Nguyên thư chép: ?oTề phát chi gian, triều chi thần binh bảo cư kỳ bản?, ngờ là bị sai thiếu vài chữ.
    [86]Ngày nay có bức tranh Jêsu bị đóng đanh trên giá câu rút, bên dưới có đống sọ người, một là để mô tả sự tích núi Sọ người, hai là để ghi công những quỷ binh chết cũng như thế, nếu dốc lòng theo đạo thì sẽ được lên thiên đường. Bọn Tây Dương dẫu một chút việc nhỏ cũng có ngụ ý đe nạt người, một việc có ba, bốn ý nghĩa, không thể xem lướt qua mà hiểu ngay được. Có điều là vẽ hình xương sọ để ghi công bọn quỷ binh thì ngày nay họn họ giấu kín không nói vì sợ lộ chuyện quỷ binh của Jêsu thua to trong trận ấy.
    [87]Nước Jiuđê gọi những kẻ theo tả đạo là muội dân (dân ngu).
    [88]Nguyên thư chép: ?oGia Tô cấm nhân hô tả đạo vi đại chính?? câu này dường như trái nghĩa, có lẽ do chép sai tân ngữ của động từ ?ohô?. Chúng tôi cho rằng chữ tả (tả đạo) trong câu này là chép nhầm do thói quen liên tưởng: hợp nghĩa có lẽ là ngộ đạo (= đạo ta) hoặc cựu đạo (= đạo cũ), đều chỉ Do Thái giáo.
    [89]Xem ngày nay ở nước ta, những nơi xa cách quan quân, dân tả đạo đón rước các vít vồ quả nhiên đúng như thế chứ chẳng phải là nói ngoa.
    [90]Vua nước Jiuđê đã xem sách Bí lục rồi, cho nên chỉ nói gọn một câu.
    [91]Tức là theo đúng phép của Jêsu: người trước chết, người sau tiếp.
    [92]Nguyên văn trước mỗi điều chỉ ghi một chữ ?onhất? (tác dụng cũng như một gạch ngang đầu dòng), chúng tôi đánh số cho tiện theo dõi.
    [93]Chọn những người trẻ tuổi làm thầy tu cũng là một ý kín.
    [94]Hai làng này vốn không theo tả đạo. Đến khi làng làm lễ tế thần, hai gã kia không mang lễ vật đến lạy tế. Lại khi trong làng có nhà hào mục làm lễ giỗ tổ, hai gã kia không biết phận mình là khách trọ ở nhờ mà cứ đến dự.
    [95]Làm theo lời Jêsu dạy: ?oTrên dưới một lòng, gặp nguy hiểm cũng không chối đạo?. Bọn cha cố ngày nay dù bị tra tấn vẫn một mực như vậy.
    [96]Gọi vua là nó, thật là láo xược hết mức. Bọn thầy tu tả đạo ngày nay cũng vẫn thế, thật đúng như lời nói của ĐôSaNùng.
    [97]Chỉ nước Tây Dương (Italia) và nước Jiuđê.
    [98]Ngày nay tả đạo thường hay nói người cùng đạo như con một nhà, là bắt đầu từ đó. Môn đồ tả đạo kiên trì dai dẳng như thế, đâu phải chỉ 20 năm mà có thể cấm hẳn được!
    [99]Nguyên thư chép: phụ thủ, với chữ phụ = thêm gần, thân cận, v.v. chắc là chép nhầm chữ phù thủ (phù = vỗ, đập).
    [100]Chỉ Jêsu.
    [101]Nhắc lại câu nói của Jêsu đã dẫn ở Q. IV.
    [102]Phàm tả đạo các chức vít vồ, giám mục đều được cấp bằng sắc, chữ viết hàng ngang, rìa chữ uốn lượn như quả bầu.
    [103]Đến nay tả đạo Tây Dương vẫn còn sợ phép này.
    [104]Nguyên văn: sinh thần, nghĩa là được phong làm phúc thần khi đương sự còn sống.
    [105]Trong đoạn văn trên đây có lẽ nguyên thư chép sót một nét làm thiếu 10 người (20 + 22 = 42)?
    [106]Nguyên thư phiên NiCùLao (Nicola), ChiBiênTô (Jepensô), TêVọng (Tinmon).
    [107]Bọn thầy tu tả đạo ngày nay khi bị bắt cũng nói như thế, là gốc ở đây.
    [108]Tả đạo mỗi khi bị cấm thường lập người dự bị để thay chức thầy cả cũng là gốc ở đây.
    [109]Chỉ nói ?ocùng được thiêng liêng? (đồng tính) chứ không nói lên thiên đường, như thế tức là Jêsu cũng tự biết không có chuyện ấy.
    [110]Dân tả đạo đàn ông đàn bà mỗi người đều được mang một tên thánh là bắt đầu từ đó.
    [111]Câu này trong nguyên thư chép chữ nhỏ như lời bình chú. Chúng tôi nhận thấy để liền với chính văn thì hợp lý hơn.
    [112]Nguyên văn: phái tích.
    [113]Nguyên văn: đoan tiên.
    [114]Nguyên văn: ấp ti đề đặng tấn vấn. Việc soát khách trọ thường làm vào ban đêm, nhà chức trách địa phương xách đèn đến từng nhà xét hỏi.
    [115]Nay tả đạo cũng rất sợ phép này. Sở dĩ phép ấy cấm đến cả đàn bà con gái để phá phép tu đồng trinh của tả đạo.
    [116]Tức là các phép đạo sẽ kể ở đoạn văn sau.
    Quyển VI
    Sang Tây Dương, phép thuật Jêsu đắc dụng
    Trình ?oBí lục?, môn đồ Jêsu được phong
    Con Thiên Chúa bị bại phải chạy trốn vào hang núi Cửa ải [1] . Thần binh và các đội quân tay súng đi lùng bắt, bắn vội vào khắp các hang sâu hốc hẻm. Jêsu phải lẻn trốn sang nước Tây Dương. Quân LâmBô chạy theo Jêsu bấy giờ chỉ còn khoảng 20 tên, Jêsu sai đi tìm Phêrô, hẹn gặp nhau trên núi Pania [2] . Cha mẹ Jêsu và các môn đồ nghe tin Jêsu đến, tưởng là thắng trận, ai nấy cả mừng. Khi đến nơi hẹn, nghe Jêsu thuật lại sự việc, ai nấy đều thất kinh rụng rời. Hỏi nguyên do, Jêsu đáp: ?oTrước đây ta đã nói: nếu để cho bọn chúng học thiên văn, địa lý, bói toán thì một khi thông hiểu, chúng sẽ làm hại đạo ta. Nay
  8. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    sự đã quả nhiên! Ta đã làm phép bắt sao Chổi mọc lại, thổi gió về hướng sao Giốc, gọi quỷ sứ đến bày mưu giúp sức, thật oại hùng lừng lẫy, vậy mà dân Jiuđê vẫn cứng lòng [3] không chịu theo ta mà còn vâng phục ma quỷ! Nay ta quyết chí rời khỏi nước Jiuđê [4] . Than ôi! Sau vít vồ đã bị chúng giết. Nhưng không biết các thầy cả do các ngươi lập ra thì nay như thế nào?? Mọi người nhân đó hỏi về việc sáu vít vồ bị hại, Jêsu buồn rầu đáp: ?oKhi bị quân dữ bắt giam, bọn chúng đã dâng sách ghi chép phép kín của ta, hy vọng được vua Jiuđê trọng dụng. Nhưng tên vua ấy không tin, lại thêm tên giặc ĐôSaNùng dùng hình phạt quá độc ác, cho nên linh hồn của bọn họ chẳng bao lâu đều phải tiêu tan. Hơn nữa, vua tôi Jiuđê sau khi biết rõ các phép kín của ta bèn nhân đó mà đề phòng nghiêm ngặt, đã đoạt lại tất cả giáo đồ của ta?. Môn đồ nghe nói như vậy đều rất lấy làm buồn.
    Jêsu nói: ?oNay ta thử một phen hiển linh sang nước Tây Dương, nếu được quốc vương nước ấy tin cậy thì các ngươi hãy cùng theo sang. Bằng không thì phải tính liệu cách khác, nếu còn tụ tập một nơi như trước thì lại chuốc lấy vạ như ở nước Jiuđê mà thôi?. Bà Maria mẹ Jêsu nghe nói như vậy bèn can rằng: ?oĐức Thầy khi còn sống thì lao khổ phần xác, nay chết rồi còn phải vất vả phần hồn. Sáu ông vít vồ cũng do tôn kính đức Thầy mà phải chịu chết. Tôi bấy lâu đã phải lo âu đau khổ, chỉ mong đức Thầy đừng theo sang nữa?. Sáu vít vồ còn sống cũng tỏ ý lo buồn. Jêsu thấy vậy bèn nói: ?oCứ nghe lời bà thì người ta mất hết chí khí!? Rồi Jêsu cấm hẳn không cho các môn đồ lui tới nhà bà Maria nữa, ai không tuân theo về sau đừng hối. Bọn Phêrô sợ phép thần linh, từ đó không ai dám lui tới nhà mẹ Jêsu nữa [5] . Rồi đó Jêsu lại cưỡi mây bay sang nước Tây Dương [6] . Tới nơi, Jêsu quành lượn trên trời, hóa phép gây mưa, những ai mưa ướt đều bị ốm nặng. Khắp nơi trong kinh thành dân chúng đều phải chống gậy mà đi cà nhắc.
    Quốc vương nước ấy là Maisen [7] sai quan Thái bốc tên là Đinô xem quẻ bói. Đinô gieo quẻ xong tâu rằng: ?oCó vị thiên thần đến bảo ta cho diệu pháp, nếu bệ hạ cho lập đền thờ phụng thì sẽ được tốt lành lớn!? [8] .
    Vua Maisen bèn lập đàn cầu khấn, phút chốc bỗng thấy trên không hiện ra một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, bên trong có một vị thần mũ áo oai nghi đang ngồi bốn phía cột có bốn tên lính mặc áo đỏ đứng hầu. Cờ hiệu có dòng chữ đề: ?oĐức chúa Jêsu con đích thực của chúa Trời? [9] . Jêsu quát lớn: ?oTa là con chúa Trời giáng sinh xuống nước Jiuđê dạy phép lớn để thống nhất thiên hạ, không ngờ bọn chúng quay lại hại ta. Tuy vậy ta cũng tha tội cho chúng, vẫn hiện về dạy bảo cho. Những vua tôi Jiuđê lại cầu viện ma quỷ đánh lại ta không chút thương xót. Nay ta đem cái phép lớn nhất thống thiên hạ ấy ban cho ngươi. Nếu ngươi làm theo lời ta thì nước Jiuđê rồi cũng phải chịu đến thần phục?.
    Vua Maisen cả mừng, cùng với quần thần rập lạy xin được nghe lời chỉ giáo. Jêsu nói: ?oTa có sáu môn đồ hiện đang ở trong nước ngươi [10] , ngươi hãy tìm đón, bọn họ sẽ nói thay lời ta?. Vua tôi Tây Dương vái lạy xin vâng lời. Rồi đó tòa lâu đài vụt biến, dịch bệnh cũng dần yên. Vua Maisen hạ chiếu khắp nơi trong nước truyền rằng: ?oChúa Jêsu con chúa Trời đã hiển linh truyền bí pháp, các vị vít vồ hãy vâng chiếu về kinh triều cận để hoàng đế hỏi chuyện?.
    Jêsu cả mừng bảo các môn đồ: ?oVua Tây Dương đã chịu nghe lời ta, đúng là bậc minh quân trong thiên hạ! Nay trước hết các ngươi phải khoe khoang sự linh thiêng của ta để xem lòng tin của họ có vững hay không rồi sau mới đem trình bí pháp?. Jêsu vừa dứt lời thì bà Maria tắt thở. Bà Maria từ khi đi lánh nạn vì quá ưu phiền lo sợ nhiễm thành bệnh. Lại vì chồng là Jiuse theo đạo, ăn ở chay tịnh để ngưng tụ linh khí, cho nên chỉ sinh hạ được mỗi một Jêsu, mà lại gặp lúc nguy khốn như thế. Cho nên, đến đây chợt nghe tin vua nước Tây Dương, bà Maria ngạc nhiên kinh sợ mà chết. Các môn đồ của Jêsu lo liệu chôn cất mà chẳng thấy bóng dáng Jêsu hiện về. Cho nên ngày nay có lễ Đức Bà lên trời [11] .
    Bọn Phêrô sáu vít vồ vâng chiếu chỉ cùng nhau về kinh đô Tây Dương, trong lòng vẫn còn ngờ sợ, đến khi được vua Maisen tiếp đón như tân khách mới thật yên lòng. Vua Maisen và các đại thần cùng hỏi bọn Phêrô về chuyện Thiên Chúa. Bọn Phêrô muốn kể cho hết mọi sự linh thiêng, bèn soạn ra một bộ sách thuật chuyện từ khi Jêsu sinh ra cho đến khi lại hiện xuống sau khi chết, gồm 4 quyển, gọi là sách Gia Tô thực lục [12] . Riêng đoạn nói về sự việc từ khi Jêsu dẫn môn đồ lên núi Ôlivêtê [13] truyền dạy bí pháp thì chép riêng thành 1 quyển, gọi là Bí lục [14] .
    Sách soạn xong dâng lên, vua Maisen cùng quần thần đọc đến phần Bí lục, ai nấy đều gật đầu tán thưởng. Bấy giờ có tả thừa tướng là Xumêi [15] và hữu thừa tướng là Nasarô [16] nói rằng: ?oNếu Jêsu quả thật linh thiêng thì hãy hiện xuống đây xem sao??. Bọn Phêrô lập đàn cầu thỉnh, phút chốc thấy Jêsu hiện xuống vạch 5 vết sẹo bị đóng đinh ở lòng bàn tay, bàn chân và giữa ngực cho Xumêi xem. Nasarô thấy vậy nói: ?oNếu đánh được ta chết, rồi lại làm cho ta sống lại thì mới thật là thiêng?. Vừa dứt lời, Nasarô liền lăn ra chết, 4 ngày sau thì được sống lại [17] .
    Thế là vua tôi Tây Dương rập đầu vái lạy la liệt, thỉnh cầu Jêsu phò giúp cho vương triều. Rồi đó vua Maisen cho dựng 5 ngôi đền ở kinh đô để thờ phượng con Thiên Chúa. Lại truy phong tôn hiệu thánh cho 6 vít vồ đã bị hành hình ở Jiuđê [18] .
    Vua tôi Tây Dương bản tính xảo hiểm [19] , đến đây được phép thuật hiểm độc của Jêsu, bèn cùng nhau bàn rằng: ?oMột lòng trung nghĩa, muôn đời thiêng liêng, muốn sai khiến dân chúng từ xưa đến nay chỉ có cách ấy của Jêsu là thượng sách [20] . Dòng dõi vua tôi chúng ta nếu làm được như thế thì địa vị ngồi trên đầu dân sẽ ngàn vạn năm yên vững. Phương sách ấy đem thi hành ra nước ngoài thì sau 500 năm có hy vọng thống nhất bờ cõi. Đúng như chúa Jêsu đã dùng phép đại số mà bấm độn, thì nước lớn phải mất 700 năm, nước vừa mất 500 năm, nước nhỏ cũng phải mất 300 năm, cũng không phải là lâu lắm. Vua tôi chúng ta cùng vạn đời con cháu, người trước chết, kẻ sau nối, trên dưới một lòng, ngưng tụ anh linh để hưởng ngày thiên hạ thu về một mối. Muốn được như thế ắt phải đồng tâm nhất trí như thầy trò Jêsu, kẻ nào phản nghịch tất phải trừng trị nặng không tha?.
    Rồi đó vua tôi cùng nhau cắt máu uống thề, đồng lòng suy tôn phép thuật của Jêsu. Vua Maisen, theo lời dặn của Jêsu, cho làm nhiều giá câu rút để nhắc nhở người ta dẫu chết cũng không quên đạo. Trước đó đã cho vẽ ảnh Jêsu đầu đội vành gai nhọn trên giá câu rút ở bên trên; phía dưới là 6 vít vồ đứng hai bên giá, nét mặt và hình dáng đều hao tựa Jêsu, cùng được vẽ vào đó để thờ chung, phong làm thánh? [21] . Sau đó vua truyền cho các quan phải treo ảnh này trong nhà mình để hằng ngày trông thấy không quên cái ý sẵn sàng chịu chết?. [22]
    Xét ra người Jiuđê và người Tây Dương đều thờ chúa Trời, nhưng phong tục Jiuđê chuộng sự thẳng thắn, cho nên phép thuật của Jêsu không thi hành được. Còn thói tục Tây Dương thì giảo hiểm, cho nên phép thuật của Jêsu mới được trọng dụng. Các sách nói về thuật âm dương của người Tây Dương đều là bắt chước của người Jiuđê, nay lại thêm các sách thiên văn của Jêsu, chiêm nghiệm rất đúng.
    Tả thừa tướng Xumiê tâu rằng: ?oXin hoàng thượng lấy sự đối xử công tâm để thống nhất ý chí của dân chúng?. Vua Maisen bèn hạ chiếu phong thưởng tặng cho những người hiền tài từ xưa [23] , cùng với các vít vồ môn đồ lớp sau của Jêsu như bọn Timông đều được phong là thượng khách, cùng được phụng thờ.
    Lại phỏng theo lời dặn về việc mặc đạo phục để ghi nhớ sự tích chúa Jêsu chịu nạn, vua Maisen sai may triều phục đúng như kiểu áo do Jêsu đặt ra [24] , nhưng có qui định thêm về việc dùng 5 màu sắc, thêu hoa vàng hay hoa bạc để phân biệt phẩm tước cao thấp.
    Lại sai bỏ 3 chiếc đinh câu rút, vành mũ gai và chiếc khăn tay che mặt của Jêsu vào trong một chiếc hộp, gọi là ?oHộp tàng hồn? đặt trong nhà thờ. Bấy giờ bọn Phêrô tâu rằng: ?oChiếc giá câu rút trước đây bọn thần đã đem cất giấu ở núi Cửa ải, xin hoàng thượng bí mật sai lính đến lấy về, nhưng xin dặn bọn chúng không được quét sơn để bảo tồn nguyên dạng?. Các môn đồ lại tâu: ?oỞ nước Jiuđê, trong lùm cây Ghêtsêmani còn tảng đá có vết đầu gối của chúa Jêsu quỳ cầu nguyện khi lâm nạn, hiện chưa lấy về được?.
    Vua Maisen bèn bí mật sai người mang nhiều tiền bạc sang mua chuộc dân làng sở tại để khuân tảng đá đó xuống thuyền chở về Tây Dương. Khi đem được tảng đá ấy về, vua cho sửa sang một khu vườn rộng có cây cối um tùm để đặt tảng đá ấy trong vườn, làm nơi tượng trưng di tích, cũng đặt tên là vườn Ghétsêmani. Lại cho đổi tên búi Bađa thành núi Calavariô và dựng giá chữ thập bằng đá trên núi ấy để tượng trưng ngọn núi nơi Jêsu bị hành hình.
    Phỏng theo ý nghĩa việc làm ?ohòm đựng hồn?, vua Maisen sai thợ tạc tượng gỗ cho vua và các quan trong triều. Bên trong tượng khoét rỗng, tượng của người nào thì cắt lấy một nhúm tóc, 10 mẩu móng tay, 10 mẩu móng chân, một mảnh thân sau áo lót của người ấy, dùng dao chích sau lưng lấy máu chấm vào đầu bút mà ghi tên hiệu, quê quán, quan tước vào mảnh áo lót ấy, rồi bỏ tất cả vào trong ruột tượng, làm riêng một căn buồng để cất giữ. Tờ chiếu nói về việc này có đoạn viết: ?oCác đại thần còn sống đây, sau này sẽ trở thành linh thánh, phải nhất tâm đồng lòng, không được phản trắc. Kẻ nào theo giặc phản bội bề trên thì sẽ bị giết đến cả vợ con, bị hủy tượng truyền thần?. Quần thần nhất loạt vái lạy, thề chết không dám ăn ở hai lòng. Người Tây Dương bắt đầu phong thần từ đó. Cho nên vua tôi Tây Dương [25] cũng như các cố đạo ngoại quốc mỗi khi gặp nạn đều có thể coi cái chết như sự trở về [26] .
    Cũng vì việc này, đình thần có người tên là LêChiTa hỏi rằng: ?oNếu dùng phép ấy mà có thể khiến cho trên dưới một lòng thì hà tất còn phải mượn đến cái thuyết Jêsu làm gì??.
  9. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    Vua Maisen đáp: ?oKhông phải thế! Việc đó ngươi còn chưa hiểu. Sau này sẽ cho thi hành nhiều phép khác, phải đem chúa Trời ra mà lòe dọa. Dân chúng muốn biết [27] chúa Trời nói gì, ắt phải lòe bịp rằng con chúa Trời nói thay chúa Trời thời người ta mới tin?. LêChiTa nghe xong lạy tạ hồi lâu.
    Nước Tây Dương trước kia vốn là người chư hầu của nước Jiuđê, sách vở chữ viết đều như Jiuđê cả. Nhưng về việc thờ chúa Trời, đặt chức đạo, thờ quỷ thần thì có chế độ riêng, khác với Jiuđê. Đến khi dùng phép thuật của Jêsu, vua Maisen bèn mượn uy linh của Jêsu xuống chiếu truyền cho các làng xã thành bang trong nước phải sửa sang lại các đền thờ Thiên Chúa.
    Khi ở kinh đô đã có đủ các viên quan coi việc ở các nhà thờ [28] , vua Maisen bèn truyền cho các đình thần bàn định các việc cần thiết trước sau để làm cho thiên hạ tôn thờ đạo Jêsu. Nasarô nói: ?oTrước kia chúa Jêsu đặt ra các phép đạo mỗi năm mới cho thi hành một phép [29] , khuyên dỗ người ta dần dần, như thế mới là chắc chắn không lo?. Vua Maisen bèn giao cho các đình thần họp kín để bàn bạc, phải mất 5 tháng mới bàn định xong.
    Năm ấy chiếu truyền cho các trấn thành làng xóm trong nước phải vẽ ảnh mây để làm bàn thờ Thiên Chúa; chọn một người thông tuệ trong làng làm thầy cả để hướng dẫn dân chúng làm lễ, cứ mỗi lễ lạy trước 3 lạy, đợi triều đình chính chúng bổ nhiệm thầy cả về cai quản.
    Giáo hoàng [30] lại bàn rằng: ?oVua tôi noi theo thầy trò Jêsu, trước sau một lòng không đổi, vì vậy cần vẽ ảnh chúa Jêsu chịu nạn, khiến cho mọi người trông bên ngoài mà động bên trong [31] . Nếu ngại rằng vẽ ảnh ấy dân chúng xem thấy sẽ bảo rằng: đã linh thiêng thì làm sao còn khốn khổ như thế? Thì cứ giấu đi là được?. Đình thần đều cho là phải, xin cứ cho làm. Nhưng có viên quan tên là Môria [32] tâu rằng: ?oChỉ sợ lâu ngày tất sẽ lộ chuyện ra, người ta không tin nữa thì mưu kế của chúng ta phải thất bại. Chi bằng cứ phỉnh dân chúng rằng: Đức chúa Con đem thân ra chịu khổ để chuộc tội cho dân ta khỏi bị đày xuống địa ngục, đâu phải con chúa Trời không có phép thiêng để bảo mạng cho mình. Như thế, dân chúng thấy con chúa Trời mà còn phải chịu khổ như thế thì bản thân mình dẫu phải nguy khó cũng cam lòng mà ở với chúng ta, dẫu bị nạn lớn cũng không thay lòng đổi dạ. Vua đã được lòng bề tôi, lại được lòng dân, thật là điều lợi lớn!?.
    Triều thần nghe xong thảy đều giơ tay tán thưởng rằng: ?oĐúng là sáng suốt thần diệu!? Môria nhân đó soạn ra bổn kinh gọi là kinh Bởi đâu [33] đem dâng. Giáo hoàng Maisen đọc xong cả mừng, lại truyền cho quần thần dựa theo sách Thực lục mà soạn thêm sách Ngoại lục, cốt làm sao cho mỗi tiết trong Thực lục đều có những lời lẽ tu sức thêm để thổi phồng sự linh thiêng của chúa Jêsu [34] . Đó là gốc của cái thuyết chúa Jêsu chuộc tội cho thiên hạ.
    Qua năm sau, Giáo hoàng truyền chiếu ban sách Ngoại lục cho thiên hạ [35] , lệnh cho chức sắc các làng xã phải về nghe lời mật dụ [36] của Chúa, rồi sau đó mới được ban sách đem về dạy bảo cho dân. Trước hết phải dạy dân rằng: chúa Trời có ba ngôi, mà ngôi thứ hai đã giáng sinh ở nước Jiuđê, tên gọi là Jêsu. Chúa Jêsu đã chuộc tội thay cho thiên hạ, để cho dân ta sau khi chết khỏi bị nỗi khổ phải đày xuống địa ngục. Sau đó hằng ngày sẽ đọc sách Ngoại lục và kinh Bởi đâu để lòe phỉnh mọi người. Từ đó vua nước Tây Dương (Italia) mỗi khi truyền bảo điều gì đều nói: ?oChúa Trời phán rằng??
    Sau khi dân chúng đã được nghe nói về việc Jêsu chuộc tội, qua năm sau Giáo hoàng xuống chiếu truyền rằng: ?oChúa Trời có ba ngôi, ngôi thứ hai tên là Jêsu đã giáng sinh chuộc tội cho thiên hạ ở nước Jiuđê, nay đã hiển linh ở nước ta. Đó không phải là đấng mà các thần khác có thể sánh được. Thờ chúa Jêsu sẽ được phúc vô hạn. Chúa đã hiện xuống ở kinh đô, chính mắt trẫm đã được trông thấy?. Lại sợ rằng những lời lẽ sự việc trong sách Ngoại lục phần nhiều gò ép, những kẻ hiểu biết trong dân chúng ắt sẽ hỏi vặn nọ kia, Giáo hoàng lại truyền rằng: ?oPhàm những điều các đạo quan đã dạy dân chúng phải cúi đầu lắng nghe. Kẻ nào dám hỏi vặn này nọ tức là phạm tội xấc ngạo với bề trên, sẽ bị trị tội?. Thế là những người có kiến thức hiểu biết đều sợ phép không dám hỏi han gì nữa [37] . Dân gian các nơi đều phải tu sửa giáo đường, tôn thờ đạo mới.
    Qua năm sau, Giáo hoàng ban bố kinh Mười điều răn và kinh Lạy cha, truyền cho tất cả đàn ông đàn bà ai nấy đều phải học thuộc lòng, ai không thuộc sẽ giao cho đạo quan xử phạt [38] .
    Bấy giờ Giáo hoàng hỏi các vít vồ về việc kinh Mười điều răn ắt có ý tế nhị gì chăng? Phêrô tâu rằng: ?oCả mười điều răn, điều nào cũng tựa như khuyên người ta làm điều thiện, nhưng cái ý lớn là cốt làm cho người ta kiên lòng theo ta mà thôi.
    Điều răn thứ nhất khuyên người ta kính chuộng một đấng chân chúa của trời đất. Đã nói là ?omột đấng? chân chúa thì tất cả những thứ khác như quỷ thần, bói toán, âm dương ngũ hành, thờ cúng tổ tiên, v.v, người ta đều không được tôn kính, mà chỉ được lòng tôn kính đạo ta mà thôi.
    Điều răn thứ hai răn rằng: Chớ gọi tên chúa Trời mà thề nhảm. Nói ?otên chúa Trời? là có nói ngầm tên của Jêsu, nhưng không nói rõ ra. Lại có ý kiến cho những kẻ hay dối trá sợ mang tội bị đày xuống địa ngục phải dâng hết sự thật với ta.
    Điều răn ba răn rằng: Phải nghỉ ngày lễ Chúa, tức là dọa dân chúng phải thường xuyên đi xem lễ. Năng đi xem lễ thì nghe giảng kinh nhiều lần, không trễ biếng lòng tin đạo.
    Điều răn tư răn rằng: Phải hiếu kính cha mẹ. Răn như thế không phải cốt để bảo con cái chăm lo phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ còn sống và thờ cúng sau khi cha mẹ chết. Cái chính là làm cho con cái thuận lòng cha mẹ. Như thế thì những người làm cha làm mẹ vui mà theo đạo ta càng bền hơn, càng đốc thúc con cái chuyên tâm thuận tòng ý muốn của ta.
    Điều răn thứ năm răn rằng: Không được giết người. Họ đã sợ giết người là phạm tội thì sau này họ cũng không giết hại người của đạo ta.
    Điều thứ sáu răn rằng: Chớ làm sự tà dâm. Răn như thế thì người ta càng cẩn thận gìn giữ lời dạy phòng kín của ta [39] , một vợ một chồng không khác lòng đổi ý.
    Điều thứ bảy răn rằng: Chớ ăn trộm ăn cắp của người. Dân chúng không trộm cướp của nhau thì nhà nước cũng không bị trộm cướp.
    Điều thứ tám răn rằng: Chớ làm chứng dối. Đã không làm dối trá trong việc làm chứng thì giáo dân cũng nói hết sự thực khi xưng tội, và tất cả mọi việc đều không dám dối ta.
    Điều thứ chín răn rằng: Chớ ham muốn vợ chồng người. Giáo dân không ham muốn vợ chồng người, thì những kẻ do ta gian dối ghép cưới gả cũng không bị người ngoài mơ tưởng tới nữa, cả bên nam bên nữ đều không thể không thể dựa cậy vào thuyết của ta.
    Điều thứ mười răn rằng: Chớ tham tiền tài của người. Như thế thì của cải của ta không ai dám lấy.
    Lời cuối cùng nói: Trước sau mười điều răn, quy về hai mối: phải kính mến chúa Trời, coi là điều đầu tiên của muôn việc; cùng là: yêu người như yêu mình. Ba điều trước (điều 1 ?" 3) nói về việc chuyên tâm tôn phụng chúa Trời, tức là hướng về ta càng bền hơn. Còn cái ý dưới: yêu người như yêu mình, thì cả bảy điều sau (điều 4 ?" 10) đều không dám phạm, tình cảm của họ đối với ta càng thân thiết hơn. Cho nên nói rằng: cả mười điều răn điều nào cũng tựa như khuyên làm điều thiện nhưng cốt là để chuyển biến những kẻ ngu khờ cho họ kiên lòng theo đạo ta. Sau này tất cả đều sẽ là dân đạo ta cả mà thôi. Lời dạy của con Thiên Chúa thật là huyền diệu biết bao!?
    Giáo hoàng nghe xong cười vang mà rằng: ?oThật đúng là lời dạy của con Thiên Chúa!? Rồi đó sai làm bia đá để khắc kinh Mười điều răn, ghi thêm một câu cuối cùng: ?oĐây là lời chúa Trời xưa kia đã phán dạy người đời tuân giữ. Người nào thuận theo thì được lên thiên đường hạnh phúc. Kẻ nào bội nghịch thì bị đày xuống gia hình dưới địa ngục. Amen!? [40]
    Giáo hoàng Maisen lại hỏi những điều ngụ ý trong kinh Lạy cha [41] như thế nào? Phêrô tâu rằng: ?oKinh ấy nói: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời, tức là không quý trọng cha đẻ của mình mà coi chúa Jêsu là chính thật cha mình. Nói: Chúng tôi nguyện danh Cha thành thánh, nước Cha trị đến? như thế tức là người ta cũng nhận vua nước mình là cha chính thật của mình. Vâng ý Cha làm dưới đất cũng như trên trời, như thế người ta sẽ một lòng vâng theo đạo ta mà thi hành vậy. Chúng con rày mong Cha cho chúng con đủ miếng ăn hằng ngày, như thế tức là người ta chỉ yên phận đủ ăn chứ không cần nhiều đến nỗi phải làm trộm cướp [42] . Xin Cha tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, đó là ý cầu mong được chúa Trời tha tội. Lại nói: Chớ để chúng con bị hãm vào chước mê hoặc dụ dỗ, thế là họ tự hứa không để cho ma quỷ cám dỗ, kỳ thực là cốt để cho họ khỏi bị dụ dỗ bởi kẻ ngoại đạo.
    Giáo hoàng nghe xong cả mừng nói: ?oÝ tứ hàm súc thần diệu lắm thay!?. Rồi cho ban hành kinh Lạy cha [43] .
    Được một năm, xem chừng dân chúng đều đã biết chuyện Jêsu là con chúa Trời chịu cực hình trên giá chữ thập, Giáo hoàng Maisen bèn xuống chiếu truyền cho các thầy cả dựng
  10. preludeNo1

    preludeNo1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/03/2004
    Bài viết:
    1.668
    Đã được thích:
    1
    giá chữ thập không [44] trong nhà thờ để thăm dò ý tứ dân chúng thế nào [45] .
    Đến khi cha Jêsu là Jiuse chết, Giáo hoàng Maisen muốn phong tôn hiệu thánh phụ, thánh mẫu cho cha mẹ đẻ của Jêsu, vít vồ Juan tâu rằng: ?oNếu hoàng thượng phong cho Jêsu thì dân chúng đều biết Jiuse là cha đẻ của Jêsu, họ sẽ không tin đạo ta nữa?. Giáo hoàng Maisen nói: ?oKhông có khanh nhắc cho thì trẫm làm hỏng việc này rồi?. Rồi đó lập đều thờ Maria, còn Jiuse thì chỉ liệt vào hàng môn đồ, chôn cất theo nghi lễ đối với các vít vồ khác, cũng theo phép phong thần đem tượng Jiuse vào điện thờ đặt hầu dưới tượng Jêsu. Rồi đó sai soạn kinh Thánh Jiuse để đè nén lòng dân [46] . Một mặt Giáo hoàng Maisen sai sứ giả tìm đến nhà bà Maria ở trọ dựng bia giả ghi nhớ sự tích Đức Bà và giấu đặt một chiếc khung cửi trong căn nhà đó.
    Việc dìm dập Jiuse cốt để làm cho nổi bật Jêsu chính là con chúa Trời, sau đó mới có thể đem ra mà lừa bịp dân chúng.
    Jêsu biết chuyện vua Maisen trước sau tôn phong mấy lần bèn hiện về bảo các môn đồ rằng: ?oNếu nghe lời Đức Bà thì thầy trò ta làm gì được phúc hiển như ngày nay?? [47] . Môn đồ vui mừng vái lạy. Jêsu nói xong biến mất.
    Qua năm sau, vua Maisen truyền chiếu bảo mỗi làng chọn một người trai chưa vợ cho về kinh để học đạo Thiên Chúa, người nào học thông sẽ được cấp bằng phong làm giám mục hoặc thầy cả. Bấy giờ 6 vít vồ chỉ còn lại 5 người, cho nên vua mới ra chiếu ấy. Sau ba năm, các đồng nam đều mãn khóa. Giáo hoàng chiếu theo số quận huyện và các làng trong nước phong chức cho 20 người làm giám mục, được ghi tên vào Thực lục, số còn lại đều phong làm thầy cả [48] , chỉ theo phép được ban lễ bùa chú mà thôi [49] . Các thầy cả ở quận nào thì thuộc dưới quyền của giám mục quận ấy.
    Lại theo phép tên thánh do Jêsu đặt ra, khi làm lễ thụ phong, tên các thầy cả được đọc kèm sau tên của giám mục bề trên. Như vậy là có ý hẹn sau khi chết được thờ chung một nơi với giám mục ấy. Mỗi người đều được cấp đạo phục cùng các nghi thức rồi mới được đi giảng đạo ở các nơi như phép của Jêsu đã định [50] . Dân đạo thì người làng nào đặt tên theo thầy cả làng ấy, nhưng ý nghĩa chỉ để khiến cho người ta hễ nhớ đến tên mình là nghĩ đến việc đạo. Môria [51] mật tâu rằng: ?oĐạo ta phần nhiều dùng xảo thuật để làm những việc không thuận tình người như các phép đâm mù mắt người chết, bắt đào huyệt chôn sâu, bỏ thờ cúng, v.v, Nhưng người ta ai chẳng thương xót người thân? Nếu không có phép phạt nghiêm thưởng hậu thì sợ rằng các giám mục, thầy cả không giữ được kiên tâm làm trước sau như một. Các đình thần hội lại đề ra phép cắt đầu ********* và nghi thức cắt tóc, chích máu đề tên hiệu thụ phong lên tượng gỗ như đã nói ở trên và cấm không được lấy vợ. Vua Maisen xuống chiếu truyền rằng: ?oChúa Trời phán dạy: kẻ nào để lộ ý kín sẽ bị xử trảm, cha ông bị đóng đinh câu rút, kể nào nửa chừng bỏ đạo cũng phải chịu tội như thế?. Từ đó các giám mục, thầy cả đều phải răm rắp tuân phép, không ai dám trái nghịch mảy may. Tả đạo có phép đặt tên thánh và phong chức giám mục, thầy cả bắt đầu từ đó.
    Sắc phong cho các giám mục đại khái viết: ?oNay phong cho ngươi? làm giám mục để đốc thúc các thầy cả kiềm chế dân chúng cho trẫm. Người sống làm người, chết được phong làm thánh, ân lễ trọng hậu, phải dốc một lòng như phép Sacramentô đã định, Há ngươi không biết hình phạt của triều đình rất nặng hay sao??
    Sắc phong cho các thầy cả đại khái viết: ?oNay phong cho ngươi? làm thầy cả, trên thì phải tuân kính giáo hoàng, thứ đến vâng theo giám mục, dưới thì phải khuyến dụ dân ta một lòng theo đạo. Người được tạc tượng vẻ vang, ân lễ long trọng, nếu không biết giữ phải chịu hình phạt thảm khốc, chớ hối? [52] .
    Phêrô chết, vua Maisen xuống chiếu lừa dối dân chúng rằng: ?oPhêrô là bậc đại môn đồ của chúa Jêsu, nay được lên cầm chìa khóa giữa cổng thiên đường?. Rồi đó cho phát hành kinh Thánh Phêrô [53] .
    Qua năm sau, Giáo hoàng ban cho các giám mục, thầy cả mỗi người một bức ảnh chúa Jêsu chịu nạn trên giá câu rút. Tả thừa tướng Xumêi xin cho vẽ ảnh cỡ nhỏ để khỏi lộ chỗ xấu, cho nên ngày nay các ảnh chúa Jêsu chịu nạn trên giá câu rút phần nhiều đều làm theo cỡ nhỏ.
    Qua năm sau, Giáo hoàng xuống chiếu truyền rằng: ?oGiao cho các giám mục, thầy cả tạm giữ quyền chính để cho các viên đốc trấn, quản quân, v.v. về triều lĩnh thụ lời giáo huấn của chúa Jêsu và nhận lễ phục theo các cấp bậc khác nhau?. Khi bọn họ về kinh, mỗi người đều được khắc tượng truyền thần và mật cấp bằng sắc như đã nói ở trước. Xong việc ai nấy lại trở về cai quản địa hạt của mình. Từ đó quan lại nước Tây Dương đều là người theo đạo Gia Tô cả.
    Năm sau, Giáo hoàng xuống chiếu truyền rằng: ?oTừ nay các giám mục, thầy cả gọi là đạo quân (quan lo việc đạo), các viên trấn thủ, đốc trấn? gọi là chính quan (quan lo việc đời). Các quan lại triều cũng theo lệ ấy. Từ đó quan lại Tây Dương có hai ngạch chính quan và đạo quan. Vua Maisen lại phỏng theo kinh Mười điều răn của Jêsu, cho dùng những lời lẽ mà hồ soạn ra kinh Bảy điều cốt yếu và kinh Tam phúc lành ban phát cho quan dân.
    Kinh Bảy điều cốt yếu nói rằng: ?oThứ nhất là phải khiêm tốn, nhường nhịn, không được kiêu ngạo [54] . Thứ hai là phải bố thí tiền của, không được bủn xỉn hà tiện [55] . Thứ ba không được gian dâm, chớ ham mê dâm dục [56] . Thứ tư là phải nhẫn nhục chịu đựng, chớ nên oán giận [57] . Thứ năm là phải ăn uống dè xẻn, chớ ham mê ăn uống rượu chè [58] . Thứ sáu là phải yêu người, chớ đem lòng nghi kỵ [59] . Thứ bảy là phải chuyên cần việc thờ phụng chúa Trời, chớ biếng lười việc thiện [60] ?. Kinh ấy lại khuyên rằng: ?oThứ nhất là phải khéo thuyết dụ người [61] . Thứ hai là phải mở mang giáo hóa cho những kẻ mê muội [62] . Thứ ba là phải an ủi những kẻ ưu sầu [63] . Thứ tư là phải biết quở trách những kẻ phạm lỗi [64] . Thứ năm là phải tha thứ cho những kẻ khinh thường xúc phạm ta [65] . Thứ sáu là phải nín nhịn những kẻ làm phật lòng ta [66] . Thứ bảy là phải cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết [67] ?. Đại khái toàn là những lời lẽ giả dối như vậy cả: bên trong thì sai trái, nhưng bên ngoài tựa như là đúng đắn, vì vậy lại càng khiến cho người ta bị mê hoặc nhiều hơn.
    Kinh Tám khúc lành nói rằng: ?oMột là ngày nay tuy nghèo khổ nhưng đó là phúc thực, ngày sau [68] sẽ được no đủ. Hai là kẻ có lòng lành thì đó là phúc thực, ngày sau sẽ được chúa Trời ban thưởng. Ba là kẻ có lòng thương người thì đó là phúc thực, ngày sau sẽ được vui sướng v.v.? [69] . Đó là những lời khuyên dỗ người ta kiên lòng theo đạo, sợ người ta cực khổ quá mà bỏ đạo cho nên mới lừa dối người ta rằng đời nay chịu khổ chịu nạn, sau khi chết đổi lấy vẻ vang, cũng tựa như nói: đời nay chết yểu, đời sau sống lâu [70] .
    Về phép xưng tội, lúc đầu các đạo quan chia đi các nơi ngày ngày gọi người đến làm lễ. Giáo hoàng có mặt dụ truyền rằng trước hết chỉ làm mấy phép rảy nước rửa tội, phép xức dầu cho người ốm và phép Cônfirmaxông mà thôi. Đến năm nay Giáo hoàng xuống chiếu truyền rằng: ?oChúa Trời đã dạy phép xưng tội và giải tội, đạo quan khắp nơi đều phải theo phép tuân hành?.
    Qua năm sau, lại có chiếu truyền: ?oNăm trước việc đạo nhiều nơi làm khác nhau. Nay tất cả đàn ông đàn bà đều phải đọc kinh tôn đạo, đạo quan sở tại phải ghi tên từng người, ai làm trái sẽ bị trừng phạt nặng?.
    Qua năm sau, phong tục đã dần dần thống nhất, Giáo hoàng cho ban hành các sách kinh mới soạn và phát chuỗi con niệm [71] cho dân. Bấy giờ đình thần xét thấy cần phải có một phép chung để cho hết thảy già trẻ trai gái ngày đêm thân vái miệng đọc, lâu dần ngấm đọng mới có thể thay đổi được cõi lòng của người ta, bèn định ra phép ấy. Phép đọc kinh nam nữ cũng đọc bắt đầu từ đó. Kinh văn do đình thần cùng soạn, gọi thẳng tên Maria và Jêsu, không kiêng tên kỵ húy là cốt để cho tình cảm người ta trở nên thân thiết, lời lẽ dùng lối nói thông tục quê mùa là cốt để cho những kẻ ngu khờ dễ hiểu [72] . Nay giáo đồ tả đạo nước ta đọc kinh bằng quốc âm là lời dịch từ sách kinh ấy.
    Phép đọc kinh lúc bắt đầu làm dấu phép trên mặt. Trước hết dùng ngón tay trỏ vẽ một dấu chữ thập trên trán, tiếp đó vẽ thêm hai dấu ở miệng và ở ngực, tất cả là ba dấu chữ thập. Mỗi lần làm một dấu đều khẽ tiếng niệm rằng: ?oVì dấu mà ta câu rút chúa Dêu [73] , chúa chúng tôi giúp chúng tôi kẻo phải [sự] dữ [74] . Đó là phép ?otập tích? (tục gọi là làm dấu kép). Kế đó xòe năm ngón tay phải đặt lên đỉnh đầu, niệm nhẩm rằng: ?oNhân danh Cha?, chấm tay trên ngực, niệm tiếp: ?o? và Con??, chấm tay qua hai vai, niệm tiếp: ?o? và Phiritô Săngtô?. Như thế gọi là ?ođơn tích? (làm dấu đơn). Sau đó cả nam lẫn nữ cùng giọng đọc mấy chương kinh Lạy cha [75] , tiếp đến kinh chúa Jêsu chịu nạn, rồi đến kinh Thánh Antô [76] . Về sau phép đọc kinh có chia riêng nam nữ [77] . Từ kể sự tích chúa Jêsu giáng sinh đến Đức Mẹ lên trời chia làm 15 đoạn [78] . Mỗi khi đọc chung xong một đoạn, tiếp theo bên nam đọc kinh Bởi trời bên nữ đọc kinh Lạy cha, dùng hai câu mở đầu rồi bên nam hát hai kinh Avơ Maria, bên nữ hòa kinh Santa.
    Mỗi bên hát 10 tiếng, lần tràng hạt mà tính số tiếng. Cuối cùng bên nam hát đến câu: ?o?Luxia?, bên nữ hòa theo đến câu ?o?đời đời?, thế là hết một đoạn. Đến đoạn thứ hai đổi lại: bên nữ xướng mà bên nam hòa theo, cách thức như trước [79] . Đọc hết 15 đoạn, cả bên nam bên nữ cùng hòa giọng đọc mấy chương trong kinh Avơ Maria [80] , lại đọc mấy chương kinh Bởi trời. Cuối cùng, một người nam hát: ?oChúng tôi trông cậy rất thánh Đức Bà xin chớ chê chớ bỏ lời chúng tôi là kẻ khó khăn thiếu mọi sự, nguyện xin Đức Bà đồng trinh rất sáng láng?? Mọi người đồng thanh hát tiếp: ?o? giúp chúng tôi tránh khỏi
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này